Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giờ Đức văn

Nước Đức sau Thế chiến II. Siggi Jepsen nhắm mắt, sông Elbe ngoài cửa sổ chảy không ngừng, bồng bềnh băng. Những tàu kéo chầm chậm xô dạt sóng nước, đẩy băng xanh chồm qua bờ cát tới bãi lau sậy, để chúng được lãng quên ở đó. Còn trong phòng biệt giam của cù lao cải tạo trẻ vị thành niên, Siggi đối mặt  trang vở trắng đang chờ bài luận Đức Văn " Niềm vui nghĩa vụ" mà cậu đã không viết nổi chữ nào trong 2 giờ trên lớp. Dòng sông ký ức ngổn ngang của cậu lúc này buộc phải rã băng, ngược về nguồn, để tái hiện câu chuyện khởi sự năm 1943... Xuất bản năm 1968, Giờ Đức văn của Siegfried Lenz, biểu hiện mối xung đột giữa nhiệm vụ với lương tâm, đạo đức dưới hình thức kỳ quái và rối rắm trong câu chuyện đầy sức thuyết phục, được Library Journal đánh giá là một trong những tiểu thuyết sâu sắc nhất, di dỏm, cay đắng, say sưa nhất, khiến người đọc phải suy tư nhiều nhất của văn chương Đức đương đại. Sau một thời gian ngắn, cuốn sách được đưa vào nhà trường phổ thông, trở thành một trong những tác phẩm văn học kinh điển được đọc, mổ xẻ, phân tích rộng và sâu nhất ở CHLB Đức. Từ thập niên 1970, số ấn bản Giờ Đức văn, riêng tại Đức, đã vượt trên 1 triệu bản. *** “Giờ Đức văn”: Giới hạn của nghĩa vụ byZét Nguyễn  28/10/2019 Tháng 4 năm 2019, bà Angela Merkel cho gỡ bỏ hai bức tranh của Emil Nolde, một họa sĩ nổi tiếng người Đức thuộc trường phái biểu hiện khỏi phòng làm việc của mình trong phủ thủ tướng Đức. Cơn cớ cho sự việc mà báo chí đã tốn bút mực mổ xẻ nguyên do nằm ở chỗ: Emil Nolde là một nghệ sĩ huyền thoại dưới thời phát xít Đức, có các tác phẩm từng bị quy là nghệ thuật suy đồi, từng bị nhận lệnh cấm vẽ; song ông cũng chính là một nhân vật tích cực bài Do thái và ủng hộ Hitler. 51 năm trước, vào năm 1968, một tác phẩm mà đến thời điểm này đã đồng loạt độc giả, nhà phê bình lẫn nghiên cứu, coi là kinh điển của văn chương hậu chiến Đức, ra đời: “Giờ Đức văn” của Siegfried Lenz. Kể về một họa sĩ thuộc trường phái biểu hiện bị cấm vẽ, cuốn tiểu thuyết này nhanh chóng trở thành một trong hiện tượng văn chương thành công vang dội nhất ở Đức, được đưa vào đọc và dạy trong nhà trường, đã bán được hàng triệu bản, được dịch ra hàng chục thứ tiếng. Và không lấy gì làm ngạc nhiên, rất nhiều độc giả đã ngộ nhận rằng hình mẫu cho nhân vật người họa sĩ trong “Giờ Đức văn” chính là Nolde. Nhưng đọc “Giờ Đức văn”, với một sự gán ghép thô thiển đến như vậy, là một cách đọc hạn chế vội vàng gạt bỏ hết những chiều sâu tâm lý và hành vi mà người kể chuyện bậc thầy Siegfried Lenz đã đạt được để thực thi nghĩa vụ của mình trong văn chương, cái nghĩa vụ mà như một nhà phê bình đã nhận xét, là giúp người Đức “trả những món nợ khổng lồ mà người Đức cùng với Führer của họ đã đặt lên vai mình.” Hơn tất cả, “Giờ Đức văn” là một chiêm nghiệm nhức nhối đầy nhân văn về đạo đức và triết học, về gia đình và ký ức, về những tổn thương tâm lý để lại những sự méo mó rất khó lý giải. “Giờ Đức văn” do Siggi Jepsen, người kể chuyện ngôi thứ nhất, một chàng trai 21 tuổi ngồi trong phòng biệt giam trên cù lao cải tạo trẻ vị thành niên, thuật lại một quãng đời ngắn ngủi vào năm cậu 10 tuổi. Năm 1943, ở một vùng quê xa xăm, người bố cảnh sát Jens Ole Jepsen của cậu đã được trên giao cho một nhiệm vụ: thực thi lệnh cấm vẽ lên người hàng xóm là ông họa sĩ nổi tiếng thế giới Max Nansen. Vốn là bạn thân với nhau, ông Nansen còn từng cứu mạng ông Jepsen, nhưng giờ đây mệnh lệnh đã ban thì ông Jepsen phải chấp hành. Ông Jepsen, bất chấp gian khổ, mưa sa, gió quất, dèm pha từ hàng xóm, bất chấp cả tình bằng hữu, thực thi và thực thi bằng được cái lệnh cấm vẽ ấy, bởi đơn giản đó là nghĩa vụ. Ông Jepsen tận tụy và mẫn cán, huy động cả con trai là Siggi để làm gián điệp, để giúp tịch thu, thiêu hủy cả tranh đang lẫn đã vẽ của ông Nansen. Dùng ngôn từ tinh xảo để vẽ lại không chỉ các bức tranh mà còn cả một vùng thôn quê hẻo lánh, dùng ký ức để phục dựng lại chi tiết, đối thoại, cảnh huống, hành động, Siggi lần lại từng mẩu hồi ức, để bày ra trong những năm tưởng chừng không lấy gì làm biến động, ở cái vùng đất hẻo lánh ở cực Bắc bang Schleswig-Holstein giáp với Đan Mạch, nơi cái tên Hitler chưa bao giờ được nhắc đến, nơi Thế chiến thứ 2 cơ hồ vắng mặt, nơi người dân sinh hoạt trong cái nếp thường nhật an bình không gì có thể phá vỡ được. Ở nơi ấy, bi kịch đã rơi xuống đầu Siggi, ông họa sĩ, chị gái Siggi, anh trai Siggi, và còn nhiều hơn nữa. Thuật lại một câu chuyện tưởng chừng giản dị, song “Giờ Đức văn” lại đặt ra hàng loạt những câu hỏi nhức nhối. Vậy rốt cục, ông bố cảnh sát của Siggi là người đáng ngợi khen vì đã thực hiện nghĩa vụ của mình một cách nghiêm túc và nghiêm ngặt? Hay ông đáng bị phê phán vì đã mù quáng tuân theo nghĩa vụ mà không một lần chất vấn ý nghĩa của nó? Liệu ông có nhân danh nghĩa vụ mà lao theo cám dỗ của bản thân? Càng đến cuối, “Giờ Đức văn” càng lộ rõ cho độc giả thấy sự yếu đuối không dám phản kháng của ông Jepsen: sự cứng đầu đến ám ảnh để biến những ham muốn cá nhân trở thành nghĩa vụ. Ông Jepsen đã trở thành nạn nhân của chính nghĩa vụ. Trong một cuộc phỏng vấn, Lenz đã tâm sự rằng, với ông, không có hình thức nào phù hợp cho việc truyền tải trải nghiệm của con người bằng tự sự, và rằng, “Gần như mọi nhà văn, ở một nghĩa nào đó, viết để phô bày chính bản thân mình.”  Vậy, Lenz phô bày gì của chính mình, nếu không phải là một cam kết mãnh liệt của văn chương vào tâm thức của con người. Không khoan nhượng, “Giờ Đức văn” mổ xẻ và phơi bày cả một ám ảnh lớn lao về vai trò và trách nhiệm của dân tộc Đức để cho chủ nghĩa phát xít trỗi dậy, thống trị và reo giắc bao tàn khốc. “Giờ Đức văn” có lẽ vì thế thuộc về một dòng văn chương hậu chiến đầy suy tưởng và soi xét, như một sự “xét lại,” như một sự thức tỉnh mà rạch ròi nhìn vào quá khứ tội lỗi của mình. Đúng như nhận xét của Marcel Reich-Ranicki, nhà phê bình xuất sắc được gọi là giáo hoàng văn học Đức, “Giờ Đức Văn” có “cái mà Lenz miêu tả là mục đích của văn chương. Đó chính là nỗ lực để vạch trần thế giới để rồi không một ai còn cảm thấy vô tội hay thản nhiên được nữa. Cả một thế hệ đã nổi lên trong cái bài học vĩ đại về tinh thần Đức và sự ngớ ngẩn của người Đức.”  Người bẻ ghi để những con tàu chở tù nhân đi về phía trại tập trung, người lính bảo vệ khóa chặt cửa để người Do thái không trốn thoát được khỏi phòng hơi ngạt, hay người cảnh sát tuân thủ nghiêm ngặt lệnh cấm vẽ áp lên một ông họa sĩ hàng xóm, là những những chủ đề cứ trở đi trở lại trong văn chương hậu chiến của Đức. Hơn ai hết, Lenz ý thức được vai trò của nghĩa vụ, nguyên tắc của việc phải thực thi nghĩa vụ, niềm vui trong việc hoàn thành nghĩa vụ, vả cả những hạn chế của nghĩa vụ. Đó chính là khi con người sa vào cái bẫy của sự phục tùng đầy phi nhân. Zét Nguyễn (Bài đã đăng trên TTCT *** Tác Giả (17/3/1926 - 7/10/2014) Siegfried Lenz sinh tại Lyck, thành phố nhỏ thuộc Đông Phổ. Ông tốt nghiệp đại học Triết học, Anh văn và Lịch sử văn học Đức tại Hamburg sau Thế chiến II, là biên tập viên báo Thế giới một thời gian ngắn (1950-1951) rồi trở thành nhà văn tự do sống tại Hamburg. Khởi đầu nghiệp văn chương, Siegfried Lenz đã được sánh tầm với các nhà văn lớn của Đức như Heinrich Böll, Günter Grass hay Martin Walser. Lenz đã được trao các giải thưởng: Peace Prize of the German Book Trade (1988), The Goethe Prize of Frankfurt am Main (2000), Italian International Nonino Prize (2010). Trước khi qua đời, ông đã kịp khởi xướng Siegfried Lenz Prize - một trong các giải thưởng văn chương danh giá nhất của Đức cho “các nhà văn quốc tế được ghi nhận trong hoạt động văn chương sáng tạo theo tinh thần Siegfried Lenz”. Siegfried Lenz để lại 14 tiểu thuyết, 120 truyện ngắn, nhiều truyện vừa và kịch bản sân khấu. Số lượng ấn bản sách của ông bằng tiếng Đức và 35 thứ tiếng khác đến nay đã ngót nghét 30 triệu bản và vẫn đang tăng lên. *** BÀI LUẬN Họ phạt tôi, bắt viết bằng xong bài luận. Lão Joswig đích thân dẫn tôi về phòng giam kiên cố, gõ gõ tay lên lớp lưới chăng trước cửa sổ, xoa xoa tấm đệm rơm; sau đó, viên giám thị chúng tôi vẫn có cảm tình nhất ấy ngó nghiêng xem xét kỹ cả chiếc tủ sắt lẫn hốc tường bí mật của tôi lâu nay vẫn nằm khuất sau chiếc gương soi. Chẳng nói, chẳng rằng, hậm hà hậm hực, lão ta xem xét hết cái bàn đến chiếc ghế đẩu chằng chịt vết khía, vết rạch, tò mò soi mói chỗ thoát nước trong chậu rửa, thậm chí, còn gõ gõ ngón tay như dò hỏi bậu cửa sổ, săm soi lò sưởi xem có gì khác thường không, rồi, xong xuôi đâu đấy, lão ta mới đến bên tôi, thong thả sờ nắn người tôi từ vai đến đùi để cầm chắc tôi không mang vật gì có hại trong túi áo túi quần. Sau rốt, với vẻ đầy trách móc, lão đặt quyển vở lên bàn tôi, vở tập làm văn - trên bìa vở có dán miếng nhãn màu xám ghi rõ: vỏ tập làm văn của Siggi Jepsen - rồi không nói không rằng đi ra cửa, với vẻ mặt đầy thất vọng, của một kẻ nhân từ bị xúc phạm; bởi vì lão Joswig - viên giám thị chúng tôi vẫn có cảm tình nhất đó - chịu đựng các hình phạt thỉnh thoảng chúng tôi phải chịu như thế này còn khổ sở hơn, lâu hơn và cũng thấm thía hơn cả chính chúng tôi nữa kia. Lão ta để lộ cho tôi biết nỗi buồn phiền của lão không bằng lời, mà bằng cái cách lão khóa cửa. Lão loay hoay nhét chìa khóa vào ổ, hờ hững, bối rối và lưỡng lự trước khi quay vòng đầu tiên, rồi vặn ngược trở lại, khiến ổ khóa kêu cạch cạch, rồi, như thể đã vượt qua phút do dự, lão ta hằm hằm quay luôn hai vòng liên tiếp. Vâng, không phải ai khác, mà chính lão Karl Joswig, người đàn ông có vẻ ẻo lả và nhút nhát ấy, đã khóa tôi trong phòng giam để viết cho xong bài luận. Ngồi thế này đã gần hết ngày mà tôi vẫn không sao bắt đầu viết cho được: nhìn qua cửa sổ ra ngoài, thấy sông Elbe đang chảy, dòng sông chảy xuyên qua bóng gương mặt tôi mờ mờ phản chiếu trên kính cửa sổ; tôi cố nhắm mắt lại, nước sông vẫn không ngừng chảy, mặt sông phủ đầy các tảng băng phơn phớt màu xanh da trời đang bồng bềnh trôi. Tôi cứ phải dõi theo mãi những chiếc tàu kéo; chúng từ từ chạy, mũi tàu xắn lên mặt băng những đường ngoằn ngoèo xám ngoét, cứ phải nhìn dòng nước mang theo các tảng băng trôi lổn nhổn, dồn những khối băng chồm lên bãi cát của chúng tôi, ken két xô đẩy chúng lên đến bãi lau sậy khô rồi để quên chúng ở đấy. Tôi miễn cưỡng dõi theo đám quạ đen; bọn chúng như thể hẹn hò nhau ở đây trước khi tạt về Stade không bằng. Chúng bay lẻ tẻ từ Wedel sang, từ Finkenwerder hay Hahnöfer-Sand tới, nhóm thành bầy đông nghịt trên đảo chúng tôi, rủ nhau cất cánh vút lên cao rồi lượn đi lượn lại, chờ ngọn gió thuận chiều sẽ hất chúng về phía Stade. Rặng liễu khẳng khiu, phủ lớp băng mỏng và đầy sương muối làm tôi để ý; hàng rào dây thép sơn trắng, khu xưởng, các biển cảnh báo cắm ở bãi cát, những luống đất đông cứng trong vườn rau mà ra năm chúng tôi sẽ phải tự gieo trồng và chăm bón theo hướng dẫn của giám thị: tất tật những thứ ấy, thậm chí cả mặt trời, ánh nắng như đang chiếu qua một lớp kính mờ, hắt bóng dài nghiêng nghiêng, đều làm tôi sao nhãng. Thỉnh thoảng tôi cứ vừa định bắt tay vào chuyện viết lách thì ánh mắt tôi như thể lại vô tình bắt vào bệ cầu tàu nổi méo mó, xây xước, neo bằng dây xích, cùng chiếc xuồng gắn máy rộng bè bè và sáng loáng đồng thau từ Hamburg vừa đến neo vào đó - chiếc xuồng mỗi tuần, thì cứ nói ang áng thế, thả chừng một ngàn hai trăm nhà tâm lý học xuống đảo, đám chuyên viên tâm lý học quan tâm đến mức bệnh hoạn tới đám vị thành niên khó dạy bảo như chúng tôi. Tôi không rời mắt nhìn theo họ lần bước trên lối đi gồ ghề qua bãi cát, trước khi họ được đưa vào ngôi nhà màu xanh của Ban Giám đốc, cử hành lễ nghi chào hỏi như thường lệ; ở đó chắc thể nào họ cũng được nhắc nhở phải thận trọng và kín đáo khi tiến hành nghiên cứu, trước khi họ hối hả chen nhau ra ngoài, tràn ra khắp đảo chúng tôi, rồi làm bộ rất vô tình, theo nhau sán vào bắt chuyện với bọn bạn bè tôi: thằng Pelle Kastner, thằng Eddi Sillus hay thằng Kurtchen Nickel nóng tính chẳng hạn. Có lẽ, họ quan tâm đến bọn chúng tôi như thế là vì, theo số liệu Ban Giám đốc đã thống kê, gần tám chục phần trăm những ai từng qua cải huấn trên đảo đây đều không tái phạm nữa. Nếu lão Joswig không khóa trái tôi vào phòng giam đây để viết cho bằng xong bài luận, thì bây giờ hẳn họ cũng đang bám theo tôi, dùng kính lúp khoa học của họ soi xét cuộc đời tôi và sẽ bóp đầu, xoa trán, cố vẽ cho bằng được một bức tranh về tôi. Nhưng tôi phải viết bù hai giờ Đức văn, phải nộp bài luận mà cả lão Tiến sĩ Korbjuhn gầy gò và rụt rè lẫn ông giám đốc Himpel của chúng tôi đang trông ngóng. Trên cù lao Hahnöfer-Sand cạnh đây - cũng nằm trên sông Elbe, hơi chếch về phía Twielenfleth Wischhafen, và cũng là nơi giam giữ và cải tạo tụi vị thành niên khó dạy giống như trên cù lao chúng tôi - chắc chuyện sẽ không thể như thế này. Mặc dù hai cù lao này rất giống nhau, mặc dù cả hai đều bị bao quanh bởi thứ nước loang váng dầu như nhau, mặc dù cả hai cù lao cùng chứng kiến những con tàu như nhau chạy qua, được cùng một đám hải âu ghé đậu, song trên cù lao Hahnöfer-Sand không có lão Tiến sĩ Korbjuhn, không có giờ Đức văn, không có những đề luận ghê gớm đến mức, tôi thề không nói ngoa chút nào, làm đa số bọn chúng tôi phải đau đớn về thể xác như thế này. Bởi vậy, nhiều đứa trong bọn chúng tôi mong được cải tạo trên cù lao Hahnöfer-Sand hơn, nơi tàu viễn dương trên đường ra biển chạy qua trước và cũng là nơi ngọn lửa phần phật ồn ào trên ống khói nhà máy lọc dầu luôn luôn vẫy chào từng người một ấy. Mời các bạn đón đọc Giờ Đức văn của tác giả Siegfried Lenz & Hoàng Đăng Lãnh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Quyến Rũ Người Đẹp - Sherry Thomas
Tên ebook: Quyến rũ người đẹp (full prc, pdf, epub) Tác giả: Sherry Thomas Thể loại: Lãng mạn, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây Người dịch: Lộc Diệu Linh Nhà xuất bản: Văn Học Ngày xuất bản: 11/2013 Số trang: 314 Kích thước: 13.5 x 20.5 cm Trọng lượng: 330 gr Hình thức: bìa mềm Chủ dự án: Phi Phi Yên Vũ Chụp pic: Trần Nguyễn Bảo Ngọc Type: Annabelle Tran, Thuytranish vvp, Thu Thảo, Prince Ashitaka, Green Grass, Huong Quynh, Thien Huong Do Beta: Huỳnh Trinh Tạo ebook: Annabelle Tran Nguồn: Hội làm ebook free Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Ebook Quyến Rũ Người Đẹp - Sherry Thomas Giới Thiệu: Quyến Rũ Người Đẹp là câu chuyện hấp dẫn về hai con người thờ ơ với sức lôi cuốn của tình yêu và sắc đẹp. Kết quả của một hành động trả thù lại hóa ra lại là một cuộc tình không thể nào quên. Dối trá, bí mật và những hứa hẹn nhiều hơn nữa đan xen vào nhau khiến người đọc không thể rời mắt khỏi trang sách. Công tước của Lexington bị hút hồn khi gặp nữ nam tước bí ẩn von Seidlitz-Hardenberg trên một chuyến tàu xuyên Đại Tây Dương. Cô là chính xác những gì anh đang tìm kiếm - một phụ nữ xinh đẹp khiến anh thích thú và hiếu kỳ. Anh yêu say đắm và ngay lập tức sẵn sàng cầu hôn. Nhưng cô biến mất không để lại một dấu vết... Trong thực tế, "nữ nam tước" là Venetia Easterbrook - một góa phụ trẻ đứng đắn đang âm mưu sắp đặt một cuộc tình với công tước vì những lý do trả thù riêng. Nhưng kế hoạch đã phản lại chính cô. Venetia đã ngã lòng với người đàn ông cô khinh bỉ, và không thể đoán định được chuyện gì sẽ xảy ra khi anh nhận ra danh tính thật của cô. Phải chăng sắc đẹp là nguồn gốc của tội lỗi và tất cả người đẹp đều phù phiếm và không đáng tin? Anh - Christian de Montfort, Công tước xứ Lexington là người đàn ông mà mọi phụ nữ mơ ước nhưng lại không thể có được người phụ nữ kiêu kỳ trong mơ của mình. Nàng hiện hữu, theo anh vào mỗi giấc mơ, đánh thức những khát khao và ham muốn thầm kín nhất trong suốt mười năm ám ảnh… Cho đến khi anh gặp cô ấy – người phụ nữ mang tấm mạng che mặt bí ẩn với sức cuốn hút khó cưỡng của một trái tim phóng khoáng, niềm đam mê những mẩu hóa thạch trong khi cố gắng tỏ ra tự tin để che đi những nỗi sợ hãi mơ hồ. Mười năm và bảy ngày. Hai người phụ nữ. Christian rung động. Anh đắm say nhan sắc của nàng bất chấp tai tiếng, vẫn run rẩy mỗi khi đứng trước mặt nàng, vẫn không ngừng rơi vào cảm giác bay bổng đến tê liệt cho dù thứ anh biết chỉ là khuôn mặt xinh đẹp khiến anh mất kiểm soát. Và anh yêu cô ấy, không nhan sắc, không tên tuổi nhưng lại đem đến cho anh những khoảnh khắc thăng hoa trong hành trình ngắn ngủi xuyên Đại Tây Dương. Bảy ngày, với nhục cảm, chỉ có hai người với những câu chuyện nhỏ đồng cảm đến tận cùng trái tim. Venetia đã sống cả đời với nhan sắc thu hút mọi ánh nhìn và nàng cũng sống trọn vẹn với vị trí của một phu nhân đánh mất chính mình, khuất phục trước người chồng đầy định kiến và khắc nghiệt. Venetia đã quen với những lời nói dối để bảo vệ người khác rồi tự làm thương tổn mình, quen với sự vặn vẹo từ những người xa lạ, thậm chí là từ người đàn ông nàng yêu. Vậy nên với Christian, nàng buông mình trong cảm xúc, tổn thương và mâu thuẫn. Tình yêu ẩn giấu dưới sự bí ẩn của tấm mạng che mặt, của những nỗi đau không lời đằng sau vẻ đẹp của người phụ nữ, của những khát khao yêu thương bị kìm nén và khinh miệt, của những hành động cao đẹp bị phỉ báng nhân danh danh dự… Và Venetia không còn cách bảo vệ mình nào khác ngoài việc mang lên mặt tấm mặt nạ của Người đẹp Kiêu kỳ dù tấm mặt nạ ấy, khi mọi chuyện kết thúc, sẽ là trò chơi khăm đau đớn nàng tự dành cho mình. Mời các bạn đón đọc Quyến Rũ Người Đẹp của tác giả  Sherry Thomas.
Cư xử như đàn bà, Suy nghĩ như đàn ông - Steve Harvey
Tên eBook: Cư xử như đàn bà, Suy nghĩ như đàn ông (full prc, pdf, epub) Tác giả : Steve Harvey Thể loại: Hài hước, Tình cảm, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây   Công ty phát hành: Nhã Nam   Nhà xuất bản: NXB Thanh Niên   Trọng lượng vận chuyển: 400 g   Kích thước: 13 x 21 cm   Dịch giả: Trần Hoa   Số trang: 315   Ngày xuất bản: 02/2011   Hình thức: Bìa mềm   Giá bìa: 58.000 ₫   Nguồn: thuvien-ebook.com   Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Bìa sách Cư xử như đàn bà, Suy nghĩ như đàn ông Giới thiệu:   Là chủ chương trình Buổi sáng của Steve Harvey nổi tiếng khắp nước Mỹ, Steve Harvey đã được tiếp xúc với vô số phụ nữ trong suốt nhiều năm, thông qua chuyên mục Lá thư Dâu tây mà ông phụ trách hoặc qua những chuyến lưu diễn hài kịch ở nhiều nơi. Những phụ nữ đó có thể đồng thời vừa làm chủ một doanh nghiệp, vừa chăm sóc một gia đình với ba đứa con, vừa tham gia các hoạt động xã hội khác. Nhưng điều đó cũng chưa bao giờ khiến những mối quan hệ với đàn ông trở nên dễ dàng đối với họ. Tại sao vậy? Theo Steve, đó là bởi vì họ đều tìm lời khuyên ở những phụ nữ khác, trong khi chỉ một người đàn ông mới có thể cho họ biết cách tìm thấy và giữ chân một người đàn ông đáng giá. Trong Cư xử như đàn bà, suy nghĩ như đàn ông, Steve cho phụ nữ thấy bên trong suy nghĩ của đàn ông.   Với cách viết dễ chịu như trò chuyện, tăng gia vị bằng sự hài hước của một ngôi sao hài kịch, Steve Harvey trong Cư xử như đàn bà, suy nghĩ như đàn ông giống một người bạn thân hơn là một chuyên gia tâm lý. Bằng cách đó, cuốn sách đã được đón nhận nồng nhiệt tại Mỹ với 22 lần in lại trong vòng chưa đầy một năm.   Tác giả: Tác giả Steve Harvey   Broderick Steven "Steve" Harvey (sinh ngày 17 tháng Một năm 1957) là một diễn viên, ngôi sao hài kịch, người dẫn chương trình truyền hình và truyền thanh nổi tiếng tại Mỹ. Sinh ra tại Welch, Tây Virginia rồi chuyển tới Ohio, ông theo học Đại học Kent State và Đại học Tây Virginia. Trước khi trở thành một ngôi sao trong ngành giải trí Harvey đã từng thử rất nhiều nghề, bao gồm cả làm võ sĩ quyền anh và nhân viên bán bảo hiểm. Hiện tại ông đang làm chủ chương trình Buổi sáng với Steve Harvey. Cư xử như đàn bà, suy nghĩ như đàn ông là cuốn sách đầu tiên của Harvey, nhưng đã đưa ông vào hàng ngũ những tác giả best seller của cả nước Mỹ và quốc tế.   Mời các bạn đón đọc Cư xử như đàn bà, Suy nghĩ như đàn ông của tác giả Steve Harvey.
Túp Lều Bác Tom - Harriet Beecher Stowe
Tên Ebook: Túp Lều Bác Tôm Tác giả: Harriet Beecher Stowe   Thể loại: Tiểu thuyết, Kinh điển, Văn học phương Tây   Nguồn: e-thuvien.com   Ebook: http://www.dtv-ebook.com   Ebook Túp Lều Bác Tôm full prc pdf Giới Thiệu: Túp lều của bác Tom (tên tiếng Anh: Uncle Tom's Cabin), còn được gọi với tên là Cuộc sống giữa những lầm than (tiếng Anh: Life Among the Lowly) Là một tiểu thuyết chống chế độ nô lệ tại Hoa Kỳ của nhà văn Harriet Beecher Stowe người Mỹ. Được xuất bản vào năm 1852, cuốn tiểu thuyết đã có ảnh hưởng sâu sắc đến quan điểm đối với những người Mỹ gốc Phi và tình cảnh nô lệ ở Hoa Kỳ, làm tăng thêm sự xung đột giũa các tầng lớp dẫn đến Nội chiến Mỹ, theo Will Kaufman. Nhà văn Stowe là một người hoạt động chống lại sự nô lệ, đã làm nổi bật trong tiểu thuyết của mình nhân vật bác Tôm, một nô lệ da đen phải lìa bỏ vợ con, bị bán từ nơi này sang nơi khác, bị đánh đập tàn nhẫn. Tiểu thuyết mô tả sự độc ác, tàn bạo có thật của sự nô lệ, đồng thời cũng khẳng định tình yêu thương có thể vượt qua mọi thứ để chiến thắng, lật đổ sự nô dịch hoá trong xã hội loài người. N.xét cá nhân : Thực tế thì quyển sách này đã được dựng thành phim và bản thân cũng tìm kiếm rất nhiều nhưng vì là phim đen trắng nên tìm mãi mà vẫn chưa ra. Mời các bạn đón đọc Túp Lều Bác Tôm của tác giả Harriet Beecher Stowe.