Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Lữ Hành Kỳ Dị - Harold Robbins

Đọc lại "Người lữ hành kỳ dị" của Harold Robbins, thấy mình cũng kỳ dị chẳng kém. Cuốn truyện dày gần 900 trang, đã được đọc đi, đọc lại trong nhiều năm nay. Mỗi lần đọc lại phát hiện ra những thông điệp mới của cuốn truyện.  Kỳ lạ, cuốn truyện đầy ngập những xác chết, rất nhiều người chết, trai có, gái có, già có, trẻ có, đột tử có, phải nằm liệt trước khi chết có, chết bệnh có, mà tự tử cũng có nữa. Thế mà tuyệt nhiên không ở trang nào có chỗ cho sự bi quan. Bao trùm cả cuốn truyện là sự phấn đấu liên tục, bền bỉ, kiên trì, dũng cảm, khôn ngoan và đầy mưu lược để chiến thắng số phận, giành và giữ lấy những thứ của mình. Càng kỳ lạ hơn, là chỉ đến hôm nay, mình lần đầu tiên chú ý tới triết lý sống rõ ràng ấy. Mình đã từng yêu "Người lữ hành" vì nó là cuốn truyện đậm đặc màu sắc tâm lý, miêu tả tinh tế về mâu thuẫn nội tâm, để rồi lý giải đầy thuyết phục, đầy tính người về bản năng, về đạo đức, về ranh giới thiện ác.  Rồi về cái đẹp nữa chứ. Ca ngợi cái đẹp nhiều đến thế là cùng.  Cuốn truyện sẽ khiến bạn phải đứng trước gương, phải nhìn ngắm bản thân kỹ hơn và cảm ơn tạo hóa nhiều hơn vì đã sinh ra bạn như bạn đang có.  Đọc những dòng này, các bạn chớ có đi tìm mua "Người lữ hành", vì cuốn truyện sẽ nhanh chóng làm bạn thất vọng, bởi rất nhiều lý do: nó quá dày, văn phong của nó khá dài dòng, cốt truyện và nhân vật phức tạp, cách kể truyện không liền mạch, lối viết bất chấp thời gian, thậm chí luôn bỏ rơi nhân vật.  Đừng vội đọc cuốn truyện, cho đến khi bạn có một bản lĩnh đủ kiên cường, một tâm lí đủ bình tĩnh và một trái tim đủ nhân hậu. ANN *** Harold Robbins là một tác giả người Mỹ của tiểu thuyết nổi tiếng. Một trong những nhà văn bán chạy nhất mọi thời đại, ông đã viết hơn 25 cuốn sách bán chạy nhất, bán được hơn 750 triệu bản bằng 32 ngôn ngữ.  *** “Người lữ hành kỳ dị” bản dịch tiếng Việt của Mạnh Hà, Thanh Sơn, theo tôi là một bản dịch dở, người dịch có lẽ chưa từng sống ở Mỹ và cũng ít hiểu biết về văn hóa Mỹ. Ngay cả cái tựa, chỉ nên dịch là “những kẻ lữ hành”, tôi không hiểu sao lại thêm chữ “kỳ dị” vào đây, nghe rất là lá cải. Bản dịch tiếng Việt có lẽ đã làm mất gần hết tính văn học (vốn rất ít ỏi) của tiểu thuyết này, nhưng khổ nỗi, vì câu chuyện mà Harold Robbins kể, nó cực kỳ hấp dẫn, đến nỗi người đọc bị câu chuyện cuốn đi từ những trang đầu tiên cho đến trang cuối cùng mà không thèm quan tâm đến những cái tên chuyển ngữ rất kệch cỡm, kiểu như: Giônơx, hoặc những đoạn tả cảnh được dịch sượng sạo, hay những đối thoại đậm chất Mỹ bị biến dạng khi chuyển ngữ. Harold Robbins không kể một câu chuyện, không có một cốt truyện xuyên suốt như bản dịch “Người lữ hành kỳ dị” muốn ám chỉ. Harold Robbins viết lại một phần lịch sử nước Mỹ, từ sau thế chiến thứ nhất đến hết thế chiến thứ hai, xảy ra trong một vùng đất rộng lớn kéo dài từ NY đến phía tây. Harold Robbins không kể một cuộc đời, ông viết về nhiều cuộc đời, mà từ góc nhìn của họ, lịch sử và những biến động lịch sử được nhìn thấy và tương tác một cách khác nhau: một nhà tư bản thành công, một cô đào nổi danh, một tiểu thư khuê các, một đạo diễn tài năng, một gã da đỏ nổi tiếng, một cô điếm sang trọng, một kẻ cơ hội chuyên nghiệp…. tất cả đều là nhân vật chính, họ đều là “những kẻ lữ hành”, nếu dịch theo tựa của tôi. Lịch sử của Harold Robbins là lịch sử của ngành dầu mỏ, vũ khí, hàng không, điện ảnh…, là người Do Thái và cuộc thế chiến thứ hai, là cuộc khủng hoảng tài chính kinh hoàng… và các nhân vật nổi tiếng trong giai đoạn đó lần lượt xuất hiện đầy ấn tượng trong “những kẻ lữ hành”, vẫn nhắc lại là nếu dịch theo tựa của tôi. Tôi không thích cái tựa, tôi chưa hài lòng bản dịch, tính văn học của tiểu thuyết không cao, lịch sử Mỹ không hấp dẫn tôi, những cuộc đời cũng không làm tôi ngưỡng mộ… vậy tiểu thuyết này có gì khiến tôi lấy cái tựa (rất dở) của nó làm tiêu đề cho blog mình. Tất nhiên là tôi có lý do, một lý do rất cá nhân. Trong suốt câu chuyện lịch sử, xuyên qua và kết nối những cuộc đời, chủ đạo và kết cục cho những biến cố, làm gút thắt mở cho những sự kiện… là một không khí giản đơn và đậm chất miền tây, miền tây nước Mỹ cũng giống miền tây nước Việt: một không khí phóng khoáng, hào sảng, đậm đà tình nghĩa… tôi đã hít thở trong bầu không khí đó, nó cho tôi ô xy, nuôi tôi lớn lên và sống với nó… Tôi muốn mình sẽ luôn như vậy, blog mình sẽ là một chốn như vậy, một lần nữa xin cảm ơn bạn Land đã tặng tôi bản sách cũ, có lẽ là bản in đầu tiên, vô cùng giá trị.  Mời các bạn đón đọc Người Lữ Hành Kỳ Dị của tác giả Harold Robbins.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bản Tin Chiều - Arthur Hailey
Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... *** Partridge biết anh đã tính toán sai. Họ đã bi chậm rất nhiều. Cái anh không tính tới khi chọn Sion thay vì chọn điểm hẹn gần hơn là xuồng gặp sự cố. Việc đó xảy ra khoảng hai tiếng sau khi rời Nueva Esperanza, tức là còn một tiếng nữa mới đến chỗ họ bỏ thuyền lên bờ và bắt đầu đi bộ tới điểm đỗ máy bay. Cả hai máy vẫn đang hoạt động bình thường tuy kêu hơi to, thì bỗng chuông trong máy bên trái xuồng réo ầm lên, Ken O’Hara lập tức giảm ga, về số không, và tắt máy. Chuông và máy đều im lặng. Chiếc máy ở mạn phải vẫn tiếp tục hoạt động, nhưng lúc này xuồng chạy chậm hẳn lại. Partridge bước về phía cuối xuồng và hỏi O’Hara: "Sao thế? Liệu có sửa được không?". "Tôi e rằng không", O’Hara trả lời. Anh đã tháo nắp máy và đang xem xét bên trong. "Máy nóng quá, vì thế chuông báo. Nước làm mát máy rất trong, chứng tỏ bơm đã hỏng. Cho dù tôi đủ dụng cụ tháo rời máy ra, có thể vẫn cần phụ tùng thay thế. Mà chúng ta không có cả hai thứ…". Anh bỏ lửng không nói hết câu. "Tức là chắc chắn không thể chữa được nữa?". O’Hara lắc đầu: "Rất tiếc là vậy, Harry ạ". "Nếu cứ cho chạy tiếp thì sao?". "Máy sẽ hoạt động một thời gian ngắn, rồi lại bị nóng. Sau đó máy quá nóng, pittong và xilanh chảy dính với nhau. Rồi chỉ còn mỗi một việc là quẳng ra bãi rác". "Cho chạy đi", Partridge bảo. "Nếu không còn cách nào khác, cứ chạy được chừng nào hay chừng ấy". "Được thôi, anh là thuyền trưởng mà", O’Hara trả lời, mặc dù anh rất ghét làm hỏng chiếc máy, mà giá ở hoàn cảnh khác vẫn chữa chạy được. ... Mời các bạn đón đọc Bản Tin Chiều của tác giả Arthur Hailey.
Bệnh Nhân Người Anh - Michael Ondaatje
Bệnh nhân người anh là tác phẩm đầy chất thơ về số phận của bốn con người gặp nhau nơi một tòa biệt thự bỏ hoang ở vùng đồi nước Ý trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh Thế giới thứ hai. Câu chuyện như những trang sách được lật giở ngẫu nhiên dần hé mở tâm trạng và cuộc đời của từng nhân vật: Hana, cô y tá với những chấn thương tinh thần, một mực ở lại chăm sóc ông bệnh nhân người Anh khi những người khác trong bệnh viện dã chiến này đã chuyển đi; Caravaggio, một tên trộm, một cựu điệp viên, bị chặt đứt hai ngón tay cái trong một lần bị địch bắt; Kip, anh lính công binh gỡ bom người Ấn dè dặt với người phương tây; và bệnh nhân người Anh, nhân vật trung tâm, bị bỏng đến mức không còn nhận diện được, một ẩn số giữa họ... Bệnh nhân người Anh bí ẩn - ông thực sự là ai? Câu trả lời sẽ được hé lộ qua từng mảnh ký ức giống như tia chớp thi thoảng lé lên trong ông. Ký ức về cuộc đời phiêu lưu và mối tình mãnh liệt nhưng đau đớn của ông sẽ dẫn người đọc bước vào một mê cung cảm xúc rối rắm nhưng đầy thú vị. Hãy cùng đọc, khám phá và suy ngẫm... *** "Bệnh nhân người Anh (The English Patient) là một tác phẩm hấp dẫn của tiểu thuyết - cả với thơ ca và triết học”, Helena Kennedy - chủ tịch Quỹ Giải thưởng Booker cho biết. Bệnh nhân người Anh lấy bối cảnh những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh Thế giới II khốc liệt, một chiếc máy bay bị bắn hạ và rơi xuống khu vực sa mạc Sahara. Trong chiếc máy bay là một người phụ nữ đã chết và một người đàn ông bị bỏng nghiêm trọng. Anh ta được gọi là "bệnh nhân người Anh" và được chuyển cho y tá Hana chăm sóc tại một biệt thự ở Ý bị hủy hoại. Nhưng ở nơi hoang vu đó, những cuộc tình nên thơ vẫn đâm chồi nảy nở. Đó là mối tình đẹp nhưng buồn của nữ y tá Hana với chàng trung sĩ phá mìn Kip, là mối tình buồn được ghi chép trong những trang nhật ký của bệnh nhân người Anh - Laszlo de Almasy với cô gái Katharine Clifton. Bệnh nhân người Anh đã đoạt nhiều giải thưởng và được dịch ra hơn 300 ngôn ngữ khác nhau, nhưng có lẽ bản chuyển thể tốt nhất là khi nó trở thành một bộ phim kinh điển của đạo diễn Anthony Minghella năm 1996. Bộ phim giành được 9 giải Oscar, 2 giải Quả cầu vàng và 6 giải BAFTA cho phim hay nhất năm 1997. *** Philip Michael Ondaatje, CC FRSL, là một nhà thơ, nhà văn tiểu thuyết, nhà tiểu thuyết, tiểu thuyết gia, nhà biên tập và nhà làm phim người Canada gốc Sri Lanka. Ông là người nhận được nhiều giải thưởng văn học như Giải thưởng của Toàn quyền, Giải thưởng Giller, Giải thưởng Booker và Giải thưởng Médicis étranger. Mời các bạn đón đọc Bệnh Nhân Người Anh của tác giả Michael Ondaatje.
Thành Phố Sau Ánh Hào Quang - Denley Lupin
Cuộc đời này những gì đến và đi không phải lúc nào chúng ta cũng có thể quyết định. Điều gì đang có nên trân trọng, thứ gì ra đi nên cảm ơn vì ý nghĩa nó từng đem đến. Nữ tác giả viết: “Thế giới này, chính vì có những con người dám ước mơ, dám thực hiện, dám chấp nhận thất bại nên mới có những phát minh vĩ đại. Bạn không cần trở thành vĩ nhân, hay trở thành người kiến tạo thế giới. Bạn chỉ cần sống đúng với mong ước cuộc đời của riêng bạn, sống một cuộc sống không phải hối hận, là đã đủ hạnh phúc rồi. Hãy theo đuổi hành trình ước mơ của bạn, lên kế hoạch và bắt tay thực hiện nó”. Những trang viết tràn đầy nhiệt huyết tuổi trẻ, sống hết mình với tuổi trẻ và không bao giờ hối tiếc hay phải nói hai từ “giá như”. *** Ba năm sau. M.Y.S đã trở thành nghệ sĩ hàng đẩu ở thời điểm hiện tại. Là con át chủ bài của JND, danh tiếng chẳng hề thua kém gì đàn anh Nam Phong hay Winter ở thời kỳ đỉnh cao. Có thể xem cô là nữ nghệ sĩ xuất sắc nhất trong lịch sử JND. M.Y.S được săn đón ở khắp mọi nơi nhưng cô luôn chọn cho mình lối sống khá kín đáo sau ánh hào quang. Nam Phong đã lặng lẽ rời khỏi làng giải trí. Đã hai năm qua anh tham gia một tổ chức phi chính phủ, giúp đỡ người khó khăn ở nhiêu nước nghèo đói. Có lẽ danh vọng, sự nổi tiếng trong showbiz đã chẳng còn sức hút với anh. Khi mọi thứ đã đạt được, đã ở đỉnh cao, anh chỉ mong muốn quay về làm những điêu giản dị như cách để trả ơn xã hội, để tìm ra giá trị của cuộc sống. ... Mời các bạn đón đọc Thành Phố Sau Ánh Hào Quang của tác giả Denley Lupin.
Âm Điệu Bóng Đêm
Trong suốt sự nghiệp viết lách nổi tiếng của mình, Julie Garwood đã làm say mê độc giả với những nhân vật hấp dẫn, táo bạo và bùng nổ với cuộc sống. Giờ đây, tiểu thuyết gia nổi tiếng Julie Garwood đã trở về với câu chuyện tình lãng mạn lịch sử, một câu chuyện ly kỳ về tình yêu, giết người, phiêu lưu và bí ẩn chống lại khung cảnh ám ảnh của Scotland thời trung cổ. Đối với Công chúa Gabrielle của St. Biel, Scotland là vùng đất của những khung cảnh tuyệt đẹp, những thủ lĩnh hoang dã, những ánh mắt xảo quyệt, và những bóng tối dốc đứng, skullduggery, phản bội, và giờ là giết người. Được tôn vinh bởi vẻ đẹp tinh tế của mình, con gái của một trong những nam tước có ảnh hưởng nhất nước Anh, Gabrielle cũng là một con bài mặc cả hoàn hảo cho một vị vua cần hòa bình ở vùng núi cao: Vua John đã sắp xếp cuộc hôn nhân của Gabrielle đến một người phụ nữ tốt bụng và hiền lành. Nhưng cuộc hôn nhân này sẽ không bao giờ diễn ra. Mọi thứ thay đổi trong một đợt tự do cuối cùng khi cô và những người bảo vệ của mình bắt gặp một cảnh tàn ác không thể tưởng tượng được. Với một phát bắn từ cây cung và mũi tên của mình, Gabrielle lấy mạng, cứu mạng và bắt đầu một cuộc chiến.Trong vài ngày, vùng núi cao rực lửa một trận chiến hoàng gia bùng lên giữa kẻ thù cũ và mới. Đến Scotland để kết hôn, thay vào đó, Gabrielle bị vướng vào mưu đồ ở vùng cao. Đối với hai nhà quý tộc tàn bạo, việc đánh giá thấp sự dũng cảm và năng lực của Gabrielle có thể sẽ dẫn đến cái chết, nhưng nhờ có một bí mật mà Gabrielle sở hữu , Colm MacHugh - người đàn ông đáng sợ nhất ở Scotland, đã tìm ra một nguyên nhân mới cho sự can đảm. Một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn đi sâu vào trái tim của những cảm xúc, niềm đam mê bất khuất của tình yêu, thù hận và sự trả thù. “Âm điệu bóng đêm” là món quà tuyệt vời từ Julie Garwood và một thành tựu đáng nể trong sự nghiệp tuyệt vời của cô. *** Mưa lắm rồi vào cái năm mà những cơn giông bão dữ dội tràn vào từ biển khơi, đám chiến binh đầu tiên từ vùng đất xa xôi băng đồi vượt núi và đặt chân lên bờ biển của chúng ta. Với vũ khí bằng thép đeo trước ngực và bộ giáp được đánh bóng sáng lấp lánh tựa như mảnh kính vỡ dưới ánh mặt trời ban trưa, chúng tuần hành khắp những nơi mà mắt có thể nhìn thấy được. Chúng không cần hỏi han cũng chẳng hề quan tâm rằng mình đang xâm lược. Nói cách khác, chúng đang thi hành nhiệm vụ và chẳng gì có thể ngáng đường chúng. Băng qua đồng bằng của chúng ta, chúng chiếm đoạt ngựa và thức ăn, dẫm đạp lên hoa màu, cướp phụ nữ và giết rất nhiều những trai tráng khỏe mạnh. Chúng hủy diệt tất cả những nơi chúng đi qua… tất cả đều nhân danh Đức Chúa Trời. Chúng tự gọi mình là đội quân Thập Tự Chinh. Chúng cực kỳ tin tưởng rằng sứ mệnh của mình vô cùng thiêng liêng và tốt đẹp vì Đức Giáo Hoàng, người đã ban phước lành và ra lệnh cho chúng thực hiện cuộc hành trình đến phía bên kia của thế giới, đã nói với chúng như thế. Chúng phải trừng phạt những kẻ ngoại đạo và buộc họ phải tôn thờ Đức Chúa Trời và tín ngưỡng của chúng. Nếu những người ngoại đạo từ chối, những binh lính kia sẽ giết họ bằng thanh kiếm thiêng liêng được ban phước của mình. Vượt qua những ngọn núi của chúng ta là con đường duy nhất để đội quân Thập Tự Chinh tiến hành sứ mệnh của chúng, thế là chúng đi thành từng đoàn và khi chúng đặt chân đến bến cảng ở bên kia dãy núi, chúng đánh cắp tàu của chúng ta để giương buồm vượt đại dương đến nơi mà chúng cần đến. Đất nước nhỏ bé của chúng ta được gọi là Monchanceux, được cai trị bởi đức vua Grenier nhân từ. Ngài là người yêu quê hương và muốn bảo vệ nó. Chúng ta chẳng phải đất nước giàu có gì, nhưng chúng ta hài lòng với nó. Thế là đủ. Khi lũ xâm lược cướp bóc của chúng ta, đức vua rất phẫn nộ, nhưng ngài không để cho cơn giận dữ sai khiến. Vì ngài là một đấng minh quân, đức vua Grenier đã đưa ra một giải pháp. Ngài buộc tốp lính xâm lược tiếp theo phải trả phí khi vượt núi. Đường núi chật hẹp, nên có thể dễ dàng phòng thủ. Binh lính của chúng ta được trang bị để chống lại cái lạnh, tuyết và những cơn gió cắt thịt về đêm. Họ có thể bảo vệ rặng núi suốt hàng tháng trời và mùa đông sẽ đến rất nhanh. Kẻ dẫn đầu đoàn xâm lược vì chính nghĩa kia cảm thấy bị xúc phạm khi phải trả phí cho thứ gì đó. Hắn và binh lính của mình đang thực hiện một nhiệm vụ cao cả. Hắn dọa sẽ giết hết tất cả những người dân của Monchanceux, kể cả phụ nữ và trẻ em, nếu bọn chúng bị cản đường. Liệu đức vua Grenier và thần dân của mình có nhận ơn huệ của Giáo hội, hay họ chọn làm những kẻ ngoại đạo ngáng đường của Chúa? Câu trả lời sẽ quyết định số phận của họ. Ngay thời điểm mấu chốt ấy đức vua nhân từ và thông minh của chúng ta đã tiếp nhận tín ngưỡng. Ngài nói với kẻ dẫn đầu đội quân rằng ngài và tất cả thần dân của mình đều thuộc về Chúa và ngài sẽ chứng minh điều đó bằng bất cứ giá nào. Sau đó, Ngài cho gọi tất cả người dân của Monchanceux tập hợp trước ban công của cung điện. Kẻ cầm đầu đoàn quân Thập Tự Chinh đứng ngay sau ngài. “Kể từ giờ trở đi đất nước của chúng ta sẽ mang tên St. Biel, nhân danh vị thánh đỡ đầu của gia tộc ta. Người sẽ phù hộ cho những người vô tội,” đức vua Grenier tuyên bố. “Chúng ta sẽ dựng tượng thánh St. Biel và vẽ tranh của Người trước cửa thánh đường để bất cứ ai đặt chân đến với bờ biển của chúng ta đều sẽ thấy được sự tốt đẹp của Người, chúng ta sẽ cống nạp cho Đức Giáo Hoàng để tỏ lòng thành kính và sự phục tùng của chúng ta. Số lệ phí mà ta thu được sẽ dùng để cống nạp.” Kẻ cầm đầu đám ngoại xâm nhận ra rằng mình đang trong tình thế khó xử. Nếu hắn từ chối trả phí – bằng vàng, đương nhiên, đức vua sẽ không chấp nhận thứ gì khác – vậy khác nào hắn từ chối việc cho phép nhà vua cống nạp cho Đức Giáo Hoàng? Và nếu Đức Giáo Hoàng biết được hắn đã từ chối, Giáo Hoàng sẽ làm gì? Khai trừ hắn? Xử tử hắn? Sau một đêm dài suy ngẫm và quát tháo không ngừng, kẻ cầm đầu đoàn quân đã quyết định trả phí. Đó là một sự kiện trọng đại, một tiền lệ đã được đặt ra kể từ thời khắc đó, bất cứ quân Thập Tự Chinh nào muốn đi qua lãnh thổ của chúng ta đều phải trả phí mà không có bất cứ thắc mắc nào. Đức vua của chúng ta đã giữ đúng lời hứa. Ngài đã nung chảy vàng và làm chúng thành những đồng tiền nhỏ, trên mỗi đồng tiền đều có hình thánh St. Biel, với vầng hào quang trên đầu. Kho bạc hoàng gia phải mở rộng để làm phòng chứa những đồng tiền vàng, một con tàu được chuẩn bị cho chuyến hành trình dâng chúng đến tay Đức Giáo Hoàng. Một ngày trọng đại, những chiếc rương thật nặng được chất xuống hầm tàu, đám đông dân chúng tụ tập tại bến cảng để nhìn chuyến tàu khởi hành đến Rome. Ngay sau cái ngày lịch sử ấy, những tin đồn bắt đầu lan truyền. Chẳng ai có thể chắc chắn mình đã thật sự nhìn thấy số vàng hay ước lượng được bao nhiêu vàng đã được chuyển đi. Vài sứ thần tuyên bố rằng chỉ một khoản rất nhỏ đến được tay Giáo hoàng. Những lời bàn tán về tài sản khổng lồ của đức vua chúng ta dâng lên rồi hạ xuống như những đợt thủy triều vỗ vào bờ của chúng ta. Cuối cùng, một con đường ngắn hơn để đến vùng đất Thánh được tìm ra, đội quân Thập Tự Chinh không còn đi qua đất nước của chúng ta nữa. Chúng ta vô cùng biết ơn sự vắng mặt này. Tuy nhiên, chúng ta vẫn không được yên bình. Cứ cách vài năm lại có người đến để tìm kiếm số vàng trong truyền thuyết. Một vị bá tước từ Anh quốc tìm đến vì đức vua của ông ta đã nghe được tin đồn, nhưng sau khi người trị vì của chúng ta cho phép ông ta thực hiện một cuộc tìm kiếm toàn diện trong cung điện và các căn cứ, vị bá tước nói với ngài rằng ông ta sẽ trở về Anh quốc với tin tức: không có kho báu nào được tìm thấy. Bởi đức vua Grenier quá hiếu khách, vị bá tước đã lên tiếng cảnh báo ngài rằng hoàng tử John của Anh quốc đang có ý định xâm lược St. Biel. Hoàng tử John, vị bá tước giải thích, muốn thống trị thế giới và đang nóng lòng được kế thừa chiếc vương miện của Anh quốc. Vị bá tước kia tin chắc rằng St. Biel sẽ sớm trở thành một thuộc địa khác của Anh quốc mà thôi. Cuộc xâm lược đến vào một năm sau đó. Khi St. Biel chính thức thuộc về Anh quốc, cuộc tìm kiếm số vàng bị giấu lại được tiếp tục. Những người tham gia cuộc truy lùng thề rằng không có một viên đá nào chưa bị lật lên. Nếu thật sự từng có kho báu nào đó, thì nó đã biến mất. Mời bạn đón đọc Âm Điệu Bóng Đêm của tác giả Julie Garwood.