Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trên Đường

Cuốn tiểu thuyết từng nằm trong danh sách 100 tiểu thuyết tiếng Anh vĩ đại nhất giai đoạn 1923- 2005 của tờ Time này gần như một cuốn tự truyện tiêu biểu cho làn sóng tự do tiên phong thời kỳ hậu Thế chiến II. Được xếp vào các tác phẩm văn học cổ điển Mỹ cùng Huckleberry Finn của Mark Twain, tác phẩm đã khai thác chủ đề tự do cá nhân và những thử thách từ cái gọi là “Giấc mơ Mỹ”. Qua những chuyến đi và trải nghiệm của nhân vật chính và những mối quan hệ đan xen trong truyện, Trên đường là một bằng chứng của một giai đoạn trong lịch sử nước Mỹ và của một phong trào trí thức mà nếu không có nó có lẽ sẽ không ai lý giải. Cuộc phiêu lưu xuyên Mỹ của Sal Paradise và Dean Moriarty trong truyện được dựa trên chuyến đi có thật của Jack Kerouac và Neal Cassady. Về thực chất, đó chính là hành trình tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống và sự trải nghiệm đích thực. Được viết bằng sự pha trộn giữa cái nhìn buồn bã ngây thơ với sự phóng túng cuồng nhiệt, giữa tình yêu sâu sắc của Kerouac với nước Mỹ, lòng trắc ẩn của ông với con người và cảm thức về ngôn ngữ, coi nó như nhạc jazz, Trên đường là một điển hình cho cách nhìn Mỹ về tự do và hy vọng, đặc biệt trong bối cảnh “Giấc mơ Mỹ” bắt đầu tan vỡ. Với Trên đường, Jack Kerouac đã bắt đầu phát triển một cách viết mà ông gọi là “Văn xuôi bột phát” (Spontaneuos Prose) với đặc điểm gồm rất nhiều các câu dài, kết cấu hình thức phóng khoáng, được viết ra ngay khi ý tưởng ập đến trong đầu, mang tính cá nhân rất cao. Ngay từ khi ra đời, cuốn sách đã gây ra không ít tranh cãi, nhưng bất chấp những tranh cãi đó, Trên đường vẫn được đa số công nhận là một trong những tiểu thuyết vĩ đại nhất thế kỷ hai mươi của nền văn học Mỹ nói riêng và thế giới nói chung.   Nhận định   “Nếu như Mặt trời vẫn mọc của Hemingway trong thế kỷ hai mươi được coi như cuốn Kinh thánh của Thế hệ bỏ đi thì Trên đường của Jack Kerouac cũng đóng một vai trò như vậy với Thế hệ Beat. (…) Thế hệ beat sinh ra đã vỡ mộng. Họ coi những nguy cơ xảy ra chiến tranh, sự trì trệ của hệ thống chính trị, thái độ thù địch của cộng đồng là hiển nhiên. Sự giàu có không làm họ ấn tượng. Họ không biết mình đang tìm kiếm nơi nào để nương tựa, nhưng họ vẫn không ngừng tìm kiếm.” - Gilbert Millstein, New York Times Book Review   “(…) Văn phong xuất sắc. (...) Phong cách độc đáo, mãnh liệt mà giản đơn, sắc sảo đến dị thường. - The Atlantic Monthly. “Trên đường là một tiểu thuyết sẽ khiến độc giả của nó muốn ngay lập tức lên đường, chộp lấy tháng ngày hiện tại và sống, sống, sống đến tận cùng!” -  Anna Hassaghi, Đại học Hiram *** Nếu bạn ở trên đường, đi qua bụi mù và đơn độc, thì Jack Kerouac sẽ ở bên bạn. Không buồn đâu, không cô độc, chỉ có những con đường ngoài kia, trẻ mãi, vui mãi và yêu đương khôn xiết. Lần đầu tiên tôi đọc “Trên đường” là lúc tôi ngồi một mình trong Angkor Wat. Tới bây giờ với tôi, cảm giác ấy vẫn là một sự rung rinh dịu dàng. Tôi nghĩ mình đã yêu, yêu đền đài trước mặt và yêu bàn chân mà Sal Paradise đã đi. Cuốn sách này đơn giản lắm, nó là hằng hà sa số những cuộc đi tới đi lui của anh nhà văn trẻ Sal Paradise – sau khi “khám phá” ra trên đời này có một gã tên là Dean Moriarty. Sal viết: “Dean Moriarty đến là bắt đầu một chương mới trong đời tôi, có thể đặt tên cho nó là “đời tôi trên những con đường”, hay “Về chuyện ngao du trên đường thì Dean là típ người hoàn hảo, bởi vì hắn được đẻ ra ngay trên đường, trong một cái ôtô xập xệ, khi bố mẹ hắn đi ngang qua Salt Lake City để về Los Angeles năm 1926.” Rồi từ ấy trở đi, cuộc đời họ trở thành các vì sao, lao nhanh vào vũ trụ của các con đường, không quỹ đạo, không ngần ngại, không cả những toan lo vớ vẩn mà bất cứ ai trên đời này. Những trang viết là dòng chảy khấp khởi của các ý nghĩa, sự hưng phấn không chịu nổi của tình yêu, vẻ đẹp các quãng đường, những cơn mê cuồng dại trong vẻ đẹp của một cánh đồng, của mùa đông, của một quãng đường dài khủng khiếp đầy gió bụi. Phong cách viết của Jack Kerouac là điển hình cho thế hệ Beat. Với đầy đủ những đặc trưng của dòng chảy này: Coi những tự sự trần trụi, tươi mới là hạt mầm của sáng tạo. Ở bất cứ đâu trong “Trên Đường”, bạn đều có thể bắt gặp những câu viết nhanh, hưng phấn tột cùng trong ý nghĩ, xúc cảm tươi rói, không bó buộc chút gì trong các quy tắc ngôn ngữ thông thường: “Trong một thoáng, tôi đã đạt tới cực điểm cảm xúc mà bấy lâu nay tôi hằng ao ước, hoàn toàn bước qua ranh giới của thời gian vật chất sang vùng bóng tối phi thời gian, kinh ngạc trước sự lạnh lẽo của cõi hữu hạn, cảm giác như cái chết đang đuổi theo sát gót buộc mình tiến về phía trước, theo sát nó lại là một bóng ma khác, và chính tôi đang vội vàng chạy về nơi các thiên thần vỗ cánh bay vào khoảng không thiêng liêng vô cùng tận, nơi ánh sáng giác ngộ phi thường không sao lý giải nổi trong Bản thể Nhận thức chói loà, biết bao cõi bình an mở ra trong ánh sáng diệu kỳ từ thiên đường rọi xuống. Tôi có thể nghe thấy tiếng gầm gào náo động không sao miêu tả nổi không những trong tai tôi mà còn ở khắp nơi và cứ mặc kệ những âm thanh đó. Tôi nhận ra là mình đã chết đi và sống lại đến ngàn lần nhưng không sao nhớ nổi chính xác bởi lẽ bước nối tiếp từ sự sống sang cái chết thật quá dễ dàng, chỉ là một phép thần của hư vô, chỉ như thiếp đi rồi lại đứng dậy đi lại hàng triệu lần, hoàn toàn  bình thường và chẳng ai hay biết. Tôi nhận ra rằng nhờ tính ổn định của Nhận thức thực chất mà sự sống và cái chết mới diễn ra như làn sóng, như cơn gió lay động mặt nước hồ trong vắt, yên ả, phẳng lặng như gương. Tôi cảm thá6y hạnh phúc ngọt ngào, ngây ngất như vừa tiêm vào động mạch chủ một mũi heroin; như một chầu rượu cuối chiều và bỗng thấy mình run rẩy. Chân tôi như có kiến đốt. Tôi nghĩ bụng có lẽ mình chết đến nơi rồi. Nhưng tôi không chết và lại cuốc bộ bốn dặm đường, nhặt được mười đầu mẩu thuốc lá mang về phòng của Marylou, nhét số thuốc còn lại trong đó vào tẩu rồi châm lửa hút…” Cũng ở đoạn văn trên, người đọc có thể thấy thêm một đặc trưng nữa của trào lưu Beat: “Ý thức của nghệ sĩ được mở rộng ra vô hạn trong những hỗn loạn của giác quan” – và cách hầu hết những nhà văn như JackKerouac sử dụng để tạo ra cảm xúc bất thần là nương nhờ vào cơn say ma tuý. “Trên đường” chứa hàng trăm đoạn văn mà khi đọc bạn cảm thấy mình ở trong đó, phân vân vì từng đồng bạc lẻ trước khi lên đường, hú hét điên dại trong cơn hứng chí giữa con đường ngập tuyết, điên lên vì yêu đương, ghen tuông, rủa xả rồi lại lao vào nhau giữa những cuộc làm tình không bờ bến. Đọc quyển này, cứ như ta uống hoài, uống hoài, uống cho đã cái hơi men tuổi trẻ mà Jack Kerouac đã vắt vào, ném lên trời, hệt như các vì sao tả tơi trong đêm tối hoang dại. Các chàng trai cô gái trong sách cứ dâng lên trong ngày tháng không bờ bến của họ, làm tất cả những gì mình muốn, bất chấp thế giới đổi thay, và thỉnh thoảng có người gục ngã không chút ngần ngại. Dean yêu Marylou, rồi Dean đi lấy Camille, còn Marylou đi lấy một gã thuỷ thủ, rồi họ lại lao vào nhau trên đường. Sal yêu Terry trên nông trại, rồi rời bỏ nàng vì con đường vẫy gọi. Họ đến, rời đi, bỏ lại những mái nhà để kiếm tìm khoái cảm vô tận của tuổi trẻ… Tôi không phải người nghe nhạc Jazz nên không rành lắm. Nhưng cũng trong quyển này, có một “nhân vật” quan trọng là: nhạc Jazz, hiện hữu đầy rẫy trong các quán bar, trong căn phòng tối cả đám phê thuốc, trong cuộc nhảy múa điên cuồng với tay chơi kèn thần sầu. Có những đoạn viết kiểu như vầy: “Tay saxo đội mũ đang trong trạng thái ứng tác kỳ thú, lặp lại điệp khúc trầm bổng từ “II –ya!” dến âm điệu phá cách hơn “II-đe-li-ya!”, cứ thế hoà điệu cùng tiếng trống dồn dập của một tay trống da đen có cái cổ to như cổ bò, gã này bất cần mlọi thứ, chỉ quan tâm đến mỗi cái dàn trống của gã, đập, gõ , đập. Âm nhạc cuồng nhiệt, tay saxo đã tạo nên điều đó và mọi người đều biết chính gã đã tạo nên điều đó. Dean ôm lấy đầu, chen chúc trong đám đông như đang phát điên. Tất cả mọi người đang cổ vũ tay saxo cữ giữ mãi đoạn đó, họ la hét với những đôi mắt như điên dại, gã lại đứng thẳng lên sau cú gập người lấy hơi rồi lại chùng người xuống, tiếp tục khúc nhạc trong tiếng hò hét thán phục. Một phụ nữ da đen gầy nhẳng cao lêny khênh đang lắc lưu chạm đống xương của cô ta vào cây kèn của gã, gã chẳng quan tâm, cứ thế thúc cây kèn vào cô ta, “Ii! Ii! Ii!” …. “Hắn xoa ngực xoa bụng, mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt. Gã đánh trống đẩy tiếng trống xuống thật thấp rồi dồn dập tăng nhịp và cường độ lên bằng đôi dùi hay chết người của gã. Một gã to béo nhảy lên bục biểu diễn, làm cái bục lún xuống và kêu cót két. “Yo!” Tay piano lướt trên phím đàn bằng cả mười ngón tay xoè rộng, tạo ra những hợp âm nhanh trong lúc gã saxo vĩ đại đó lấy hơi cho một cao trào mới – những hợp âm kiểu kinh kịch Trung Quốc khiến từng đường dây thớ gỗ của cây piano rung chuyển. Rồi từ trên bục, tay saxo nhảy xuống, đứng giữa đám đông, vung kèn ra cho bốn hướng thổi, mũ sụp xuống mắt; ai đó đội lại mũ cho gã, Gã ngả người ra sau, lại nghỉ lấy hơi, giậm chân xuống sàn và tung ra những nốt trầm khàn, rồi lại lấy hơi, nâng kèn lên thổi những giai điệu thanh thoát, mênh mông, xé tan bầu không khí. Dean đang đứng ngay trước mặt gã, mặt nghiên xuống gần sát bàn kèn, tay vỗ nhịp, mồ hôi rỏ tong tong lên phím kèn, gã nhìn thấy, thế là gã thổi vào tiếng kèn một tràng cười dài như điên dại, và mọi người cũng cười theo, lắc lư người liên tục. Cuối cùng tay saxo quyết định lên đến đỉnh điểm, gã quỳ mọp xuống, ngận dài mãi một nốt đô chói tai trong khi mọi thứ như vỡ toác hết và khán giả gào thét mỗi lúc một to thêm.” Trong cách viết này, câu từ lặp đi lặp lại để thể hiện cái chết bên trong của một thứ khác, vượt qua giới hạn của giác quan, chiêm ngưỡng khoái lạc, về sự sung mãn lạ thường của cuộc sống. Và ở giữa các đoạn văn, người đọc có thể thấy được những âu lo, nỗi buồn thầm kín, những đổ vỡ của con người của “Thế hệ đã mất” sau chiến tranh thời Kerouac: đôi lúc chán ghét cuộc sống đến thù hằn, rồi lại đau đớn yêu thương nó vì sự rực rỡ quá đỗi của các cung bậc bay bổng ngoài kia. Linh hồn của Dean Moriarty có lẽ là linh hồn của một con đường. Gã đi như mây gió, gã kéo theo Sal, kéo theo cô tình nhân Marylou xinh xẻo ngu ngốc, rồi gã sẵn sàng vứt bỏ họ bên đường, vứt bỏ mái nhà, vứt bỏ Sal, vứt bỏ tất cả, để chạy theo con đường. Dean không có lỗi. Chỉ là Dean không dừng lại được. Có lẽ, nếu l1uc Dean ngừng lại, gã sẽ chết vì u buồn và đơn điệu, sẽ chết giống như một người đang cần khí thở liền bị ai đó bóp cổ vậy. Trong một chặng đường ở Mexico, Dean đã bỏ lại Sal khi đang bị kiết lị. Hắn nói: “Sal tội nghiệp, Sal tội nghiệp, ông bị ốm rồi. Stan sẽ chăm sóc ông. Cố nghe tôi nói đây, dù ông đang bệnh: tôi vừa nhận được ở đây giấy tờ ly hôn với Camille, tối nay tôi về New York với Inex, nếu cái xe còn đủ sức.” “Lại từ đầu à?” tôi kêu lên, … Sal đã nghĩ về điều đó như một sự phản bội, nhưng cũng ngay lúc đó Sal hiểu ra rằng Dean phải chạy đua với cuộc đời ngột ngạt này, vứt bỏ mọi thứ để lại được ở trên đường, lái xe và đi khắp thế gian của hắn. Hắn là tuổi trẻ, là sự huy hoàng duy nhất còn lại trong bóng tối già nua bủa vây và nỗi buồn rũ rượi…. Jack Kerouac “Trên đường” là một tuổi trẻ ngây ngất cho những ai đang đeo balô và đi xa, đang du hý đâu đó, đang đơn độc tận hưởng cõi đời này, hãy nhai bánh mì nhạt, uống cà phê và đọc một đoạn. Đó là một niềm vui lộng lẫy bé xíu xiu thôi…. và mình không thể nào cưỡng lại. Khải Đơn Review *** Sal Paradise là một nhà văn trẻ mới ly dị vợ và thấy mọi thứ đang tan nát hết cả. Anh đã vô tình gặp Dean Moriarty – một con ngựa hoang với những đam mê bản năng nhất, một thiên thần với tâm hồn thánh thiện, nhưng cũng là một ác quỷ điên cuồng có khả năng làm xáo trộn mọi nơi hắn đi qua – người đã mở ra chương mới trong cuộc đời của Sal, “cuộc đời trên những con đường”. Họ gặp nhau vào mùa đông năm 1947 và chia tay vào mùa xuân cùng năm đó để chuẩn bị cho những chuyến lên đường riêng.  Để kiếm tìm trải nghiệm cho những áng văn chương của mình, Sal lên kế hoạch đi về Bờ Tây bằng cách xin đi quá giang mọi phương tiện xe cộ trên đường. Sal được tụ hội với Dean cùng những chiến hữu, cũng là những nhà văn, nhà thơ trẻ nổi loạn, Carlo Marx, Chad King, Tom Snark, Tim Gray…tại thành phố Denver cổ kính và đã có những “cuộc vui quên tháng ngày”, tưởng chết đi được trong những quán bar đặc mùi khói thuốc và ồn ĩ tiếng nhạc jazz phóng khoáng, hay những buổi đàm đạo sôi nổi xuyên đêm tới sáng mà bản thân người tham gia không hiểu  mình đang nói gì… Cứ thế, cả tiểu thuyết là những lần gặp rồi chia tay, chia tay rồi gặp lại của Sal và Dean trong vài năm sau đó. Hai con người ấy đã cùng nhau lang thang, rong ruổi trên những con đường khắp chiều dài nước Mỹ, từ Đông sang Tây, và ngược lại, không biết bao nhiêu lần. Một tình bạn bền chặt kì lạ dần được xây đắp nên giữa hai gã đàn ông này, nối kết với nhau bằng những sợi dây ý thức rối rắm mà người ngoài không thể hiểu nổi. Họ cùng nhau tận hưởng cảm giác lang bạt, gặp gỡ và kết bạn mới, chìm đắm trong những cuộc tình mới, say khướt với những bữa rượu túy lúy bất kể giờ giấc, tiếp thu những kinh nghiệm sống phi vật chất với thái độ bất cần đời. Dean có thể phóng xe bạt mạng vượt mấy nghìn dặm chỉ để gặp Sal, cũng như Sal sẵn sàng từ bỏ mọi thứ, xách vali và nhảy lên xe để đi cùng Dean đến bất cứ phương trời bất định nào.  Nhân vật Sal cứ liên tục hỏi những cô gái anh ta gặp “Em chờ đợi gì ở cuộc đời này?” nhưng chính bản thân anh cũng chẳng rõ “Đi đâu? Làm gì? Nhằm mục đích gì?..” và những “cái bọn khùng này lại cứ muốn lao về phía trước”, suy ngẫm và tìm kiếm ĐIỀU ĐÓ, thứ gì đó thần thánh mà họ không cắt nghĩa rõ được. Họ đơn thuần là những nhà văn trẻ đầy nhiệt huyết, muốn tự giải phóng mọi ràng buộc, thoát khỏi sự gò bó bởi lý trí, logic, đạo đức, tôn giáo… để tìm về với bản ngã sơ khai. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó khi Sal, Dean và người vợ đầu tiên của hắn, Marylou, “trút bỏ hết gánh nặng quần áo”, khỏa thân lái xe dưới cái nắng gió của miền Tây nước Mỹ, tận hưởng khoảng trời tự do đã cho họ trải qua những trạng thái vui sướng, tuyệt vọng, trống rỗng và bi đát – nỗi buồn đặc thù trên đất Mỹ mênh mông. “Trên đường” được dựa trên câu chuyện có thật của Jack Kerouac cùng người bạn Neal Cassady, hai trong số những nhân vật quan trọng của thế hệ Beat (Beat Generation) của nước Mỹ những năm 50, là cánh chim đầu đàn khởi xướng ra phong trào Hippy và tạo cảm hứng cho những người theo chủ nghĩa Bohemian. Tiểu thuyết này được viết ra trong vòng chưa đến ba tuần lễ trong năm 1951, theo lối viết sáng tác bột phát trên một cuộn giấy teletype, thể hiện một phong cách tươi mới với câu văn dài lan man dựa trên kết cấu rời rạc của nhạc jazz mà theo J.Kerouac đã nhấn mạnh “Không có ‘sự chọn lọc’ trong diễn đạt mà cứ đi theo sự liên tưởng của tâm trí, chìm vào những biển suy tư vô bờ bến với chủ đề triền miên.”.  Tác phẩm đề cao sự tự do trong tâm hồn, hoài bão sống trần trụi, niềm đam mê với những chuyến đi phiêu bạt và coi “con đường đó chính là cuộc đời họ”. Khẩu hiệu nổi tiếng “Make love, not war” cũng được ra đời trong thời kỳ này. Và từ một nhóm nhỏ những người bạn say mê văn chương, thế hệ Beat đã bất tử trở thành một huyền thoại văn hóa của nước Mỹ. Hình ảnh nhân vật trong tiểu thuyết mang ba lô và vẫy tay xin quá giang dọc đường đã tạo cảm hứng cho rất nhiều thanh niên thời kỳ đó cũng như bây giờ bắt chước theo.  Hãy lên xe cùng Sal và Dean, biết đâu bạn sẽ tìm thấy mình ở đâu đó trên con đường dài ấy! Thi Nga Review   Mời các bạn đón đọc Trên Đường của tác giả Jack Kerouac.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Atlas Vươn Mình
Atlas Vươn Mình (Atlas Shrugged) mô tả thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử nước Mỹ khi các nhà công nghiệp và doanh nhân hàng đầu chống sự điều khiển bất công và thô bạo của nhà nước đối với toàn bộ ngành công nghiệp. Nhân vật chính, Dagny Taggart, giám đốc một công ty đường sắt, chứng kiến sự suy sụp của xã hội mà trong đó những người lao động ưu tú, những cá nhân xuất chúng nhất bị gạt ra rìa. Tất cả họ, những người có cả lý trí và lương tri, dưới sự lãnh đạo của một nhân vật bí mật tên là John Galt đã làm "dừng lại động cơ của thế giới". Quyển sách thể hiện rõ ràng những quan niệm của tác giả về thành tựu lao động, về tri thức và tinh thần tự do của con người. Bản dịch tiếng Việt dày 1650 trang cũng chứa đựng toàn bộ những triết lý quan trọng nhất của Ayn Rand. Lúc đang còn ở dạng bản thảo đang viết, nó có tên là "The Strike", nhưng khi được xuất bản (lần đầu vào năm 1957), cuốn sách có tựa là "Atlas Shrugged" (Atlas Vươn Mình). Một trong những lý do khiến độc giả không thể làm ngơ cuốn sách: tác phẩm đứng đầu bảng xếp hạng "Những tiểu thuyết hay nhất thế kỷ 20" do độc giả của Modern Library bình chọn năm 1998 (tiểu thuyết "The Fountainhead" - Suối Nguồn cũng của Ayn Rand đứng thứ hai). "Atlas Vươn Mình" được cho là tiểu thuyết có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời của nhiều độc giả Mỹ, chỉ sau Kinh Thánh (theo cuộc thăm dò của Thư Viện Quốc Hội Mỹ vào năm 1991). Nhiều cuộc tranh luận về cuốn sách xảy ra kể từ lúc cuốn sách được xuất bản lần đầu, và liên tục được đào xới lại cho đến tận ngày nay. Sức sống của nó không chỉ ở nước Mỹ mà còn lan ra khắp thế giới. Một tiểu thuyết kinh điển cần đọc! *** Như bao người da trắng khác, tôi đọc cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất của Ayn Rand “Atlas Vươn mình” khi tôi ở tuổi 18. Và cũng như bao người da trắng khác, cuốn “Atlas Vươn mình” đã khiến tôi thành một kẻ đần độn trong nhiều tháng trời. Ayn Rand (1905-1982) Cuốn “Atlas Vươn mình”, được xuất bản năm 1959 và số lượng ấn bản phát hành chỉ đứng thứ hai sau Kinh Thánh, “Atlas Vươn mình” được dùng như một lời mời gọi bạn đọc đến với triết lý của Ayn Rand, Chủ nghĩa Khách quan, dựa trên ý tưởng rằng sự vị kỷ nên là đức tính hướng dẫn cho toàn bộ nhân loại. (Nếu bạn cho rằng tôi đang nói quá hoặc hiểu sai về thông điệp của bà, thì xin lưu ý là Rand đã công bố một cuốn sách phi hư cấu có tựa đề chính xác là “Phẩm hạnh của sự vị kỷ” |The Virtue of Selfishness| theo đúng nghĩa đen.) Rand khẳng định rằng tính tư lợi là động lực tốt nhất cho kinh tế học, tài chính, chính trị học và về cơ bản cho tất cả những sự mưu cầu của nhân loại. Bà lập luận rằng đặt những người khác lên hàng đầu nghĩa là mọi người đều sẽ về cuối. Sức hấp dẫn của sự vị kỷ Thế giới quan theo Chủ nghĩa Khách quan đơn giản của Rand không thể được thiết kế tốt hơn để thu hút những chàng trai da trắng sống êm ả ở ngoại ô và thuộc tầng lớp trung lưu và thượng lưu giống tôi - loại người, mà theo câu nói bất hủ của Barry Switzer, là sinh ra ở tầng lớp thượng lưu song lại cứ tưởng mọi thứ mình có được là nhờ nỗ lực và tài năng cá nhân. Đối với những đứa trẻ như tôi vào thời điểm đó, thông điệp của Rand cho rằng chúng ta kiếm được mỗi phần của cải mà chúng ta được thừa kế là một điều đáng an ủi, và điều này làm hài lòng cái tôi của chúng ta bằng cách tập trung vào chúng ta như những chủ nhân của vũ trụ, những người xứng đáng với vị trí cao. May mắn thay, tôi không mất quá nhiều thời gian để loại bỏ các chủ đề của cuốn “Atlas Vươn mình”. Ngay khi tôi kết bạn với những người không phải là công tử ngoại ô da trắng, và khi tôi hiểu rằng họ phải làm việc chăm chỉ gấp 5 lần để được hưởng một nửa đặc quyền mà tôi được hưởng, tôi nhận ra rằng Rand đang hát một bản anh hùng ca tán dương sự thoải mái. Với việc áp dụng một chút đồng cảm và kinh nghiệm sống, triết lý của bà đã sụp đổ. Nhưng rất nhiều người có quyền lực vẫn tán đồng triết lý của Rand. Cựu Chủ tịch Hạ viện Paul Ryan đã nói chuyện thường xuyên, và một cách sùng bái, về tác động của Rand đối với cuộc sống của ông ấy. Cựu Cục dự trữ liên bang Alan Greenspan là một người đi theo và ủng hộ Rand, cùng với cả Ron và Rand Paul. Một số người chơi trò chơi quyền lực nhất của Thung lũng Silicon, gồm Peter Thiel và Travis Kalanick, đã ca ngợi Rand. Văn phong của bà cho đến ngày nay cho biết một hình thức đặc biệt độc hại của tư tưởng bảo thủ - theo chủ nghĩa tự do mãnh liệt, hăng hái chống chính phủ, mù quáng ủng hộ việc trao quyền cho các tập đoàn. David Sloan Wilson (1949-) Trong tập “Kinh tế học Pitchfork” của tuần này, Nick Hanauer và David Goldstein trò chuyện với nhà tiến hóa luận nổi tiếng David Sloan Wilson về cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh ấy, “Atlas Ôm chặt” |Atlas Hugged|. Cuốn “Atlas Ôm chặt” bác bỏ các tuyên bố của “Atlas Vươn mình” bằng cách sử dụng sự hiểu biết phi thường của Sloan về sinh học tiến hóa, cuốn sách này xác định lại con người như một loài động vật hợp tác và có tinh thần cộng đồng chứ không phải như những tác nhân vị kỷ hung bạo. Tính tư lợi đối diện với đại dịch Và đối với một ví dụ được trích từ các tiêu đề về lý do tại sao con người lại hoàn toàn không trở thành những người có thái độ và hành động kịch liệt chống xã hội (sociopathic) như hư cấu của Rand, hãy nhìn xa hơn với đại dịch. Xã hội tự do Galt’s Gulch đã phản ứng như thế nào vào năm ngoái khi COVID-19 lan đến? Trước tiên, không ai trong số những nhân vật chính theo chủ nghĩa cá nhân nghiêm khắc của Rand sẽ chịu nổi việc bắt buộc phải đeo khẩu trang. Họ không ưa mọi quy định của chính phủ, và vì đeo khẩu trang bảo vệ người khác nhiều như bảo vệ chính bản thân người đeo khẩu trang, điều đó vi phạm chỉ thị chính của Rand về tính vị kỷ là trên hết. Điều tương tự cũng xảy ra đối với các quy tắc giãn cách xã hội 6 bộ Anh (ft) [1 ft = 0,3048 m]. Vì vậy, Galt’s Gulch trông giống như một đĩa petri (đĩa bằng thủy tinh hay nhựa trong suốt để nuôi cấy tế bào) cho vi rút corona. Rand đã hình dung xã hội không tưởng (utopia) của mình là thiên đường cho các CEO |Tổng Giám đốc Điều hành| và chủ tịch của các công ty sản xuất lớn, và độ tuổi trung bình của các CEO ở Mỹ đã tăng lên trong những năm gần đây, là dưới 60 tuổi. Cho rằng 95% tổng số ca tử vong do vi rút corona là ở những người trên 60 tuổi, tỷ lệ sống sót của Galt’s Gulch có vẻ không cao. Lúc này tôi nghe thấy những lời phản đối: “Nhưng chắc chắn những nhà tư bản không bị ràng buộc này sẽ có thể mua hoặc sản xuất máy thở để giữ cho những CEO bị nhiễm bệnh đó sống sót?” Có lẽ là không. Nếu bạn nhớ lại, máy thở có nhu cầu cao trong những ngày đầu của đại dịch, và lúc bấy giờ Tổng thống Trump đã sử dụng quyền hạn của chính phủ để buộc hãng General Motors sản xuất chúng - một sự vi phạm nghiêm trọng triết lý của Rand. Và chuỗi cung ứng toàn cầu đã hoàn toàn bị phá vỡ trong những ngày đầu tiên đó, nghĩa là toàn bộ tiền bạc trên thế giới không thể mua máy thở hoặc các bộ phận sản xuất máy thở cho Galt’s Gulch kịp thời để giải cứu những nhà khách quan chủ nghĩa đáng thương đang bị bệnh hiểm nghèo. Sau đó, hãy cân nhắc thực tế là Galt’s Gulch có khả năng không có cơ sở y tế công cộng để thông báo cho dân chúng về các hành vi rủi ro và dữ liệu nhân khẩu học, không có cách nào để chỉ đạo doanh nghiệp tư nhân theo những cách có lợi cho phúc lợi tập thể |public good| mà không bị khoét giá lớn và không có tiền thuế để hỗ trợ những người thất nghiệp vì đại dịch, và xã hội không tưởng của John Galt đang bắt đầu giống xã hội trong bộ phim “Đấu trường sinh tử” |The Hunger Games|. Khoa học viễn tưởng về chủ nghĩa cá nhân Có một lý do tại sao những người theo chủ nghĩa tự do vô chính phủ lại quá im lặng kể từ khi COVID lan đến các bờ biển của chúng ta cách đây một năm, và tại sao những người theo chủ nghĩa bảo thủ cực đoan của Đảng Cộng hòa lại thất vọng về Tiến sĩ Seuss khi đảng Dân chủ thông qua một gói cứu trợ đại dịch cực kỳ được lòng dân. Paul Constant Đại dịch là chứng cứ cho một sự thật không thể tránh được mà phá hủy triết lý của Ayn Rand: Chúng ta đang sống trong một xã hội, và không ai thực sự là một người làm chủ tự tạo ra vận mệnh của chính mình. Chúng ta càng sớm hiểu lý tưởng của người Mỹ về chủ nghĩa cá nhân tối thượng là một thứ khoa học viễn tưởng |science-fiction| bao nhiêu, thì chúng ta càng nhanh chóng có thể bắt tay vào xây đắp một thế giới tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người bấy nhiêu. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ Paul Constant là một cây bút của Civic Ventures và là đồng chủ biên của podcast “Pitchfork Economics” cùng với Nick Hanauer và David Goldstein. Trong tập mới nhất, họ đã nói chuyện với nhà tiến hóa luận David Sloan Wilson về cuốn tiểu thuyết của ông, “Atlas Ôm chặt”. Wilson cho rằng đại dịch đã làm phá sản triết lý của Ayn Rand rằng tính tư lợi sẽ lấn át các nhu cầu xã hội. Hồ Thị Thu Hiền dịch Nguyễn Việt Anh hiệu đính *** Ayn Rand (1905 – 1982) là một tiểu thuyết gia, triết gia người Mỹ sinh ra ở Nga. Bà nổi tiếng là người đã phát triển học thuyết “Chủ nghĩa khách quan” thông qua hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng như The Fountainhead (Suối nguồn), Atlas Shrugged (Atlas vươn mình),  For the new Intellectual,… Bà sinh trưởng trong một gia đình gốc Do Thái và bắt đầu niềm đam mê với nghệ thuật từ rất sớm. Năm 8 tuổi bắt đầu viết kịch, 10 tuổi viết tiểu thuyết. Sau thành công của Cách mạng Nga, các trường đại học bắt đầu mở cửa cho nữ sinh, Ayn Rand nhanh chóng gia nhập tầng lớp trí thức, bắt đầu nghiên cứu về lĩnh vực xã hội và lịch sử. Bà bắt đầu say mê các tác phẩm của Aristotle và Plato, những tác phẩm ảnh hưởng rất lớn đến bà sau này. Tiểu thuyết đầu tiên của Rand, hư cấu dựa trên tiểu sử của bà We the Living, được xuất bản năm 1936. Bối cảnh ở Liên bang Xô Viết, tiểu thuyết tập trung vào cuộc đấu tranh giữa cá nhân và chính quyền. Bà rời khỏi Nga vào năm 1926 và đến Mỹ. Ayn Rand ở nhà một người họ hàng tại Chicago rồi sau đó tới New York để theo đuổi ước mơ làm biên kịch. Một trong những cuốn sách nổi tiếng nhất của bà, The Fountainhead (Suối nguồn) xuất bản năm 1943 đã mang tên tuổi Ayn Rand đến độc giả trên toàn thế giới. Thu nhập từ tác quyền và phiên bản điện ảnh đã mang lại cho bà danh vọng và sự ổn định về tài chính. Tác phẩm đã từng bị từ chối bởi 12 nhà xuất bản trước khi được chấp thuận bởi Bobbs-Merrill Company. Các tác phẩm của bà đã bán 25 triệu bản trên toàn thế giới. Trong suốt cuộc đời của mình, Rand đã trở thành một nhân vật nổi tiếng và gây nhiều tranh cãi. Ngoài việc là một tác giả có sách bán chạy, bà cũng mang thông điệp của mình đến với các lớp đại học, đến Hollywood, với Quốc hội, với các trang xã luận, các buổi tọa đàm, chương trình phát thanh. Ngày nay , sách của bà đã bán được hàng triệu bản, và bà là chủ đề của một bộ phim tài liệu được đề cử Oscar, một con tem bưu chính Hoa Kỳ, các khóa học đại học, và một môn học xã hội triết học dành cho các nghiên cứu về tư tưởng của bà . Mời các bạn đón đọc Atlas Vươn Mình của tác giả Ayn Rand.
Quán Trọ Ancuta
“Quán trọ Ancuta” - tiểu thuyết dã sử nổi tiếng của nhà văn Mihail Sadoveanu đã được dựng thành bộ phim hấp dẫn cùng tên. Những cuộc đời, số phận, cảnh ngộ có thật được các lữ khách kể lại trong quán trọ Ancuta giúp người đọc mường tượng ra những khoảnh khắc lịch sử của đất nước Rumani. Dữ đội, khốc liệt, nghĩa trượng, trung thành... tính cách các nhân vật riêng biệt nhưng vẫn tạo nên một nét chung nhân văn.Quán trọ Ancuta "cho thấy nhà văn đã kết hợp tài tình và nhuần nhuyễn tính thiên nhiên, tính lịch sử mang đậm dấu ấn đặc sắc của vùng Moldova quê hương ông." - Dịch giả Phương Thảo *** Những cuộc đời, số phận, cảnh ngộ có thật được các lữ khách kể lại trong quán trọ Ancuța giúp người đọc mường tượng ra những khoảng khắc lịch sử của đất nước Rumani. Dữ dội, khốc liệt, nghĩa trượng, trung thành… tính cách các nhân vật riêng biệt nhưng vẫn tạo nên một nét chung nhân văn. Quán trọ Ancuța cho thấy nhà văn đã kết hợp tài tình và nhuần nhuyễn tính thiên nhiên, tính lịch sử và mang đậm dấu ấn đặc sắc của vùng Moldova quê hương ông. *** Nhà văn MIHAIL SADOVEANU (1860 - 1961) Nhà văn nổi tiếng của Rumani, Là tác giả của hơn 100 tác phẩm văn chương xuất sắc Dịch giả PHƯƠNG THẢO (1922 - 2012) Quê quán: Đại Hòa, Đại Lộc, Quảng Nam Đã từng công tác tại Viện Văn học và báo Văn nghệ TÁC PHẨM DỊCH: • Hồi kí A Đriêng • Con chim mồi bằng gỗ • Chú bé và con lạc đà • Bí ẩn Hy Lạp • Sự hủy diệt tinh vi và xảo quyệt • Bác Ruben *** LỜI NÓI ĐẦU Mihail Sadoveanu là nhà văn nổi tiếng của Rumani. Ông để lại hơn 100 tác phẩm văn chương xuất sắc, làm vẻ vang cho nền văn học Rumani. Sadoveanu sinh ngày 5 tháng 11 năm 1880 tại Pașcani, thuộc vùng Moldova của Rumani và tạ thế ngày 19 tháng 10 năm 1961 tại thủ đô Bucarest. Cuộc đời 81 năm của ông là cuộc đời sáng tạo văn chương miệt mài từ thuở thiếu niên cho đến tận những năm tháng cuối cùng. Tác phẩm của ông bao gồm tiểu thuyết, truyện ngắn và các bài báo với nhiều chủ đề, đã thật sự chinh phục độc giả từ thập niên này đến thập niên khác. Cùng với nhà thơ Eminescu và nhà soạn kịch Ion Luca Caragiale, ông được giới văn chương Rumani và các nhà bình luận văn học quốc tế đánh giá là một nhà văn vĩ đại vào bậc nhất của Rumani. Trong thể loại tiểu thuyết thì Mihail Sadoveanu là bậc thầy về tiểu thuyết lịch sử và tiểu thuyết phiêu lưu. Các sáng tác cho thấy nhà văn đã kết hợp tài tình và nhuần nhuyễn tính thiên nhiên, tính lịch sử và mang đậm dấu ấn đặc sắc của vùng Moldova quê hương ông. Ông là một trong những người sáng lập Hội Nhà văn Rumani và sau này trở thành Chủ tịch Hội Liên hiệp Nhà văn Rumani, đồng thời là thành viên của Viện Hàn lâm Rumani từ năm 1921. Những tác phẩm của ông đã nhận được nhiều giải thưởng quốc tế. Xin giới thiệu với độc giả một trong những tiểu thuyết dã sử của Mihail Sadoveanu - Quán trọ Ancuța, một tác phẩm được nhiều độc giả yêu thích và đã được dựng thành một bộ phim hấp dẫn cùng tên. Người dịch *** LỜI TỰA Quán trọ Ancuța không phải hình tượng hư cấu, mà là một quán trọ có thật, thậm chí còn rất nổi tiếng vào thế kỉ trước. Cách đây vài chục năm, người ta vẫn trông thấy các bức tường đổ nát của nó, nhưng về sau, những người thừa kế cuối cùng đã chia những viên gạch của quán để xây thành hai trang trại nhỏ cách nhau không xa. Ngày nay người ta còn thấy chúng trên quốc lộ đi từ xã Cornu-Luncii đến thành phố Roman bên sông Moldova. Cách đó một quãng có con đường nhỏ tách khỏi quốc lộ, dẫn đến cây cầu ở Tupilati, và làng Războieni nổi tiếng nhờ trận chiến đấu chống quân Thổ của Ștefan Đại đế năm 1476. Nhưng Ancuța không phải là quán trọ duy nhất ở Moldova. Khách bộ hành ngày xưa thường bắt gặp các nhà trọ như thế ở hầu hết các trạm dừng chân. Đến giờ, người ta vẫn trông thấy dấu tích của chúng trên khắp đất nước. Phần quan trọng nhất của quán trọ Ancuța là cái hầm rượu. Nó vẫn nguyên xi như trước, nhưng bây giờ hoang vắng như đang ngủ vùi giữa hào quang của quá vãng. Chỉ có cảnh sông quyến rũ là còn giữ được toàn bộ sức sống mạnh khỏe của mình, với những con suối lấp loáng chảy qua các đồng cỏ, những khu rừng trải dài đến tận các rặng núi xa mờ, những đồng lúa mì chín vàng, và các ruộng ngô ngút ngàn xanh thẫm một màu. Dù vật đổi sao dời, nhưng các thế hệ con cháu vẫn đang được hưởng chính vầng mặt trời của thời xưa cũ. Cái quán trọ nơi ông cha chúng ta dừng chân khi xưa ấy đã chứng kiến vô số biến cố lạ thường. Nếu mẹ tôi không trải qua những năm tháng thơ ấu ở vùng đất ấy - bên bờ kia sông Moldova, tại ngôi làng Verșeni nghèo khó, nếu thỉnh thoảng tôi không được cùng mẹ từ Pașcani về thăm ông bà ngoại, và nếu tôi không được nghe mẹ kể các câu chuyện xưa, thì tất cả những buồn đau, say mê, ngược đãi, hằn thù của ngày cũ sẽ mãi rơi vào lãng quên, bị đào sâu chôn chặt. Nhưng mẹ tôi lại là người có tài kể chuyện, đến nay kí ức về giọng trầm ấm của mẹ vẫn khiến tôi run lên xúc động. Quán trọ Ancuța, tập sách nhỏ tôi viết hẳn vẫn gợi nên một miền kí ức cho những ai từng có dịp ngắm phong cảnh bất diệt tôi vừa tả ở trên, khơi dậy những giọng cười, tiếng khóc từng vang lên lúc xưa tại nơi này, cái góc nhỏ trên con đường cái lớn gần thành phố Roman. Khi người sống còn nhớ đến những ai không còn trên cõi đời nữa, thì người chết vẫn chưa lìa khỏi cuộc sống hiện tại. Hơn nữa, những độc giả thuộc thế hệ dân cày lớn lên trên những vùng đất ấy sau cuộc cách mạng ở miền Đông có lẽ sẽ hiểu rõ hơn những đổi thay hiện thời sau khi đọc các câu chuyện xưa và nhớ lại quá khứ. Trên cái nền đen tối của thế kỉ trước, mặt trời công lí và tự do mọc lên vì những con người cần lao của xứ sở chúng ta sẽ chiếu sáng càng thêm rực rỡ. Mihail Sadoveanu Mời các bạn đón đọc Quán Trọ Ancuta của tác giả Mihail Sadoveanu & Phương Thảo (dịch).
Nghìn Lẻ Một Nàng Dâu
Nghìn lẻ một nàng dâu - Hoàng Minh Tường (tác giả Thời của Thánh Thần) Tôi chuẩn bị làm một luận án Thạc sỹ về phái đẹp. Giáo sư Võ Nhu, người hướng dẫn tôi, khuyên: - Đề tài rất hay. Nhưng rộng quá, e sức cậu không kham nổi. Hãy khoanh hẹp lại. Ví dụ như về các nàng dâu chẳng hạn. - Hay quá - Tôi reo lên - Lâu nay em cũng nghĩ nhiều về vấn đề này. Các Nàng dâu Việt Nam xưa và nay. Một đề tài rất thú vị. - Vậy thì trước hết cậu cần phải tiến hành một cuộc điều tra xã hội học. Ít ra phải hiểu biết được một nghìn nàng dâu. - Ôi, thế thì quả là một công việc khó khăn - Tôi tỏ ý e ngại. - Đừng nản. Phải có chừng ấy tư liệu thì mới mong có một cái luận văn Thạc sỹ tử tế - Thầy tôi động viên - Vả lại cậu có năng khiếu về văn chương. Biết đâu, nhân dịp này cậu lại có một thiên phóng sự hay về một truyện dài kỳ lý thú. Tôi chợt nghĩ đến những câu chuyện bất hủ của xứ sở Một nghìn một đêm lẻ và hăm hở đi kiếm tìm một nghìn lẻ một nàng dâu Đất Việt. Trân trọng giới thiệu... *** Hoa hậu áo dài Nàng dâu đầu tiên mà tôi nghĩ đến là cô giáo Thúy, người đã dạy tôi hồi phổ thông trung học. Cô giáo Thúy dạy văn giỏi có tiếng, đẹp người, đẹp nết, từng là thần tượng của thế học trò chúng tôi những năm đánh Mỹ. Gần hai chục năm, do mải mê kiếm sống, tôi chưa có dịp gặp lại. Nghe tin cô mới chuyển gia đình về Hà Nội, tôi vội đi tìm. Bấm chuông ngôi biệt thự hai tầng nằm tách biệt trong khu cư dân một vùng ngoại vi thành phố, tôi bồi hồi mường tượng lại hình bóng cô giáo thân thương của tôi ngày nào. Cô sẽ từ trong nhà đi theo lối sỏi kia. Cô sẽ sững sờ một giây rồi sung sướng reo lên: “Trời ơi. Hoàng đấy ư em? Hơn hai mươi năm rồi mà em vẫn chẳng thay đổi chút nào…” Nhưng kìa, người đang ra mở cổng cho tôi là một thiếu nữ. Chiếc váy quá ngắn để lộ một cặp giò trắng muốt, đẹp như thần vệ nữ. Chắc là con gái cô giáo Thúy. Tôi chớp mắt kinh ngạc khi thoáng nhìn ra một vẻ đẹp hoàn mĩ mà hầu như trong đời, đây là lần đầu tiên tôi được chiêm ngưỡng. Người tôi run lên, nổi gai lên - một phản xạ mà tôi chưa từng có bao giờ. - Anh hỏi ai? Cần gì? - Cô gái cúi xuống nhòm qua ô cửa. Đôi mắt quá đẹp và quá sắc xía vào tôi những ánh nhìn chẳng có chút gì thiện cảm. Lập tức, người tôi như muốn co rúm lại, hệt như cảm giác của một kẻ ăn cắp bị bắt quả tang. Tôi cụp vội mắt xuống và chợt nhận ra sự bệ rạc, xoàng xĩnh của bộ quần áo không phẳng phiu, của chiếc honda 79 quá tàng… - Dạ, xin lỗi… Tôi muốn gặp cô giáo Thúy… - Không có nhà. Đến trường mà hỏi… Mà lần sau anh đừng có bấm chuông giật giọng thế nhá. Chối không chịu được. Người đẹp nói sẵng và quay phắt, đóng sập luôn tấm chắn ô cửa. Tôi có cảm giác vừa bị hắt một chậu nước lạnh và bẩn vào người. Rã rời đến không còn hơi sức để nổ máy chiếc honda 79 cũ nát, tôi quay xe ì ạch dắt bộ ngược con đường ra chợ. Thì may quá, cô giáo của tôi kia rồi. Hơn hai mươi năm mà cô chẳng thay đổi là bao, vẫn gương mặt phúc hậu ấy, vẫn dáng người đậm đà ấy… Hai cô trò gặp nhau, mừng vui khôn xiết. Cô kéo tôi trở lại nhà. - Ở chơi với cô lâu lâu một chút. Có nhiều chuyện tôi muốn nói với em… Tôi biết cô giáo tôi có nhiều tâm sự, nhất là sau khi chú Tuấn hy sinh ở chiến trường, một mình cô nuôi con, chăm sóc mẹ chồng. - Cô ơi, em gái út chắc là sinh trước năm chú Tuấn hy sinh - Tôi gợi. Cô giáo tôi ngạc nhiên nhìn tôi rồi chợt hiểu ra. - Cô chỉ có hai đứa con trai thôi. Cô bé vừa nãy em gặp là con dâu cô đấy. Vợ thằng Vũ Lâm. Em có còn nhớ nó không? Ngày các em học, nó mới đi mẫu giáo. - Em nhớ ra bé Lâm rồi. Nhanh thật. Bây giờ Lâm cũng gần ba mươi tuổi rồi cô nhỉ? - Ừ, nhanh thật. Mọi chuyện với cánh trẻ bây giờ cứ vùn vụt. Chuyện thằng Lâm nhà cô lấy con Hà My cũng thế. Ngay cái đêm Hà My đăng quang hoa hậu áo dài, thằng Lâm đã say như điếu đổ. Tôi như không tin ở tai mình. - Thưa cô, cô vừa bảo Hà My là hoa hậu áo dài? - Hoa hậu đấy em à. Cô là mẹ chồng của một hoa hậu áo dài. Em thấy có vinh dự không? Để cô kể tiếp cho mà nghe. Sau cái đêm đi xem Hoa hậu đăng quang, thằng Lâm về nói với cô: “Con phải lấy một hoa hậu làm vợ mẹ ạ. Tuyệt lắm. Mẹ có nhớ câu ca: “Một ngày tựa mạn thuyền rồng. Còn hơn chín tháng năm trong thuyền chài”? Cô nói: “Con mơ tưởng điều ấy làm gì? Con nhà giàu có quyền thế mới lấy được hoa hậu con ạ” Nó bảo: “Thế mà con sẽ lấy được hoa hậu. Rồi mẹ xem”. Tưởng chuyện tầm phào ấy rồi cũng qua đi. Ai ngờ thằng Lâm nó cứ ngấm ngầm làm thật. Nó rủ một anh bạn đóng giả phóng viên của một tờ báo để phỏng vấn, chụp ảnh hoa hậu. Đây là bước làm quen đầu tiên. Tiếp đó nó mượn ô tô con của ông cậu làm giám đốc một công ty, đánh xe đến mời người đẹp đi ăn hiệu. Nó khoe đang làm trợ lý cho Giám đốc một công ty của Nhật Bản, một tháng lương năm tờ xanh. Nó mượn máy điện thoại di động đeo xệ một bên sườn, mỗi lần đến thăm người đẹp lại kêu tíu tít rồi để sát tai thì thầm to nhỏ. Trò lừa bịp ấy nào ngờ đã làm người đẹp xiêu lòng. Thế rồi đùng một cái thằng Lâm bảo với cô là nó sẽ cưới hoa hậu. Đó, bây giờ nhà cô đang có một hoa hậu tầm cỡ quốc gia… Câu chuyện của cô giáo Thúy khiến tôi nổi máu tò mò. Và thế là một lần nữa, tôi lại được chiêm ngưỡng người đẹp. Lần này thì lâu hơn. Và quả tình, càng ngắm nàng tôi không thể tìm ra một khiếm khuyết nào. Mới hay, ban giám khảo thật có con mắt tinh đời. Tất nhiên khi được cô giáo Thúy giới thiệu tôi là học trò cũ, hoa hậu Hà My đã tỏ ra tươi tắn và lịch thiệp với tôi một chút. Lẽ ra, khách của mẹ đến nhà chơi. nàng dâu phải đon đả pha trà nước. Nhưng tôi nhận ra cô dâu mới này không quan tâm đến chuyện đó. Cô ngồi trên giường, duỗi đôi chân tuyệt đẹp dọc thành giường và điềm nhiên vừa đọc sách vừa tóp tép ăn một cái gì đó. Có tiếng ho rũ trong buồng, tiếng ho của người già. Cô giáo tôi vội nói: - Em ngồi chờ cô một lát. Cô phải vào xem bà cụ thế nào. Hai hôm nay, cụ bị cảm cúm. Tôi hiểu bà cụ mà cô giáo tôi vừa nói là bà mẹ chồng, một bà mẹ liệt sỹ. Chẵn hai mươi năm, kể từ khi chú Tuấn chồng cô hy sinh, cô đã ở vậy để nuôi dưỡng bà mẹ chồng và hai đứa con trai. Tôi hơi ngạc nhiên nhìn hoa hậu Hà My. Tiếng ho và rên của bà cụ già không hề tác động gì đến cô. Cô vẫn thản nhiên đọc và thản nhiên nhai cái gì đó tóp tép. Tiếng chuông điện thoại bỗng reo vang. Tiếng chuông khiến hoa hậu áo dài như bừng tỉnh, vội lao ngay đến bên máy. - Alô! Ai đấy? A cái Vân phải không? Trời ơi, con ranh. Tao mong mày chảy máu mắt… Vào cầu rồi phải không? A, phải khao nhé. Chiều nay tao đến. Thôi mày không phải đến đây nữa. Bà mẹ chồng khốt của tao cổ hủ lắm. Tao cấm. Ứ ừ. Lão béo ấy thì tao phẩy tay. Á à, láo quá…Con ranh… Cứ thế, hoa hậu áo dài tuôn ra một tràng những mớ từ ngữ lộn xộn khiến tôi không thể đoán được câu chuyện của họ. Kỳ lạ nữa là càng nói qua điện thoại, nàng dâu của cô giáo tôi càng… tự nhiên như ruồi. Cô vừa nói như súng liên thanh, vừa nhai tóp tép, vừa gác một chân lên bàn điện thoại, người ngả hẳn ra sau. Tưởng như không cần đếm xỉa đến sự có mặt của tôi. Tưởng như trước mắt cô, trên bộ ghế ba nan là một cục đất chứ không phải là cậu học trò của cô giáo Thúy năm xưa, một cử nhân đầy tài năng đang tiếp tục hoàn thành tiếp luận án thạc sỹ. Cái dáng ngồi của cô thật hớ hênh và thiếu văn hóa đến mức tôi bỗng đỏ bừng mặt. Ôi, cái váy ngắn lật lên. Và… Tự nhiên tôi có một ý nghĩ buồn: Hoa hậu áo dài đang cố tình xúc phạm tôi hay nàng không có đủ kiến thức về ứng xử và giao tiếp. Chao ôi, cái đẹp bên ngoài dễ chinh phục người ta nhưng nó cũng dễ trở thành lố bịch, vô duyên khi thiếu đi những phẩm hạnh và vẻ đẹp bên trong… Một tràng cười ngặt nghẽo của hoa hậu áo dài xả vào ống nghe điện thoại khiến những ý nghĩ của tôi ngừng bặt. Cũng lúc đó, từ trong buồng, cô giáo Thúy hớt hải chạy ra: - Gay quá rồi. Hoàng ơi, giúp cô việc này nhé. Em ra gọi ngay cho cô một chiếc xích lô. Phải đưa gấp bà cụ đi bệnh viện cấp cứu em ạ. - Vâng, em đi ngay đây! Tôi bật lên như chiếc lò xo, nổ máy chiếc honda 79 tàng, lao vút ra cổng. Mời các bạn đón đọc Nghìn Lẻ Một Nàng Dâu của tác giả Hoàng Minh Tường.