Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Marley và Tôi

Bạn đang tìm kiếm một câu chuyện đầy cảm xúc và vui nhộn thông qua cuộc đời của một chú chó? Cuốn sách bán chạy Marley và Tôi: Cuộc sống và tình yêu với chú chó tồi tệ nhất thế giới của tác giả John Grogan sẽ mang đến cho bạn điều đó. John và Jenny, cả hai đều rất trẻ và họ yêu thương nhau, với một ngôi nhà lý trưởng và không quan tâm gì đến thế giới. Nhưng khi họ mang về nhà Marley, một chú chó con giống Labrador màu vàng để giúp họ tập tành làm cha làm mẹ trước khi thật sự sẵn sàng chào đón thành viên thứ ba trong gia đình – và cuộc sống của họ mãi không còn như trước nữa. Marley nhanh chóng lớn lên và trở thành một chú chó nặng chín mươi bảy pound nghịch ngợm với những trò phá phách không ngừng. Nhưng ẩn chứa bên trong sự quậy phá đó là một trái tim trong sáng và là một mẫu hình chung thủy về tình yêu và sự hiến dâng dành cho gia đình đang ngày càng phát triển thông qua việc làm mẹ, sinh con… Chú cũng chính là sợi dây gắn kết và là nhân vật quan trọng giúp đôi vợ chồng trẻ vượt qua được những giai đoạn khó khăn nhất trong cuộc sống. Cuốn tự truyện này đã được chuyển thể thành phim truyện nhựa cùng tên với sự tham gia của hai diễn viên nổi tiếng Jenifer Aniston và Owen Wilson, đã công chiếu tại Việt Nam từ tháng 3/2009. Sách nhanh chóng trở thành international bestseller với 5 triệu bản đã được bán ra. Có mặt liên tục trong 76 tuần trong danh sách sách bán chạy nhất của thời báo New York Times, trong đó chiếm vị trí số 1 suốt 23 tuần. *** Hạnh phúc vì đã có Marley John Grogan và Jennifer hẳn là một trong những đôi tình nhân hạnh phúc bởi họ thực sự yêu nhau và hiểu được sự thiêng liêng của hai tiếng Gia đình. Để chuẩn bị cho sự xuất hiện của những đứa con bé bỏng, họ đã mua về một chú cún để “luyện tập” trước. Tên chú cún là Marley – được đặt theo tên huyền thoại nhạc reagge Bob Marley. Từ đây, rất nhiều chuyện bi hài diễn ra khiến cho John và Jennifer gắn bó với nhau hơn sau những tranh cãi và mâu thuẫn rất đỗi thường tình mà bất cứ cặp vợ chồng nào cũng gặp phải. Về phần Marley, chú chó này thì cực kì nghịch ngợm, phá phách khỏi phải nói! Này nhé, Marley luôn thích nhai ghế sô-pha trong nhà, mỗi lúc trời mưa kèm sấm chớp thì chú chó không ngừng tru tréo và hiếu động đến mức người dạy chó cũng phải “đầu hàng” ngay trong lần đầu tiên hai vợ chồng đem chú chó đến lớp. Đến cả người giúp việc, tuy chỉ vài ngày “chịu đựng” Marley cũng tuyên bố với đôi vợ chồng rằng: “Đã có 11 cơn bão từ ngày mấy người đi. Tôi là người nuôi chó chứ không phải một con chó. Con quỷ mang gương mặt chó này đã nhảy lên chân tôi và tè lên tấm thảm của quý vị”. Và khi 3 thiên thần nhỏ của John và Jennifer lần lượt chào đời, Marley đã từng khiến cho John quát tháo “Mày là chú chó tồi tệ nhất thế gian!” và Jennifer thì nổi sùng lên đòi John tìm cách tống khứ Marley đi vì tất cả những thói quen xấu của nó đang khiến cho cô trở nên kiệt sức. Nhưng cũng chính chú chó Marley đó đã ở bên xoa dịu nỗi buồn của Jennifer khi cô lần đầu tiên bị “mừng hụt” chuyện mang thai; cũng Marley đó đã chơi đùa với cả gia đình những ngày mùa đông tuyết phủ trắng trời; cũng Marley đó hàng chiều chạy ra đón 2 nhóc Patrick và Connor khi chúng đi học về; cũng Marley đó xuất hiện trong những bài báo “người thật, việc thật” của John đã được cắt dán thành album cẩn thận; cũng Marley đó đã hiện diện như thành viên thứ 6 của gia đình Grogan – luôn ở bên họ dù họ ở đâu, làm gì… Như một qui luật tự nhiên tất yếu, Marley rồi cũng phải ra đi vì tuổi già. Giây phút Marley lìa đời, John đã ở bên cạnh cho đến khi chú chó trút hơi thở cuối cùng. Cậu cả Patrick xem lại từng cuộn băng video có hình ảnh Marley chơi đùa với cả nhà. Jennifer lặng lẽ ngồi bên khung cửa sổ rơi nước mắt khi tất cả kí ức về Marley ùa về trong xúc cảm dạt dào. Marley đã được chôn cất trước nhà cùng những kỉ vật của những người yêu quí chú chó, để chú chó có thể vĩnh viễn gần bên với gia đình Grogan. Dưới ánh nắng mặt trời ấm áp trong buổi sáng đầu tiên không còn Marley vui đùa nữa, John dường như vẫn nhìn thấy hình bóng thân quen quanh quất đâu đấy. Rồi gia đình Grogan sẽ tiếp tục sống, bên nhau và chia sớt mọi niềm vui và nỗi buồn. Nhưng có một điều chắc chắn, đó là họ sẽ không bao giờ quên Marley! Đoạn kết Marley và tôi là những lời tự sự tận đáy lòng của John khiến khán giả bồi hồi xao xuyến thông qua chất giọng truyền cảm của nam chính Owen Wilson: “Một chú chó không đi xe đẹp hay mặc quần áo đẹp. Chỉ cần một cây gậy, thế là đủ. Một chú chó không quan tâm đến chuyện bạn giàu hay nghèo, bạn được học hành hay thất học, bạn thông minh hay bạn ngu ngốc. Hãy trao trái tim bạn cho nó và nó sẽ trao lại trái tim nó cho bạn. Có bao nhiêu người làm được như nó? Có bao nhiêu tình cảm trong sáng như nó? Có bao nhiêu người khiến bạn cảm thấy đặc biệt trong đời?”. Marley và tôi đã trao tặng cho người xem những cảm xúc tuyệt vời của tình yêu, tình bạn, tình cảm gia đình và truyền đạt đến người xem những bài học quý giá. Với mỗi gia đình, dù có biết bao những rắc rối xảy ra hàng ngày – giống như một chú chó cũng có những “thói hư tật xấu” gây bao phiền toái nhưng rồi mọi thứ sẽ đều ổn thỏa bởi đến cuối cùng, chính tình yêu sẽ hàn gắn tất cả và cũng sẽ chữa lành tất cả. *** Tưởng nhớ tới cha tôi, Richard Frank Grogan. Tinh thần dịu dàng của ông thắm đượm từng trang sách này. Lời nói đầu Con Chó Hoàn Hảo Mùa hè năm 1967, khi ấy tôi mới mười tuổi. Cuối cùng trước những lời van nài dai dẳng của tôi, bố cũng phải đầu hàng và cho tôi sở hữu một con chó của riêng mình. Chúng tôi đánh chiếc xe chở hàng của nhà tới vùng nông thôn Michigan, nơi có trang trại của một người phụ nữ thô kệch cùng bà mẹ già. Trang trại chỉ cung cấp duy nhất các loại chó nhà. Những con chó đủ mọi kích cỡ, hình hài, độ tuổi hay tính khí. Chúng chỉ có hai điểm chung: một là con lai không rõ dòng giống, còn hai là miễn phí với những gia đình tốt. Chúng tôi đã tới một trại nuôi chó lai. - Bây giờ, cứ từ từ mà chọn, con trai. Quyết định hôm nay của con sẽ sống cùng con nhiều năm nữa đấy. - Bố nói. Tôi nhanh chóng xác định những con chó lớn hơn chắc đã thuộc về những cơ sở từ thiện của ai đó. Ngay lập tức tôi chạy tới chuồng chó con. - Con nên chọn một con không nhút nhát. Thử lắc mạnh lồng xem con nào không sợ hãi - Bố tôi dạy. Tôi tóm lấy dây xích ở cửa lồng, giật rầm rầm. Cả tá chó con loạng choạng lùi lại, con nọ đè lên đầu con kia, thành một đống nhung nhúc lông lá. Chỉ còn duy nhất một con trụ lại. Nó màu vàng, có vệt lang trắng trước ngực. Nó xô vào cửa lồng, sủa ăng ẳng không tỏ vẻ sợ sệt. Nó nhảy cẫng lên, thích thú liếm ngón tay tôi qua lưới chắn. Đó thực là tình yêu sét đánh. Tôi mang nó về nhà trong một cái hộp các-tông, đặt cho nó cái tên Shaun. Nó là một trong những con chó đã cho loài chó một cái tên hay. Nó mau chóng nắm vững tất cả những mệnh lệnh tôi dạy và xử sự rất tốt. Tôi có thể đánh rơi mẩu bánh mỳ xuống sàn, nó sẽ không động đến cho tới khi tôi cho phép. Nó chạy đến mỗi khi tôi gọi, ở nguyên đó khi tôi bảo làm thế. Chúng tôi có thể thả nó ra ngoài một mình ban đêm, biết chắc rằng nó sẽ quay về sau khi lượn một vòng. Thi thoảng, chúng tôi có thể nhốt nó ở nhà một mình hàng giờ, tự tin nó sẽ không gặp tai nạn hay phá phách thứ gì đó. Nó chạy đua với ô tô nhưng không đuổi theo chúng, thả bộ bên cạnh tôi mà không cần buộc xích. Nó có thể nhảy xuống hồ nước nhà tôi rồi ngoi lên với những hòn đá to, lắm khi mắc kẹt trong hàm. Với nó không có gì vui hơn việc được đi xe ô tô, ngồi im ở ghế sau bên cạnh chúng tôi trong các chuyến dã ngoại của nhà, hài lòng ngó ra ngoài cửa xe, ngắm nhìn hàng giờ khung cảnh thế giới bên ngoài đang trôi đi. Có lẽ điều tuyệt nhất là tôi đã dạy nó kéo tôi quanh khu theo kiểu xe chó kéo, trong khi tôi ngồi trên xe đạp. Điều này làm đám bạn phải ghen tị với tôi. Chưa một lần nào nó đẩy tôi vào nguy hiểm. Nó ở bên khi lần đầu tôi hút thuốc (cũng là lần cuối cùng của tôi), và cả khi tôi lần đầu hôn bạn gái nữa. Nó đã ở ngay đó, bên cạnh tôi, trên ghế phụ khi tôi lần đầu lén lấy trộm chiếc Conrvair của anh trai để đi chơi. Shaun mạnh mẽ nhưng biết kiềm chế, rất tình cảm nhưng điềm tĩnh. Thậm chí nó còn có lối cư xử nhã nhặn cao quý, lùi vào bụi rậm trước khi ngồi xổm làm nhiệm vụ cá nhân, chỉ thò mỗi cái đầu ra ngoài. Nhờ có thói quen sạch sẽ này mà chúng tôi có thể an tâm dạo chân trần trên bãi cỏ. Họ hàng tới thăm vào cuối tuần rồi về nhà, cũng quyết mua một con chó. Họ cực kỳ ấn tượng với Shaun - còn gọi là “Thánh Shaun”, mỗi khi tôi gọi nó. Đó chỉ là một câu đùa trong nhà, chuyện phong thánh, nhưng hầu như chúng tôi đều tin thế. Sinh ra với lời nguyền của dòng dõi vô danh, nó là một trong hàng chục nghìn những con chó chẳng ai đoái hoài ở nước Mỹ. Nhờ một chút may mắn, nó đã được để mắt tới. Nó bước vào đời tôi và tôi cũng bước vào đời nó. Khi ấy, nó đã cho tôi tuổi thơ mà mỗi đứa trẻ đều xứng đáng được hưởng. Mối tình ấy kéo dài mười bốn năm. Khi nó chết, tôi đã không còn là một thằng bé con mang nó về nhà vào cái ngày hè ấy. Tôi đã là một người đàn ông, tốt nghiệp đại học và nhận việc đầu tiên ở bang. Saint Shaun đã ở lại khi tôi đi. Nó thuộc về nơi ấy. Bố mẹ, lúc đó đã nghỉ hưu, gọi báo tin cho tôi. Mẹ sau này có nói với tôi: - Suốt năm mươi năm lấy nhau, mẹ chỉ thấy bố con khóc duy nhất hai lần. Lần đầu là khi chúng ta mất Mary Ann (chị gái tôi, bị sinh non). Lần thứ hai là ngày Shaun chết. Saint Shaun của tuổi thơ tôi. Nó là một con chó hoàn hảo. Ít nhất là tôi sẽ nhớ nó biết nhường nào. Đó là Shaun, con chó đã dựng nên những chuẩn mực để tôi đánh giá tất cả những con chó khác sau này.   Mời các bạn đón đọc Marley và Tôi của tác giả John Grogan.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Dưới Mái Học Đường
« …DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG của ông còn dạy cho học-sinh lối làm văn nữa. Chữ dùng đã khéo, lời văn lại trong sáng, tự-nhiên, nhiều nhạc điệu  ». Cô NGUYỄN-THỊ-NGA (Bộ Kinh-Tế) « …DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG không phải chỉ dành riêng cho học sinh các lớp mà còn là món quà tinh-thần giá-trị cho người lớn nữa, đọc để hiểu rõ tâm-sự tư-tưởng con cháu mình, thấy rõ sự quan-hệ của giáo-dục, để đôi khi hối tiếc rằng đã sao lãng sự dạy dỗ con em  ». VŨ-QUỐC-CHU ( V.N. Công thương ngân-hàng) « …DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG không làm cho học-sinh xa lạ với những nhân-vật trong chuyện bỡ-ngỡ với những phong-tục, tư-tưởng, tâm-lý của người Tây phương. Ở đây, ta thấy những mẩu chuyện có thực, đã xẩy ra ở dưới mái trường Việt-Nam và giữa những học-sinh Việt-Nam. Cho nên tôi tin rằng nó sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới tâm-hồn con em chúng ta  ». NGUYỄN-KHẮC-NGỮ (Giáo-sư ) « …Đọc xong DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG, ai cũng phải thích nghề dạy học, và nếu đôi khi chán-nản với nghề, sẽ thấy bội phần hăng-hái. Cho nên, tôi đã có lúc hối hận rằng đã đổi nghề  ». TRẦN-MẠNH-QUÝ (Cựu Giáo-học) *** Tủ sách Pháp-Văn Tiểu-học Đủ các trình-độ, từ lớp Năm đến lớp Nhất - BÉ HỌC VẦN PHÁP (lớp Năm) Cao-văn-Thái . In lần thứ 7 , Chữ lớn , Nhiều tranh… - VẦN PHÁP (lớp Tư) Cao-văn-Thái . Bài giản dị , Vừa sức học sinh… - EM HỌC PHÁP VĂN (lớp Ba) Cao-văn-Thái . In lần thứ 6 , Gần 500 hình vẽ… - PHÁP VĂN MỞ LÒNG (lớp Ba) Cao-văn-Thái . Chữ lớn , In đẹp , Nhiều tranh… - PHÁP VĂN LỚP NHÌ của Cao-văn-Thái . In lần thứ 7 , Đầy đủ môn học, Dẫn giải bằng tiếng Việt… - PHÁP VĂN LỚP NHẤT Cao-văn-Thái . In lần thứ 7 , Đầy đủ môn học, Chỉ dẫn kỹ càng… - PHÁP VĂN TIỂU HỌC của Cao-văn-Thái . In lần thứ 2, Dùng cho lớp Nhất, Đủ môn học… - LECOURS UNIQUE DE FRANÇAIS AU COURS MOYEN của Cao-văn-Thái… - LE COURS UNIQUE DE FRANÇAIS AU COURS SUPÉRIEUR. Cao-văn-Thái. Sách soạn công phu đã được nhiều người khen ngợi. In lần thứ 8 , Đủ môn học , Nhiều bài tập… *** Saigon, ngày 26-12-1955 Thưa ông, Trước hết tôi lấy làm vui vẻ và thành thực cảm ơn ông đã có nhã ý cho phép tôi – một phụ huynh học sinh, đồng thời lại là một nhà giáo – được đọc cuốn DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG của ông trước khi cho in. Thưa ông, Trong khi những loại sách giáo dục dành riêng cho các em học sinh còn rất khan hiếm, thì DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG ra đời thật là đúng lúc. Tôi tin rằng với một cuốn sách bổ ích cho các em học sinh thân yêu của chúng ta thì sự tham góp ý kiến của giới Phụ huynh không những là một điều hữu ích mà còn là một điều cần thiết nữa. Là vì vai trò của ông thầy ở nhà trường, chẳng khác gì vai trò của phụ huynh ở gia-đình ; cả hai đều là những bàn tay thợ khéo, nhào nặn, xây dựng, hướng dẫn các em trên con đường « nên người hữu dụng  » yêu nước, yêu nhà. Là một phụ huynh được quen biết ông, tôi vui mừng được thấy nơi đây là một dịp cho tôi cùng với Học-Đường góp phần vào việc giáo dục của con em, bên những ý kiến tham góp khác của các đơn vị Giáo-chức, công, tư lão-thành và của giới Phụ-huynh bốn phương. Tôi thành thực nhận thấy DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG là một cuốn phóng tác khéo léo, trong đó ông đã trình bày những mẩu chuyện tâm tình, mà không kém phần cảm động, dí dỏm mà không kém phần thắm thiết, hấp dẫn các em, đi sâu vào tư tưởng, tình-cảm, để khi đọc lên, với óc tưởng tượng mạnh mẽ, các em sẽ thấy hòa mình vào cuộc sống của đồng bạn, trong lớp, ngoài sân trường hay trên đường phố. Các em sẽ thông cảm mối liên-hệ nồng nàn giữa thầy trò, bạn hữu, cha con, đồng-bào, sẽ thấy tâm-hồn rung động nao nao, rồi tự mình sửa chữa , để mỗi ngày một tiến, mỗi ngày một hay. Thêm vào đấy, với những nhân-vật linh-hoạt và thực-tế, với lối hành văn tự nhiên, đôi khi chải-chuốt, bóng bẩy, DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG quả là một món quà tinh-thần quý báu cho tất cả các em học-sinh về nội dung cũng như về hình thức. Nó sẽ đẩy lui các loại tiểu thuyết « ba xu  » còn sót lại dưới thời thực dân, đã trong bao nhiêu năm, đầu độc con em chúng ta và đánh lạc hướng nền giáo-dục nhi-đồng xứ này. DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG không những là một loại tiểu thuyết giáo-dục hấp dẫn, mà còn là một cuốn giáo khoa nhiều giá trị nữa. Các bạn nhà giáo, các bậc phụ huynh có thể tìm thấy ở đây những tài liệu để làm chính tả, tập đọc, hoặc tập làm văn, thích hợp với hướng giáo dục mới. Các em sẽ quen với lối hành văn gọn gàng, vương tính chất văn nghệ. Các em sẽ quen với việc suy luận thường xuyên tại trường, tại lớp, ngoài phố hay trong gia-đình, về những cử-chỉ , hành-động của các em, tập kiểm thảo bản thân để « tự tu về đạo-đức  ». Ở đây các em sẽ « đọc chơi  » mà là « học thực  ». Là một phụ huynh học-sinh, mà cũng còn là một giáo chức ngót 30 năm trong nghề hằng thiết tha với ý niệm « làm lại thế hệ trẻ em » tôi tin rằng vài thiển kiến trên đây của tôi, cộng với thiện ý của ông bạn, có thể tạo nên một dịp tốt để chúng ta cùng nhau thông cảm rồi rào trên con đường giáo dục con em, mầm non của một thế-hệ vừa bước sang giai-đoạn lịch-sử mới. Kính chào thông cảm và đoàn kết NGUYỄN-HỢP Thanh-Tra Tiểu-học Đalat Mời các bạn đón đọc Dưới Mái Học Đường của tác giả Cao Văn Thái.
Xóm Vắng
Sương bước lên cầu, đứng dựa lan can nhìn làn nước trong xanh lặng lờ trôi giữa giòng sông. Ánh nắng lung linh trong ánh nước. Nàng đứng thẫn thờ nhìn dòng sông, rồi lại nhìn cảnh đồng ruộng bao la trước mắt. Nàng thở dài, không hiểu tại sao mình đến đây và đến để làm gì? Bên kia cầu, một ngôi cổ tự nằm im lìm dưới rặng dương cao vút, và xa xa rải rác những thôn trang đang sưởi mình dưới nắng. Sương bước qua cầu, đi thẳng về phía thôn xóm tiêu điều. Trời tháng năm, ánh nắng càng lúc càng gay gắt, khó chịu. Mồ hôi nhễ nhãi, đôi chân nặng nề nhưng Sương vẫn cố lê chân bước tới. Hai bên đường, dấu vết chiến tranh còn in hẳn nét tang thương. Đây đó cây cối xác xơ, cành rơi lá đổ. Ngoài xa, những vườn rau, các luống hoa lài vừa mới vun bồi, gầy dựng lại. Sương thở dài, tiếp tục lê chân. Nàng bỗng ngạc nhiên dừng lại trước một ngôi nhà đổ nát bên đường. Có lẽ ngôi nhà này bị phá hủy từ lâu, sao đến bây giờ chưa có ai sửa sang lại? Ngôi nhà cất theo lối mới, kiến trúc thật đẹp, tỉ mỉ, cứ nhìn qua những bức tường đổ nát và vườn tược còn sót lại chung quanh, cũng nhận thấy đó thuộc một gia đình vào hàng phong lưu, khá giả. Sương bước rẽ vào cổng nhà, trên cột trụ xi-măng tấm bảng đồng vẫn còn nguyên vẹn: "Mai Trang". Khung cửa sắt chỉ khép hờ, bên trong, lá khô đổ đầy mặt đất, cành gãy, gạch vụn rơi tứ tung, dây leo bám đầy vách. Nhìn cảnh "Mai Trang" hoang tàn đổ nát, lòng Sương buồn lâng lâng. Nơi đây chắc đã có một thời êm đẹp lắm. Nhưng chuyện gì đã xảy ra? Chủ nhân của ngôi nhà này và luôn cả gia đình không còn một người sống sót chăng? Sương lách mình qua cánh cửa sắt bước vào trong, ngồi nghỉ chân trên bực thềm. Ánh chiều đã xuống, nắng vàng còn lảng vảng trên mấy bức tường màu xám xịt. Mấy đóa hoa hồng cố vươn mình giữa đám cỏ hoang lắc lư dưới cơn gió chiều. Nhìn cảnh hoang tàn, thê lương bất giác Sương thở dài. Đâu đây có tiếng sột soạt trên lá khô khiến Sương giật mình lo sợ. Phía sau bức tường đổ, trong đám dây leo rậm rạp, có một chàng thanh niên từ từ đứng dậy. Sương suýt kêu lên một tiếng kinh hoàng, vì nàng không ngờ trong cảnh hoang tàn này lại còn có người ở. Có lẽ người ấy đã nằm trong góc tường từ lâu và sống như một bóng ma. Nàng đưa tay bụm miệng, cố ngăn không cho tiếng la xuất phát ra ngoài. Nàng trố mắt nhìn chàng trai đang lững thững bước đi. Chàng đưa tay lần theo vách tường đổ, còn một tay chống gậy cồm cộp trên mặt đất, đi ngay về phía nàng. Tim Sương đập thình thịch, nàng đang đứng giữa khoảng trống phía trước sân nhà, không một chỗ nào khuất để lẩn tránh. Thanh niên đã nhìn thấy rõ ràng và có lẽ đã trông thấy rõ nàng từ lâu nhưng Sương đã lầm, chàng ta quờ quạng bước tới, tay chống gậy dò đường, một tay lần vách. Rõ ràng là một người mù, mặc dầu đôi mắt chàng vẫn không khác gì người thường. Nàng thở một hơi dài trước hoàn cảnh đáng thương ấy. Nàng nhìn chàng trân trân, theo dõi từng bước đi của người tàn tật giữa cảnh hoang tàn đổ nát. Nhìn kỹ đó là một chàng thanh niên đứng tuổi, có lẽ đã xấp xỉ cỡ 40. Nét mặt chàng in rõ vẻ ưu tư sầu khổ, có lẽ trong đời chàng đã gặp quá nhiều sóng gió. Rồi Sương lại thấy thích những nét mặt dày dặn, rắn rỏi, có nhiều sức chịu đựng như thế. Chàng ăn mặc chỉnh tề, y phục may rất khéo, đó là một điều rất lạ đối với người đã bị tàn phế. Nhìn qua dáng điệu, nàng cũng đoán biết chàng là một người trong gia đình khá giả, nhưng tại sao lại đến nơi hoang vắng này? Chàng lần dò từng bước giữa những đống gạch vụn. Có lúc bị vấp chân, chàng loạng choạng muốn ngã. Bóng chàng nằm dài dưới ánh nắng chiều... Thỉnh thoảng lại chớp chớp đôi mi như suy nghĩ điều gì khó khăn lắm. Bóng người cô đơn tàn phế giữa cảnh hoang tàn khiến Sương xúc động, đôi mi nàng ươn ướt lúc nào không hay. Bỗng nhiên chàng vấp phải một mẩu gạch to, người lảo đảo về phía trước suýt té. Sương giựt mình không kịp suy nghĩ gì cả, vội chạy tới đỡ chàng: - Ý... Coi chừng. Thanh niên giựt mình kinh ngạc, rồi chớp chớp đôi mi như cố nhìn Sương: - Ai đó? Giọng chàng trầm ấm nghe rất dễ có cảm tình... Sương không trả lời ngay được, mà chỉ ngẩng mặt nhìn chàng trân trân. Đã ngoài 30 tuổi rồi, đây là lần thứ nhất nàng mới nhìn thấy một gương mặt thanh niên in rõ nét đau khổ, xót xa và chan chứa những hy vọng tha thiết trong lòng. Không nghe nàng trả lời, chàng lại hỏi tiếp: - Ai vậy? Vừa... Vừa giúp tôi đó? Sương thở ra nhè nhẹ, trấn tĩnh tinh thần: - Dạ tôi. - Tôi?... Mà là ai? *** Quỳnh Dao (sinh ngày 20 tháng 4 năm 1938) là nữ nhà văn, biên kịch, nhà sản xuất người Đài Loan chuyên về tiểu thuyết lãng mạn dành cho độc giả nữ. Tập truyện ngắn đầu tay của bà mang tên Ngoài khung cửa sổ ra đời trong khoảng thời gian bà tốt nghiệp trung học và dự thi vào đại học nhưng không thành công. Các tác phẩm của bà được dịch ra và xuất bản rộng rãi ở Việt Nam từ cuối thập niên 1960. Ngoài ra, bà còn là một nhà sản xuất phim với những bộ phim truyền hình dựa theo chính nội dung các cuốn tiểu thuyết của bà. Tác phẩm: Song Ngoại (1963) Hạnh Vận Thảo (1964) Lục Cá Mộng (1964) Thố Ty Hoa (1964) Dòng sông ly biệt (Yên Vũ Mông Mông - 1964) Triều Thanh (1964) Kỷ Độ Tịch Dương Hồng (1964) Thuyền (1965) Nguyệt Mãn Tây Lâu (1966) Hàn Yên Thúy (1966) Tử Bối Xác (1966) Tiễn Tiễn Phong (1967) Thái Vân Phi (1968) Xóm vắng hay Vườn rộng sân sâu (Đình Viện Thâm Thâm - 1969) Tinh Hà (1969) Thủy Linh (1971) Hồ ly trắng (Bạch Hồ - 1971) Hải Âu Phi Xứ (1972) Băng Nhi (1985) Tuyết Kha (1990) Hoàn Châu cát cát (1999) Đoạn Cuối Cuộc Tình (tháng 8/2006) Không phải hoa chẳng phải sương (2013) Thủy Vân Gian Cỏ Xanh Bên Hồ Giấc Mộng Sau Rèm Mời các bạn đón đọc Xóm Vắng của tác giả Quỳnh Dao.
Người Đàn Bà Trên Cầu Thang
Trong một phòng tranh ở Sydney, người đàn ông tình cờ bắt gặp bức tranh vẽ cô gái đã từng khiến ông sẵn sàng vứt bỏ hết thảy để rồi ngoạn mục biến khỏi đời ông. Sau đó, như từ bóng tối bước ra sân khấu, những nhân vật chính mắc kẹt trong cuộc tình tay bốn năm xưa đều xuất hiện. Họa sĩ nổi tiếng thế giới, nhà tài phiệt, và luật sư tái ngộ cùng cô gái trong tranh trên một bờ vịnh Úc, mong muốn giành lại thứ họ nghĩ phải thuộc về mình. Nhưng chuyện đời không đơn giản - đối với một tác phẩm nghệ thuật mà mọi bảo tàng thế giới đều săn lùng, cũng như đối với Irene mà cuộc đời có nhiều góc khuất, khi tuổi tác của tất cả họ đều đã về chiều, và định mệnh thì thường khắc nghiệt... *** Người đàn bà trên cầu thang của tác giả Bernhard Schlink, một câu chuyện tình lãng mạn, thậm chí có phần “sến sẩm". Nhưng qua đó, mỗi người đọc đều có thể tìm cho mình kho tàng kiến thức đáng quý, về một thời đã qua của nước Đức, ẩn sau những tình tiết, câu chữ đầy mê hoặc. Cuốn tiểu thuyết vừa mới được giới thiệu tới độc giả Việt Nam trong buổi ra mắt sách diễn ra tại Viện Gothe. Dịch giả của cuốn sách – Lê Quang cùng biên tập viên Trần Kiều Vân là 2 diễn giả chính trong buổi tọa đàm này. Thông qua Người đàn bà trên cầu thang, qua câu chuyện xoay quanh chuyện tình tay bốn giữa họa sĩ nổi tiếng thế giới, nhà tài phiệt, luật sư và cô gái, Bernhard Schlink đã phơi bày bức tranh sự thật về thực tế lịch sử của nước Đức. Đó là thời kì mà bức tường Berlin đã chia cắt nước Đức thành 2 nửa Tây và Đông Đức. Và nhân vật cô gái trong truyện, vì chạy trốn sự truy nã của nhà cầm quyền Cộng hòa liên bang Đức do tham gia một tổ chức khủng bố, đã rời bỏ người chồng tài phiệt giàu có, cùng với anh họa sĩ trốn sang Cộng hòa Dân chủ Đức ở phía Đông. Cô gái đã kịp nhận ra vẻ đep của một Đông Đức mà trước đó cô chưa hề nhận thấy, cho đến khi bức tường Berlin sụp đổ đảo chiều tất cả. Quang cảnh buổi giới thiệu "Người đàn bà trên cầu thang" Tác giả Bernhard Schlink là một luật sư, ở ông có sự khô khan và thực tế. Nhưng đọc truyện của ông, người đọc vẫn có thể thổn thức với sự gợi cảm mà ở đó, từng chi tiết và câu từ được ông vuốt ve thật mượt mà. Với biệt tài mổ xẻ những ẩn ức tăm tối trong lòng người, Bernhard Schlink đã viết nên một tiểu thuyết về tình yêu thật cuốn hút, mê hoặc. Và dịch giả Lê Quang, với sự am hiểu về ngôn ngữ cùng văn hóa Đức, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Người đàn bà trên cầu thang là câu chuyện mà với người đọc “hăng hái“ có thể lướt qua nó trong vòng 2 ngày. Nhưng có lẽ, đó khó có thể là một câu chuyện mà bất kì ai có thể cảm nhận được hết giá trị chỉ với một lần mở sách, về những ý nghĩa, kiến thức mà tác giả đã lồng ghép đầy tinh tế qua từng câu từ", dịch giả Lê Quang nói. Đây không phải là một cuốn tiểu thuyết tình cảm nhẹ nhàng, để ta mang theo khi du lịch, vừa đọc vừa thư giãn dưới ánh đèn mờ rồi bỏ nó lại khách sạn sau những ngày nghỉ. “Người đàn bà trên cầu thang” ẩn chứa nhiều vấn đề khiến người ta phải suy ngẫm. Nó mang nhiều giá trị, ý nghĩa và lợi ích cho độc giả mà ai cũng có thể rút ra được một chút kiến thức (nói một cách khiêm tốn) cùng bài học đáng quý. Bernhard Schlink (sinh 1944 ở Đức) là giáo sư Luật và thẩm phán Tòa án hiến pháp cấp bang, đã viết gần 20 tác phẩm, được trao nhiều giải thưởng văn học trong và ngoài nước Đức. Ông nổi tiếng với tiểu thuyết Người đọc (1995) - giải Prix Laure Bataillon cho văn học dịch của Pháp, giải Grinzane Cavour của Ý... Tiểu thuyết mới nhất Người đàn bà trên cầu thang vừa xuất bản đã lọt vào danh sách bestseller của tác chí Der Spiegel, và bán bản quyền dịch cho hơn 10 nước trên thế giới. Bernhard Schlink hiện đang sống ở Berkshire (Massachusetts) và Berlin.    *** Bernhard Schlink (sinh 1944 ở Đức), là giáo sư luật và là thẩm phán tòa án hiến pháp cấp bang, đã viết gần 20 tác phẩm, được trao nhiều giải thưởng văn học trong và ngoài nước Đức. Ông nổi tiếng với tiểu thuyết "Người đọc" (1995) - giải Prix Laure Bataillon dành cho văn học dịch của Pháp, giải Grinzane Cavour của Italia... Tiểu thuyết "Người đàn bà trên cầu thang" của ông vừa xuất bản đã lọt vào danh sách bestseller của tạp chí Der Spiegel, đã bán bản quyền dịch cho đối tác tại hơn 10 quốc gia. Trong "Người đàn bà trên cầu thang", tình tiết xoay quanh các nhân vật chính gồm một họa sĩ nổi tiếng thế giới, một nhà tài phiệt, một luật sư - cả ba cùng yêu một cô gái. Với biệt tài mổ xẻ ẩn ức trong lòng người, cách hành văn dễ hiểu, trong trẻo và trí tuệ, Bernhard Schlink đã viết nên một tiểu thuyết cuốn hút, khiến bạn đọc ngẫm ngợi về thân phận con người. *** Có thể một hôm nào đó mọi người sẽ thấy bức tranh. Nó mất tích đã lâu rồi, nay đột ngột xuất hiện, và bảo tàng nào cũng săn đuổi. Chả gì thì Karl Schwind giờ đây cũng là họa sĩ nổi danh nhất và đắt giá nhất thế giới. Vào dịp sinh nhật thứ bảy mươi của ông, tôi thấy mặt ông trên mọi tờ báo và kênh tin tức, dù là phải ngắm mất một lúc mới nhận ra chàng trai ngày nào sau gương mặt già nua hôm nay. Nhưng bức tranh thì tôi nhận ra được ngay. Tôi bước vào gian cuối của phòng tranh, nó treo ở đó và làm tôi choáng váng như ngày nào, khi tôi vào phòng khách nhà Gundlach và thấy nó lần đầu. Một cô gái đang xuống thang. Chân phải cô đặt lên bậc dưới, chân trái còn chưa rời bậc trên nhưng đã dợm vào bước tiếp theo. Cô gái khỏa thân, da xanh tái, gò vệ nữ và mái đầu phủ vàng rơm, tóc cô lóng lánh phản chiếu ánh sáng. Khỏa thân, xanh tái, vàng rơm - trên nền xanh xám của những bậc thang và tường vẽ mờ ảo, cô bồng bềnh nhẹ trôi về phía người thưởng lãm, nhưng đồng thời cặp đùi thon dài, phần hông nở tròn trịa và hai bầu vú săn chắc lại trĩu nặng đam mê. Tôi chầm chậm tiến lại gần bức tranh. Tôi ngượng ngùng, và đó cũng là cảm xúc giống ngày nào. Hồi ấy tôi ngượng ngùng vì cô gái trước đó một hôm còn ngồi trước mặt tôi trong quần bò, crop top và áo khoác, nay hiện ra trần trụi trước mắt. Hôm nay tôi ngượng ngùng vì bức tranh nhắc tôi nhớ đến những gì xảy ra ngày đó, những gì tôi sa vào và sau đó chỉ muốn xóa khỏi trí nhớ thật nhanh. “Người đàn bà trên cầu thang”, tấm biển nhỏ cạnh bức tranh ghi vậy, và cho biết tác phẩm được mượn về. Tôi tìm ông giám tuyển và hỏi ai là người cho phòng tranh nghệ thuật này mượn. Ông đáp, ông không được phép nói tên. Tôi nói, tôi quen người phụ nữ trong tranh và chủ nhân tác phẩm, và có thể báo trước cho ông rằng sẽ có tranh cãi về quyền sở hữu bức tranh. Ông nhíu mày nhưng không đổi ý, không được phép cho tôi biết tên. Chuyến bay trở về Frankfurt của tôi được đặt vào chiều thứ Năm. Sau khi kết thúc các thương lượng ở Sydney vào sáng thứ Tư, lẽ ra tôi có thể đổi chuyến bay sang chiều thứ Tư. Song tôi thích đến Vườn Bách thảo vào chiều hôm ấy. Tôi định ăn trưa ở đó, nằm lăn ra cỏ và tối đến Nhà hát nhạc kịch xem vở Carmen. Tôi thích Vườn Bách thảo, nó giáp với một nhà thờ lớn về phía bắc, còn phía nam nằm kề Nhà hát nhạc kịch, trong đó có Phòng trưng bày nghệ thuật và Nhạc viện, và từ đỉnh đồi ấy có thể phóng tầm mắt xuống vịnh. Vườn Bách thảo có các khu trồng cọ, hồng và thảo mộc, có ao hồ, khu ngồi nghỉ dưới tán cây, tượng và nhiều bãi cỏ với cây cổ thụ, có ông bà và các cháu, có những người đàn ông và đàn bà cô đơn dắt chó, các nhóm picnic và đôi tình nhân, người đọc sách và người nằm ngủ. Trên bao lơn của nhà hàng giữa vườn, thời gian như ngừng trôi: cột nhà cổ kính bằng gang đúc, lan can sắt và các cây to có chồn bay, chim chóc với bộ lông sặc sỡ và mỏ cong. Tôi đặt đồ ăn rồi gọi điện cho bạn đồng nghiệp. Ông ta là người chuẩn bị vụ sáp nhập doanh nghiệp về phía Úc, tôi làm bên phía Đức. Như trong các vụ sáp nhập doanh nghiệp, hai chúng tôi vừa là đối tác lại vừa là đối thủ. Nhưng chúng tôi cùng tuổi, đều là chuyên gia thuộc một trong những phòng luật lớn chưa bị người Mỹ hay người Anh thôn tính, cả hai đều góa vợ và thân nhau. Tôi hỏi ông về dịch vụ thám tử mà phòng luật của ông sử dụng, và ông cho tôi biết tên. “Chúng tôi có thể giúp gì cho ông không?” “Không có gì đâu, chỉ chút tò mò từ lâu, nay cần giải đáp.” Tôi gọi điện đến dịch vụ thám tử, cần biết ai là chủ sở hữu bức tranh của Karl Schwind trong Phòng tranh New South Wales, có phải đó là một phụ nữ tên họ khai sinh là Irene Gundlach hoặc khi lấy chồng mới lấy họ Gundlach theo chồng, và có phụ nữ nào tên như thế sống ở Úc không. Ông giám đốc phòng thám tử hy vọng sẽ cung cấp tin cho tôi sau vài ngày. Tôi hứa sẽ thưởng nếu ngay sáng mai có thông tin. Ông ta cười. Hoặc hôm nay lấy được thông tin từ phòng tranh nghệ thuật, hoặc vài hôm nữa mới có, thưởng hay không thưởng cũng vậy thôi. Ông hứa sẽ gọi lại. Mời các bạn đón đọc Người Đàn Bà Trên Cầu Thang của tác giả Bernhard Schlink & Lê Quang (dịch).
Alabama Song (Tiếng Việt)
Có những kẻ ẩn mình để trộm cắp, để giết chóc, để bội phản, để yêu thương, để hưởng thụ. Tôi thì phải ẩn mình để viết. Vừa tròn hai mươi tôi đã rơi vào vòng chi phối - chế ngự - của một người đàn ông lớn tuổi hơn đôi chút, người ấy muốn định đoạt cuộc đời tôi và đã tiến hành chuyện đó hết sức bất lương. *** Montgomery, Alabama, 1918. Zelda Sayre, con gái một gia đình quyền quý, gặp viên trung úy Scott Fitzgerald, một cuộc gặp gỡ định mệnh. Với những rạo rực của một cô gái trẻ bước vào đời, mong muốn vượt thoát mọi ràng buộc của xã hội tỉnh lẻ miền Nam, Zelda cùng Scott lao mình về phía thiên đường. Thành công vang dội của cuốn tiểu thuyết đầu tay của viên trung úy sau này được ca tụng là nhà văn lỗi lạc nhất nhì thời đại đã biến cặp đôi thành đứa con cưng của giới thượng lưu New York. Vậy nhưng thiên đường có là vô tận khi tiếp nối chuỗi những dạ tiệc xa hoa, hội hè rực rỡ là những cơn say triền miên, là chứng tâm thần phân lập, là những giày vò giằng xé lẫn nhau đưa đến cái kết của một bi kịch phủ nhung? Hóa thân thành Zelda Fitzgerald trong cuốn tự truyện hư cấu, Gilles Leroy hé lộ phần nào số phận bí ẩn và bi thảm của cặp đôi từng là hai ngôi sao sáng chói trên vòm trời văn chương phương Tây những năm 20 thế kỷ trước: Scott Fitzgerald, tác giả The Great Gatsby và Zelda, vợ ông. Alabama Song đã mang lại cho tác giả giải Goncourt 2007.   “Leroy kể lại nỗi đau của một người đàn bà mà để trở thành nàng thơ của một thiên tài đã từ từ bước xuống địa ngục.”– L'Express *** “Cuốn tự truyện hư cấu này được dẫn dắt bởi một bàn tay bậc thầy.” – Le Point   “Tác giả hóa thân tuyệt vời trong giọng điệu của một người phụ nữ đổ vỡ. Người đọc chạm đến sự tinh tế tuyệt đỉnh.” – Danielle Laurin - Radio-Canada   “Tài năng của Gilles Leroy là không dùng tưởng tượng mà lên đường đến tận Montgomery để mang đến cho người đọc mùi hương nồng nàn của hoa mộc lan, giọng điệu xúc động của người đàn bà đứng đằng sau một cây viết vĩ đại.” – Elle *** Gilles Leroy sinh năm 1958 tại Bagneux (Haute-de-Seine), có bằng cử nhân văn chương hiện đại năm 1979. Ông đã từng làm nhiều nghề trước khi trở thành nhà báo. Năm 1996, Gilles Leroy rời Paris về sống ở nông thôn để chuyên tâm viết văn và tự nghiên cứu văn học Mỹ cùng văn học Nhật. Xuất bản năm 2007, Alabama Song đã giành được giải Goncourt trong năm đó. ***     Bỗng nhiên, thành phố lơ mơ ngái ngủ của chúng tôi bị xâm chiếm bởi hàng nghìn thanh niên trai tráng, phần lớn là những gã trai thảm hại, bị lôi ra khỏi trang trại, đồn điền, quầy hàng của họ, từ khắp các bang miền Nam trong khi các sĩ quan mới tốt nghiệp trường quân sự của họ lại xuống từ phương Bắc, từ vùng Hồ Lớn và từ các thảo nguyên (kể từ nội chiến đến giờ người ta chưa khi nào thấy ngần ấy bọn yankee trong thành phố, mẹ bảo tôi như vậy). Trẻ như thế, hừng hực như thế, các chiến binh tươi cười ồn ã sà xuống chúng tôi và đổ dồn theo những con phố của chúng tôi tựa như những đám mây chim chóc dày đặc trong bộ lông màu xanh lơ hoặc xám hoặc xanh lục, một số có mào bằng vàng hoặc bằng bạc, điểm đốm mắt bằng những ngôi sao cho lòng quả cảm và những phù hiệu nhiều màu - nhưng tất cả, lũ chim hạng lính tổng động viên cũng như lũ chim hạng sĩ quan chuyên nghiệp, những kẻ chủ trương ly khai hay những người ủng hộ phong trào phế nô, rốt cuộc cũng liên kết lại, nếu không phải là hòa giải với nhau, tất cả chẳng bao lâu sẽ lại lên đường cho một chuyến đi dài vượt Đại dương về phía châu Âu già cỗi, vẫn chưa phải châu Âu trong mơ của chúng tôi mà là châu lục của một nỗi kinh hoàng lạ lẫm, sự lạ lẫm nằm ở chỗ người ta phải chết trong một cuộc chiến ngoại quốc. Nếu có sợ đi chăng nữa, họ cũng không để lộ ra ngoài. Những buổi khiêu vũ diễn ra khắp nơi trên phố, tại các khu sân bay bao quanh thành phố và trong các trại huấn luyện. (Đó là sự lạ, quả đúng vậy, một sự hi hữu, chưa được lý giải: không một thành phố nào diện tích khiêm tốn như Montgomery lại có chừng ấy sân bay. Và vậy là thành phố nực cười của chúng tôi được chọn làm nơi huấn luyện hàng loạt các cậu bé mà người ta sẽ giao nộp cho chiến trận - Cuộc chiến, họ gọi thế, Trận chiến.) Tôi còn nghe thấy từ họ phát ra những âm thanh lộn xộn đầy cuồng nhiệt: tiếng giày nhà binh kiêu hãnh gõ đôm đốp xuống mặt đường, tiếng gào rống và tiếng ly cốc chạm vào nhau, như thể hai mươi nghìn gã trai đang tạo thành một cơ thể to lớn duy nhất, một người khổng lồ với các mạch máu nóng bỏng nơi người ta có thể nghe thấy chất ađrênalin sôi ùng ục và một bầu nhựa sống căng tràn không thể kìm nén. Như thể mối nguy cận kề và niềm tin chắc vào những cú sốc khác, vào những cơn quá khích khác, những cú sốc và những cơn quá khích chết người, đã khiến những gã đàn ông này thêm phần quậy phá ồn ĩ, thơ trẻ và sảng khoái lạ thường. Và chúng tôi, những Mỹ nhân miền Nam, tôi không rõ những cậu trai này nhìn chúng tôi như thế nào: một đàn ong phát tiếng vo vo, có lẽ vậy, hay một chuồng chim ruồi và vẹt mái hốt hoảng cũng nên. Lý do duy nhất để thức dậy và sống, đó là chờ đợi cuộc duyệt binh mới trong thành phố, và, đối với những cô gái may mắn như tôi, không bị bố mẹ kìm giữ bằng vòng mũi để vực ngựa, thì là chờ đợi buổi vũ hội tiếp theo tại Country Club hoặc tại phòng ăn của doanh trại Sheridan. Bố đã hết sức cố gắng giam lỏng tôi trong nhà chừng nào các đội quân vẫn lưu lại trong thành phố. Ông, vị viên chức nhà nước xanh rớt và rụt rè, vị luật gia khắc khổ tối nào cũng ngủ cùng lúc với mặt trời, dĩ nhiên là ông chỉ nhìn ra trong đám lính hung hãn vô kỷ luật một lũ thô lậu đồi bại đầy ám muội, những tên tội phạm cưỡng dâm và sát nhân. Minnie - cảm ơn mẹ - đã cho phép tôi tới Country Club, chứ không phải bất kỳ một vũ hội nào khác, một khán phòng nào khác, cho phép đi tới nửa đêm. Bà thức đợi tôi về mới đi ngủ, lúc đó đã quá mười hai giờ đêm từ lâu. Trung úy Fitzgerald hai mươi mốt tuổi và đã bộc lộ nhiều tài năng. Anh khiêu vũ rất tuyệt tất cả các điệu thịnh hành, dạy tôi nhảy turkey trot, maxie và aeroplane; anh viết những truyện ngắn trong nay mai sẽ được đăng báo, anh chắc chắn về điều ấy; anh sạch sẽ và lịch lãm, anh biết tiếng Pháp - chính nhờ thạo tiếng Pháp mà anh được đào tạo thành trung úy lục quân sau khi tốt nghiệp Princeton, những người nói tiếng Pháp đều được hưởng quyền ưu đãi đẩy họ lên tới hàng sĩ quan - và nhất là anh lại sạch sẽ và chải chuốt, cách ăn vận của anh đỏm dáng chẳng khác nào một dandy*. Bộ quân phục của anh được cắt may tại tiệm anh em nhà Brooks ở New York. Đi cùng chiếc quần cưỡi ngựa màu xanh lá mạ của anh, thay vì đôi ghệt bằng vải như thường thấy là đôi giày ống cao, màu vàng rơm, với những chiếc đinh thúc ngựa đem lại cho anh một dáng vẻ không thực lắm của một người hùng trên báo ảnh. • Dandy là từ dùng để chỉ những người đặc biệt kỹ tính và có gu trong ăn mặc. (Các chú thích nếu không có lưu ý gì thêm đều là của người dịch) Anh thấp bé, đúng vậy, nhưng khiếm khuyết thiếu vài centimet này được bù lại bằng một thân hình cân đối được tôn bật nhờ chiếc áo vest ôm sát người của bộ quân phục, bằng một vầng trán cao và một cái-gì-tôi-không-rõ (lòng tự tin vì đang là một ai đó, sự chắc chắn vào bản thân, ý thức rằng một định mệnh vô song đang chờ đợi), bằng một dáng vẻ phi thường, cái thực ra đã nâng anh cao thêm một cái đầu. Lũ đàn bà sửng sốt và lũ đàn ông cũng vậy. Một ngày nào đó tôi sẽ phải suy ngẫm về cái sự kỳ quái này: không một ai trong số các đồng đội ganh ghét với anh hay tức tối. Không hề, như thể những gã đàn ông khác đều chấp nhận sức lôi cuốn của anh và cổ vũ cho điều đó... Càng làm tôi bối rối bao nhiêu anh càng trêu ngươi tôi bấy nhiêu! Đoạn tuyệt với những giấc mơ của mi đi. Ngay lập tức. Mời các bạn đón đọc Alabama Song (Tiếng Việt) của tác giả Gilles Leroy.