Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giá Như Yêu Được Một Người

XI   Bây giờ thì Quê đã hoàn toàn trắng tay. Cái vốn liếng cuối cùng của đời cô là thằng cu Tẩm cũng không còn nữa. Lê My đã không ngần ngại mà nói toẹt cho Quê biết: Ông Toại không có liên quan gì đến vụ mất tích thằng Tẩm. Suốt chặng đường từ Hà Tuyên về, Quê ngồi rũ như một tàu lá úa. Cuộc đời Quê còn gì? Quê không có thời thiếu nữ. Mười sáu tuổi Quê đã trở thành người đàn bà. Làm đàn bà nhưng không được hưởng cái e ấp, hồi hộp, rộn rạo của đêm động phòng. Quê như một trái non bị chín ép, bị châm chọc, vày vò cho ung rữa. Mười bảy tuổi Quê đã phải làm mẹ, làm mẹ khi mà cô vẫn còn trẻ con, vẫn chưa có một hành trang gì cho cuộc sống gia đình. Rồi cả hai đứa con đều sinh ra trong những hoàn cảnh khốn khổ. Ngoài Quê ra không có ai mong chúng ra đời. Chúng là những đứa con hoang trong những cuộc hôn phối giữa Quê và quỉ. Giá như đời Quê được yên ổn, dù trên cái xó rừng heo hút kia. Quê sẽ lầm lũi nuôi con, Quê sẽ bới đất, vạch cây mà tìm ra thức ăn nuôi chúng. Vậy mà cái mơ ước giản dị ấy cũng không thể có được. Lại bị dồn đuổi, lại bị truy bức đến cùng. Dồn đuổi đến mức bán thân nuôi mình, nuôi con vẫn còn chưa đủ. Bây giờ, hai đứa con đã bán cả rồi, trắng tay rồi, còn thiết sống gì nữa. - Này Quê, em phải bình tâm lại - Lê My an ủi - Để chị về báo cáo với các đồng chí lãnh đạo. Nhất định rồi bọn chị sẽ tìm được thằng cu Tẩm cho em. Có nhiều trường hợp mẹ mìn đã mang trẻ con sang bên kia biên giới mà rồi công an ta vẫn tìm được cơ mà… - Nhưng mà em biết nói với anh Hiển thế nào? Ở trong tù anh ấy đã khốn khổ lắm rồi. Bây giờ biết tin cu Tẩm mất tích thì anh ấy sẽ phát điên lên mất… - Vậy là Hiển vẫn không hề biết cu Tẩm là con của ông Toại ư? Câu hỏi của Lê My cũng chính là điều mà Quê tự hỏi mình suốt mấy năm trời. Càng sống với Hiển, cô lại càng bị dày vò bởi cái điều bí mật mà chỉ có mình cô biết ấy. Đã bao lần cô định tự thú với Hiển, rằng thằng cu Tẩm không phải là con anh, rằng anh hãy tha thứ cho mẹ con cô. Cô hoàn toàn không có ý định lừa dối anh. Chỉ riêng một hành động cao thượng là anh nhặt mẹ con cô từ ngoài đường về nhà đã đủ khiến cho cô có thể làm nô lệ cho anh suốt đời. Nhưng rồi Quê không thể nói với anh, không có gan để thú nhận với anh được. Như thế thì tàn nhẫn quá. Sự thật nhiều khi nói ra còn tàn nhẫn hơn cả bản thân nó. Thà rằng hãy cứ dối trá để cho Hiển sống trong ảo vọng. Cũng như tôn giáo vậy thôi, người ta phải cố thêu dệt ra một chốn thiên đường, một cõi niết bàn cho phần hồn để an ủỉ cái phần xác khốn khổ của mình. Chỉ thương cho Hiển. Dường như anh không hề biết Quê đã lặng lẽ lừa dối anh, hoặc giả anh biết mà anh làm như không biết gì. Anh quí thằng cu Tẩm thực sự, anh yêu nó như chính nó là giọt máu đích thực của mình. - Em cũng không biết là anh Hiển có biết gì về thằng cu Tẩm không - Quê nói - Hồi em đẻ, có người nghi ngờ thừng bé không phải là con anh Hiển, nhưng anh ấy không tin. Anh ấy bảo: “Miệng lưỡi thế gian biết thế nào mà lường. Em đừng nghĩ ngợi gì”. Suốt mấy năm trời, chưa bao giờ anh ấy đánh mắng nó. Thằng Tẩm cũng tin rằng chính anh Hiển là bố đẻ của nó. Tuần nào nó cũng giục em vào nhà giam thăm bố Hiển. Nó chỉ mong bao giờ bố Hiển được ra tù để nó đi phụ giúp bố Hiển đạp xích lô… Thế đấy chị ơi, rồi em biết nói với anh Hiển thế nào? Không, dù thế nào đi nữa, ngay ngày mai em phải báo cho anh Hiển biết tin này… - Đừng báo vội, Quê ạ - Lê My tìm cách hoãn binh - Cứ để một hai tuần nữa để bọn chị tìm kiếm xem đã. - Nhưng anh ấy hỏi thăm cháu thì em biết nói thế nào? Lê My thở dài. Chị bỗng nhớ lại cái buổi vào nhà giam hỏi cung Hiển, nhớ lại gương mặt chất phác, cương trực của anh. - Quả tình chị không ngờ có những người như Hiển mà lại bị vào tù. - Trong tù cũng có nhiều người vốn rất lương thiện. Họ bị hoàn cảnh dồn đẩy đến tội ác. Cũng có khi vì họ chống lại cái ác mà bị cái ác tròng vào người. Anh Hiển bị tù là oan lắm đấy chị ạ. Chính hai vợ chồng mụ Quỉ mới đáng bị tù kia. Trời ơi, chị có biết không, trên đời này không có người đàn ông nào tốt với mẹ con em như anh ấy - Quê vừa nói vừa ôm mặt khóc. Lê My thấy mủi lòng. Chị định nói với Quê rằng chính ông Toại đã đón thằng Tẩm về nuôi, rằng chị đã đồng tình với nguyện vọng của ông ấy, đó là giải pháp tốt nhất lúc này cho Quê, bởi cô không có đủ điều kiện để làm mẹ cả hai đứa trẻ. Nhưng thôi. Đành phải dối Quê vậy. Cứ mặc cho cô ấy đau khổ. Người mẹ nào chẳng có nỗi đau khi mất con, nhưng họ không hề biết có một nỗi đau hơn là họ không có khả năng nuôi nổi được chính đứa con của mình. Chuyến đi này, với Quê có thể là một chuyến đi thất bại, nhưng với Lê My thì đó lại là một thành công không ngờ. Chị hoàn toàn yên tâm về bé Rớt và thằng cu Tẩm. Chúng sẽ được cô giáo Điệp và ông Toại nuôi dạy chu đáo. Cùng với việc giải quyết đưa bà cụ Nụ về với vợ chồng Danh Vọng, Lê My đã góp phần giúp ba con người tránh được những con đường bất lương trong cuộc đời. Còn với Quê? Liệu Lê My có thể giúp được cô thoát khỏi tình cảnh bi thảm hiện giờ không?   *   Khi Lê My và Quê vừa về đến khu tập thể thì Đặng Phong đã ngồi chờ họ sẵn ở quán nước bên đường. Hai ngày qua anh nhớ Lê My và mong chị từng giờ. Sau bốn năm ly thân, sau bao nhiêu lần đi lại toà án đến mòn cổng, cô vợ của anh đã đồng ý chấp nhận cho anh được ly hôn. Còn mười lăm ngày nữa cuộc ly hôn mới có hiệu lực, nhưng Đặng Phong không thể chờ đợi được hơn nữa. Anh đã đến tìm Lê My bốn lần, đến để thông báo cái tin vui này với chị, để được ngắm nhìn chị và để được nghe chị nói rằng: “Từ nay em sẽ là của anh”. Nhưng Lê My thật quá vô tâm, hoặc vì sự xuất hiện của Phong khiến chị chỉ nghĩ đến cái công việc mà chị đã nhờ anh, nên không kịp để Phong nói điều gì, chị đã hỏi ngay: - Thế nào anh, công việc ở làng SOS mà em đã nhờ anh có kết quả gì không? Đặng Phong như người bị dội gáo nước lạnh. Anh buồn vì Lê My chẳng nghĩ gì đến anh cả. - Sao? Anh nói em nghe đi. Em đã nói chuyện với Quê rồi. Anh hãy báo cho Quê một tin vui gì đi. Em nghĩ rằng anh đến chính là vì cái tin ấy… - Vì một cái tin khác… Nhưng thôi, lúc này nói cũng chẳng có ý nghĩa gì… - Anh cứ nói. Hay anh giận em à? - Lê My chợt sững người khi nhìn thấy đôi mắt Phong sầm tối lại - Em xin lỗi. Em đoán rằng có một chuyện gì đó mà anh muốn nói riêng với em… Lẽ ra Phong cứ nên yên lặng, chờ đến một lúc khác. Nhưng vì anh quá đột ngột bởi sự vô tâm của Lê My nên anh đã trở nên vụng về. - Về chuyện của Quê, tôi đã làm hết sức mình nhưng cho đến giờ có thể nói rằng hoàn toàn không có hy vọng. Có một trăm bảy mươi hai lá đơn xin vào làm việc ở làng SOS. Cần phải ưu tiên trước hết cho những người vợ liệt sĩ, những người có cống hiến, những người đã qua trường lớp đào tạo, những người có quá trình làm việc từ thiện nhiều năm… Ngay cả những công việc lao động giản đơn nhất cũng đều phải xét trên những tiêu chuẩn ấy… - Không có một trường hợp ngoại lệ nào sao? - Lê My nhìn Quê và thở dài. - Nếu như chúng ta mở ra một trăm làng SOS thì cũng vậy thôi. Có biết bao nhiêu người lương thiện còn đang không có công ăn việc làm… Vậy là không có một việc gì cho Quê, ngoài… Lê My cay đắng nghĩ. Chị mường tượng ra cảnh đêm mai Quê sẽ lại đi lang thang ra bờ hồ, vật vờ dưới gốc cây trong ánh đèn nhập nhoạng. Biết tìm cách gì để giúp Quê được? Chính bản thân chị, với đồng lương ít ỏi của mình cũng phải chật vật lắm mới nuôi nổi bé Trang, huống chi lại phải cõng thêm một người nữa, dù chỉ trong thời gian dăm bữa nửa tháng. - Anh muốn gặp riêng em để nói một câu chuyện - Chần chừ mãi cuối cùng Đặng Phong cũng phải nói với Lê My một cách khẩn khoản. - Hãy đợi em một chút. Chúng mình sẽ nói chuyện trên đường em đi đón bé Trang. Lê My vào phòng tắm ào qua và thay quần áo. Rồi chị bảo Quê: - Quê ở nhà nấu cơm để tí nữa chị đón cháu về cùng ăn nhé. Em cứ ở lại đây với chị nhé. Không được bỏ đi như lần trước đâu đấy. Khi Lê My và Phong vừa đi khỏi, Quê vội quay vào nhà và khóc tức tưởi. Trên đời này chưa bao giờ Quê thấy ai lại quá tốt với mình như Lê My.   *   Tối ấy, trong công viên, gần “khu rừng chiến khu” rất thân thuộc của Quê, lần đầu tiên sau ba năm quen biết nhau, Lê My đã gục đầu vào ngực Phong, để mặc anh ôm riết trong niềm hạnh phúc bao ngày kìm nén. Chị tưởng mình đã khô cằn chai sạn đi trong tình yêu, nhưng đâu phải. Những nụ hôn vẫn say đắm, nồng thắm như lần đầu. Họ, đôi tình nhân muộn màng ấy không hề hay biết rằng, đúng cái lúc họ đang trao cho nhau những cái hôn cháy bỏng nhất thì có một người lặng lẽ bỏ ra đi. Người ấy chính là Quê. Quê không để lại một dòng chữ nào. Cô chuẩn bị sẵn cho mẹ con My bữa cơm trên bàn, rồi như một cái bóng, ra đi không để lại một dấu tích gì. Dường như cô muốn những ngày cô gặp gỡ, làm phiền nhiễu Lê My vừa qua chỉ là ảo ảnh, rằng bản thân cô, cái con người nhơ nhếch và khốn khổ của cô không đáng để một vết tích gì trong cuộc đời một người quả giàu lòng nhân ái và vị tha cho Lê My. Quê đi đâu? Như một bản năng đã được hình thành từ những ngày sống cuộc đời bờ bụi. Quê lại đi qua cái lỗ chó chui để dẫn vào cái góc "chiến khu” trong công viên. Ở đây người và ma, thánh thần và quỉ dữ đều có thể tìm thấy hạnh phúc của mình, có sao đâu? Rất có thể là Quê đã đi ngang qua, hoặc đi sát gần cặp tình nhân. Bóng tối đã giúp họ không nhận ra nhau. Và, sau hôm Quê bỏ đi mấy ngày, từ nhà giam thành phố. Lê My nhận được một tin mới: phạm nhân Nguyễn Văn Hiển đã trốn khỏi trại, mặc dù chỉ còn bốn tháng nữa gã sẽ mãn hạn tù. Không ai biết vì sao cái gã tù nhân Nguyễn Văn Hiển lại dại dột bỏ trốn khi mà gã sắp có cơ hội trở thành người tự do. Chắc chắn chỉ có mình Lê My mới hiểu được cuộc chạy trốn của cả Quê và Hiển. Chị ân hận vô cùng vì đã trót nói dối Quê rằng thằng cu Tẩm bị mất tích. Chao ơi, cuộc đời đầy rẫy những éo le phức tạp. Để giúp được người này thì lại làm cho người kia khổ. Có cách chi để yêu trọn được tất cả mọi người? Suốt từ hôm ấy, một trong những công việc của Lê My luôn canh cánh bên lòng là để tâm tìm kiếm Quê và Hiển. Tìm, để nói với họ rằng, họ hãy yên tâm về thằng cu Tẩm. Nó không bao giờ còn phải lang thang trên những vỉa hè để làm một đứa trẻ bụi đời ngửa tay xin cơm thiên hạ. Nhưng mà Quê và Hiển bây giờ ở đâu? 17 phố Trần, Hà Nội, 30-4-1991 H.M.T. Tác phẩm viết về người phụ nữ trên mặt trận bảo vệ an ninh Tổ Quốc. Bìa 4 Trong số hàng trăm can phạm mà nữ trung uý công an Lê My có dịp tiếp xúc, Đào Thị Quê dường như là một phép thử đối với lương tâm và phẩm chất nghề nghiệp của chị. Nếu lần gặp gỡ 10 năm trước, khi Quê vừa 16 tuổỉ đã bị bắt cóc vào cuộc chơi tình cờ, thì cuộc gặp gỡ bây giờ chính là sự sắp đặt của định mệnh. Mười năm, số phận đã đẩy Quê trượt dài xuống đáy… Làm đàn bà ngay từ tuổi thiếu nữ. Hai lần sinh con ngoài giá thú là hai lần một mình vượt cạn. Trốn lên rừng xanh rồi mà vẫn không thoát được “lầu xanh”... Nữ trung uý Lê My sẽ làm gì với cô gái khốn khổ ấy? Lạnh lùng chối bỏ ư? Hay sẽ khinh bỉ, hắt hủi? Mời các bạn đón đọc Giá Như Yêu Được Một Người của tác giả Hoàng Minh Tường.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trái Tim Hoang Dã
"Trái Tim Hoang Dã" là một quyển tiểu thuyết tình yêu mô tả hết sức tinh tế những rung động, đam mê và niềm khao khát yêu đương... đến tận cùng cảm xúc con người. Tác giả của Trái Tim Hoang Dã là Johanna Lindsey, nhà văn nữ nổi tiếng về tiểu thuyết lãng mạn của Mỹ. Kể từ tác phẩm đầu tiên xuất bản năm 1977 là Captive Bride được độc giả đón nhận một cách nhiệt tình cho đến nay gần 30 tác phẩm khác của bà ra đời đều là bestseller (sách bán chạy) với số lượng phát hành hơn 40 triệu bản và được dịch ra 12 thứ tiếng. Johanna Lindsey được coi là người thành công xuất sắc khi viết về đề tài tình yêu lãng mạn. Trái Tim Hoang Dã lấy bối cảnh nước Mỹ vào những năm sau cuộc nội chiến Bắc - Nam (1868) làn sóng di cư miền Nam tràn xuống miền Tây khai khẩn, xây dựng cuộc sống mới. Đây là thời kỳ của những cuộc tàn sát đẫm máu để tranh giành đất đai, cướp bó, biến một miền hoang mạc bao la không còn là miền đất bình yên của các bộ lạc da đỏ. Không chịu diệt vong, cuộc chiến bảo vệ lãnh thổ, tổ tiên của người da đỏ ngày càng trở nên quyết liệt. Họ lao vào những cuộc trả thù triền miên, không khoan nhượng. Courtney, cô thiếu nữ 15 tuổi, vô cùng trong trắng, xinh đẹp, cùng cha là một bác sĩ từ Chicago xuống Texas nhận nhiệm sở. Giữa đường hai cha con đã rơi vào giữa cuộc đụng độ giữa bộ lạc Comanche trả thù chủ một trang trại – người đã cùng tham gia với một toán người da trắng vừa tàn sát dã man bộ lạc này. Courtney may mắn được một chàng trai da đỏ tha chết. Nhưng cha cô mất tích và mọi người đinh ninh ông đã bị người da đỏ giết chết. Bốn năm sau, Courtney tình cờ nhìn thấy hình cha cô lẫn trong đám đông trong một tờ báo cũ. Tin rằng cha mình còn sống, cô quyết định đi tìm. Trong khi đó, Chandos là chàng trai lai da đỏ, có đôi mắt xanh thăm thẳm với cái nhìn bí hiểm, một tay súng lạnh lùng, cừ khôi... Chandos mang trong lòng mối hận thù và ký ức đau đớn về cái chết thê thảm của mẹ và em gái trong một vụ tàn sát của người da trắng. Anh quyết tâm trả thù cho kỳ hết những kẻ tham gia cuộc tàn sát man rợ đó... Chandos trở thành người bạn đồng hành của Courtney trong cuộc hành trình băng qua những hoang mạc thuộc lãnh thổ của người da đỏ dầy rẫy nguy hiểm đến Texas tìm cha. Courtney cũng không hề biết rằng người đàn ông lạnh lùng đã nhiều lần cứu cô thoát nạn này chính là chàng trai da đỏ cách đây 4 năm đã tha mạng cho cô. Một chuyến đi đầy thử thách của một cô gái trong sáng, xinh đẹp và tự trọng cùng chàng trai hoang dã kiêu hãnh và đầy lòng thù hận. Tình yêu chính là thử thách nghiệt ngã nhất giữa hai con nguời bướng bỉnh đó. Họ vừa phải đương đầu với hiểm nguy luôn rình rập vừa phải đối phó với chính niềm đam mê và mâu thuẫn của bản thân để không làm tổn thương nhau... *** Johanna Lindsey, tên thật là Johanna Helen Howard, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1952 tại Đức, nhưng lại là một trong những nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Bà được mệnh danh là một trong những tác giả thành công nhất trên thế giới về tiểu thuyết lịch sử lãng mạn. Các tác phẩm của bà thường xuyên lọt vào danh sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn.   Lindsey xuất bản cuốn sách đầu tay vào năm 1977, với tựa đề Captive Bride, và ngay lập tức đưa tên tuổi của bà đến với các độc giả yêu văn học. Đó chính là độc lực để bà tiếp tục cho ra đời rất nhiều cuốn tiểu thuyết ăn khách khác.   Tính đến năm 2006, những tác phẩm của bà đã bán được trên năm mươi tám triệu ấn bản và dịch ra mười hai ngôn ngữ trên toàn thế giới.   Bằng lối kể chuyện hài hước song cũng không kém phần lãng mạn và bất ngờ, Johanna đã không hề khiến người đọc thất vọng với những câu chuyện của mình. Bà đã gắn kết những con người với hoàn cảnh và số phận hoàn toàn khác biệt, tưởng chừng như không bao giờ có thể ở bên nhau, và cho hộ một kết thúc viên mãn.   Không chỉ có vậy, giọng văn tinh tế và vô cùng đặc trưng của Johanna cũng là điều luôn hấp dẫn độc giả. Mỗi nhân vật của bà luôn được khắc họa với cá tính nổi bật. Ngoài ra, chính sự kiên cường của họ trong tình yêu cũng góp phần tạo ra nét đặc sắc cho ngòi bút của bà.   Mời độc giả đọc các tác phẩm của Johanna Lindsey đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Ma lực tình yêu (2012), Nàng công chúa lưu lạc (2012), Gã cướp biển quý tộc (2012), Em là của anh (2012), Hãy nói yêu em (2013), Người thừa kế (2015), Ngôi Sao Lạc Loài Chỉ Một Lần Yêu Nơi Em Thuộc Về Trái Tim Hoang Dã Yêu Lầm Anh? Tình Yêu Tìm Thấy The devil who tamed her, A rogue of my own, Let love find you. *** Kansas năm 1868, ba năm sau nội chiến Hoa Kỳ, Elroy Brower bực tức dằn ly bia xuống. Tiếng ồn ào trong quán làm hắn không hưởng được trọn vẹn người đẹp đang ngồi trên đùi hắn mà hắn thì ít khi với được một của quý như ả Sal béo này – nàng nghiêng người qua thì thầm vào tai hắn, giọng ngọt lịm: - Sao cưng không lên trên kia, chỉ có mình ta thôi. Hắn ngoái mình ra cười trước viễn ảnh của những giờ khoái lạc. Hắn muốn giành ả trọn đêm nay. Ở thị trấn Rockley, gần khoảnh trại của hắn, chỉ có một mụ điếm già gầy đét, đâu có "mát tay" như Sal béo của gã đêm nay nên hắn thầm cảm ơn Chúa đã với được của quý trong chuyến đi Wichita lần này Thế mà cái tiếng giận dữ của gã trại chủ nào đó cứ dội vào tai hắn. Elroy nhớ lại qua giọng nói của người chủ trại chăn nuôi tên Bill Chapman, có trại ở phía bắc quán này một chút và ông ta đang tìm người để cùng đi lo về chuyện "bọn da đỏ đang hoành hành trong vùng" Elroy giật mình khi nghe đến hai tiếng "da đỏ" dù hắn chưa bao giờ gặp rắc rối với họ. Hắn chỉ mới đến Kansas gần hai năm trước, nhưng khoảnh trại của hắn dễ bị tấn công lắm. Trại hàng xóm gần nhất cũng cách hắn gần hai cây số. Và Elroy chỉ lại có một mình cùng với người thợ làm thuê cho mỗi mùa gặt. Vợ hắn chết ngay vào tháng thứ sáu khi họ đến Kansas Kể riêng một mình Elroy, lẽ ra chẳng phải lo lắng hắn là người cao hơn hai thước, to như thùng dầu hai trăm lít, đủ bảo đảm vượt khó khăn trong cuộc đời, trừ khi hắn muốn gây sự. Nhưng lúc này Elroy đang lo lắng vì cái bọn "mọi rợ" kia đang tìm cách tràn vào vùng này để xua những "người hiền lành, kính Chúa mới định cư vào vùng này". Cái bọn đó là dân "chơi không đẹp" và nhiều chuyện kể làm cho Elroy thấy ớn lạnh. Người ta đã cảnh cáo hắn đi quá gần vào vùng lãnh thổ phân chia cho người da đỏ gọi là "Biệt khu da đỏ", hay đúng hơn là một vùng bao la, trơ trụi nằm giữa Kansas và Texas. Cái khoảnh trại của Elroy lại chỉ cách đường biên Kansas có ba mươi dặm và khốn nỗi, đó là vùng đất tốt, nằm ngay giữa hai con sông Arkansas và Walnut. Khi chiến tranh phân ly chấm dứt, Elroy vẫn nghĩ rằng quân đội sẽ chận đứng và buộc được "bọn da đỏ" ấy quay quần trong cái phần đất phân chia cho họ mà thôi. Thực tế khác hẳn. Quân đội không thể chận đứng khắp được và khi cuộc nội chiến chấm dứt, thì cuộc chiến của người da đỏ lại dâng lên cao điểm. Họ không giao nộp những phần đất mà tổ tiên họ, luôn nghĩ là của người da đỏ Hai ngày trước khi đến Wichita, Elroy đã phát hiện ra một nhóm nhỏ người da đỏ qua ranh đất của hắn đi về phía nam. Elroy lo lắng, đi theo tám người từ khoảng cách xa cho đến ngã ba sông Arkansas – Ninnescah. Ở đây đã có chừng mười chiếc tàu tepee dựng lên ven song Arkansas và Elroy còn thấy hơn chục gã trai khác, cùng với phụ nữ, trẻ con ra vào như một ngôi làng của họ từ lâu rồi Nằm quan sát cái làng ấy cũng đã làm cho Elroy thấy máu muốn đông lại trong người hắn: Đây là nhóm dân Kiowa hoặc Comanche và họ chỉ ở cách trại của hắn vài giờ đi ngựa Khi đến Wichita, hắn đã kể chuyện này khắp thị trấn và bây giờ gã Bill Chapman lại đang khuấy động những người khách cố hữu của quán rượu này. Chapman đã rủ được ba ông khách rượu và sáu tay chăn bò ... ra đi. Một khách rượu lại nêu ra rằng hai chàng phiêu bạc thích "giết tụi nó" và họ đang đi tìm hai chàng đó ở các sòng bài Bill Chapman kể đến lực lượng mình đã có và liếc mắt nhìn Elroy nãy giờ hậm hực lắng nghe - Còn anh thì sao? Anh bạn ... đi với tụi này đi? Elroy xô Sal béo khỏi đùi mình, nắm lấy cánh tay ả mà kéo tới gần chỗ Chapman - Sao các anh không để bên quân đội họ săn bọn nó? Lão chủ trại cười nghiêng ngả - Để cho quân đội họ tống chúng về vùng đất tự trị ư? Thật chẳng công bằng chút nào! - Cách hay nhất để buộc tên da đỏ không ăn cắp của bạn lần thứ hai là cho nó một con dao. Cái lũ Kiowa này đã hạ của tao hơn mười lăm con bò và cuỗm đi cả chục con ngựa ngoại hạng của tôi tuần trước. Chúng móc túi tôi nhiều lần rồi đấy. Tao phải chặn chúng lại Và cặp mắt sắc của gã nhìn xéo Elroy - Đi nhé? Một cái nhìn lạnh buốt dọc xương sống Elroy. Mười lăm con bò bị hạ. Hắn chỉ có hai con bò đực và gà quê không đủ cho bọn chúng quét. Một ngày không có bò thì cuộc đời hắn tiêu ma. Nếu mấy tên Kiowa ghé thăm là hắn hết đời. Elroy nhìn chằm chằm vào Chapman - Hai ngày trước tao đã theo bọn chúng. Chúng đã dựng trại ở ngã ba sông Arkansas – cách trại tôi chừng mười tám cây số. Nghĩa là cách đây khoảng ba mươi cây số nếu ta đi theo đường sông - Chết thật! Sao anh không nói. Có lẽ chúng là bọn chúng ta đang theo dõi đấy. Ấy, chúng đi mau thế. Bọn quỷ đó đi nhanh hơn tôi tưởng. Có đúng là bọn Kiowa không? Elroy nhún vai: - Tao trông bọn nào cũng vậy. Bọn này không đi ngựa. Nhưng ở trại tụi nó có chừng bốn mươi con - Anh dẫn tụi tôi đến trại tụi nó nhé? Elroy cau mày - Tao mang bò đi để mua máy cày về. Tao không mang theo ngựa. Thế ... làm các ông đi chậm lắm - Tao thuê ngựa cho mày - Nhưng còn bò của tao - Tao trả tiền cho mày gửi lại đây. Sau đó mày trở lại lấy, được chứ? - Bao giờ các ông đi? - Đầu giờ sáng mai ... Nếu ta không đi gấp và nếu chúng còn ếm ở đó, thì ta bắt kịp chúng vào giữa trưa Elroy nhìn Sal béo đang ngoác miệng ra cười ... Chapman đi ngay nghĩa là hắn phải mất buổi tối nay với ả Sal béo thì "xin ngài ..." Nhưng sáng mai ... -Kể như là có tao và anh chàng gặt thuê cho tao nữa ... Mời các bạn đón đọc Trái Tim Hoang Dã của tác giả Johanna Lindsey.
Pie Đệ Nhất
Pie đệ Nhất là một tiểu thuyết lịch sử tương đối đồ sộ một cách rất Nga, theo dự kiến có ba tập, tập I hoàn thành năm 1930, tập II năm 1934 và tập III, quan trọng nhất, đã phải dừng lại đột ngột năm 1945 vì cái chết của tác giả. Tiểu thuyết có nhân vật chính là Pie Đại đế (Pierre/Pyotr/Peter) – Sa hoàng lừng lẫy nhất trong lịch sử đế quốc Nga, cai trị từ năm 1682 đến năm 1725. Pie Đại đế là một Sa hoàng vô tiền khoáng hậu thuộc dòng họ Romanov, lịch sử đã ghi nhận ở ông một nhà cải cách kiệt xuất đã đưa nước Nga từ đêm đen u tối trở thành một trong năm cường quốc châu Âu lúc ấy giờ. Ông cũng chính là người đã cho xây dựng thành phố Sankt-Peterburg. Như vậy, Aleksey Tolstoy đã có một cái lõi vững chắc để phát triển tác phẩm. Nhưng viết tiểu thuyết lịch sử không phải là kể lại lịch sử đơn thuần. Trước một tượng đài có tầm ảnh hưởng sâu rộng như Sa hoàng Pie thì quả thực không dễ để viết mà không để tác phẩm của mình biến thành một thứ “sách sử trá hình“, điều đó yêu cầu nhà văn phải có bản lĩnh và bút lực dồi dào. Aleksey Tolstoy đã chứng minh mình có đủ các phẩm chất ấy. Chúng ta sẽ thấy Pie đệ Nhất là một tiểu thuyết sống động như thể các nhân vật đều do chính tác giả tạo ra từ tâm não mình nên ông hiểu rõ tâm lý cách cư xử của tất cả chứ không phải là dựa trên bất kì hình mẫu có thật nào. Aleksey Tolstoy đã cho tác phẩm một không gian, thời gian khá lớn, bắt đầu từ thời điểm Sa hoàng tiền nhiệm  Fyodor III qua đời vì bệnh phù thũng và kết thúc khi Sa hoàng giành được chiến thắng quan trọng tại Navar. Do sự mở rộng về không gian, khi bắt đầu đọc tác phẩm, người đọc dễ cảm thấy mọi thứ rời rạc, rối rắm. Cuốn sách này yêu cầu một sự chú tâm nhất định mới có thể theo kịp dòng văn của người viết. Và sự kiên trì sẽ được đền đáp xứng đáng khi dần dà chúng ta nhận ra các mảnh ghép tưởng chừng vô nghĩa kia khớp lại với nhau, cấu thành một bức tranh hoàn chỉnh và sắc nét trong từng chi tiết. Về mặt tiểu thuyết, Pie đệ Nhất có một hệ thống nhân vật khá đồ sộ và hầu hết các nhân vật trọng yếu đều được nhà văn đi sâu miêu tả từ thuở hàn vi, ví dụ như Aleksandr Danilovich Menshikov – bạn và cận thần thân tín nhất, Anna Mons – người tình Đức của Pie, Ekaterina – hoàng hậu thứ hai, sau này trở thành nữ hoàng Ekaterina I, v.v… Chính điều này đã giúp cho độc giả có cái nhìn xuyên suốt tác phẩm, cảm thấy được sự phát triển trong diễn biến truyện và hình tượng nhân vật. Rải rác trong sách cũng có một số mối quan hệ thú vị gây hứng thú cho người xem, ví dụ Aleksandr Menshikov từ một đứa trẻ bỏ nhà ra đi sống lang thang sau lại thành đại thần bậc nhất bên cạnh Sa hoàng hay tình vợ chồng của lãnh chúa Vasili Volkov và nàng Alexandra, con gái một nông nô… Tuy tác phẩm mang tên Pie đệ Nhất và quả thực nhà văn đã bỏ rất nhiều tâm sức xây dựng hình tượng vị Sa hoàng đặc biệt này, nhưng đây không phải là cuốn sách chỉ để nói về một con người riêng lẻ. Cả xã hội Nga hiện lên trên giấy, từ điện Kremlin lộng lẫy cho đến túp lều khốn khổ của một gia đình nông dân bị bóc lột kiệt cùng, từ những người dân Nga hiền lành hèn mọn đến những tên lãnh chúa mất hết nhân tính… Dù là nhân vật nào cũng hiện lên dưới cái nhìn đa chiều sâu sắc. Trên phương diện lịch sử, Aleksey Tolstoy đã thể hiện sự nghiêm cẩn rất cao trong việc nghiên cứu các tư lệu, không chỉ về lịch sử mà còn về các phong tục tập quán thời bấy giờ của Nga và các dân tộc liên quan. Tài năng của ông đã biến những thứ tư liệu khô khan ấy trở nên rất hấp dẫn dưới hình thức tiểu thuyết mà vẫn đảm bảo được tính chính xác của các sự kiện. Quá khứ và trí tưởng tượng của nhà văn đã hòa quyện vào nhau thành một thể độc lập. Nói tóm lại, một tác phẩm đồ sộ như vầy thật khó có thể phân tích trong một bài viết nhỏ, thế nên chỉ có thể kết luận rằng, Pie đệ Nhất thực sự là một tiểu thuyết lịch sử xuất sắc và mẫu mực trong nền văn học thế giới, hoàn toàn xứng đáng với nguồn cảm hứng mà từ đó nó được tạo thành : Pie Đại đế, vị Sa hoàng đã được nhân dân Nga bình chọn là nhân vật lịch sử vĩ đại nhất của nước Nga. *** Aleksey Nicolaievich Tolstoy  (tiếng Nga: Алексей Николаевич Толстой) là một nhà văn nổi tiếng Liên Xô. Thường được gọi vui là Đồng chí Bá tước, ông là một trong những nhân vật tiêu biểu của dòng văn học Liên Xô giai đoạn trước và trong Thế chiến II. Ông sinh ngày 10-1-1883 tại thành phố Nikolaievsk, tỉnh Samara miền hạ lưu sông Volga, trong một gia đình quý tộc nhỏ có truyền thống văn học. Năm 1901, ông lên Petersburg theo học trường kỹ thuật, năm 1907 xuất bản tập thơ đầu tiên, nhưng ít lâu sau chuyển sang viết văn xuôi. Năm 1914-1916, ông làm phóng viên chiến tranh. Từ 1918 ông sống lưu vong ở Pháp. Năm 1923 ông trở về nước Nga, tình nguyện đứng vào hàng ngũ những trí thức tham gia công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ông mất ngày 23-2-1945 tại nhà an dưỡng Barkhivinsky, ngoại ô Moskva, thọ 63 tuổi. *** Xanka nhảy từ ổ nằm trên bếp lò(1) xuống đất, lấy người đẩy cánh cửa ẩm sũng. Sau Xanka đến Laska, Gavrinka và Artamoska cũng tụt nhanh xuống đất, bỗng cả bọn đều thấy khát; chúng nhảy ùa vào lối cửa đi tối om, theo làn hơi và khói từ ngôi nhà gỗ thum thủm mùi chua bay ra mù mịt. Ánh sáng xanh mờ xuyên qua làn tuyết phủ kín khuôn cửa sổ nhỏ lọt vào nhà. Trời rét như cắt. Chậu nước và chiếc gáo gỗ đã bị băng phủ kín. Mấy đứa trẻ chân không nhảy choi choi; đầu Xanka choàng khăn vuông; Gavrinka và Artamoska phong phanh chiếc áo lót cũn cỡn đến ngang rốn. Từ trong ngôi nhà gỗ, bà mẹ tru tréo: – Đóng cứa lại, đồ quỷ sứ! Bà ta đang đứng trước lò. Trong lò, những thanh củi nhỏ bắt lửa, hắt ánh sáng rực lên khuôn mặt nhăn nheo. Dưới chiếc khăn vuông rách, đôi mắt mờ đi vì khóc nhiều, lúc nầy sáng ngời, khủng khiếp y như mắt tượng thánh. Xanka, đột nhiên thấy rờn rợn, chẳng hiểu tại sao, liền ráng hết sức đóng sầm cánh cửa lại, sau đó, cô múc nước thơm uống một hớp, nhấm nhấm một cục nước đá rồi cho các em uống. Cô thì thầm: – Chúng mầy có rét lắm không? Nếu không đi ra sân mà xem, bố đang đóng ngựa đấy… Ngoài sân, ông bố đang đóng ngựa vào xe trượt tuyết. Từ vòm trời nặng trĩu, những bông tuyết nhỏ lặng lẽ rơi; những con quạ khoang đậu trên hàng rào cao; ở đây đỡ giá hơn lối vào ngôi nhà gỗ. ông bố là Ivan Artemist - bà mẹ thường gọi như vậy, còn mọi người thì gọi bác ta là Ivaska và chính bác cũng tự xưng như thế ở nơi công chúng - biệt hiệu là Brovkin, đầu đội chiếc mũ lông cao, nhọn hoắc, ấn sụp xuống tận cặp lông mày cau có. Bộ râu hung hung đỏ chưa được nhát lược nào kể từ ngày lễ Kháng cáo… Đôi bao tay thò ra ở chỗ hở của chiếc áo dài bằng len thô, thắt trễ ngang lưng một sợi dây thừng; đôi giầy bện bằng vỏ gai của bác bực dọc bước lạo xạo trên tuyết trộn lẫn phân: bác không làm sao gỡ nổi bộ yên cương. Bộ yên cương nát quá, chỗ nào cũng chắp nối. Bác bực mình, mắng con ngựa nhỏ đen nhẫy, chân ngắn cũng như chân chủ, bụng to tướng. – Rồi tao sẽ cho mầy giỡn, đồ chết tiệt? Mấy đứa trẻ ra ngay chân thềm nhà tè một bãi và co ro nép vào nhau ở trên thềm nhà đóng băng mặc dầu chúng rét căm căm. Artamoska, đứa nhỏ nhất lắp bắp: – Không sao cả, lát nữa chúng mình lại vào sưởi ở bếp lò! Đóng ngựa xong, Ivan Artemist cho ngựa uống nước chứa trong một cái thùng. Con ngựa uống một hơi dài, đôi sườn lông lá căng lên như muốn bảo chủ: "Ông đã không cho tôi ăn no thì ít ra tôi cũng phải được uống thoả thuê…". Ivan xỏ bao tay vào, rút lấy chiếc roi để trong xe, dưới lớp rơm. Bác quát bọn trẻ: – Muốn sống vào trong nhà ngay lập tức! - Bác nghiêng mình ngồi phịch xuống xe, cho xe đi qua cổng rồi cho ngựa chạy nước kiệu theo dọc hàng tùng cao vút lốm đốm tuyết phủ, về phía dinh cơ của lãnh chúa trẻ Volkov. – Chà, sao mà rét thế nầy, thật buốt thấu xương! - Xanka nói. Mấy đứa trẻ ùa vào ngôi nhà gỗ tối mò và leo lên ổ trên bếp lò, hai hàm răng lập cập. Dưới trần nhà đen kịt, làn khói ấm, hanh hanh, bốc lên cuồn cuộn, rồi thoát qua cửa sổ lùa khoét ở trên phía cửa ra vào: cái bếp lò không có ống khói. Bà mẹ đang nhào bột. Dẫu sao thì gia đình cũng đủ ăn: họ có một ngựa, một bò cái và bốn gà mái. Mọi người vẫn bảo Ivaska Brovkin là một bác nông dân khá giả. Khi những thanh củi trên giá đèn(2) cháy lụi, tàn rơi lả tả xuống chiếc cóng nhỏ đựng nước kêu xèo xèo, Xanka kéo chiếc áo lông cừu đắp lên người mình và cho các em, rồi lại thì thào kể tiếp đủ mọi thứ chuyện khủng khiếp: cô kể cho các em nghe về những cái giống, - lạy Chúa, ai mà dám gọi đến tên thật của chúng - cứ lào xào dưới sàn nhà lúc đêm khuya… – Thì mới đây thôi, tao mà nói dối thì tao mù mắt, tao đã bị một mẻ sợ hết hồn?… Cạnh bậu cửa, có một đống rác và trên đống rác, có một cái chổi bện bằng cành bạch dương. Tao nhìn thì, ôi lạy Chúa tôi! Tao thấy cái thằng lông lá ấy từ dưới cái chổi lù lù hiện ra, râu như râu mèo. – Ối ối, ối! - bọn trẻ hoảng sợ chúi đầu vào trong cái áo lông cừu kêu ầm lên. Chú thích: (1) Bếp lò ở Nga thường xây cao, bằng gạch hoặc bằng đá, để sưởi ấm nhà và để nấu ăn. Mặt bếp lò phẳng. người Nga hay kê ván làm giường nằm lên trên cho ấm. (2) Nông dân Nga thời xưa thắp những thanh củi nhỏ(thường bằng gỗ thông) để thay đèn. Mời các bạn đón đọc Pie Đệ Nhất của tác giả Aleksey Nicolaievich Tolstoy.
Người Vợ Độc Lập
Tan nát trái tim sau khi bị chính người chồng mà mình hết mực tôn thờ bỏ rơi, Sarah Jerome quyết định thay đổi bản thân mình. Không những đổi tên, cô cũng thay đổi từ hình dáng đến tính cách. Từ một cô gái trầm lặng, nhút nhát, cô đã trở thành một người phụ nữ mạnh mẽ, độc lập, gợi cảm. Từ đây cô phát hiện ra mình có thể sống mà không cần đến người chồng kia. Nhưng 7 năm kể từ sau khi chia tay, định mệnh một lần nữa nhảy xổ vào đời cô. Người chồng cũ của cô xuất hiện và yêu cầu cô nối lại cuộc hôn nhân. Sarah, bây giờ là Sallie sẽ quyết định như thế nào? Từ bỏ cuộc sống của một phóng viên quốc tế đầy thú vị và độc lập để quay trở về với vai trò của một người vợ hiền. Hay cô sẽ từ bỏ tình yêu duy nhất của cô mà khoảng cách 7 năm cũng không thể nào làm phai nhạt? *** Review Bella Hoàng - fb/hoinhieuchu: Câu chuyện là về cô nàng Sarah tròn ủm, dịu dàng. Nàng kết hôn với phóng viên chiến trường Rhy - hàng xóm của nàng. Hôn nhân là những chuỗi ngày xa cách, hờn dỗi, mệt mỏi vì những chuyến công tác xa nhà của Rhy. Trái tim Sarah luôn luôn thắt lại mỗi khi nghe dc nhữg tin xấu từ chiến trường về, vì sợ bỗng một ngày nào đó Rhy trở thành 1 tờ giấy báo tử. Bất mãn trước yêu cầu thay đổi công việc từ Sarah, Rhy bỏ đi, ngoài việc gởi tiền trợ cấp về đều đặn thì Rhy ko hề liên lạc với Sarah trong nhiều năm. Sarah bị bỏ lại. Khóc lóc đau khổ nhiều ngày liền khiến nàng mệt mỏi. Nàng quyết định đi học lại. Nàng phát hiện bản thân học ngoại ngữ rất khá và nàng tìm được nhiều niềm vui khác từ cuộc sống. Cuộc hôn nhân thất bại đó dần trở thành lãng quên. 7 năm sau, nàng trở thành phóng viên cộm cán của tờ tạp chí lớn với tên gọi thời con gái Sallie. Nàng cuối cùng cũng hiểu được sự đam mê của Rhy với công việc này. Những cung bậc cảm xúc được kích thích cao độ khi tác nghiệp như là thuốc phiện đối với mỗi phóng viên. Nàng cần sự kích thích đó như cần khí oxi mỗi ngày bơm vào người vậy. Một ngày ko hẳn là đẹp trời lắm, tạp chí nơi nàng làm có chủ mới - một người đàn ông đẹp trai với hơi thở đầy hoang dã lẫn trong bộ vest nghiêm chỉnh. Sallie phát hoảng và trốn biệt ở ngăn làm việc của nàng vì chồng nàng đã tới cửa rồi. Giờ đây Rhy đã chán ngán với nhữg nguy hiểm, kích thích do nghề phóng viên mang lại. Rhy chuyển hướng làm kinh doanh và quay lại tìm con chim câu bé nhỏ - Sarah của mình. Nhưng Sarah giờ đây lại trở thành 1 phiên bản của anh ngày xưa, đam mê với nghề đã cắm sâu vào máu thịt cô. Câu chuyện diễn biến còn rất hấp dẫn. Sự mạnh mẽ, độc lập của Sallie làm độc giả cực yêu mến. Sự trừng phạt nào cho Rhy khi đã bỏ mặc Sarah 7 năm trời. Mn coi tiếp trong truyện nhé! *** Linda Howard tên thật là Linda S. Howington. Cô sinh ngày 3/8/1950 tại tiểu bang Alabama thuộc miền Nam Hoa Kỳ. Cô là một trong những tiểu thuyết gia thuộc trường phái lãng mạn nổi tiếng thế giới. Các tác phẩm của cô thường xuyên lọt vào danh sách những cuốn sách bán chạy nhất do tạp chí New York Times bình chọn. Năm 2005, cô đạt giải Career Achievement Award - giải thưởng dành cho các tác giả viết tiểu thuyết lãng mạn xuất sắc nhất. Linda Howard nói rằng từ lâu sách đã đóng một vai trò to lớn trong cuộc đời bà, dù là để đọc hay viết. Tác giả tiểu thuyết lãng mạn đầu tiên bà đọc là Margaret Mitchen và kể từ đó trở đi bà đọc rất nhiều với tất cả đam mê. Trong những năm gần đây, mối quan tâm của bà tập trung chủ yếu vào dòng tiểu thuyết lãng mạn, bởi bà “dễ dàng thấy chán chuyện giết người, bạo lực và chính trị”. Sau hai mươi mốt năm viết truyện chỉ để mua vui cho mình, rốt cuộc Howard đã gom đủ dũng cảm để gửi một tiểu thuyết tới nhà xuất bản - và lập tức thành công. Nhà văn gốc Alabama giờ đã trở thành người nhiều lần xuất hiện trong danh sách tác giả sách bán chạy nhất của tờ New york Times. Tác phẩm của Linda Howard gồm có: Against The Rules (Tiếng Việt) Almost Forever (Tiếng Việt) An Independent Wife (Tiếng Việt) Angel Creek (Tiếng Việt) Băng Đá Bluebird Winter (Tiếng Việt) Cầu Vồng Lúc Nửa Đêm Con Gái Của Sarah Con Trai Của Bình Minh Đêm Định Mệnh Đừng Nói Mãi Mãi Duncan's Bride (Tiếng Việt) Đường Về Nhà Giã Từ Nước Mắt Hẹn Hò Theo Kiểu Của Em Kill And Tell (Tiếng Việt) Lời Dối Gian Chân Thật Người Vợ Độc Lập Những Điều Hào Nhoáng Núi Tình Quý Bà Miền Tây Quý Ông Hoàn Hảo Sắc Đẹp Chết Người Sắc Màu Hoàng Hôn The Cutting Edge (Tiếng Việt) Thiên Sứ Tử Thần Thiêu Hủy Tội Ác Trong Mơ Trăng Xanh Tưởng Chừng Mãi Mãi Vịnh Kim Cương ... *** Điện thoại trên bàn đổ chuông một hồi dài nhưng Sallie không rời mắt khỏi máy tính hoặc tỏ ra một dấu hiệu nào cho thấy cô chú ý đến tiếng chuông. Brom thở dài, vươn người qua bàn và nhấc máy. Sallie vẫn tiếp tục gõ đều trên bàn phím, lông mày cau lại chứng tỏ cô đang tập trung ghê gớm. “Của cô đấy, Sal”, Brom nói giọng khô như ngói, Sallie trông lên và thấy Brom đang nằm bò ra bàn giơ điện thoại hướng về cô. “Ôi! Tôi xin lỗi! Brom, tôi chẳng nghe thấy gì hết”, cô nhe răng cười với vẻ hối lỗi khi cô nhận điện thoại từ anh. Anh vẫn thường đùa bảo rằng cô lúc nào cũng như người cõi trên, và điều đó thực ra cũng không sai gì mấy so với sự thực, cho nên anh bắt điện thoại của cô thường xuyên như của anh, bởi vì cô thường tập trung đến mức không nghe thấy tiếng chuông reo. Anh nhe răng cười lại với cô khi anh trở lại chỗ ngồi và nói, “Greg đấy” “Sallie nghe đây”, Sallie nói vào ống nghe với giọng vui mừng Giọng Greg Downey, anh chàng biên tập tin tức lè nhè trong điện thoại “Vào gặp tôi đi, bé con” “Ok, tôi đến liền”, cô nhiệt tình nói rồi cúp máy Khi cô tắt máy tính và lấy áo khoác, Brom hỏi: “Lại đi nữa à cưng?” “Tôi mong là thế”, Sallie trả lời, khẽ hất nhẹ bím tóc trên vai ra sau. Cô thích những chuyến công tác nước ngoài. Đối với cô, chúng cũng hấp dẫn ngang với bánh mì và bơ. Cô sống nhờ chúng. Trong khi những đồng nghiệp khác bơ phờ vì say máy bay, Sallie lại phơi phới như được hồi sinh. Dường như trong cô tồn tại nguồn năng lượng vô tận và tính hài hước bầm sinh. Trong khi lao tới chỗ Greg, Sallie có thể cảm nhận hoóc môn adrenalin đang tuôn chảy trong các mạch máu, kích thích cô mạnh mẽ, khiến trái tim cô đập nhanh hơn, và toàn thân cô náo nức trong sự kỳ vọng. Greg ngẩng đầu lên khi cô gõ lên cánh cửa phòng đang mở và một nụ cười dịu dàng hiện ra trên khuôn mặt thô cứng khi anh nhìn thấy cô. “Cô vừa chạy đấy à?” Anh chàng hỏi bằng một giọng khô khan khi anh đứng dậy và bước ngang qua cô, đóng cánh cửa phía sau cô. “Tôi chỉ vừa mới cúp máy xuống thôi mà” “Tốc độ thường ngày ấy mà”, Sallie trả lời, phá lên cười giống như anh. Nụ cười rạng rỡ làm đôi mắt màu xanh sẫm của cô sáng bừng lên, khắc sâu thêm đôi lúm đồng tiền trên gò má ửng màu hoa đào. Greg nhìn xuống khuôn mặt nhỏ bé rạng rỡ như mặt trời sớm mai của cô và vòng đôi tay thô cứng ôm lấy Sallie giây lát rồi buông ra. “Anh có gì cho tôi thế”. Cô hỏi với vẻ háo hức.   Mời các bạn đón đọc Người Vợ Độc Lập của tác giả Linda Howard.
Tiếng Hú Trên Đỉnh Non Chà Hóc
Vũ Hạnh tên thật là Nguyễn Đức Dũng, sinh năm 1926 tại xã Bình Nguyên, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nho học. Ông tham gia Mặt trận Việt Minh huyện Thăng Bình, từ tháng 3-1945 học ban tú tài phần II. Năm 1955, ông tham gia đấu tranh đòi hiệp thương Bắc Nam và bị bắt giam ở nhà lao Thăng Bình rồi nhà lao Hội An. Vũ Hạnh là cán bộ văn hoá Khu uỷ Sài Gòn - Gia Định, hoạt động công khai ở nội thành Sài Gòn (hoạt động đơn tuyến). Trong hoàn cảnh viết trên sách báo công khai dưới chế độ ở miền Nam, ông đã có cách viết khéo léo để vẫn đưa được những thông điệp tiến bộ đến quần chúng mà không bị kẻ thù đàn áp. Sau năm 1975, ông làm Tổng thư ký Hội Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, ủy viên ban chấp hành Liên Hiệp Các Hội Văn Học Nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh." *** Tác phẩm chính;   Các tập truyện: Vượt thác (1963), Mùa xuân trên đỉnh non cao (1964), Chất ngọc (1964), Ngôi trường đi xuống (1966), Bút máu (1971), Con chó hào hùng (1974), Cô gái Xà Niêng (1974), Ăn Tết với một người điên (1985), Sông nước mênh mông (1995),... Tiểu thuyết: Lửa rừng (1972) Hồi ký: Cái tết khó quên (1990), Một chặng đường bút mực (2000) Tiểu luận: Người Việt cao quý (1965), Đọc lại Truyện Kiều (1966), Tìm hiểu văn nghệ (1970),... *** Tiếng hú kéo dài rền rĩ, rồi biến thành một tiếng rống ghê rợn bao trùm những dãy nhà sàn cheo leo ngủ yên ở trên sườn núi Ca-Tha. Ông chúa làng Bu-Then chống tay run rẩy ngồi dậy, chong tai ngồi nghe giữa khoảng tối dày. Từ khi bắt đầu bập bẹ những tiếng đầu tiên cho đến bây giờ, mái tóc bạc phau và lưng còng lại như cây gáo già ở trước cổng buôn, ông chưa bao giờ nghe một tiếng hú lạ lùng như thế. Cố gắng chống lại một cơn cảm sốt làm ông rũ liệt đã nhiều ngày rồi, ông choàng tấm "dồ" lên mình, sờ soạng bước ra đầu nhà. Tiếng hú vẫn cứ vang dài như chạy lông lốc trên đầu các ngọn cây cao, rồi tỏa tứ bề, lẫn lộn những lời khóc than kể lể và khi dịu lại nghe như tiếng rên của một người sắp xuống mồ. Ông Bu-Then quờ quạng bám tay vào tấm phên che, chỗ lối xuống lên, ngồi nhẹ xuống sàn như sợ ngôi nhà sụp đổ, giương đôi mắt đã đục lờ, hõm sâu, thảng thốt nhìn về một hướng núi xa. Có lẽ tiếng hú xuất phát từ đỉnh Chà Hóc cao nghệu, hoang vu, dân làng chưa ai bén mảng đến đấy bao giờ. Những câu chuyện về ma quỉ, về thần núi do lão phù thủy Sa-Keo kể lể khiến họ sợ hãi, chỉ đứng xa nhìn đỉnh núi như ngắm nhìn con quái vật linh thiêng. Gió khuya ướt đẫm mùi sương khua động rạt rào cây lá, bốc thổi từng luồng lạnh ngắt, khiến ông chúa làng co rút mình lại, kéo tấm "dồ" lên phủ kín đôi vai. Mặt trăng đã chìm sau núi, chỉ còn le lói đôi vệt sáng mờ sau rặng cây xa, đẩy vùng bóng tối đen dày của ngọn Ca-Tha phủ kín lấy buôn Nước Ràng. Ông Bu-Then nhướng mắt nhìn quanh, không một bóng người thấp thoáng, không tiếng động nào vang lên giữa cảnh âm thầm. Dân làng có lẽ bị chôn vùi trong giấc ngủ nặng nề sau ngày làm việc nhọc mệt trong rẫy, trên nương, hoặc đang co rúm trên các sàn nhà, nín thở lắng nghe tiếng hú kỳ quái bất thần nổi dậy giữa đêm lạnh lẽo tối tăm. Ông chúa làng nhớ mấy ngày trước đây, khói đen bốc tỏa mờ mịt về phía Chà Hóc như báo một điềm chẳng lành. Tai họa sẽ giáng xuống dân Nước Ràng hay sao? Ông thấy xúc động nghẹn ngào và buông một tiếng thở dài. Tiếng hú, sau hồi thét vang rùng rợn, bỗng như khàn hơi ngừng bặt. Cả vùng núi rừng bao la chìm đắm trong sự câm lặng nặng nề. Tất cả sinh hoạt về đêm thường khi cựa quậy rộn ràng, bây giờ nén lại trong sự chờ đợi hồi hộp. Ông chúa làng nghe rõ tim đập dồn dập trong lồng ngực mình. Lâu lắm ông mới nhận được từ xa tiếng suối Nậm Nui rì rầm luồn qua khe đá. Và chim cheo-meo chiêm chiếp thảm thiết ở trong bụi rậm sau buôn. Khi ông lấy lại được sự bình tĩnh, chống tay lom khom đứng dậy thì tiếng hú lại bắt đầu vang lên. Đó là những tiếng gào khan như thoát ra từ cổ họng của một con người to lớn dị thường, và con người ấy tưởng có thể nuốt dễ dàng được cả cây rừng, đá núi. Rồi tiếng gào ấy chuyển sang tiếng thét dữ dội như muốn phá tung lòng núi thẳm sâu để trút hết nỗi căm hờn chất chứa đời đời kiếp kiếp. Lúc tiếng thét đã dịu lại, trở thành tiếng hú, máu trong người ông Bu-Then như ngừng chảy hẳn. Ông ngã khuỵu xuống sàn nhà, tê lạnh người đi vì nỗi hãi hùng. Tiếng hú thê thảm quái gở như tụ hội hết hồn ma, vía quỉ lạc loài trong chốn rừng hoang. Tiếng hú ghê rợn độc ác như cào cấu trên da thịt con người, xuyên thủng màng tai, xoắn lấy não tủy. Như cây gáo già sống trước cổng buôn gặp cơn bão rừng thổi mẹp vẫn luôn cố gắng chống lại mưa gió phũ phàng, ông đã từng đem sinh lực cường tráng giúp cho dân làng xua rạt bao loài thú dữ để rời lũng sâu ẩm thấp mà về bám trên sườn núi Ca-Tha đất rẫy phì nhiêu. Khi sinh lực ấy mỏi mòn, ông đã đem sự khôn ngoan của kẻ trải nhiều bất trắc gian lao giúp cho dân làng trồng trọt, dạy cho dân làng thuận hòa, biết thương rẫy lúa, nương ngô, suối nước, cây rừng. Bây giờ chúa làng Bu-Then lại để tiếng hú ma quái xô ngã như cành củi mục hay sao? Chúa làng Bu-Then để mặc cho bao nhiêu người run rẩy trong cơn khiếp đảm hãi hùng hay sao? Ông già Bu-Then loạng choạng đứng lên, cố chống lại sự hoảng hốt xáo trộn lòng mình. Bám chặt bàn tay gầy gò vào khung cửa liếp, ông lần mò leo xuống chiếc thang gỗ làm bằng thân cây cốc rừng được đẽo hõm vào nhiều nấc để đặt bàn chân. Gió núi thổi tạt từng luồng lạnh buốt, bật tung tấm "dồ" khỏi cái thân hình xương xẩu, muốn kéo ngã ông xuống dưới sân buôn. Ông đi sờ soạng, nghe chân tê nhức ở trên nền đất khô cằn. Trăng đã chìm hẳn, chút sáng nhợt nhạt trên vùng cây xa cũng tắt từ lâu. Ông già Bu-Then tìm về cuối buôn, chỗ nhà phù thủy Sa-Keo. Phải đi hỏi lão, vì chỉ có lão là biết ý định của loài ma quỉ. Lên đến nấc cuối của cây thang gỗ, ông chúa làng thấy qua tấm liếp che trống trải, Sa-Keo đang ngồi im lặng trước một bếp lửa đã tàn, chỉ còn âm ỉ một ít than hồng đỏ rực. Đầu lão to lớn quấn vành khăn rộng xồ xề, trông như một chiếc cối giã lắc lư nhè nhẹ, trong khi hai cánh tay dài loeo ngoeo quấn chặt lấy cặp đầu gối xương xẩu nhô lên đụng tới chân cằm. Ông già đưa tay đẩy mạnh tấm liếp. Sa-Keo như chợt bừng tỉnh, mở rộng đôi mắt ốc nhồi thao láo nhìn về phía cửa, cất giọng khàn khàn: - Ai đó? Mời các bạn đón đọc Tiếng Hú Trên Đỉnh Non Chà Hóc của tác giả Vũ Hạnh.