Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phiêu lưu vào mỏ than Aberfoyle - Jules Verne

Câu chuyện được khởi đầu từ hai bức thư có nội dung mâu thuẫn nhau mà kỹ sư James Starr nhận được trong cùng một ngày. Một là của người thợ mỏ già Simon Ford kêu gọi ông tới ngay mỏ than Aberfoyle nơi ông đã từng làm việc mấy chục năm về trước để chứng kiến những điều kỳ diệu đang xảy ra, hai là một bức thư nặc danh không người gửi với nội dung đe dọa và ngăn cản việc kỹ sư tới đó. Từ hai bức thư đó đã thôi thúc trí tò mò của ông và ông đã quyết định tới mỏ than theo lời mời gọi của người bạn già. Điều gì sẽ xảy ra... Với một quyết tâm sắt đá, kỹ sư James Starr cùng gia đình nhà Simon Ford lao vào một cuộc phiêu lưu mạo hiểm, cuộc phiêu lưu mà họ có thể phải trả giá bằng mạng sống của mình, để khám phá ra những điều bí ẩn nói trên. Liệu họ có đạt tới mục đích cao cả sau cùng? Với văn tài riêng biệt của ông về thể loại tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm, viễn tưởng, Jules Verne lại một lần nữa dẫn dắt chúng ta vào thế giới kỳ vĩ ẩn sâu trong lòng đất của vùng than Aberfoyle, một vùng mỏ giàu có của xứ Scotland thuộc vương quốc Anh. *** Kính gửi kỹ sư J. R. Starr K Số 30 Canortgate - Edimbourg Nếu ngày mai, ông kỹ sư James Starr trở về khu mỏ Aberfoyle, hố Dochart, giếng Yarow, ông sẽ được biết một tin quan trọng. Ông kỹ sư sẽ được đón tại nhà ga Callander, trong suốt cả ngày. Người ra đón ngài là anh Harry Ford, con trai của người cựu đốc công Simon Ford. Chúng tôi kính mong ngài giữ kín lời mời này đứng để người khác biết. Trên đây là nội dung bức thư thứ nhất mà kỹ sư James Starr, nhận được ngày mùng 3 tháng Chạp năm 18... Ngoài bì thư có đóng dấu bưu cục Aberfoyle, quận Stirling, xứ Scotland. Trí tò mò của ông kỹ sư được kích thích cao độ. Ông không hề nghĩ là lá thư này chứa đựng một chuyện lừa phỉnh. Đã nhiều năm nay, ông quen biết Simon Ford, một trong những cựu đốc công của vùng mỏ Aberfoyle, nơi mà trong hai chục năm, ông từng làm giám đốc, hay còn gọi là quản đốc, theo cách gọi ở các mỏ than Anh quốc. James Starr là một con người có thể tạng vững chắc, vì vậy, mặc dù đã năm mươi nhăm tuổi mà trông ông cứ như đang tuổi bốn mươi. Ông thuộc một dòng họ cổ xưa vùng Edimbourg, lại là lớp người ưu tú của dòng họ. Công việc của ông đã làm vẻ vang cho toàn thể các kỹ sư khai thác mỏ than ở Vương quốc Anh, cũng như ở Cardiff, từ New Castle cho đến các quận vùng Hạ Scotland. Tuy nhiên, chính ở trong lòng các mỏ than bí ẩn vùng Aberfoyle, tiếp giáp với vùng mỏ Alloa và chiếm gần hết diện tích quận Stirling, tên tuổi của kỹ sư James Starr mới được nhiều người nhắc đến. Chính tại vùng này, ông đã sống gần hết cuộc đời mình. Người Anh đã gọi toàn thể các mỏ than rộng lớn của họ bằng một cái tên rất có ý nghĩa: “Các xứ Ấn Độ đen” ; và các xứ Ấn Độ này có thể đã đem lại cho Vương quốc Anh sự giàu có khủng khiếp còn hơn sự đóng góp của nước Ấn Độ phương Đông. Tuy nhiên sự tiêu thụ năng lượng đã gia tăng một cách đáng kể trong những năm cuối của thế kỷ. Điều này dẫn tới sự khai thác đến mức kiệt quệ của vỉa than. Giờ đây các mỏ than gần như bị bỏ trống, trơ ra những lỗ giếng toang hoác và những đường hầm vắng lặng. Đó chính là tình trạng của khu mỏ than Aberfoyle. Mười năm về trước, chiếc xe ben cuối cùng đã bóc đi tấn than cuối của mỏ. Tất cả các công cụ dùng trong việc khai thác đã được kéo lên khỏi các giếng và được vứt chỏng trơ trên mặt đất. Mỏ than cạn kiệt nom giống như những bộ xương khủng long hóa thạch. Trong số những dụng cụ đó, nay chỉ còn sót lại những chiếc thang bằng gỗ, dùng để đi xuống những hầm than sâu qua lối giếng Yarow - đó là lối duy nhất có thể dẫn vào những ngách hầm phía trong của hố Dochart, kể từ sau khi công việc khai thác mỏ đã ngưng nghỉ. Phía bên ngoài mỏ, người ta còn thấy sót lại những ngôi nhà xưởng, nơi đặt những máy khoan, những cái giếng, miệng hố dẫn vào trong hầm. Những chỗ đó nay cũng bị bỏ hoang phế như toàn bộ khu mỏ Aberfoyle vậy. Năm ấy, vào một ngày buồn, những người thợ mỏ đã từ giã mỏ than, nơi họ đã sống và làm việc trong nhiều năm tháng. Vài ngàn người thợ mỏ đang tập trung, họ là những người tích cực và quả cảm nhất của khu mỏ. Những con người tốt bụng này, đã từ nhiều năm qua, cha truyền con nối, lao động tại đây, khu mỏ Aberfoyle. Giờ đây họ náu lại để nói lời từ biệt với ông kỹ sư, một lời từ giã không hẹn ngày tái ngộ. Kỹ sư James Starr lúc này đang đứng chờ họ trước cửa những gian nhà xưởng, nơi đã bao nhiêu năm ông điều hành các cỗ máy với áp suất hơi nước cực lớn, dùng cho công việc khai thác. Simon Ford, người đốc công của hố Dochart, năm đó đã năm mươi lăm tuổi, cùng vài người cai thợ đang đứng vây quanh ông kỹ sư. James Starr tiến về phía họ. Đám thợ mỏ, ngả mũ, đứng yên lặng chờ nghe ông nói. Cái cảnh chia tay này mới cảm động và cao cả làm sao. - Thưa toàn thể các bạn, - Ông kỹ sư nói - giờ phút chia tay của chúng ta đã tới. Khu mỏ than Aberfoyle, nơi mà trong nhiều năm qua đã tập họp chúng ta lại vì công việc chung, nay đã cạn kiệt. Chẳng những chúng ta không khám phá ra được một vỉa than mới nào mà lại còn tiếp tục khai thác chỗ than cuối cùng của hố Dochart này! Giờ đây, tất cả đã cạn kiệt! Lời nói cuối cùng mà tôi dành cho các bạn là lời chào từ biệt. Tất cả chúng ta đã từng sống nhờ vào công việc khai thác than, giờ đây than đã hết. Đại gia đình của chúng ta sẽ buộc phải phân tán và trong tương lai cũng khó lòng có cơ may để tập họp lại những đứa con ly tán. Nhưng dù các bạn có đi đến bất cứ nơi nào, chúng tôi vẫn để mắt dõi theo bước đi của các bạn, và những lời dặn dò, tiến cử của chúng tôi vẫn đi theo các bạn. Giờ đây, xin từ biệt các bạn và cầu Chúa luôn ở bên các bạn! Nói xong, mắt đẫm lệ, James Starr giang rộng vòng tay ôm lấy người thợ già nhất mỏ. Kế đó, những người đốc công của các giếng khác nhau, lần lượt đến siết chặt tay ông kỹ sư, trong lúc đám thợ mỏ, giơ cao nón và reo hò: - Từ biệt ông James Starr, người giám đốc và cũng là người bạn của chúng ta! Những lời từ biệt đó, rồi đây sẽ trở thành một kỷ niệm sâu sắc trong những trái tim quả cảm. Và lần lượt kẻ trước người sau, đám thợ rời khỏi mảnh sân rộng đó. Chỉ còn lại duy nhất một người ở lại bên James Starr. Người đó chính là đốc công Simon Ford. Bên cạnh ông già là một thiếu niên, tuổi chừng mười lăm, cậu bé đó chính là Harry, con trai ông, người đã từ vài năm qua, bắt đầu học việc trong mỏ. James Starr và Simon Ford quen biết nhau từ lâu, và càng hiểu nhau, họ càng quý trọng nhau. - Từ biệt nhé, Simon - Ông kỹ sư nói. - Từ biệt ông James, - Viên đốc công đáp lại - nhưng có lẽ ông cho phép tôi nói thêm. Tạm biệt ông! - Đúng vậy, tạm biệt Simon! - James Starr tiếp lời - Chắc ông cũng hiểu là tôi sẽ vui sướng chừng nào khi gặp lại ông để ta cùng trò chuyện về khu mỏ Aberfoyle của chúng ta! - Vâng tôi biết, thưa ông James. - Đừng quên là cánh cửa ngôi nhà tôi ở Edimbourg luôn mở rộng với ông! - Edimbourg quá xa vời! - Viên đốc công lắc đầu nói. - Vâng! Thế ông dự tính sẽ cư trú ở đâu? - Ngay nơi đây, thưa ông James! Chúng tôi sẽ không rời xa khu mỏ, nơi đã nuôi nâng đời tôi, dù cho nguồn sữa mẹ đó có cạn kiệt! Vợ tôi, con trai tôi và tôi, chúng tôi sẽ thu xếp sao cho mình luôn trung thành với khu mỏ này! - Vậy thì vĩnh biệt Simon - Ông kỹ sư nói mà giọng đã nghẹn ngào vì cảm động. - Không, không phải vĩnh biệt mà là tạm biệt, thưa ông! - Viên đốc công trả lời - Ông hãy tin lời Simon Ford này là vùng mỏ Aberfoyle sẽ gặp lại ông! Đây là toàn bộ những gì đã xảy ra mười năm về trước, mặc dù ý muốn của người đốc công là sẽ sớm gặp lại, nhưng kể từ đó James Starr đã không còn nghe nói đến người đốc công này nữa. Và thế là sau mười năm xa cách, lá thư của Simon Ford đã đến tay người kỹ sư, trong thư lại khẩn khoản mời ông tới ngay mỏ than Aberfoyle. Một tin quan trọng! Nhưng tin gì mới được chứ? Hố Dochart, giếng Yarow à? Ôi! biết bao nhiêu kỷ niệm của quá khứ đã ùa về trong tâm trí ông? James Starr đọc đi đọc lại bức thư. Ông tìm cách lật đi, lật lại vấn đề theo mọi chiều hướng có thể được. Tại sao Simon lại không viết rõ thêm một chút. Ông thầm trách Simon Ford quá tiết kiệm lời nói. Rất có thể là viên đốc công này đã khám phá ra một vỉa than mới có thể khai thác? Không! “Không, ông tự nhắc lại lần nữa, không! Làm sao có thể tưởng tượng những gì mà ta đã hoài công tìm kiếm, giờ đây lại được Simon Ford phát hiện? Tuy nhiên, viên đốc công già này thừa biết trên đời này, ta chỉ quan tâm đến có một điều, rồi còn đề nghị ta giữ kín chuyện này nữa chứ...” James Starr cứ loay hoay mãi với những ý nghĩ trên. Mặt khác, người kỹ sư hiểu rất rõ Simon Ford là một người thợ mỏ khéo léo, rất có ý thức về nghề nghiệp của mình. Ông chưa bao giờ gặp lại người đốc công này kể từ khi công việc khai thác ở mỏ Aberfoyle chấm dứt. Ông cũng không rõ viên đốc công già giờ đây ra sao, hiện làm gì, ở đâu cùng với vợ con. Tất cả những gì ông biết bây giờ chỉ là một cuộc hẹn ở giếng Yarow và người con trai của Simon Ford tên là Harry sẽ chờ ông ở nhà ga xe lửa Callander suốt cả ngày mai. Rõ ràng là họ muốn mời ông đến thăm khu hố Dochart. “Ta sẽ đi, nhất định ta sẽ đi!” James Starr lẩm bẩm trong miệng, trong lòng như có lửa đốt khi thấy giờ hẹn càng đến gần. Thế nhưng, một sự cố bất ngờ đã xảy ra. Nó giống như một dòng nước lạnh làm ngưng tụ nhất thời những giọt hơi nước bốc lên trong ấm nước sôi. Thực vậy, vào khoảng sáu giờ chiều, người gia nhân đã mang đến cho ông một lá thư thứ hai. Lá thư này đựng trong một chiếc phong bì xấu xí, nét chữ đề ngoài phong bì được viết bởi một bàn tay ít khi cầm đến bút. James Starr vội xé phong bì ra. Bên trong chỉ một mẩu giấy nhỏ đã bị thời gian làm ố vàng. Hình như nó được xé ra từ một quyển tập cũ. Trên mẩu giấy đó chỉ vẻn vẹn một dòng chữ sau đây: “Kỹ sư James Starr không cần bận tâm đến lá thư của Simon Ford làm gì. Lá thư đó giờ đây không còn nói lên điều gì nữa”. Bức thư không có tên người gửi. ... Mời các bạn đón đọc Phiêu lưu vào mỏ than Aberfoyle của tác giả Jules Verne.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bên Phía Nhà Swann - Marcel Proust
"Rồi đột nhiên ký ức đó hiện ra. Mùi vị ấy chính là mùi vị mẩu bánh madeleine mà mỗi sáng chủ nhật ở Combray (vì ngày hôm ấy tôi không ra khỏi nhà trước giờ lễ mi xa), cô Léonie lại cho tôi sau khi đã chấm vào trà hoặc nước lá bồ đề, mỗi lần tôi đến chào cô trong phòng cô ở. Trước đây, khi chưa nếm vị của nó, tôi chẳng nhớ gì mỗi lần nhìn thấy cái bánh madeleine nhỏ[...] Nhưng khi, của một thời quá vãng đã chẳng còn lại một chút gì, khi người đã chết, sự vật đã bị hủy diệt, thì duy nhất vẫn còn lại đó, mỏng manh nhưng dai dẳng, không hình hài nhưng bền vững thủy chung, hương và vị vẫn còn ở đó rất lâu, như những linh hồn, để tưởng nhớ, chờ đợi và hy vọng, giữa cái hoang tàn của tất cả, và không hề nao núng, để mang trên cái giọt mong manh của chúng, cả dinh thự mênh mông của hoài niệm." Bên phía nhà Swann là tập đầu tiên trong bộ tiểu thuyết đồ sộ Đi tìm thời gian đã mất của một trong những văn hào lớn nhất của nước Pháp và của thế giới, Marcel Proust. Cách đây một trăm năm, trong lần xuất bản đầu tiên, nó từng là chủ đề tranh luận của mọi diễn đàn văn học. Một trăm năm sau, người ta vẫn không ngừng viết, nói, tranh luận về nó. Đi tìm thời gian đã mất thực sự là một khởi thuỷ cho nền tiểu thuyết hiện đại, với bút pháp mới lạ, với những chủ đề được bàn luận sâu rộng và đầy chất thơ về nghệ thuật và triết học, về hồi ức và thời gian... Tác phẩm từ lâu đã là niềm kiêu hãnh của văn chương Pháp, là một cuốn Kinh thánh văn chương cho mọi tác gia cũng như người đọc văn học. Trọn bộ Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust: - Bên phía nhà Swann - Dưới bóng những cô gái đương hoa - Về phía nhà Guermantes - Sodome và Gomorrhe - Cô gái bị cầm tù - Albertine biến mất - Thời gian tìm lại được *** Trong lịch sử văn học thế giới, có những cuốn sách mà ngay từ khi mới ra đời, tự bản thân nó đã tạo nên những nghịch lí, gây nhiều tranh cãi, cho đến tận hôm nay: một mặt nó được xếp vào hàng những kiệt tác, được ca ngợi, tán dương, người ta “hỉ hả” với nó, coi việc xuất bản nó là một việc làm rất kịp thời, nhờ nó mà thế giới văn học được vinh danh; mặt khác, cuốn sách và tác giả của nó nó lại từng chịu nhiều “xỉ vả”, từng bị gắn cho những “mĩ từ” không mấy hay ho: bệnh hoạn, suy đồi, điên rồ, rỗi hơi… Đó là các trường hợp “Ulysses” của James Joyce, “Lolita” của Nabokov, “Vụ án”, “Lâu đài”, “Nước Mĩ” của France Kafka. “Bên phía nhà Swann” (trong bộ tiểu thuyết Đi tìm thời gian đã mất của M. Proust) cũng nằm trong số những “kiệt tác điên rồ” như thế…   Tuy đã rất cố gắng, nhưng như một dịch giả trong nhóm vẫn đã nói: “Tiếc rằng chúng ta không dịch được hay hơn”. Để lại một đôi chỗ sai sót là điều đáng trách, nhưng quan trọng hơn, họ cảm thấy ít có bản dịch đầu tiên nào lại có thể chuyển tải được hết “hồn” của tác phẩm và “giọng” của Marcel Proust. Một nhà văn lớn của Pháp, đồng thời cũng là một dịch giả “có hạng” (Yourcena) thì cho rằng: “Sự thực là vẫn có những cái mà bản dịch không thể hiện hết được, trong khi nghệ thuật dịch phải là không để mất một cái gì. Như vậy không bao giờ chúng ta vừa lòng được". Việc này giải thích tại sao các tác phẩm lớn như của Proust được dịch nhiều lần ở các nước trên thế giới. Vậy nên cánh cửa vẫn mở rộng đối với tất cả ai yêu thích và có lòng muốn dịch lại một tác giả mà toàn bộ 7 tập sách của ông được gọi là “Tiểu thuyết - Mẹ của văn học Pháp thế kỉ XX”. Đó là công việc rất đáng nên làm.  *** Marcel Proust sinh ngày 10 tháng Bảy năm 1871 tại khu phố Auteuil, nay thuộc quận XVI, Paris. Cha ông là bác sĩ, người mẹ thông minh, có học thức, mà ông vô cùng yêu quý, thuộc một gia đình doanh nhân Do Thái giàu có. Một cơn hen nguy kịch khi Proust chín tuổi sẽ ảnh hưởng đến ông suốt đời. Với sức khỏe mong manh, Proust vẫn đạt những kết quả xuất sắc ở trường trung học và đỗ tú tài năm 1889, sau đó tình nguyện đăng lính một năm, nhưng không phải sống trong quân ngũ. Năm 1893, ông đỗ cử nhân Luật, năm 1895, đỗ cử nhân văn chương. Thời gian này, ông bắt đầu lui tới các thính phòng văn chương, tham gia cuộc sống thượng lưu, đi du lịch nhiều nơi. Ông cũng bắt đầu viết, dịch, cộng tác với một vài tời báo, tạp chí. Năm 1903, cha Proust qua đời, năm 1905, đến lượt bà mẹ. Đơn độc, buồn đau, ốm yếu, Proust rời ngôi nhà sang trọng nơi ông sống cùng bố mẹ từ năm 1900, chuyển đến căn hộ cũ của người cậu đã mất, tại phố Haussmann, và lưu lại đó mười hai năm, từ cuối 1906 đến cuối 1918, khi căn hộ bị bán đi. Cho tới khi qua đời, ông còn đổi chỗ ở hai lần nữa. Từ đầu mùa hạ 1909, Proust sống ẩn dật, giam mình trong phòng riêng cửa đóng kín, sàn nhà, các bức tường và trần rất cao đều được lót những lớp bần, không để lọt một tiếng động. Ông muốn từ nay chỉ sống cho tác phẩm lớn, duy nhất, của đời mình. Ban đêm, đôi khi ông còn ra khỏi nhà, chỉ vì cần gặp lại một số người mà ông nói tới, trong quá trình tái tạo “tòa dinh thự mênh mông của hoài niệm”. Năm 1912, Proust gửi bản thảo Bên phía nhà Swann đến một số nhà xuất bản (trong đó có La Nouvelle Revue Française – mà André Gide là một trong những người sáng lập – sau này là nhà Gallimard), nhưng đều bị từ chối. Trả lời một trong những người bạn của Proust, đã vận động giúp ông, đại diện nhà xuất bản Ollendorff viết: “Chắc tôi phải hết sức ù lì, nhưng tôi không sao hiểu nổi một quý ông có thể sử dụng ba chục trang để miêu tả ông ta trăn trở trên giường như thế nào, trước khi ngủ được.” Cuối cùng, tháng Mười một năm 1913, Bên phía nhà Swann được in bằng tiền của tác giả, ở nhà xuất bản Grasset. Tháng Giêng 1914, André Gide viết thư cho Proust, nói rằng ông yêu thích tác phẩm biết mấy và “việc từ chối cuốn sách là sai lầm nghiêm trọng nhất của Nouvelle Revue Française và (…) một trong những ăn năn hối tiếc chua xót nhất của đời tôi”. Nhà xuất bản cũng đề nghị ra những tập tiếp theo của Proust, nhưng đại chiến thế giới khiến mọi việc phải ngừng lại. Tháng Sáu 1919, Dưới bóng những thiếu nữ đương hoa được Gallimard xuất bản, và cuối năm đoạt giải Goncourt, Proust thành nhà văn nổi tiếng trong giới trí thức. Về phía nhà Guermantes I ra đời năm 1920. Năm sau, 1921, là Về phía nhà Guermantes II, rồi Sodome và Gomorrhe I. Giữa năm ấy, Proust ốm nặng và lo mình không thể viết xong phần cuối của Cô gái bị cầm tù. Tháng Tư 1922, Sodome và Gomorrhe II được in. Ngày 19 tháng Mười, ra khỏi nhà chốc lát để đến một dạ tiệc, nhà văn bị nhiễm lạnh, rồi viêm phổi. Những người túc trực bên ông, bác sĩ Robert Proust người em trai, Odilon tài xế trung thành thân tín, Céleste vợ anh, cô thư ký thông minh tận tụy, đều sợ hãi nghĩ rằng ông “đã bước chân vào phòng chờ của cái chết”. Trong khi đó, nhà văn chỉ lưu tâm đến những trang bản thảo ngổn ngang quanh giường, mỗi khi đỡ bệnh lại sửa chữa một số câu, chữ, có đêm còn đọc cho Céleste viết cả một đoạn để đưa thêm vào tập sách sắp in. Ngày 18 tháng Mười một năm 1922, Proust qua đời. Năm 1923, Cô gái bị cầm tù được xuất bản, năm 1925 là Albertine mất tích – thoạt tiên được Proust đặt nhan đề Cô gái chạy trốn – và tập cuối cùng, Thời gian tìm lại được, ra mắt năm 1927.   Mời các bạn đón đọc Bên Phía Nhà Swann của tác giả Marcel Proust.
Một Chuyến Đi Xa - Đào Hiếu
Những năm kháng chiến chống Mỹ đã để lại cho dân tộc Việt Nam nỗi đau khôn xiết, dân chúng cơ cực lầm than, biết bao cảnh chia ly đầy nước mắt, biết bao nỗi đau mất đi người ruột thịt đã diễn ra… Mẫn, một cậu bé mồ côi quê ở Bình Định đã phải tự lăn lộn kiêm sống từng ngày trong hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc, trải qua bao đắng cay tủi nhục, cộng với niềm căm phẫn bè lũ tay sai Mỹ tàn bạo, bất nhân, em đã tham gia cách mạng theo anh Tuấn. Truyện là bài ca về lòng yêu nước của một thế hệ trẻ những năm chống Mỹ, một thông điệp đầy ý nghĩa mà câu chuyện truyền tải đến các bạn nhỏ, các em hãy nhớ rằng: dù trong thời đại nào thì lòng yêu nước vẫn luôn là một thứ vũ khí mạnh, và nó luôn cần được gìn giữ, phát huy. *** Đào Hiếu (sinh năm 1946), tên khai sinh: Đào Chí Hiếu. Các bút danh khác: Biển Hồ, Đào Duy. Hiện ông là hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Đào Hiếu, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1946 tại Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông sớm gia nhập phong trào sinh viên cách mạng tại Quy Nhơn. Năm 1968 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1970 ông bị bắt quân dịch và trở thành binh nhì sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Sau sáu tháng, ông trốn vào Sài Gòn bắt liên lạc với Tổng hội sinh viên hoc sinh để tiếp tục hoạt động chống Mỹ đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông tốt nghiệp cử nhân văn chương trước 1975 tại Sài Gòn. Từng làm phóng viên báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ. Hiện Đào Hiếu sống và viết tại TP. Hồ Chí Minh. Truyện dài Giữa cơn lốc, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1978. Một chuyến đi xa, Nhà xuất bản Măng Non, 1984, nxb Trẻ 1994. Qua sông, Nhà xuất bản Văn Nghệ, 1986. Vùng biển mất tích, Nhà xuất bản Đồng Nai 1987. Vượt biển, Nhà xuất bản Trẻ 1988, 1995. Vua Mèo, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Người tình cũ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1989. Kẻ tử đạo cuối cùng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Thung lũng ảo vọng, Nhà xuất bản Trẻ 1989. Hoa dại lang thang, Nhà xuất bản Văn Học 1990. Trong vòng tay người khác, Nhà xuất bản Tác phẩm Mới 1990. Kỷ niệm đàn bà, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1990. Nổi loạn, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 1993. Lạc Đường (tự truyện), Nhà xuất bản Giấy Vụn 2008, Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 2008. Tuyển tập Đào Hiếu (tập 1 và tập 2) Nhà xuất bản Kim Thư Production USA 12. 2009. Mạt lộ, Nhà xuất bản Lề Bên Trái (tự xuất bản)[1], 03. 2009. Người Đàn Bà Trên Đồi Cỏ Vua Mèo Nữ Quái ... Truyện ngắn và tạp văn Bầy chim sẻ, Nhà xuất bản Văn Nghệ 1982. Những bông hồng muộn, Nhà xuất bản Trẻ 1999. Tình địch, Nhà xuất bản Trẻ 2003. Thơ Đường phố và thềm nhà, Nhà xuất bản Trẻ 2004. *** M ẫn ngồi xếp các giấy bạc, vừa bạc một trăm, vừa bạc năm chục, bạc hai chục vào một gói lớn, hai mươi bảy ngàn. Số tiền nó dành dụm hơn một năm nay. Số tiền vắt ra từ mồ hôi nước mắt. Bao nhiêu ấy nếu xây một ngôi mộ cho mẹ nó cũng không phải là thiếu, nhưng biết làm sao bây giờ? Mẫn chưa thể trở về quê để thực hiện điều mong ước ngay được. Sự căm thù đã choán cả tâm hồn nó. Mẫn sẽ về xây cho mẹ ngôi mộ đẹp sau này, khi mà không còn một thằng giặc Mỹ nào trên đất nước thân yêu. Mẫn ngồi nhìn gói bạc rất lâu rồi quyết định viết một bức thư để lại. Nó cầm bút lên tay, suy nghĩ. Nó có nhiều điều muốn nói, muốn dặn dò gởi gắm lại. Nó muốn viết những lời cám ơn dì Tư, muốn diễn tả tình cảm của mình với Lý. Nó muốn giải thích tại sao nó ra đi nhưng không biết mở đầu thế nào, diễn ý ra sao. Nó bỏ bút xuống bàn, suy nghĩ giây lát rồi cầm bút lên hí hoáy viết: Con nhờ dì trao lại số tiền này cho chị Hợi đề chị ấy trả nợ, lo chôn cất anh Hợi và tìm cách buôn bán lặt vặt chi đó mà nuôi thằng Hà, nếu không nó sẽ trở thành một kẻ trộm cắp vì không có tiền để sống. Con xin cám ơn dì và em Lý Mẫn ký tên nguệch ngoạc rồi xếp thư lại, cột chung trong gói bạc và đem nhét vào vali dì Tư. Xong, nó trở ra chái nhà lấy trái lựu đạn nhét vô túi quần rồi bước ra cửa. Khi ra đến đường cái tự nhiên nó muốn ghé lại đằng chỗ Lý một lát. Nó đứng tần ngần chỗ trạm xe buýt khá lâu. Xế chiều, trời oi bức lạ lùng và cơn mưa giông ở đâu ập tới đột ngột trên mái nhà, trên những trần xe chạy ngang qua phố. Mẫn chạy vô núp dưới mái hiên. Cơn mưa kéo dài, sấm chớp giăng ngang khung trời đục ngầu, gió mạnh tạt qua mặt đường cuốn hơi nước thành từng mảng sương trắng như bông. Đường phố lấp lánh muôn ngàn vết đèn màu. Chiếc xe buýt dài thoòng ghé lại, hành khách đội mưa chạy ra, hấp tấp leo lên xe nhưng Mẫn vẫn đứng im. Có nên gặp Lý một lần trước khi đi không? Nếu biết mình ra đi chắc Lý buồn lắm. Nó sẽ khóc… Mẫn ngửa mặt nhìn vòm trời sáng như bạc. Một chiếc xe buýt nữa lại ghé vào trạm, lần này Mẫn chạy ra và lên xe. Lý ơi! Tạm biệt em, tạm biệt những kỷ niệm êm đềm giữa chúng ta. Chuyến xe đi thật nhanh qua thành phố. Khi cánh cửa căn nhà quen thuộc mở ra, Mẫn chậm rãi bước vào nhà, quần áo ướt sũng, nước chảy ròng ròng xuống sàn gỗ. ... Mời các bạn đón đọc Một Chuyến Đi Xa của tác giả Đào Hiếu.
Bữa Sáng Trên Giường - Robin Kaye
Đáng ra anh có thể là Quý ông hoàn hảo, nếu anh không bừa bộn vụng về kinh khủng đến vậy... Rich Ronali sở hữu gần như trọn vẹn những gì đáng mơ ước - lịch thiệp, quyến rũ, có trong tay một công việc tuyệt hảo - nhưng khi bị bạn gái chia tay, Rich thề anh sẽ học cách nấu ăn và dọn nhà chỉ để giành lại nàng... Cô sẵn lòng giúp anh toại nguyện lời thề, nhưng không phải để cho một người phụ nữ khác... Rich là người đàn ông duy nhất Becca Larsen từng gặp không tìm cách thay đổi cô. Cô vui vẻ giúp anh làm chủ nghệ thuật tề gia nội trợ, song hẳn cô sẽ phát điên nếu anh bắt tay vào nấu ăn trong bếp hay mang bữa sáng tới tận giường một phụ nữ khác... *** Robin Kaye sinh ra tại Brooklyn, New York và lớn lên dưới bóng cây cầu Brooklyn bên cạnh ông bà người Sicily của cô. Sống cùng một gia đình lớn theo phong cách của “Gilligant’s Island” và “The Sopranos” - hai bộ phim truyền hình nổi tiếng của Mỹ đã lý giải cho văn phong hài hước và những nhân vật có tính cách kì quặc trong những cuốn sách của Robin Kaye. Cô từng sống ở sáu tiểu bang, từ Idaho cho tới Florida, nhưng chất Brooklyn chưa bao giờ phai nhạt trong trái tim cô. Hiện cô đang sống tại Maryland cùng chồng, ba người con, hai chú chó và một chú mèo ba chân rất tính cách. Tác giả Robin Kaye từng đoạt giải Trái tim Vàng của Hiệp hội các cây bút Lãng mạn Hoa Kỳ với tác phẩm đầu tay Romeo, Romeo. Một số tác phẩm khác của cô: Call me wild, Wild thing; Too hot to handle; Bữa sáng trên giường; Khi con tim quá nóng... *** Sáng hôm sau, Rich rời nhà đi làm mà thầm sợ những gì sẽ tới trong ngày hôm đó. Khi anh đi ngang qua văn phòng của trưởng khoa Stewart, người trợ lý của ông trưởng khoa lên tiếng gọi anh. “Trưởng khoa Stewart muốn gặp anh, nếu anh có thể dành ra chút thời gian. Cứ đi vào đi.” “Cảm ơn.” Rich gõ cửa trước khi ló đầu vào. “Anh muốn gặp tôi?” Trưởng khoa Stewart vẫy Rich vào trong lúc ông hoàn tất cuộc gọi điện thoại. Gác máy xong, ông mỉm cười xoa hai bàn tay vào nhau. “Tôi có vài thông tin thú vị mà tôi nghĩ có thể giúp cậu qua được bước khó khăn này.” Rich cởi khuy áo khoác và ngồi xuống. “Okay.” “Thế này nhé, tôi hy vọng mình không làm thứ gì xấu đi, song tôi vừa được biết đã có một thỏa thuận được ký kết giữa Becca, Annabelle Flynn và Ben Walsh để bán lại cho hai người phụ nữ đa số cổ phần của Phòng Trưng bày Ben Walsh.” Ý nghĩ đầu tiên của Rich là Becca, cừ lắm. Như thế cô sẽ có một chỗ để trưng bày tác phẩm của cô mà không có gì liên quan tới gia đình mình. Ý nghĩ thứ hai không được tích cực như thế. “Anh muốn nói là cuộc chuyển nhượng này đã được rậm rịch một thời gian rồi sao?” ... Mời các bạn đón đọc Bữa Sáng Trên Giường của tác giả Robin Kaye.
Tiểu Đoàn Trừng Giới - Heinz Günther Konsalik
Các tiểu đoàn trừng giới được thành lập từ những thành phần bất hảo đủ loại như tù chính trị, tội phạm hình sự,… và cả những người lính chính quy vi phạm kỷ luật quân đội. Mức khổ cực của một tháng phục vụ trong những đơn vị này tương đương với 10 năm tù giam. Với trang bị vũ khí sơ sài - "3 người 1 khẩu súng trường", các tiểu đoàn trừng giới bị điều ra tuyến đầu để thực hiện những nhiệm vụ dường như bất khả thi. Trong thực tế, quân Đức rất sợ những đơn vị "trừng giới". Bởi vì họ biết rõ, đây là những đối tượng… "chẳng còn gì để mất" (!!!). Những người lính "cùng đường-mạt lộ" này có thể chiến đấu "chỉ bằng răng và móng tay" (!?). Vì với họ, chỉ có 1 con đường duy nhất - tiến lên phía trước. Sát ngay sau lưng họ, 1 lần nữa là…"tử thần" - các đơn vị "Dân ủy Nội vụ", sẵn sàng bắn bỏ những người có ý định tháo lui… *** T hực sự, Schwanecke đã vào rừng Gorki nơi kẻ tử thù của hắn cũng ở đó Tarinukine. Micha, ngồi trước chiếc hầm, hút thuốc và dỏng tai về phía Anna ở dưới đáy hầm, đang lủng củng với những dụng cụ làm bếp. Trước đó một giờ, Trung úy thủ trưởng Sergei đã qua đây và nói : - "Các đồng chí, ba ngày nữa chúng ta sẽ tấn công. Lần này ta sẽ đuổi quân Đức như những con chó. Nếu các đồng chí mà được thấy tất cả những gì tập hợp ở phía sau kia... Ba trăm dàn đại pháo Staline, ít ra là hai trăm chiến xa và pháo binh nhiều chưa bao giờ tôi trông thấy như vậy"! Lời nói như điệu nhạc rót vào tai Micha. Anh đã quên câu truyện Tania. Không ai nói đến tên nàng nữa coi như một điều cấm kỵ nhưng mọi người đều biết rằng kẻ nào phản bội đều phải chết như vậy. Sau khi đuổi xong quân Đức, Micha sẽ cưới Anna, hiển nhiêu là không đẹp lắm nhưng tin tưởng hoàn toàn.,. Mải suy tư, anh không nghe cũng không thấy một người đang bò lại gần ở phía san anh và mắt không rời anh. Chính là Schwanecke. Hắn đã thấy nhiều hầm của du kích nhưng chưa thấy hầm nào thuận lợi như chiếc này vì ở rất xa những chiếc khác. ... Mời các bạn đón đọc Tiểu Đoàn Trừng Giới của tác giả Heinz Günther Konsalik.