Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cỏ - Claude Simon

Với Cỏ, sự phân hóa không mang tính tổng thể quy mô như ở Con đường Flandres mà xuất hiện trong cái thường nhật gần gũi của cuộc đời. Một bà lão 84 tuổi, đúng hơn là một cô gái già, nằm chờ chết trong một gian phòng tối tăm lạnh lẽo toát mùi nước Cologne rẻ tiền và mùi hoa tàn úa quen thuộc. Bà lão đợi chết, đang chết, bận bịu với cái chết, tập trung vào cái chết trong cô đơn, ngạo nghễ, cho dù bà không hay biết gì nữa, không nói năng, không cử động. Bà không còn ai để khóc cho mình ngoài người em trai, có lẽ, cũng đã già với tấm thân nặng nề in đậm dấu ấn thời gian. Đó là một cái chết bình thường của một người con hình thường đã sống một cuộc đời đơn điệu trong sự cần cù, giản dị, đượm phần khắc khổ, đạo hạnh. Qua những hồi tưởng miên man, đứt đoạn của Louise, người cháu dâu, đó là một người con có hiếu, một người chị hết lòng với em, đã giúp em thực hiện giấc mơ của người cha mù chữ suốt đời còng lưng trên mảnh đất: trở nên người có học thức và mang học thức của mình truyền thụ cho kẻ khác. Kết quả là người em đã trớ thành một giáo sư đại học, đã lập gia đình, có con, có dâu, nói chung có một địa vị xã hội đáng kể trong khi người chị gương mẫu kia vẫn một đời sống ở tỉnh lẻ với nghề giáo viên khiêm tốn. Những giờ phút hấp hối của người cô chồng là dịp để Louise ôn lại, ráp lại những mảnh vụn làm nên một số phận, đó cũng là thời gian của tấn bi kịch riêng nơi nàng: ý định cùng người yêu về sống tại một thành phố lạ và quá trình gãy đổ của nó, tất cả diễn ra âm thầm nhưng khốc liệt làm sao! Có thể nói, nhân vật trung tâm ở đây là thời gian, thời gian chi phối tất cả, hiện thân nơi tất cả: từ sự nảy nở và mục rữa của hoa trái đến tiếng mưa rơi, tiếng nước róc rách qua những đồng có, những cánh rừng, những thung lũng… Ðặc biệt sự tàn phá của nó nơi thân xác con người có lẽ khóc liệt hơn cả: thân xác bị gặm mòn bởi từng khoảnh khắc trôi qua của bà lão, thân xác biến dạng vì tuổi tác của người em trai, thân xác xấu xí núp sau những trang phục loè loẹt, giả tạo của bà vợ…: con người “chứng kiến sự tan rã của mình ngay khi còn sống”. Qua lần vách ngăn, Louise đã theo dõi tấm bi hài kịch của đôi vợ chồng già, từ cơn ghen ấp ủ suốt 40 năm của người vợ tới cuộc giằng co xô xát vừa thô bạo vừa tha thiết, tội nghiệp của hai người, trong đó có tiếng khóc, tiếng vỗ về..., đó phải chăng là cố gắng sau cùng của sự sống chống lại ám ảnh của cái chết? Nhưng đó là một cố gắng vô vọng, một cách nào đó lừa dối chính mình. Còn Louise? Cái chết của người cô chồng, người duy nhất trong gia đình nàng có cảm tình, là con dao cắt đứt mọi ràng buộc giữa nàng với nhà chồng: “Giờ đây cô sắp chết, vậy chẳng còn gì nữa”. Nàng sẽ làm lại cuộc đời tại một thành phố với người yêu, điều lẽ ra nàng phải thực hiện từ lâu. Nhưng tại sao nàng trù trừ, không dứt khoát khi ý đồ đã có cơ hội thực hiện? Nàng trù trừ không phải vì hối hận mà có lẽ vì chính tâm hồn nàng cũng rã rời, mệt mỏi, bị nhiễm độc bởi bầu không khí nồng nặc mùi vị của cái chết, của sự băng hoại ở chung quanh, ở sát kề bên thân thể. Nàng không giải thích hay không thể giải thích được. Nàng nghĩ: “Mình đã chết”, và ý nghĩ đó vang vọng trong nàng như một điệp khúc lạnh lùng, ghê rợn. Trước lời hẹn hò của người yêu về chuyến đi, nàng chỉ buông những tiếng “vâng, dạ…” hững hờ và rỗng tuếch. Và nàng biết nàng sẽ không tới, đồng thời cũng biết chàng biết rõ điều đó, và chính chàng cũng sẽ không tới. Nàng tự hỏi tất cả phải chăng chỉ là một sự dối trá, tự đánh lừa? Nói khác đi, tình yêu ở đây cũng chỉ là một sự thất bại thấy trước, như tình yêu giữa nàng và Georges, giữa đôi vợ chồng già kia (bố mẹ chồng của nàng). Khi xem một tấm ảnh cũ rơi ra từ mớ kỷ vật của người đang hấp hối, Louise đã tưởng tượng một cuộc tình nên thơ trong sáng nhưng bất thành của cô gái già trọn đời sống độc thân. Đó là một hình ảnh đẹp hiếm thấy về tình yêu trên những trang sách của Claude Simon: một cái gì gần như không có trong hiện thực.   Cũng như hầu hết các tác phẩm khác, Cỏ có bối cảnh làm nền là chiến tranh, ở đây là giai đoạn đen tối của nước Pháp năm 40. Claude Simon luôn trở về với chiến tranh như một bi kịch lớn của lịch sử cuốn hút những thân phận riêng lẻ, bé nhỏ. Điều này giải thích phần nào cái nhìn bi quan về con người trong một thế giới đổ vỡ, băng hoại, trong đó mọi cố gắng đều vô ích khi nó chỉ còn một đặc quyền là tan biến vào hư vô, “đặc quyền chết”. Ở đây, một phần nào, Claude Simon là người tiếp nối trào lưu triết học và văn học hiện sinh trước đó với Heidegger, Sartre, Camus… Trong bối cảnh của một thế giới hao hụt, tàn lụi như thế, con người nhận ra sự tha hóa của mình, nhận ra sự hiện diện của mình chỉ là một sự vô nghĩa (non - sens). Nó chỉ còn cách buông xuôi, thỏa hiệp với chính sự thất bại của mình, một lần cho tất cả. Nhưng đó không phải là giải pháp mà là sự bế tắc của mọi giải pháp.   Thể hiện một sự tan rã mang tính tổng thể nói trên đòi hỏi một thủ pháp nghệ thuật, một chất liệu ngôn từ tương xứng. Ta biết rằng điều cốt yếu ở Claude Simon không phải là kể một câu chuyện có đầu có đuôi với tình tiết, diễn biến hợp lý. Ông thường phá hủy trình tự thời gian và làm đảo lộn tất cả: thời gian chỉ còn là những mảnh vụn chất chồng hỗn độn lên nhau. Thời gian con người đã sống qua, khi tái hiện đã không còn là nó nữa. Nhà văn tìm kiếm một thời gian khác, bằng chữ viết của mình. Thật không ngoa khi nói rằng mỗi tác phẩm của ông chỉ là sự dàn trải của một câu văn duy nhất, không khởi đầu, không kết thúc, nó đứt đoạn và không ngừng sinh sôi nảy nở, nó bất chấp mọi qui luật và trật tự thường tình, nó mặc tình rong chơi giữa cái thực và cái hư, hiện tại và quá khứ. Viết là chất chồng những chữ, trong đó một chữ làm nẩy sinh một câu, một câu làm nẩy sinh một câu khác, một trang sách và cả một quyển sách trong cuộc vận hành liên tục, bất tận với những độc thoại nội tâm, những hồi tưởng, những mơ tưởng chen vào những mô tả, kể lể..., tất cả lẫn lộn vào nhau, tạo thành một tổng thể ở dạng nguyên sinh, và người đọc sẽ nhận ra ở đó một ý nghĩa, đúng hơn, chính cái tổng thể rối rắm phức tạp đó - một bức thảm muôn màu – tự nó hình thành một ý nghĩa sẽ được người đọc cảm nhận theo cái cách của mình. Với ông đề tài thực của tiểu thuyết chính là cuốn tiểu thuyết đang hình thành dưới ngòi bút nhà văn, dưới con mắt người đọc. Người đọc không còn bình yên trong cuộc hành trình hứa hẹn nhiều bất trắc cũng như chính nhà văn, qua những hình tượng những ngôn từ ngổn ngang kia cũng không ngớt dò dẫm, lắng nghe, kiếm tìm. Con đường vùng Flandres kết thúc, thật ra không có gì kết thúc ở đây: tác giả bỏ lửng nhân vật của mình trong trạng thái hoài nghi, mơ hồ (về chính những gì đã trải qua, nhớ lại). Cuộc phiêu lưu của Louise trong Cỏ kết thúc trong trạng thái lững lờ (sự chối từ ở đây không phải là một chọn lựa mà là một cách buông xuôi), khi nàng ngã người lên thảm cỏ, thân thể như tan lẫn vào cành lá, đất cát, khí trời, vào niềm yên ả của đêm thâu (la paix nocturne). *** Claude Eugène-Henri Simon (10 tháng 10 năm 1913 – 6 tháng 7 năm 2005) là nhà văn Pháp đoạt giải Nobel Văn học năm 1985.   Claude Simon sinh ở Antananarivo, Madagascar, là con trai của một sĩ quan đã hy sinh khi Thế chiến thứ nhất mới bắt đầu. Cùng với mẹ và ông bà ngoại, Simon về Perpignan (Pháp) và bắt đầu đi học. Simon tốt nghiệp trường trung học Stanislas ở Paris, sau học ở Đại học Oxford và Đại học Cambridge (Anh). Ông mơ trở thành họa sĩ nhưng phải từ bỏ ý định này sau một thời gian theo học hội họa và quay sang viết văn.   Năm 1936, Claude Simon sang Barcelona tham gia đội quân tình nguyện quốc tế chiến đấu chống lại tướng Francisco Franco. Trong Thế chiến thứ hai, ông chiến đấu trên nhiều mặt trận và bị quân Đức bắt làm tù binh năm 1940. Sau khi trốn thoát khỏi trại tù binh, Simon trở về tham gia phong trào Kháng chiến ở thị trấn Perpignan.   Thành công đầu tiên trong văn học của Claude Simon đến vào năm 1945 sau khi xuất bản tiểu thuyết Le tricheur (Kẻ lừa đảo). Tác phẩm thời kì này viết theo lối trần thuật truyền thống, chịu ảnh hưởng của Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, William Faulkner, Marcel Proust và triết học chủ nghĩa hiện sinh.   Từ giữa thập niên 1950 trở đi Claude Simon bắt đầu tìm tòi, đặt khởi đầu cho trào lưu Tiểu thuyết mới với đặc trưng là cốt truyện “hiện thực” trở thành thứ yếu, còn trung tâm chuyện kể là những miêu tả và các hình tượng không kết gắn với nhau về mặt thời gian, tất cả các cảm xúc đồng hiện trên một bình diện như trên một bức tranh. Năm 1960 Simon kí tên vào “Tuyên ngôn 121” của các trí thức Pháp ủng hộ phong trào đòi độc lập cho Algérie. Tiểu thuyết La route de Flandres (Những con đường xứ Flandres) cũng được xuất bản vào năm này đã mang lại cho ông giải thưởng của tạp chí Express năm 1961. Có thể nhận thấy trong tác phẩm này sự đứt đoạn giữa các sự kiện và ngôn ngữ mô tả chúng - một kĩ thuật mới trong phong cách tiểu thuyết - thể hiện kiếp người vô nghĩa, những đoạn đời không lối thoát, hoặc chỉ dẫn đến cái chết mà thôi. Tiểu thuyết Histoire (Lịch sử, 1967) được trao giải thưởng Meditri. Năm 1973 ông được phong học vị danh dự của Đại học Miền Đông nước Anh.   Từ thập niên 1980, Claude Simon trở về quê Perpignan, vừa viết văn vừa trồng nho. Với tiểu thuyết Les Géorgiques (Đồng nội, 1981), Simon bắt đầu xa rời phong cách thử nghiệm trong các cuốn sách trước đây của ông. Năm 1985 Simon được trao giải Nobel vì “sự kết hợp trong sáng tác của ông các nguyên tắc của thơ và hội họa”, vì “nhận thức sâu sắc về vai trò của thời gian trong mô tả con người”.   Năm 1989, nhà văn 76 tuổi cho ra đời tiểu thuyết L'acacia (Cây keo hoang) được đánh giá cao; cùng với Les Géorgiques là hai tác phẩm tự thuật độc đáo, trong đó lịch sử và hư cấu, quá khứ và hiện tại đan quyện vào nhau trong một hình thức kể chuyện vừa hư vừa thực. Claude Simon mất ở Paris năm 2005.   Tác phẩm:   - Le tricheur (Kẻ lừa đảo, 1945), tiểu thuyết   - La corde raide (Dây căng, 1947), tiểu thuyết   - Gulliver (1952), tiểu thuyết   - Le sacre du printemp (Mùa xuân đăng quang, 1954), tiểu thuyết   - Le vent (Gió, 1957), tiểu thuyết   - L'herbe (Cỏ, 1958), tiểu thuyết   - La route de Flandres (Con đường xứ Flandres, 1960), tiểu thuyết   - Le palace (Cung điện, 1962), tiểu thuyết   - La chevelure de Bérénice (Mái tóc Berenice, 1965), truyện ngắn   - Histoire (Lịch sử, 1967), tiểu thuyết   - La bataille de Pharsale (Trận Pharsale, 1969), tiểu thuyết   - Orion aveugle (Chòm Thiên Lang mờ tối, 1970), tiểu luận   - Les corps conducters (Những thân xác dẫn đường, 1971), tiểu thuyết   - Triptyque (Bức họa tam bình, 1973), tiểu thuyết   - Leçon de chose (Bài học vạn vật, 1975)   - Les Géorgiques (Đồng nội, 1981), tiểu thuyết   - L'acacia (Cây keo hoang, 1989), tiểu thuyết   - La Jardin des plantes (Vườn bách thảo, 1997), tiểu thuyết     Mời các bạn đón đọc Cỏ của tác giả Claude Simon.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Chốn Để Thương - Anthony Grey
S ang đến năm 1936 thì toàn thể đảo Đông Dương bước vào một kỷ nguyên mới với thanh bình và ổn định. Từ đầu năm 1935, Pháp đã dẹp được hết mọi sự chống đối của người Việt Nam, và từ đó nền kinh tế lại bắt đầu phục hồi. Thật sự đây chỉ là bề ngoài, còn bên trong sự yên tĩnh giả tạo này, lòng căm thù người Pháp trước những hành động tàn ác mà họ áp dụng để đàn áp các nhóm chống đối trong những năm 1930 và 1931 vẫn còn sôi sục trong lòng dân chúng hơn bao giờ hết. Thế giới bên ngoài không mấy ai để ý đến các biến cố nhỏ nhoi này, nhưng đối với dân chúng người bản xứ thì ai nấy cũng đều biết rằng trong các cuộc nổi loạn vừa qua, người Pháp trong vòng hai năm kể trên đã hành hình, tra tấn dã man và giết chết hàng chục ngàn người Việt Nam. Trong lần dội bom vào đoàn người biểu tình ở Vinh hồi tháng 9 năm 1930, phi cơ của Pháp đã làm thiệt mạng hơn hai trăm người. Pháp đã đem xử tử hơn một ngàn người khác không cần xử án họ, trong khi đó Pháp từ đầu đến cuối chỉ bị thiệt mạng có hai người. Cũng cùng trong thời gian này người Pháp đã bắt giữ và đày đi biệt xứ độ năm chục ngàn người Việt quốc gia và Cộng Sản. Sự thật này được khui ra ánh sáng khi một số lính Lê Dương của Pháp bị đưa ra tòa án quân sự vì sự tàn ác của họ. Người ta được biết rằng thỉnh thoảng lính Lê Dương đến một làng nào đó bắt đem đi mười người dân rồi đem bắn chết hết chín người, để tra khảo người duy nhứt còn sống này. Đôi khi họ bắt hai người dân làng rồi đem chặt đầu một người, đoạn bắt người còn sống phải ôm lấy chiếc đầu của người chết trong lúc chúng lấy khẩu cung. Nhiều trường hợp cho thấy lính Lê Dương đánh đập người tàn nhẫn trong khám đường không cần phải có một ý do nào hết cả. Họ thẻo tai tù nhân, dùng dao lóc thịt trên mặt nạn nhân rồi để chảy máu cho đến chết. Người ta còn kể rằng lính Pháp đã mổ bụng người Việt rồi tiểu vào đó. Nhưng những sự tàn ác này không phải chỉ có người Pháp thực hiện không mà thôi, Cộng Sản cũng thành lập các tòa án Xô Viết tại các vùng kiểm soát của họ, rập khuôn theo kiểu mà Mao Trạch Đông đã áp dụng tại Hoa Nam. Các thành phần võ trang của Cộng Sản với gậy gộc và dao búa đã áp dụng chiến thuật khủng bố tàn bạo với kẻ thù. Dân chúng ai từ chối không chịu tham dự vào đoàn thể của họ đều bị coi như phản bội lại với lý tưởng của Cộng Sản và bị họ lén lút thủ tiêu và mưu sát. Các quan lại hợp tác với người Pháp cũng như những địa chủ đều bị chúng treo cổ, chặt đầu, hoặc bỏ vào nọ thả trôi sông. Các nạn nhân trước khi bị hành hình thường bị cắt tai, xẻo mũi, nhổ răng, hoặc bị đốt hết râu, tóc. Nguyễn Ái Quốc, người cầm đầu phe Cộng Sản bị người Pháp xử tử khiếm diện vì tội cầm đầu tổ chức kháng chiến, và mặc dù đương sự có bị bắt cầm tù một thời gian ngắn ở Hồng Kông, Nguyễn Ái Quốc vẫn tránh né được các tay mật thám của Pháp một cách dễ dàng và khi thấy phong trào cách mạng của ông ta bị bao vây quá chặt chẽ, Nguyễn Ái Quốc một lần nữa tuyệt tích, bằng cách trốn qua ẩn náo tại Liên Xô, trong khi đó vào năm 1932, báo chí Cộng Sản lại tung tin là ông ta đã từ trần. Hầu hết các thành viên nòng cốt của phong trào Cộng Sản do Nguyễn Ái Quốc lãnh đạo đều bị bắt và các xà lim của pháp đầy nghẹt những người Cộng Sản. Côn Sơn, một hòn đảo nhỏ ngoài khơi Nam Việt đã trở nên là nơi huấn luyện cho một thế hệ Cộng sản Việt Nam mới tại nơi đó. Lẽ ra thì đám tù nhân bị lưu đày tại Côn Sơn này phải bị lưu dày tại đây lâu hơn, nhưng tại Âu Châu lúc bấy giờ Hitler đã lên nắm quyền tại Đức; điều này khiến cho đảng Cộng Sản Pháp vội vàng nhập vào các thành phần xã hội trung lập tại Pháp để cùng lo việc chống lại Phát Xít tại Paris. Tân Chính Phủ Mặt Trận Nhân Dân Pháp hợp thức hóa đảng Cộng sản Đông Dương, và trong những tháng đầu của năm 1936, họ tuyên bố ân xá cho tất cả tù nhân tại Côn Sơn. Khi những tù binh Cộng Sản này được thả về Sài Gòn, Hà Nội và Huế thì sở mật thám của Pháp tại những nơi kể trên cũng âm thầm theo dõi các dấu hiệu mới trong âm mưu chống đối lại người Pháp tại quốc gia này. *** Bộ sách SàiGòn gồm có: Sài Gòn Một Nơi Để Nhớ Một Chốn Để Thương Sài Gòn Bùn Pha Sắc Xám Sài Gòn Hai Trăm Năm Cũ *** Anthony Grey là một nhà báo và tác giả người Anh. Là một nhà báo của Reuters, ông đã bị chính quyền Trung Quốc cầm tù 27 tháng tại Trung Quốc từ năm 1967 đến 1969. Ông đã viết một loạt tiểu thuyết lịch sử và sách phi hư cấu, trong đó có một số cuốn liên quan đến việc ông bị giam giữ. Mời các bạn đón đọc Một Chốn Để Thương của tác giả Anthony Grey.
Nước Mắt Đắng - Dương Thiên Lý
Cuốn tiểu thuyết Nước Mắt Đắng về một người mẹ trẻ vượt qua sự phản bội của người chồng, đưa con cái đến vùng đất mới làm lại từ đầu. Con chết. Con tai nạn… bản thân mình luôn bị quấy rối, cuộc sống nhiều khi rơi vào tối tăm tuyệt vọng nhưng chị đã chịu đựng và đứng lên. Như rất nhiều người phụ nữ Việt Nam. *** Một sự im lặng buồn đau đến sợ hãi…Vũ vội vã khóa cửa nhà và dắt bé Tư đi. Bây giờ đi đâu? Hẳn là đến bệnh viện, nơi có người bố đang đi trên ngưỡng cửa của sự sống và cái chết. Cu Tư ơi, em có biết không, tai họa đã đổ xuống đầu em, cũng như ngày xưa nó đã đổ xuống đầu anh và người thân của anh. Bất giác Vũ bật khóc tức tưởi, hôn tới tấp vào khuôn mặt nhòa nước mắt của bé Tư. Khuôn mặt ngây thơ tội nghiệp kia, chẳng hiểu sao, cũng có nhiều nét giống em trai của mình đến thế. Niềm yêu thương trào lên trong lòng Vũ. Cậu dắt tay em Tư đi như chạy. Đường phố vẫn ồn ào và trong lòng Vũ vẫn náo động. Cậu tự hỏi, có phải sự tan vỡ này khiến cho những may mắn hạnh phúc của đời cậu thêm một lần bay biến. Hình như không phải thế, nhưng sao lòng cậu cứ vẫn quặn đau. Cậu tự hỏi sao cuộc đời có lắm nỗi đau và ngang trái. Và ai là kẻ gây nên tội lỗi. Trong đầu Vũ hiện lên một người cha vô trách nhiệm, một ông bố dượng bỉ ổi và cuối cùng là vợ chồng ông chủ nhà hàng Mây mưa, là gia đình ông bà Ba Bé đầy mâu thuẫn, khó hiểu. Mời các bạn đón đọc Nước Mắt Đắng của tác giả Dương Thiên Lý.
Nghệ Thuật Quyến Rũ - Robert Greene
Q uyến rũ là một dạng sân khấu ngoài đời, là nơi gặp gỡ giữa ảo ảnh và hiện thực, là một dạng lừa dối, nhưng con người thích được dẫn lệch hướng, họ khát khao được người khác quyến rũ. Hãy vất bỏ hết những khuynh hướng đạo đức, hãy làm theo triết lí vui vẻ của người quyến rũ, rồi bạn sẽ thấy quá trình còn lại dễ dàng và tự nhiên. Nghệ thuật Quyến rũ nhằm trang bị cho bạn vũ khí thuyết phục và hấp dẫn người khác, để những người xung quanh bạn từ từ mất khả năng chống cự mà không hiểu như thế nào và tại sao điều đó lại xảy ra. Nó là nghệ thuật chiến đấu trong thời đại tinh tế này. Mỗi cuộc quyến rũ có hai yếu tố bạn phải phân tích và thấu hiểu: Thứ nhất là chính bạn và bạn có gì quyến rũ; thứ hai là con mồi và những hành động có thể đập tan phòng vệ của họ khiến họ phải đầu hàng. Vì vậy, Nghệ thuật Quyến rũ được chia làm hai phần. Phần thứ nhất, “Kiểu Người Quyến rũ”, mô tả chín loại người quyến rũ, cộng thêm Người không Quyến rũ (anti-seducer). Nghiên cứu những loại người này giúp bạn nhận thức được thuộc tính quyến rũ vốn có trong bạn là gì vì đó là những viên đá tảng cơ bản trong quyến rũ. Phần thứ hai, “Quá trình quyến rũ”, gồm hai mươi bốn thủ thuật và chiến lược sẽ hướng dẫn bạn làm thế nào bỏ bùa mê, phá vỡ thế chống đối, tiến bước mạnh mẽ trong quyến rũ, và dẫn dụ con mồi đầu hàng. Cầu nối giữa hai phần là chương bàn về mười tám loại nạn nhân bị quyến rũ – mỗi một loại thiếu một điều gì đó trong cuộc sống, trong lòng có một khoảng trống mà bạn có thể bù lấp. Biết được mình đang quyến rũ loại người nào giúp bạn vận dụng ý tưởng trong cả hai phần. Nếu bỏ qua bất kì phần nào trong quyển sách này, bạn sẽ chỉ là một người quyến rũ không hoàn hảo. Tinh thần giúp bạn trở thành một người quyến rũ tuyệt vời là tinh thần bạn đọc cuốn sách này. Nhà văn Pháp Denis Diderot đã từng viết, “Tôi cho phép tâm hồn tôi tự do theo đuổi ý tưởng khôn ngoan hay ngu ngốc đầu tiên khi nó xuất hiện, giống như trên đại lộ de Foy con người thanh niên phóng đãng trong ta theo sát gót một cô gái làm tiền nào đó, để sau đó bỏ theo một cô khác, tấn công tất cả bọn họ để rồi chẳng gắn kết họ với gì cả. Suy nghĩ của tôi chính là những cô gái làm tiền.” Ý ông là ông để mình bị quyến rũ bởi những ý tưởng, theo đuổi bất cứ điều gì làm ông thấy hứng thú cho đến khi một cái khác hay hơn đến với ông, suy nghĩ của ông bị nhiễm một dạng thú vui nhục dục. Một khi bạn đã bước vào những trang sách này, hãy làm như Diderot khuyên: Hãy để mình bị quyến rũ bởi những câu chuyện và những ý tưởng, hãy để đầu óc cởi mở và suy nghĩ đi hoang. Dần dần bạn sẽ thấy thứ thuốc độc này thấm vào da thịt mình và bạn sẽ bắt đầu xem mọi thứ là nghệ thuật quyến rũ, kể cả cách nghĩ và cách bạn nhìn thế giới. Đức tính tốt nhất chính là làm tăng nhu cầu quyến rũ. Natalie Barney *** H àng ngàn năm trước, quyền lực chủ yếu có được và duy trì nhờ vào bạo lực. Sự tinh tế là không cần thiết – vua hay hoàng hậu phải biết nhẫn tâm. Chỉ một vài người có quyền lực nhưng phụ nữ là người phải chịu đựng nhiều nhất dưới chế độ này. Họ không có cách nào để tranh đấu, không có vũ khí nào về mặt chính trị, xã hội hay ngay trong gia đình giúp họ bắt đàn ông phải làm theo ý mình. Dĩ nhiên đàn ông có điểm yếu: Đó là khát khao nhục dục mãnh liệt. Người phụ nữ luôn có thể nhắm vào dục vọng này của đàn ông, nhưng nếu họ lại bị lôi vào tình dục thì người đàn ông lại lập tức quay lại thế thống trị; còn nếu họ từ chối nhục dục thì người đàn ông lại đi tìm điều đó ở một nơi khác – hoặc sử dụng vũ lực. Một quyền lực tạm thời và mỏng manh như thế thì ích gì? Vậy mà người phụ nữ cũng chẳng còn sự lựa chọn nào khác ngoài cách này. Mặc dù vậy, đã có những người quá khát khao quyền lực, trải qua nhiều năm khéo léo và sáng tạo, đã nghĩ ra cách xoay ngược thế cờ, tạo ra một dạng quyền lực mới lâu dài và hiệu quả hơn. Chính những người phụ nữ này đã sáng tạo ra nghệ thuật quyến rũ, tiêu biểu là Bathsheba trong Kinh Cựu Ước, Helen của thành Troy, mỹ nhân ngư Hsi Shi ở Trung Quốc, và đặc biệt là nhất là Cleopatra. Trước tiên họ lôi kéo người đàn ông bằng bề ngoài hấp dẫn, chế ra các đồ trang sức và phụ trang để tạo nên hình tượng một thánh nữ giáng trần. Họ để lộ một thoáng da thịt để kích thích trí tưởng tượng của đàn ông, không chỉ kích thích dục vọng mà còn cái gì đó hơn thế: Đó là cơ hội sở hữu một vị thánh. Một khi đã thu hút được chú ý của nạn nhân, những phụ nữ này sẽ dụ dỗ họ ra khỏi thế giới đàn ông chỉ có chiến tranh và chính trị, lôi cuốn họ vào thế giới của phụ nữ – một thế giới xa hoa, vui thú và ngoạn mục. Có thể họ còn dẫn dắt con mồi đi lạc hướng theo nghĩa đen, tức dẫn họ đi du hí xa, như Cleopatra đã dẫn dụ Julius Caesar đi du hí dọc sông Nile. Người đàn ông sẽ dần lún sâu vào những vui thú tinh tế và nhạy cảm này – họ sẽ yêu. Nhưng rồi khi ấy người phụ nữ lại trở nên lạnh lùng và hờ hững làm con mồi phải băn khoăn. Đến khi người đàn ông cứ muốn hơn nữa thì những niềm vui ấy lại bị rút lại. Họ buộc phải theo đuổi, cố mọi cách tìm lại niềm vui mình đã từng được nếm thử, và rồi trong quá trình đó họ sẽ bị yếu dần và trở thành người đầy tình cảm. Những người đàn ông có sức mạnh và quyền lực chính trị như Hoàng đế David, Paris của thành Troy, Julius Caesar, Mark Anthony hay Vua Phù Sai đều thấy mình trở thành nô lệ của một người phụ nữ. Trước bạo lực và dã man, những phụ nữ này đã biến quyến rũ thành một nghệ thuật tinh tế, hình thức cao nhất của quyền lực và thuyết phục. Họ học cách đánh vào tâm trí trước, kích thích óc tưởng tượng, làm người đàn ông cứ muốn hơn nữa, tạo ra những tình cảm hy vọng rồi tuyệt vọng nối tiếp nhau – đó là bản chất của quyến rũ. Sức mạnh của họ không phải ở thể chất mà về tâm lí, không dùng vũ lực mà chỉ gián tiếp và khéo léo. Những chuyên gia quyến rũ vĩ đại đầu tiên này giống như những viên tổng tư lệnh quân sự lập kế hoạch hủy hoại kẻ thù, và thật sự những ghi chép đầu tiên về quyến rũ thường so sánh nó với chiến trường, một kiểu chiến tranh của phụ nữ. Đối với Cleopatra, đây là vũ khí củng cố đế chế của mình. Trong quyến rũ, người phụ nữ không còn chỉ là công cụ tình dục thụ động; họ trở thành nhân tố năng động, một hình tượng quyền lực. Ngoại trừ một số ngoại lệ – như nhà thơ người La tinh tên Ovid, một người hát rong thời trung cổ – còn hầu như đàn ông ít quan tâm đến thứ nghệ thuật nhảm nhí như nghệ thuật quyến rũ. Sau đó, có sự thay đổi lớn vào thế kỉ mười bảy: Đàn ông bắt đầu quan tâm đến quyến rũ như một cách khắc phục sự chống đối tình dục thường gặp những phụ nữ trẻ. Người quyến rũ vĩ đại là nam đầu tiên trong lịch sử – Công tước Lauzun, người đã tạo cảm hứng cho truyền thuyết Don Juan – bắt đầu dùng những phương pháp lâu nay vẫn được phụ nữ sử dụng. Họ học cách làm con mồi lóa mắt với vẻ bề ngoài của mình (thường họ có bản chất ái nam ái nữ) để kích thích trí tưởng tượng, để đóng vai người đỏm dáng. Họ còn thêm vào trò chơi một yếu tố mới mang tính nam, đó là ngôn ngữ quyến rũ, vì họ phát hiện ra một điểm yếu của phụ nữ là thích lời ngon ngọt. Hai hình thức quyến rũ này – người nữ dùng ngoại hình và người nam dùng lời nói – thường được cả hai bên bổ sung thêm vào chiến thuật của mình: Casanova cũng làm lóa mắt phụ nữ bằng quần áo; còn Ninon de l’Enclos cũng quyến rũ đàn ông bằng lời ngon tiếng ngọt của mình. Cùng lúc với giai đoạn nam giới đang hình thành hình thức quyến rũ dành cho giới mình thì những người khác cũng bắt đầu áp dụng nghệ thuật này cho mục đích xã hội. Khi hệ thống chế độ phong kiến lùi dần vào quá khứ, các quan chức phải tìm chỗ đứng cho mình trong chính phủ mà không còn được dùng đến quyền lực. Họ học cách chiếm được quyền lực bằng cách quyến rũ cấp trên hay đối thủ bằng trò chơi tâm lí, từ ngữ nhẹ nhàng, một chút đỏm dáng. Khi xã hội ngày càng dân chủ hóa, các diễn viên, nghệ sĩ và dân ăn diện bắt đầu sử dụng các chiến thuật quyến rũ để lôi cuốn, dành khán giả và môi trường xã hội. Thế kỉ mười chín còn có một thay đổi lớn khác: Đó là các chính trị gia như Napoleon tự xem mình như kẻ quyến rũ, trên qui mô lớn. Những người này dựa trên nghệ thuật hùng biện quyến rũ, nhưng họ cũng nắm vững những chiến thuật của phụ nữ như: Dàn dựng những cảnh ấn tượng, dùng các chiến thuật sân khấu hay tạo hình tượng uy lực. Tất cả những điều họ học được đều là cái được gọi là sức lôi cuốn quần chúng – và đến ngày nay vẫn vậy. Với cách quyến rũ công chúng họ có thể quy tụ được quyền lực to lớn mà không cần đến vũ lực. Ngày nay chúng ta đã đạt được đến đỉnh cao nhất trong cuộc cách mạng quyến rũ. Hơn bao giờ hết, hiện nay sức mạnh và tàn bạo dưới mọi hình thức đều bị bài tẩy. Mọi khía cạnh trong cuộc sống xã hội đòi hỏi khả năng quyến rũ người khác theo một cách không gây tổn thương hay áp đặt người khác. Có thể thấy các kiểu quyến rũ ở khắp nơi, pha lẫn các chiến thuật của nam và nữ. Công nghệ quảng cáo khéo luồn lách, bóng gió, kinh doanh mềm lên ngôi. Nếu muốn người khác thay đổi ý kiến – và làm người khác thay đổi ý kiến là điều cơ bản của quyến rũ – ta phải hành động tinh tế và ngấm ngầm. Ngày nay không có cuộc vận động tranh cử nào lại không sử dụng đến nghệ thuật quyến rũ. Ngay từ thời John F. Kenedy, các chính khách đã cần phải biết quyến rũ quần chúng ở một mức độ nào đó để khi xuất hiện họ đủ sức lôi cuốn sự chú ý của công chúng, được như vậy họ đã chiến thắng được một nửa. Thế giới điện ảnh và truyền thông đại chúng tạo ra một thiên hà những ngôi sao và nhân vật quyến rũ. Chúng ta đang ngập tràn trong thế giới quyến rũ. Nhưng cho dù mức độ và phạm vi có thay đổi đến đâu thì bản chất của quyến rũ vẫn không thay đổi: Đó là không bao giờ trực diện hay dùng vũ lực, ngược lại phải lấy niềm vui làm mồi nhử, đùa cợt với tình cảm của con người, khơi gợi dục vọng và băn khoăn, dẫn dắt con mồi đầu hàng về mặt tâm lí. Trong quyến rũ ngày nay người ta thường áp dụng thì những phương pháp của Cleopatra vẫn còn nguyên tác dụng. Người khác luôn cố gây ảnh hưởng đến chúng ta, muốn ta làm theo ý họ, và thường thì ta cũng cố loại họ ra khỏi quan tâm của mình, chống đối lại sự dụ dỗ của họ. Tuy nhiên có một phút nào đó trong cuộc đời, khi ta hành động hoàn toàn khác – đó là khi ta đang yêu. Ta rơi vào một dạng bùa mê. Tâm trí ta trước kia chỉ có những quan tâm thường nhật; nay lại bị xâm chiếm bởi toàn những suy nghĩ về người ta yêu. Ta trở nên nhiều cảm xúc, mất khả năng suy nghĩ sáng suốt, hành động thì ngu ngốc mà nếu không yêu ta chẳng bao giờ làm vậy. Nếu điều này diễn ra đủ lâu, có gì đó trong ta phải nhượng bộ: Ta đầu hàng ý chí của đối phương, khao khát được sở hữu họ. Mời các bạn đón đọc Nghệ Thuật Quyến Rũ của tác giả Robert Greene.
Gặp Em Dưới Mưa Xuân - Trang Trang
Cô con gái út trong gia đình họ Phạm - Phạm Tiểu Đa luôn giữ vị trí đặc biệt ngay từ lúc sinh ra, từ bố mẹ đến sáu anh chị em của Tiểu Đa đều coi cô như báu vật trong nhà. Chính vì vậy, cho đến năm 21 tuổi, Phạm Tiểu Đa vẫn luôn nằm trong vòng tay nâng niu, chăm sóc của các anh chị. Đến khi Tiểu Đa bắt đầu đi làm, các anh chị của cô chợt nhận thấy rằng đã đến lúc Tiểu Đa cần có bạn trai. Vậy là cuộc họp gia đình được mở ra để "săn tìm" người yêu đáp ứng đủ tiêu chuẩn của sáu anh chị, nhưng họ là bỏ qua vấn đề mấu chốt là ý kiến của Tiểu Đa. Trong con mắt các anh chị nhà họ Phạm, Tiểu Đa là cô gái nhỏ bé trong sáng, luôn cần sự quan tâm, chăm sóc và che chở nhưng họ đâu biết ẩn dưới vẻ bề ngoài ngoan ngoãn, hiền lành là Tiểu Đa cá tính, lém lỉnh và không kém phần tinh nghịch. Tiểu Đa đã khéo léo sử dụng những tính cách này để loại bỏ những đối tượng xem mặt mà vẫn không khiến các anh chị của cô phải cáu giận. Không những vậy, Tiểu Đa còn lôi kéo được một trong những đối tượng xem mặt - Lý Hoan trở thành đồng mình của mình sau này. Cũng trong khoảng thời gian đó, Tiểu Đa đã có những lần tình cờ gặp mặt anh chàng Văn Vũ Thần Quang ở những tình huống khiến cô khó chịu với con người này. Tuy nhiên, chính bởi những lần tình cờ ấy khiến Thần Quang nảy sinh tình cảm với Tiểu Đa và khiến cô rung động khi anh thổ lộ tình cảm. Thần Quang làm thế nào để chinh phục được Tiểu Đa bướng bỉnh và vượt qua sáu ngọn núi nhà họ Phạm khi các anh chị của Tiểu Đa phát hiện ra quá khứ "hào hùng" của công tử út nhà Vũ Văn? Còn Tiểu Đa sẽ chinh phục gia đình nhà Thần Quang bởi lần đầu vào bếp ra sao? Liệu xuân về hoa có nở? *** Trang Trang, nữ nhà văn, nhà báo nổi tiếng người Trung Quốc. Trong giới nhà văn nữ, chị là người tiên phong trong việc đề xướng tuyên ngôn "Phụ nữ không thể không hạnh phúc" trong các tác phẩm của mình. Là một trong những tác giả có nhiều tác phẩm nhất của Yueduji, xuất bản 9 bộ tiểu thuyết kinh điển, bộ nào cũng bán chạy. Bảy năm làm nhà báo, bảy năm làm biên tập đã khiến cho tác giả có cái nhìn sâu sắc về nhiều trạng thái hạnh phúc của phụ nữ. Các tác phẩm tiêu biểu: Tiểu thuyết liên tục đứng đầu bảng xếp hạng nổi tiếng của dangdang.com: Từ bỏ em, kiếp sau nhé.  Bộ tiểu thuyết đề tài vượt thời không được độc giả yêu thích nhất: Duyên kỳ ngộ (02 tập). Cuốn tiểu thuyết ấm áp nhất: Phụ nữ thực tế đàn ông phát cuồng. Vĩnh Dạ Nghìn Kế Tương Tư Mùa Tuyết Rơi Gặp Em Dưới Mưa Xuân Mưa Nhỏ Hồng Trần ... *** Câu chuyện được mở đầu bởi sự ra đời của nữ chính - Phạm Tiểu Đa. Cô là con gái út trong nhà có sáu anh chị em, là món quà trời ban cho ông bà Phạm khi hai người đã đến tuổi xế chiều. Vì thế không những được bố mẹ thương yêu mà Tiểu Đa còn được các anh chị của mình che chở hết mực. Có thể nói, tuy là út nhưng cô lại là người có quyền lực nhất trong nhà, là kim bài miễn tử của các anh (Vì sao ư? Rất đơn giản, anh cả cô là một người vô cùng nghiêm khắc, nhưng chỉ đối xử ôn nhu với mỗi cô vì thế cho nên chỉ cần có Tiểu Đa đứng ra thì anh cả sẽ không mắng, không đánh, không la, không chửi…). Từ bé đã được chăm chút từng li từng tí cho nên khi Tiểu Đa lớn, ngay cả việc bạn trai như thế nào cũng do anh chị trong nhà đặt ra tiêu chuẩn. Anh cả thì muốn người bạn trai đó tướng mạo không thể thua anh và 4 anh em khác trong nhà, chị hai thì muốn người con trai đó phải dịu dàng, cẩn thận như mình. Cả hai người tự vẽ ra khuôn mặt của chàng trai, rồi tổng kết các tiêu chuẩn: hình thức đẹp trai, tính tình tốt, gia đình trong sạch, sự nghiệp phải có thành tích, phải hài hước, dí dỏm, phải biết nấu ăn ngon, và điều quan trọng nhất là phải yêu Tiểu Đa, tình cảm ấy không được ít hơn của nhà họ Phạm. Nữ chính của câu chuyện này từ bé luôn có được sự che chở của mọi người. Lúc học đại học, người anh thứ năm của cô là giảng viên trong trường, vì thế cho nên nhất cử nhất động của cô các anh chị đều biết. Khi ra trường đi làm, nơi cô làm cũng do người anh cả nhờ giám đốc quan tâm một chút, còn chị hai làm việc tại ban tuyên truyền thì cứ một mực đưa cô tới đài trong ngày đầu tiên đi làm. Có được công việc này, Tiểu Đa biết là do anh cả, chị hai dùng mối quan hệ để đưa cô vào. Cho nên ngay cả chỗ làm cũng được giám sát gắt gao dưới con mắt của anh chị. Vì thế cô, năm nay đã hơn hai mươi, nhưng vẫn chưa tiếp xúc gần với bất kì bạn khác giới nào ngoài các anh của mình. Sau những việc trên, các bạn đừng vội nghĩ nữ chính yếu đuối hay dựa dẫm vào anh chị, ngược lại Tiểu Đa là người có tính cách rất cá tính và hiệp nghĩa, cô rất ma lanh trong những trò trêu chọc người khác. Nhưng không vô duyên vô cớ mà Tiểu Đa trêu chọc, những người bị cô trêu chọc, đều là người đã tổn thương hoặc gây trở ngại cho Tiểu Đa với bạn cô, hoặc là người mà các anh chị dẫn để xem mắt cô. Nãy giờ hình như nam chính vẫn chưa lên sàn, vì sao, vì sự gắt gao của các anh chị Tiểu Đa quá cao mà mãi nam chính vẫn chưa chịu xuất hiện chứ sao… Lý Hoan - anh được xuất hiện với sự đưa đẩy và dẫn lối của anh ba Phạm Triết Địa. Là đồng nghiệp của Tiểu Đa, trong mắt anh, cô là một người có tính cách rất kì lạ, vì thế anh thích nhất là trêu chọc cô, muốn thấy được sự tức giận, các kiểu trả thù của cô. Nhưng anh hoàn toàn thất vọng vì cô luôn che dấu tính cách ấy rất tốt. Vũ Văn Thần Quang - anh đã gặp cô lần đầu tiên là trong một vườn cây. Thấy một cô gái khóc đến đau lòng, thân hình nhỏ bé co lại, anh đã không kìm được lên tiếng hỏi, không ngờ cô gái nhỏ bé với khuôn mặt đầm đìa nước mắt lại gầm lên với anh chẳng khác nào con sư tử con. Lần thứ hai gặp lại là lúc cô đang tức giận, đá trúng xe anh làm còi báo động hú lên, lần thứ ba thì anh lại thấy cô đang nhảy bốc lửa trên bục cao ở quán bar, lần thứ tư cũng là lúc anh lấy mất nụ hôn đầu của cô. Sau nhiều lần oan gia như thế, trái tim anh không biết từ lúc nào đã luôn có hình bóng cô. Câu chuyện vẫn còn được tiếp tục với các cách theo đuổi của Lý Hoan và Thần Quang, cả hai người họ có thể qua được những đôi mắt giám sát của gia đình họ Phạm không? Cướp lấy được trái tim của Tiểu Đa không? Một chuỗi câu chuyện dở khóc dở cười liên tiếp xảy ra với họ đang chờ bạn khám phá. ---------------------------------------------- Khi tôi đọc câu chuyện này, điều mà tôi ngưỡng mộ không phải là tình cảm nam nữ chính, mà là tình cảm của anh chị em trong nhà. Họ thật sự rất yêu thương Tiểu Đa, có thể một vài lúc cảm thấy họ quá theo chủ kiến của mình, không quan tâm nữ chính, nhưng sau mỗi lần đó, họ đều để tâm đến xem nữ chính như thế nào có buồn không, giận không. Với tôi, trong câu chuyện này đáng đọc nhất chính là tình thân gia đình. Tình cảm của nam nữ chính thật cũng rất sủng, sóng gió không đáng để ảnh hưởng đến. Qua câu chuyện này tôi cảm thấy Tiểu Đa đúng là cô gái hạnh phúc nhất trên đời, có người nhà thương yêu, có người chồng biết nhường nhịn và chia sẻ, có những người bạn tốt luôn bên cạnh cô. Đọc giải trí, nhẹ nhàng thư giãn đầu óc, nó không có tình tiết nào gây cấn cả, chỉ là khi đọc lâu lâu bạn sẽ ngẫu nhiên nở nụ cười vì sự quan tâm, lo lắng thoái quá của các anh chị đối với Tiểu Đa mà thôi. ☺️ #Nguyệt_Phi   Mời các bạn đón đọc Gặp Em Dưới Mưa Xuân của tác giả Trang Trang.