Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cò Súng Tử Thần

“Cò súng tử thần” là một tiểu thuyết trinh thám kể về nhân vật chính “James Bond” đã giành chiến thắng trước tên tội phạm đầu sỏ Auric Goldfinger, nhưng cả một cuộc chiến mới đã lại bắt đầu. Cùng với cô nàng Pussy Galore xinh đẹp, Bond từ Mỹ trở về nhà chỉ biết rằng SMERSH, tổ chức gián điệp Xô Viết đối thủ đang lên kế hoạch phá hoại một giải đua xe Grand Prix. Và thế lại là một nhiệm vụ mới cho Bond: ngăn chặn SMERSH. Nhưng trò chơi mèo đuổi chuột tốc độ cao đầy kích thích và nguy hiểm trên đường đua ấy hóa ra chỉ là khúc dạo đầu. Cuộc chạm trán tình cờ với một tay tỷ phú Triều Tiên bí ẩn còn dẫn Bond tới những âm mưu nhiều lần khủng khiếp hơn thế. James Bond đã giành chiến thắng trước tên tội phạm đầu sỏ Auric Goldfinger, nhưng cả một cuộc chiến mới đã lại bắt đầu. Cùng với cô nàng Pussy Galore xinh đẹp, Bond từ Mỹ trở về nhà chỉ để biết rằng SMERSH, tổ chức gián điệp Xô Viết đối thủ, đang lên kế hoạch phá hoại một giải đua xe Grand Prix. Và thế là lại một nhiệm vụ mới cho Bond: ngăn chặn SMERSH. Nhưng trò chơi mèo đuổi chuột tốc độ cao đầy kích thích và nguy hiểm trên đường đua ấy hóa ra chỉ là khúc dạo đầu. Cuộc chạm trán tình cờ với một tay tỷ phú Triều Tiên bí ẩn còn dẫn Bond tới những âm mưu nhiều lần khủng khiếp hơn thế *** Loạt tác phẩm James Bond xoay quanh một nhân vật mật vụ người Anh hư cấu, được sáng tạo bởi nhà văn Ian Fleming vào năm 1953. Fleming đã khắc họa Bond trong 12 cuốn tiểu thuyết và 2 tuyển tập truyện ngắn. Sau khi ông qua đời vào năm 1964, đã có tám tác giả tiếp tục viết tiếp các tác phẩm tiểu thuyết hoặc tiểu thuyết chuyển thể về James Bond, bao gồm: Kingsley Amis, Christopher Wood, John Gardner, Raymond Benson, Sebastian Faulks, Jeffery Deaver, William Boyd và Anthony Horowitz. Forever and a Day của Anthony Horowitz, xuất bản vào tháng 5 năm 2018, là cuốn tiểu thuyết James Bond mới nhất. Ngoài ra, có thể kể đến loạt truyện viết về Bond thời trẻ của Charlie Higson hay Kate Westbrook với bộ ba tiểu thuyết dựa trên cuốn nhật ký của Moneypenny, một nhân vật từng xuất hiện trong loạt truyện. Nhân vật James Bond còn được biết tới với mã tên 007, được chuyển thể rộng rãi thành các tác phẩm truyền hình, phát thanh, truyện tranh, trò chơi điện tử và phim ảnh. Loạt phim về James Bond hiện đang là loạt phim liên tục dài nhất mọi thời đại và thu về tổng doanh thu 7.04 tỉ đô la Mỹ, trở thành loạt phim có doanh thu cao thứ sáu lịch sử. Nó được khởi đầu vào năm 1962 bằng phần phim Dr. No với ngôi sao Sean Connery trong vai Bond. Tính tới năm 2020, loạt phim do Eon Productions sản xuất đã có 24 phần. Spectre (2015) là bộ phim James Bond gần nhất, có sự tham gia diễn xuất của Daniel Craig với lần thứ tư anh thủ vai mật vụ Bond trong loạt phim của Eon. Ngoài ra, còn có hai tác phẩm độc lập: Casino Royale (một phiên bản giễu nhại ra mắt năm 1967, với sự tham gia của David Niven) và Never Say Never Again (bản làm lại bộ phim do Eon sản xuất trước đó của Thunderball, ra mắt năm 1965, cả hai bản đều có sự tham gia của Connery). Năm 2015, với trị giá ước tính 19.9 tỷ đô la Mỹ, James Bond trở thành một trong những thương hiệu truyền thông có doanh thu cao nhất từ trước tới nay. Các bộ phim về Bond nổi tiếng bởi một số điểm đặc trưng, như phần nhạc đệm với các bài hát chủ đề đã nhiều lần được đề cử Oscar và chiến thắng hai lần. Vài yếu tố xuyên suốt quan trọng khác bao gồm những chiếc xe hơi của Bond, các khẩu súng của anh và những thiết bị mà anh được Q Branch cung cấp. Mỗi phần phim cũng chú ý khắc họa mối quan hệ của Bond với nhiều phụ nữ khác nhau, đôi khi được gọi là các "Bond girl". *** Đó là lúc cả thế giới đã bão hòa. Mặt trời đã xuống tới đường chân trời, luồng ánh sáng đỏ mềm mại trườn trên lớp sóng triều, phía cao tít bên trên đàn chim đang vẽ nên những hình kỷ hà ngẫu nhiên trên bầu trời quang. Gió đã ngừng thổi và cái nóng buổi chiều trở nên ngột ngạt, ngập trong khói xăng và bụi. Xuyên qua bầu không khí đó, chiếc Crosley màu lam bất ngờ còn lại một mình chạy theo đường 13, hướng từ biển vào đất liền. Crosley là một chiếc xe nhỏ, xấu, mũi dài, khoang vuông, thân đã bị gỉ sét ăn thủng. Người lái xe, đang gập người trên vô lăng, mắt không rời khỏi con đường phía trước, đã mua nó với giá ba trăm đô la. Tay bán hàng thề thốt rằng chiếc xe có thể chạy sáu mươi cây số chỉ với ba lít xăng và còn có thể tăng tốc lên tám mươi ki lô mét một giờ. Tất nhiên là hắn nói dối… với hàm răng hoàn hảo và nụ cười thân thiện của một con phe tỉnh lẻ. Chiếc Crosley chẳng tăng tốc được thêm chút nào ngay cả trên đường lao dốc, nữa là ở đây, gần với bờ Đông Virginia, nơi địa hình đã trở nên bằng phẳng suốt nhiều cây số. Người lái xe có thể là một giáo sư hoặc một thủ thư. Gã có vẻ ngoài của một kẻ chủ yếu sống trong nhà với làn da xanh xao, những ngón tay ám nicotine và cặp kính theo thời gian đã từ từ chìm vào mũi cho đến khi trở thành một phần vĩnh viễn của khuôn mặt. Tóc gã đã thưa, lộ ra những vết đồi mồi trên trán. Gã là Thomas Keller. Mặc dù hiện đang mang hộ chiếu Mỹ, gã sinh ra tại Đức và vẫn nói tiếng mẹ đẻ trôi chảy hơn nói thứ tiếng của đất nước đã nuôi nấng gã. Không rời tay lái, Keller lật tay liếc nhìn chiếc đồng hồ quân sự Elgin 16 chân kính mà gã mua tại một cửa hiệu cầm đồ ở Salisbury, gần như chắc chắn bị vứt lại đó bởi một quân nhân đang gặp vận đen. Gã rất đúng giờ. Gã nhìn thấy lối rẽ ngay phía trước và bật xi nhan. Sau một giờ nữa thôi, gã nghĩ, gã sẽ có đủ tiền để mua một chiếc xe tử tế và một chiếc đồng hồ tử tế - đồng hồ Thụy Sĩ, tất nhiên, có thể là Heuer hoặc Rolex gì đó - và cuối cùng, một cuộc sống tử tế. Gã dừng lại trước một quán ăn, một cái hộp đẹp đẽ màu bạc trông như vừa mới lấy ra từ sau xe tải. Tên quán - Lucie - được uốn bằng đèn neon hồng ngay trên bốn món ăn đã định hình nền ẩm thực Mỹ đối với hầu hết cư dân của nó, bất kể là họ sống ở bang nào: Bánh kẹp, Xúc xích, Sữa lắc và Khoai chiên. Gã ra khỏi xe, áo sơ mi hơi bị dính vào lớp vỏ bọc ghế bằng nhựa vynil, và nhặt áo khoác để trên ghế trước. Gã đứng lặng một lúc trong không khí ấm nóng, lắng nghe một đoạn nhạc phát ra từ chiếc máy hát tự động, và nghĩ đến hành trình đã đưa gã đến đây. Thomas Keller vừa tốt nghiệp với tấm bằng vật lý và kỹ sư thì gặp được thứ rồi sẽ trở thành niềm đam mê lớn của đời gã. Chuyện xảy ra tại rạp Harmonie ở Sachsenhausen nơi gã cùng một cô gái xinh đẹp tới để xem bộ phim mới của Fritz Lang, Frau im Mond, Người đàn bà trên mặt trăng. Bộ phim bắt đầu được năm phút là gã đã quên tiệt cô gái, và vì thế, cả hy vọng được sờ soạng cô sau đó ngoài bãi đỗ xe của rạp. Thay vào đó, cảnh trên màn hình chiếu một quả tên lửa nhiều tầng đang rời khỏi quỹ đạo trái đất đã đánh thức thứ gì đó bên trong gã và từ đó trở đi hoàn toàn chiếm lĩnh gã. Có thể nói rằng gã đã được phóng đi, bằng một sức mạnh không thể cưỡng lại, đầu tiên là tới Đại học Tổng hợp Berlin, sau đó tới Verein für Raumschiffahrt - Hiệp hội Du hành Không gian - và cuối cùng là tới bờ biển Baltic và cảng biển Peenemünde. Khi đó, nghiên cứu tên lửa của Đức đã có tiến bộ hơn hẳn, vì mặc dù Hiệp ước Versailles bị nhiều người căm ghét đã đặt ra rất nhiều hạn chế đối với việc phát triển vũ khí nhưng du hành không gian lại được miễn trừ. Điều này tạo thuận lợi cho quân đội Đức, họ đã nhanh chóng nhận ra rằng tên lửa sử dụng nhiên liệu lỏng được phóng đi từ một bệ phóng tạm thời và tương đối đơn giản, có thể bay xa và nhanh hơn nhiều loại đạn pháo, đem tải trọng thuốc nổ của nó đến mọi thành phố lớn ở châu Âu. Keller ba mươi sáu tuổi khi gã gặp người phụ trách chương trình không gian của Đức: kỹ sư tên lửa (và là một thành viên SS-Sturmbannführer) Wernher von Braun. Con trai của một bá tước Phổ, von Braun xuất thân từ một gia đình đã từng tham chiến từ thế kỷ 13 và chưa bao giờ đánh mất những đặc trưng quý tộc của mình. Ông ta luôn đi lại khệnh khạng, quát mắng tất cả những ai tranh cãi với mình và có thể trở nên thô bạo lạnh lùng khi rơi vào một tâm trạng nhất định. Nhưng đồng thời ông ta lại vô cùng đam mê công việc, luôn đòi hỏi những điều tốt nhất từ bản thân và từ những người xung quanh. Keller kính trọng ông ta vậy nhưng cũng sợ hãi không kém. Tất nhiên, trong thời gian đó một tay hạ sĩ người Áo đã lên nắm quyền và nước Đức đang có chiến tranh. Nhưng chẳng có chuyện gì thực sự làm Keller quan tâm. Cũng giống như nhiều học giả và các nhà vật lý khác, những người bạn hiếm hoi, gã không quan tâm nhiều đến thế giới xung quanh, và nếu như Hitler lại chuyển tiền - mười một triệu mác Đức trích từ Không lực và quân đội - vào các thiết bị đánh chặn bằng tên lửa và tên lửa đạn đạo thì gã sẵn sàng lờ đi những mối bận tâm kém hấp dẫn khác của đảng Quốc xã. Thực sự là khi cuối cùng đã đến được Peenemünde, lúc những quả tên lửa V-2 đầu tiên rời bệ phóng vào mùa hè năm 1944, gã chưa từng nghĩ đến sự chết chóc và tàn phá mà chúng sẽ đem đến với trọng tải một tấn của mình. Gã là một nghệ sĩ và đây là tấm toan của gã. Việc ngắm nhìn các vụ phóng đã cho gã một giây phút xuất thần tinh khiết: những đám mây khói trắng đầy những tia lửa nhỏ từ bộ đánh lửa đột nhiên đổ xô lại với nhau thành một ngọn lửa đỏ rực rỡ, dây cáp bung ra và một tạo vật xinh đẹp, lịch lãm được tung lên bầu trời. Những rung động xuyên qua gã. Làn da gã dường như sống dậy, gã cảm thấy phấn khích khi biết rằng mình là một trong số ít các kỹ thuật viên đã giúp tạo ra nó, rằng các động cơ sẽ tạo ra công suất đáng kinh ngạc 800.000 mã lực và rằng tên lửa sẽ sớm đạt được năm lần tốc độ của âm thanh. Đám dân thường London sẽ không thể biết gì về sự hoàn hảo, về thiên tài vĩ đại của thứ vũ khí đã giết họ. Thường thì Keller không thể kiềm chế được mình. Gã rơi những giọt lệ của niềm vui thuần khiết. Một thời gian ngắn sau khi chiến tranh kết thúc, Keller tự hỏi không hiểu gã có phải đối mặt với hậu quả nhất định nào đó hay không. Thực ra gã đã có mặt khi von Braun đầu hàng người Mỹ và sau đó bị họ thẩm vấn vì cũng nằm trong Danh sách Đen nổi tiếng, mật danh dành cho các nhà khoa học và kỹ sư Đức có vai trò quan trọng đặc biệt. Nhưng gã không quá lo lắng. Những gì von Braun và nhóm của ông ta đã tạo ra quá có giá trị đối với Đồng minh và gã tin rằng công việc của họ bằng cách nào đó vẫn sẽ được tiếp tục. Gã đã đúng. Hai người họ được thả cùng một ngày. Cùng với hơn một chục nhà khoa học và kỹ thuật viên khác họ đã được đưa ra khỏi nước Đức trên cùng một chuyến bay, và cuối cùng đã tới Fort Bliss, một căn cứ quân sự Mỹ gần Al Paso, nơi mà với những ông chủ mới và trong một số trường hợp ít ỏi khác - nhân thân mới, họ lại tiếp tục công việc từ đúng chỗ trước đó họ đã bị ngắt quãng một cách thô bạo. Giờ Keller năm mươi tư và đã đi gần hết sự nghiệp. Gã sống ở Mỹ đã mười hai năm nhưng chưa bị ai nhận nhầm là người Mỹ. Gã có diện mạo và hình thể của một người nước ngoài, vụng về và chậm chạp. Lối nói chậm rãi và nặng khẩu âm luôn tiết lộ nguồn gốc của gã ngay khi gã bắt đầu mở miệng. Cũng chẳng quan trọng lắm. Chiến tranh đã đủ xa rồi. Người ta cũng chẳng còn quan tâm nữa. Vả lại, trong ý thức gã đã đồng hóa theo cách tốt hơn - và điều đó làm cho gã hoàn toàn thỏa mãn. Ba năm sau khi đến Mỹ, gã lấy một cô tiếp viên Mỹ bán cocktail mà gã gặp ở El Paso làm vợ và hai người họ chuyển đến sống trong một ngôi nhà phong cách thuần Mỹ gần Salisbury, bang Maryland. Keller được thuê làm giám sát viên tổng hợp trong Phòng Thí nghiệm Nghiên cứu Hải quân (NRL) tại bãi phóng tên lửa của cơ quan này trên đảo Wallops. Gã vừa ra khỏi văn phòng một giờ trước. Giờ thì gã đã đến nơi. Gã bước vào quán và ngay lập tức cảm thấy cái mát lạnh của điều hòa không khí, đúng lúc máy hát tự động phát một bài mới của Everly Brothers. Tạm biệt tình yêu Tạm biệt hạnh phúc… Keller không quan tâm đến âm nhạc Mỹ nhưng gần như không thể thoát được giai điệu này suốt mấy tháng nay. Gã cảm thấy lời bài hát có vẻ lạc quẻ một cách lạ lùng, vì gã đến đây với hy vọng và kỳ vọng vào điều hoàn toàn trái ngược. Người gã đến gặp đang chờ gã ở đúng chỗ mà hắn đã nói, cái bàn cạnh cửa sổ góc. Hắn mặc bộ vét hiệu Brooks Brothers, áo sơ mi cài hết cúc và đi giày lười, kiểu trang phục thường xuyên của hắn. Hắn đến sớm. Trên mặt bàn có một tờ báo và hắn đã điền được một phần trò ô chữ. Keller biết đến hắn với tên gọi Harry Johnson, nhưng gã không chắc đấy có phải tên thật của hắn hay không. Gã giơ tay chào, hơi lúng túng bước trên nền gạch đỏ trắng đến phía bên kia của cái bàn. Đến phút cuối gã mới nhận ra mình đã quên khoác áo vét. Thôi kệ, đằng nào thì cũng đã quá muộn. Gã quyết tâm không làm gì tỏ ra thiếu chuẩn bị hoặc vụng về. Gã đặt cái áo lên ghế bên cạnh. “Anh thế nào, Keller?” Johnson nói đều đều, giọng Manhattan. “Tôi ổn, cảm ơn anh.” Harry Johnson trẻ hơn gã đến mươi mười lăm tuổi, nhưng trông lại có vẻ già dặn hơn với khuôn mặt dài quá mức, má đầy nếp nhăn và mái tóc bạc cắt ngắn. Hắn đang xoay cái bút bi giữa những ngón tay. Trên một ngón tay, hắn đeo chiếc nhẫn vàng có khắc hình. “Thủ đô của Venezuela là gì?” hắn hỏi. “Sao cơ?” Keller sửng sốt. “Thứ chín từ trên xuống, thủ đô của Venezuela. Từ bảy chữ cái bắt đầu bằng chữ C.” “Tôi không biết,” Keller cáu kỉnh nói. “Tôi không chơi ô chữ.” “Này, không sao. Tôi chỉ hỏi thôi mà.” Johnson rời mắt khỏi ô chữ. “Thế nào, xong rồi chứ?” Lần này thì Keller hiểu ý hắn. Đây là lần thứ tư họ gặp nhau. Keller vẫn nhớ lần đầu tiên, một cuộc gặp có vẻ như tình cờ trong một quán rượu trung tâm Salisbury. Johnson bằng cách nào đó đã ở đó, ngay ghế bên. Không thể biết được hắn vào từ lúc nào. Họ đã nói chuyện với nhau. Johnson nói hắn là một doanh nhân, cũng có thể đúng là vậy thật nhưng thực sự thì nó cũng gần như chẳng có ý nghĩa gì. Hắn có vẻ phấn khích khi biết Keller là một nhà khoa học ngành tên lửa và sau ly thứ hai - Johnson đòi được trả tiền - hắn đưa ra một loạt câu hỏi đầy quan tâm nhưng vô hại, không có gì khiến cho gã phải nghi ngờ. Đương nhiên mọi thứ đã được sắp xếp từ trước. Hắn đã biết tất cả về Keller từ trước khi họ mở miệng nói chuyện với nhau. Đến cuối buổi tối hai người đã thu xếp gặp nhau lần nữa. Sao lại không cơ chứ? Johnson là một người bạn tốt, và khi ra về hắn gần như vô tình nói rằng mình có thể đề nghị việc này. “Có thể kiếm cho anh một ít tiền. Mới chợt nghĩ vậy thôi. Lần sau ta trao đổi nhé.” Nhưng đến lần sau đó hắn không nói gì. Họ so sánh vợ con, gia đình, lương lậu, khát vọng. Toàn là những câu chuyện của đàn ông, mặc dù người nói chính vẫn là Keller. Chỉ đến lần thứ ba khi họ đã hiểu nhau rõ hơn thì Johnson mới đưa ra lời đề nghị của mình. Đáng ra khi đó Keller phải tới gặp cảnh sát, hoặc hợp lý hơn nữa là phòng An ninh Hải quân ở phía Nam đảo Wallops. Tất nhiên là gã không làm thế. Johnson, hay những người đứng sau hắn, đã chọn Keller vì họ biết gã sẽ không làm thế. Có khi họ đã tìm hiểu gã nhiều tháng trời rồi. Chính xác thì họ là ai? Keller không quan tâm. Cũng chính chứng chỉ nhìn tầm gần này đã giúp gã qua được cuộc chiến. Gã không có nhu cầu nhìn toàn cảnh. Không quan trọng. Gã đơn giản chỉ tập trung vào đề nghị được đặt ra cho mình và hai trăm năm mươi ngàn đô la, miễn thuế, mà gã có thể có được nếu như làm theo đề nghị đó. Gã đồng ý gần như ngay lập tức và chỉ cần một buổi gặp nữa để thảo luận chi tiết. Rất thẳng thắn. Điều mà gã được đề nghị làm không hề dễ dàng. Nó cần có sự hiểu biết sâu sắc về cơ học chất rắn và ứng suất kéo - nhưng đó chính là lĩnh vực chuyên môn của gã. Và sau khi gã đã đo đếm tỉ mỉ mọi yếu tố thì bản thân công việc này vẫn là một vấn đề. Nhưng may mắn thì gã cũng sẽ có được bốn hoặc năm phút một mình. Có rủi ro đáng kể - nhưng phần thưởng cũng lớn. Đó là tính toán ban đầu của gã. “Thế là xong rồi chứ?” “Phải.” Keller gật đầu. “Nhiệm vụ hóa ra lại dễ hơn tội tưởng nhiều. Tôi từng được vào xưởng lắp ráp trong lúc tập dượt cứu hỏa.” Gã dừng lời. Gã đã lộ ra sự nhiệt tình quá mức và khiến điều gã đã làm được có nguy cơ mất giá. “Tất nhiên là tôi phải làm nhanh. Người ta luôn luôn tăng cường an ninh trong khi chuẩn bị phóng. Và phải làm rất cẩn thận. Có khả năng, anh hiểu chứ, người ta sẽ đi kiểm tra vào phút chót. Việc tôi làm cần phải… unsichtbar.” Gã tìm từ trong tiếng Anh. “Tàng hình.” “Động cơ sẽ hỏng chứ?” “Không. Nhưng nó sẽ không hoạt động tử tế. Lượng thuốc phóng được bơm vào buồng đốt sẽ không đủ. Tôi đã giải thích điều đó cho anh rồi. Kết quả sẽ đúng như mong muốn.” Hai người cùng im lặng khi hầu bàn đưa cà phê và nước lạnh đến. Hai cuốn thực đơn để mở trước mặt. Họ không có ý định ăn uống gì. “Thời điểm phóng thì thế nào?” Johnson hỏi. Keller nhún vai. Gã không thích cà phê. Gã đã nốc hết bao nhiêu lít món này từ khi đến Mỹ, trong lúc hút thuốc và làm việc thâu đêm? Gã đẩy cái cốc sang một bên. “Vẫn còn mười hai ngày nữa từ hôm nay. Tôi đã xem dự báo. Thời tiết tốt. Nhưng thời tiết thì không bao giờ chắc chắn được. Hướng và tốc độ gió rất quan trọng, và nếu như điều kiện không thích hợp thì…” Gã hạ giọng bỏ lửng câu nói. “Nhưng đấy không phải chuyện tôi quan tâm. Tôi đã làm điều anh yêu cầu. Anh có đem tiền không?” Người đàn ông kia không nói gì. Hắn nhìn chằm chằm gã người Đức. Sau đó hắn chìa tay ra và gỡ cặp kính mát gài trên túi áo phía trước. Đó là tín hiệu cho thấy công việc của họ đã kết thúc. “Dưới gầm bàn có một cái cặp.” “Còn tiền thì sao?” “Trong đấy hết.” Johnson toan ra về nhưng Keller ngăn hắn lại. “Tôi phải nói với anh một chuyện,” gã nói. “Quan trọng đấy.” Gã đã tập dượt điều sắp nói. Gã khá tự hào về cách nói mà gã đã nghĩ ra, về việc gã đã suy nghĩ điều đó thật kỹ càng. “Tôi sẽ không đếm tiền. Tôi sẽ coi như đã đủ. Nhưng đồng thời, tôi phải cảnh báo anh. Tôi không biết ai thuê anh, tôi không quan tâm. Rõ ràng là anh làm việc cho những người nghiêm túc. Nhưng một phần tư triệu đô là rất nhiều tiền. Cược đặt rất cao. Và vì sự an toàn của bản thân mình anh có thể chọn cách bịt miệng tôi lại. Không phải khó lắm, phải không? Theo tôi hiểu, có thể trong cái cặp ấy có thuốc nổ và tôi có thể chết trước khi ra đến xe. Hoặc có thể sẽ có tai nạn giao thông.” “Thế nên tôi muốn anh biết rằng tôi đã ghi lại tất cả những gì xảy ra giữa chúng ta với nhau và tất cả mọi thứ tôi được yêu cầu thực hiện. Không những tôi miêu tả anh, tôi còn chụp ảnh. Tôi mong là anh sẽ tha thứ cho sự lừa đảo nhỏ này của tôi, nhưng tôi chắc chắn anh sẽ thông cảm cho tình thế của tôi. Tôi cũng ghi lại thông tin về xe của anh, biển số xe. Tất cả những thứ đó được gửi ở chỗ một người bạn của tôi và gã đã được dặn là sẽ chuyển tất cả cho cơ quan có thẩm quyền nếu có điều gì đó đáng ngờ xảy ra cho tôi. Anh hiểu tôi nói gì chứ? Sẽ không có chuyện tên lửa bị hỏng nữa. Và dù cảnh sát phải tốn chút thời gian để tìm ra anh thì họ cũng đã biết về sự tồn tại của anh và sẽ theo anh mãi mãi.” Johnson yên lặng nghe hết. Keller nói xong Johnson ngờ vực chằm chằm nhìn gã. Đó là lần đầu tiên hắn thể hiện cảm xúc thực của mình. “Anh nghĩ chúng tôi là ai?” hắn hỏi. “Anh nghĩ chúng tôi là gangster à? Tôi phải nói với anh, Tom, anh đọc nhầm loại sách rồi. Chúng tôi yêu cầu anh cung cấp cho chúng tôi một dịch vụ. Anh cung cấp cho chúng tôi dịch vụ đó và anh đã được trả tiền. Nhân tiện mà nói, anh nhầm rồi. Một phần tư triệu đô cũng không phải quá nhiều trong chuyện này. Anh sẽ gặp lại chúng tôi chỉ trong trường hợp anh không làm như chúng ta đã thỏa thuận - và nếu đúng như vậy, trong trường hợp ấy, cuộc sống của anh rất có thể sẽ bị nguy hiểm một chút. Nhưng cho dù anh không tin chúng tôi thì chúng tôi vẫn có niềm tin tuyệt đối nơi anh.” Hắn ném vài đồng xu ra bàn để thanh toán tiền cà phê, cuộn tờ báo lại rồi đứng lên. “Tạm biệt.” “Chờ đã…” Keller cảm thấy xấu hổ. “Caracas,” gã nói. “Caracas?” “Ô chữ còn thiếu của anh. Thủ đô Venezuela.” Johnson gật đầu. “Tất nhiên rồi. Cảm ơn anh.” Keller nhìn hắn đi khỏi. Đúng là bài phát biểu của gã có chút khoa trương, được lấy cảm hứng từ mấy bộ phim gã từng cùng xem với vợ. Và nó cũng không thật. Không có bản ghi nào về những gì đã xảy ra, không có ảnh, không có người bạn nào đang chờ để đến gặp cảnh sát. Gã chỉ nghĩ rằng sự đe dọa này có thể là đủ để bảo vệ mình khi cần. Liệu gã có sai không? Liệu gã có tự biến mình thành thằng ngốc không? Sau đó gã nhớ đến tiền. Gã mò mẫm dưới gầm bàn và cảm thấy các khớp tay mình va phải thứ gì đó đặt sát tường. Cái cặp! Gã kéo nó ra và bật khóa, hé mở vừa đủ để có thể liếc vào trong. Có vẻ có đủ tiền trong đó: tiền năm mươi đô, được buộc thành cọc gọn gàng. Gã đóng cặp, khoác áo vét lên rồi vội vã ra ngoài. Không có dấu hiệu nào của Harry Johnson ngoài bãi đỗ. Gã ra xe, ném chiếc cặp vào ghế trước rồi chui vào xe. Mất hai mươi phút để gã lái xe về đến nhà, nơi gã biết Gloria đang chờ gã. Nghĩ đến Gloria, gã mỉm cười và thư giãn một chút sau tay lái. Xét cho cùng, mọi thứ đều là cho nàng. Nàng trẻ hơn gã mười lăm tuổi, thấp và hơi mũm mĩm theo cái cách làm gã thấy phấn khích, ngực và hông lúc nào cũng căng đầy dưới lớp quần áo. Khi hai người gặp nhau thì nàng đã ở giữa độ tuổi hai mươi, và khi gã kể với nàng về mình thì nàng thấy rạo rực. Này là một người đàn ông được đưa lậu từ châu Âu đến, làm việc cho một cơ sở nghiên cứu tuyệt mật chế tạo tên lửa không gian. Nó giống như tình tiết trong những cuốn sách bìa mềm nàng thích đọc, và mặc dù thực ra gã là người Đức, thiếu hấp dẫn và đôi khi có những yêu cầu làm nàng đau, điều đó có vẻ cũng chẳng quan trọng gì. Họ đã hạnh phúc khi lấy nhau và cả hai đã cùng quyết định chuyển lên phía Bắc, chọn Salisbury vì gần đảo Wallops. Họ đã mua nhà và cùng chọn nội thất. Nhưng từ đó trở đi mọi việc giữa họ đã không còn mấy tốt đẹp. Họ không thể có con, nàng thì phát chán vì ngôi nhà, vì cái công việc quản lý một nhà hàng địa phương hầu như không có khách trừ những ngày cuối tuần. Nàng không muốn nghe bất cứ điều gì về tên lửa và dạo này nàng chỉ miễn cưỡng đến xem các vụ phóng. Nhưng Keller vẫn còn yêu nàng. Dĩ nhiên là gã si mê nàng. Theo một cách nào đó, gã coi nàng như biểu tượng cao nhất về vị thế, sự công nhận đối với công trình của đời người. Nàng là một người vợ Mỹ. Gã xứng đáng có nàng. Gã kể với nàng về người bạn mới của mình, Harry Johnson, về đề nghị gã nhận được. Có nằm mơ gã cũng không dám nhận nếu như không có sự chấp thuận của nàng. Gã mừng là gã đã làm như vậy. Tiền cược là vô cùng cao. Gã sẽ phạm một tội ác mà nếu bị phát hiện gã sẽ bị kết tội phản quốc. Nhưng ngay từ đầu Gloria đã tỏ ra quyết tâm hơn cả gã, thúc giục gã khi lòng dũng cảm của gã không còn. Hàng tuần nay hai người họ đã trao đổi về tương lai mà họ sẽ xây dựng cùng nhau, về việc họ sẽ làm gì với số tiền, họ phải thận trọng để không tiêu hết nó quá sớm ra sao. Keller thấy hình như vợ gã đã biến đổi. Giờ thì gã nhớ lại được nàng như thế nào khi lần đầu tiên gã để mắt đến nàng. Tất cả năng lượng và lebensfreude - sức sống - của nàng đã quay trở lại. Và nàng lại khôi phục được sự thèm khát giường chiếu, hiến dâng cho gã với sự buông thả như trong đêm tân hôn của họ. Nàng đang đợi gã ngoài cửa căn nhà gỗ một cửa sổ. Đó là một ngôi nhà như bước thẳng ra từ catalogue nhà đất với khu vườn gọn gàng phía trước và dãy hàng rào màu trắng. Keller đỗ xe trên lối vào nhà và lại với nàng, tay xách cặp. Họ hôn nhau trên ngưỡng cửa. Nàng mặc chiếc váy hoa ban ngày, chiết eo. Mái tóc vàng óng của nàng đổ những lọn xoắn lên vai. Ngay lúc đó Keller thèm muốn nàng hơn bao giờ hết. “Anh làm được rồi,” nàng nói. “Phải.” “Anh đếm chưa?” “Ở đây cả mà. Không cần.” “Anh phải đếm chứ.” “Mình có thể đếm trong nhà.” Họ cùng nhau vào nhà, vào phòng khách gọn gàng có sofa, bàn cà phê và chiếc ti vi phủ tấm che cửa lật. Họ mở cặp và đếm tiền. Gloria đứng tì vai và mông vào gã, gã vòng tay ôm nàng. Khi đã chắc chắn mọi thứ đều ổn, nàng vặn người hôn má gã. “Em đã để sâm banh sẵn trong tủ lạnh rồi đấy,” nàng nói. Gã theo nàng vào bếp, đứng đó trong khi nàng lục lọi ngăn kéo. “Không thấy cái mở nút chai chết tiệt ấy đâu cả,” nàng nói. Hắn lại chỗ nàng, và chỉ khi tới nơi thì hắn mới nhớ ra là để mở sâm banh thì đâu có cần đến mở nút chai, và đó cũng là lúc nàng quay lại còn gã thì cảm thấy có cái gì đó đè vào mình. Gã cúi nhìn và thấy, không thể nào như vậy, một cái cán dao thò ra từ bụng mình. Hẳn phải có nhầm lẫn gì rồi. Không thể như thế được. Nhưng khi ngẩng lên và nhìn thấy mắt nàng thì gã biết đây chính là sự thật. Gã cố gắng cất tiếng nhưng máu đã ộc ra từ cơ thể, và cùng với nó là hơi thở và sự sống của gã. Vẫn còn ôm lấy nàng, gã khuỵu xuống, rồi, khi nàng bước sang một bên, gã đổ vật xuống sàn. Gloria nhìn xuống gã và rùng mình. Không phải cảnh tượng máu gã tràn trên lớp vải sơn làm ả ghê sợ. Mà là ký ức về đôi bàn tay gã trên thân thể ả, mùi chua chua trong hơi thở của gã. Chẳng còn gì nhiều để làm. Ả đã mua sẵn xăng. Ả vẩy xăng lên tay chồng đã chết, lên bếp, phòng khách, cầu thang. Rồi ả lấy chiếc va li, đóng gói vài thứ định mang theo và đổ tiền vào trong. Cuối cùng, ả bật diêm. Ả lấy chiếc Crosley của chồng, cho dù đấy là một cái xe kinh khủng. Ít nhất thì ả cũng có thể trông chờ vào nó để đến California, nơi ả dự tính sẽ bắt đầu cuộc đời mới. Ả đi tới cuối con phố và rẽ ra đường lớn mà không nhìn lại. Và thế là không nhìn thấy những ngọn lửa đầu tiên khi chúng bùng lên phía sau mình và làn khói đang lan tỏa vào không khí ban đêm.   Mời các bạn đón đọc Cò Súng Tử Thần của tác giả Anthony Horowitz & Phạm Hồng Anh (dịch).  

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Truy Sát
Nước Mỹ đã vô thức kéo kẻ thù nguy hiểm nhất trên thế giới gần mình. Brad Thor - tác giả cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất nước Mỹ đã cho thấy “Không khoan nhượng” vẫn chưa phải là tác phẩm trinh thám hay nhất của mình bằng một tác phẩm mới về đặc vụ chống khủng bố Scot Harvath, cựu đặc nhiệm Hải quân Hoa Kỳ, người phải một mình đối mặt với trận chiến chống khủng bố mà những nhân viên tình báo kỳ cựu nhất của cường quốc này chưa bao giờ hình dung được. Sau nhiều năm không bị tấn công, một nhóm khủng bố đã chọn kỳ nghỉ cuối tuần là Ngày Độc lập 4-7 làm mốc chấm hết cho sự yên bình trên đất Mỹ. Bằng một chiến dịch tấn công hoàn hảo, hệ thống cầu và hầm đường bộ ra vào đường đi nghỉ cuối tuần. Lợi dụng các nỗ lực tìm kiếm và cứu hộ nạn nhân khủng bố đang diễn ra, một nhóm biệt kích tinh nhuệ nước ngoài đã thâm nhập vào New York chỉ để tìm một người của họ - một đối tượng với sự nguy hiểm và ảnh hưởng lớn đến mức nước Mỹ sẽ làm mọi thứ cần thiết và bằng mọi giá để kiểm soát được. Trong tình huống đó Scot Harvath là hy vọng duy nhất của nước Mỹ. Bằng mọi cách, băng qua những con phố đổ nát và cháy sập của Manhattan, Scot thực hiện nhiệm vụ của mình, anh tìm bắt đối tượng mà chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ thậm chí không chính thức công nhận sự hiện hữu. Với phong cách viết thể loại hành động đặc trưng, ly kỳ và kiến thức phong phú của mình, Brad Thor đã mang lại một tác phẩm trinh thám hàng đầu mà chắc chắn khi đọc độc giả sẽ nhiều lần phải nín thở khi lật sang trang mới. *** Thường thì người ta chỉ nhận ra được là mình đã xuất hiện nhầm chỗ, vào thời điểm không thích hợp, vào lúc đã quá muộn. Đó chính là trải nghiệm trớ trêu của Steven Cooke, vì đến tận phút chót của đời mình, Cooke vẫn nghĩ rằng mình đã may mắn trúng giải độc đắc trong nghề điệp viên tình báo. Chàng trai 26 tuổi tóc vàng và mắt xanh đã có mặt tại cuộc gặp hoàn toàn vô tình. Thật ra, Cooke chẳng có việc gì phải đến khu chợ ngoài việc cô em gái đã nhờ anh mua và mang về một chiếc áo choàng dài kiểu Thổ Nhĩ Kỳ có đai thắt ngang lưng trong chuyến về thăm nhà cuối tuần đã dự định từ lâu nhưng vẫn chưa thực hiện được. Còn cả đống việc phải giải quyết trước khi về nhưng Steven vẫn không thể từ chối yêu cầu của Alison. Hai người thân nhau thậm chí hơn cả anh em ruột và là bạn thân từ hồi còn bé. Alison thực ra là người duy nhất biết Steven làm nghề gì, thậm chí bố mẹ Steven cũng không hề biết con trai mình là một điệp viên CIA. Steven mới đến Marocco được gần một năm và cũng khá thông thạo Marrakech. Nằm tại trung tâm thành phố, khu chợ là một mê cung của những lối đi hẹp và ngoắt ngoéo. Xe lừa chất nặng hàng nằm ngổn ngang lộn xộn trên những con phố nóng nực, bẩn thỉu trong lớp bụi mờ cố hữu dày đến mức đứng trên khu quảng trường lớn cũng không thể nhìn thấy những bức tường gạch xây bằng bùn của thành phố, thậm chí người ta chẳng nhìn thấy dãy núi Atlas từ khu chợ. Cái nóng gay gắt khó chịu khiến cho Cooke cảm thấy hài lòng khi đi vào trong dãy chợ có mái che để tìm mua áo choàng cho Alison. Khi đi tắt qua những lối đi chính của khu chợ, Steven lướt mắt qua một cửa hàng nhỏ bán cà phê và đột ngột dừng ánh mắt của mình vào một người khách - một người đàn ông đã biệt tăm hai ngày trước vụ tấn công 11/09 mà nước Mỹ vẫn đang tìm kiếm kể từ đó đến nay. Nếu đúng thế thì phát hiện của anh sẽ không chỉ là một chiến công của ngành tình báo Mỹ mà còn là cơ hội để bản thân trở thành một điệp viên trẻ nổi bật. Hấp dẫn đấy, nhưng Cooke tự nhủ rằng mình gia nhập CIA để phụng sự tổ quốc trước tiên chứ không phải chỉ cố gắng để nhận khen thưởng. Steven dùng điện thoại di động gọi cho cấp trên và thông báo về những gì mình thấy, cộng thêm cả thông tin là có một đối tượng nam chưa rõ danh tính khác vừa vào quán cà phê và ngồi cùng bàn với người đàn ông đó. Vì không có ai hỗ trợ, điều khả dĩ nhất cấp trên của Steven có thể làm là yêu cầu một trong những vệ tinh do thám của mình tập trung thu thập thêm thông tin. Thế nhưng phần lớn nhất của việc thu thập thông tin lại thuộc về Steven. CIA có một loạt những câu hỏi tối quan trọng và cần Steven thu thập thông tin nhiều nhất có thể về người đàn ông trong quán cà phê cũng như những dự định của anh ta. Cảm thấy chất adrenaline chảy rần rật trong máu, cả sự sợ hãi và cả sự phấn khích, Cooke cố tập trung vào những gì mình đã được huấn luyện để tự kiềm chế bản thân. Điều Steven cần làm đầu tiên là làm sao có được dữ liệu lưu lại cuộc gặp giữa hai người đàn ông trong quán cà phê. Không thể đường hoàng bước vào quán với gương mặt da trắng đậm chất Mỹ của mình vì điều đó sẽ đánh động đối tượng, Steven cần phải kiếm cho ra một cái máy ảnh. Đi nhanh nhất với tốc độ an toàn, cuối cùng anh cũng tìm được thứ mình cần, nhưng vấn đề duy nhất là Steven không có đủ tiền. Móc túi trong chợ nhiều như rươi, bản thân thì không bao giờ mang thẻ tín dụng còn tiền mặt chỉ mang vừa đủ tiêu vặt, vật giá trị duy nhất mà Steven có là chiếc đồng hồ đeo tay hiệu Kobold Chronograph và người bán hàng vui vẻ đồng ý đổi chiếc đồng hồ của anh lấy một chiếc máy ảnh kỹ thuật số Canon, loại có ống kính tương đối tốt đi kèm một thẻ nhớ dung lượng cao. Từ một vị trí trên mái nhà đối diện với quán cà phê, Steven vừa chụp ảnh, vừa quay những đoạn video ngắn với hy vọng chuyên gia phân tích của CIA ở Langley có thể giải đoán được. Lý do để người đàn ông lộ mặt ra nơi công cộng hẳn sẽ cực kỳ quan trọng không kém gì cuộc gặp này. Steven đã dùng hết thẻ nhớ dung lượng cao và chuẩn bị thay nó bằng thẻ nhớ đi kèm máy của nhà sản xuất, định sẽ dùng để chụp những bức ảnh về chiếc xe hơi của người đàn ông khi rời quán, thì nghe thấy một tiếng động sau lưng mình. Tiếng sợi dây rít lên trong không khí rồi thắt chặt vào cổ anh. Steven quờ quạng vô vọng vì một chân kẻ thắt cổ đã chẹn chặt vào lưng anh và bắt đầu cảm thấy đường thở của mình tắc nghẹn. Khí quản Steven thắt lại, chiếc máy ảnh rơi xuống mái nhà kêu lọc cọc. Kẻ ám sát không để ý đến hiện trường đổ vỡ lộn xộn khi lôi xác người điệp viên CIA trẻ ra khỏi bức tường rồi nhét cái máy ảnh và thẻ lưu dữ liệu vào túi. Điều duy nhất mà Abdul Ali quan tâm là làm sao để không có bất cứ chứng cứ gì về cuộc gặp ở quán cà phê được tồn tại. Người Mỹ sẽ sớm biết việc này và lúc đó thì đã quá muộn.   Mời các bạn đón đọc Truy Sát của tác giả Brad Thor.
Vòng Hoa Cúc
Vệt hơi nước cuối cùng đã bốc khỏi tấm gương và Maggie lại có thể nhìn thấy gương mặt của mình lần nữa. Vẫn là khuôn mặt đó, nhưng nhìn rất khác, có da có thịt hơn, và trước khi phẫu thuật sửa chỗ khoằm nơi mũi cô. Trước cuộc chỉnh nha đắt tiền nắn lại hàm răng khấp khểnh. Tóc cô không còn xanh nữa. Nó dài hơn, dày hơn, xoăn hơn, đen huyền như nhung. Đôi mắt cô có màu nâu hạt dẻ. Cô đã trở lại thành người phụ nữ mà cô đã từng, trước khi trái tim tan vỡ và nỗi xấu hổ trước tất cả mọi người buộc cô phải chạy trốn, phải thay đổi mình hoàn toàn. Cô đã trở lại, một lần nữa, làm người phụ nữ sẽ mãi trong sâu thẳm nơi cô; Và tiếng nói trong đầu cô thở ra một hơi thật dài, thật hài lòng, hạnh phúc. Cô là Daisy. *** Tôi béo, vì vậy khi nghe tới một cuốn sách trinh thám liên quan đến chủ đề béo, tôi đã không nén nổi tò mò, phải mua “Vòng hoa cúc” đọc ngay. Ngay từ khúc dạo đầu, câu chuyện đã tạo nên một tình huống gay cấn và dẫn dắt người đọc rất khéo léo. “Sắc đẹp cũng là một loại tài năng”. Người đẹp lúc nào cũng được mọi người yêu mến, tin tưởng, yêu quý hơn người thường. Giả dụ như người đẹp có phạm lỗi cũng dễ dàng được dung thứ hơn. Chính vì thế, những tên giết người hàng loạt thường có vẻ ngoài hấp dẫn để khiến những nạn nhân sa bẫy. Nghi can của chúng ta ở đây là một bác sĩ đứng đầu ngành giải phẫu ung thư, giỏi thể thao, có làn da rám nắng, thân hình cân đối, vai rộng, tóc sẫm màu nâu và một gương mặt đẹp như tượng, hiện đang có một cuộc sống hoàn mỹ với tiền tài, danh vọng rộng mở. Và hắn được-cho-là hung thủ của một chuỗi các vụ án giết người hàng loạt mà nạn nhân là những cô gái béo: Zoe: một cô bé béo bình thường nhút nhát, không xinh lắm, Jessie: một biên tập viên, hot blogger tuy béo nhưng thành đạt, ngoại hình nổi bật; Chloe: một nhà trang sức, béo khỏe béo đẹp; Myrtle: Một cô bé gia cảnh nghèo, ngoại hình xấu xí. Trừ nạn nhân đầu tiên ra, các nạn nhân còn lại đều được tìm thấy xác trong hang động sau một thời gian dài mất tích. Nạn nhân là những cô gái béo, thành phần bị hứng chịu body-shamming rất nhiều từ xã hội trong khi nghi can lại là nam giới thành đạt, có ngoại hình đẹp. Các bạn có tưởng tượng được một kẻ thủ ác, bị cho là hung thủ của vụ giết người hàng loạt lại là kẻ được hâm mộ như ngôi sao truyền hình, một tuần nhận được đến hơn trăm bức thư kết bạn của các cô gái, thậm chí có những cô còn khoe thân và nguyện gắn bó cả cuộc đời với hẳn không? Tuy “Vòng hoa cúc” chỉ là truyện và Hamish chỉ là nhân vật hư cấu nhưng ngoài đời không phải là không có những cô gái tâm lý bất thường, thậm chí có những cô thuộc tầng lớp tri thức như: cảnh sát, luật sư, giáo viên…. cũng kết hôn với những tên giết người hàng loạt, chịu mức án tù chung thân. Lý do tại sao thì Sharon cũng đã đưa ra một số giả thiết trong cuốn “Vòng hoa cúc” và chúng không phải là không có lý. Miễn án tử hình từng được xem như là một hành động nhân đạo, vì nhân quyền nhưng giả sử bạn là người thân của nạn nhân, chứng kiến cảnh họ chết tức tưởi, oan khuất, trong khi kẻ thủ ác dù ở trong tù vẫn sống nhởn nhơ bằng tiền thuế của dân còn có thể có vợ, sinh con, bạn cảm thấy ức không? Một xã hội dân chủ, tưởng tiến bộ nhưng hóa ra lại đang thụt lùi và nhân đạo không cần thiết Tác giả dẫn dắt độc giả khám phá vụ án dưới nhiều góc nhìn: góc nhìn của nữ Luật sư tóc xanh kiêm cây bút trinh thám và nhà điều tra tự do Magie Rose, của anh cảnh sát Weston, của nghi can Hamish Wolf…. Mỗi người đều có một phán đoán riêng, Hamish cũng kêu oan nhưng liệu có phải thật? Ở tác phẩm này, người đọc chỉ có thể xem họ hành động và diễn chứ không thể nào tiên đoán được đáp án bởi Sharon quá khéo léo trong việc tung hỏa mù, tạo tình huống và đánh lừa. Những bài thông cáo trên báo, phân tích tâm lý hay hồ sơ vụ án mà tác giả đưa vào truyện có thể giúp người đọc hiểu được chi tiết nhưng không thể nào giúp họ hình dung ra được những gì ở phía sau. Gần cuối, plot twist mới lộ ra, không chỉ có một mà là nhiều cú, dồn dập, bất ngờ và gay cấn. Tuy nhiên, nếu không đọc bìa sau, bạn mới có thể tận hưởng được trọn vẹn cảm giác adrenaline tràn về khi đối mặt với những cú twist liên tiếp còn nếu lỡ nghía vào bìa sau, tôi xin chia buồn vì hưng phấn của bạn sẽ bị giảm mất một nửa. Nếu Nxb Đinh Tị có đọc được bài review này xin hãy lưu ý giúp tôi: những người thích đọc trinh thám là những người có máu tò mò và rất ghét bi spoil truyện. Điểm đánh giá tác phẩm: 8/10 (Dạo này tôi lười đọc, ấy thế mà cuốn này 555 trang, tôi chỉ đọc trong 2 buổi vì thấy thích quá) Bài review của tác giả Ánh Chu (fb/profile.php?id=100009754968459) *** Dưới đây là bài review của bạn Biển – Camellia Phoenix Tác giả: Sharon Bolton. Dịch giả: Ngụy Thanh Tuyên Thể loại: Trinh thám hiện đại. Điểm: 8.5/10 “Đây có thể là một quyển truyện hơi đáng sợ đối với phụ nữ thừa cân hiu hiu hiu” – một phụ nữ thừa cân tên Biển vừa cười vừa giả vờ run rẩy cho biết sau khi đọc xong quyển sách “Vòng hoa cúc”. Nội dung truyện xoay quanh việc cô luật sư Maggie Rose và tên phạm nhân Hamish Wolfe. Hamish là một bác sĩ phẫu thuật đẹp trai, cường tráng, bị tố cáo đã giết 4 phụ nữ, trong đó có 1 người chưa tìm được xác, tất cả nạn nhân đều thừa cân. Sau khi cân nhắc nhiều yếu tố, đắn đo rất lâu thì Maggie Rose đã đồng ý làm luật sư cho Hamish Wolfe. Trước đó, cô đã cãi thắng và giúp 3 tên tội phạm bị kết án giết người được tự do. Trước và trong khi làm việc với vụ án của Hamish, Maggie đã dốc toàn bộ trí thông minh và khả năng của bản thân để điều tra về vụ án này. Cô làm thế để chứng minh mình tài giỏi hay cô cũng như nhiều phụ nữ khác, bị quyến rũ bởi một tên tội phạm giết người? Ngay từ khi bắt đầu đọc, Biển có cảm giác quyển “Vòng hoa cúc” hay hơn quyển “Con búp bê chắp vá”. Tuy bìa sách và tựa sách đều có vẻ dành riêng cho độc giả là phái nữ (thiếu nữ lãng mạn hoặc bà nội trợ bỉm sữa) nhưng khi khép quyển sách lại thì Biển đánh giá chủ quan rằng nội dung truyện cũng thích hợp với độc giả nam. Câu chuyện đề cập đến những vấn đề khá mới mẻ đối với Biển: người ta có thể bị khinh miệt / căm ghét chỉ vì ngoại hình hoặc cân nặng của mình; tình yêu đam mê cháy bỏng giữa người phụ nữ tự do và người đàn ông đang ở tù; cách thắng những trận ẩu đả trong tù vì nắm vững kiến thức giải phẫu học (điều này có lẽ ít nhiều hư cấu); cách thay đổi danh tính và biến mất dễ dàng như thế nào… Đoạn Biển thích nhất trong sách là lúc Hamish Wolfe đã chiến đấu ngoan cường khi bị 3 gã đánh hội đồng trong nhà vệ sinh trong tù, đọc đoạn đó mà nhớ đến bộ phim Sherlock Holmes phần 1 Biển từng xem. Ngay cách đặt tên nhân vật cũng gợi cho độc giả dễ hình dung về nhân vật: Rose là hoa hồng, cô luật sư Maggie Rose hiện lên như 1 phụ nữ xinh đẹp sắc sảo như đóa hồng; Wolfe là sói, Hamish Wolfe gợi liên tưởng đến loài mãnh thú rừng sâu với tốc độ, sức mạnh và những cơ bắp dẻo dai. Tác giả Sharon Bolton rất khéo léo lồng vào truyện những đoạn ngầm miêu tả tâm lý, những “cảnh quay” thể hiện rõ sự quyến rũ bùng cháy như lửa gặp xăng gây ra bởi bản năng giới tính. Sau khi tra cứu bài viết “Các thể loại truyện trinh thám” của Sadie Mẫn Nhi đăng trên FB Hội Thích Truyện Trinh Thám thì Biển cho rằng cuốn “Vòng hoa cúc” thuộc thể loại “whodunit” – cốt truyện phức tạp, nhiều manh mối rải rác. Người đọc có thể đoán thủ phạm trước khi đáp án được công bố ở đoạn kết. Lần đầu tiên sau khi đọc xong 1 quyển trinh thám mà Biển không căm ghét, chỉ thấy tội nghiệp hung thủ. Chợt nghĩ lan man về tình yêu, có phải ai yêu nhiều hơn thì cũng bị thiệt thòi trước đối phương? Vẫn biết trong xã hội loài người thì chuyện yêu nhiều người cùng lúc hay chuyện thay lòng đổi dạ theo thời gian là rất bình thường, nhưng khi chứng kiến một người rơi vào cảnh vạn kiếp bất phục chỉ vì lụy tình thì Biển vẫn thấy họ thật đáng thương. Nếu có thể dùng lý trí để kiềm chế và lướt thắng bản năng của mình thì liệu con người có thể sống dễ dàng hơn không nhỉ? “Vòng hoa cúc” là 1 truyện trinh thám khá lôi cuốn, vài đoạn có thể khiến độc giả lạnh người. Cốt truyện mới lạ, văn phong dễ hiểu, tác giả nắm vững cách nhấn mạnh những gì cần nổi bật và làm chìm đi những gì cần che giấu. Còn vài chi tiết không nhất quán nhưng có thể bỏ qua, vì cũng nên thông cảm với sự dại khờ của phụ nữ trong tình yêu. Độc giả tinh ý và giỏi suy luận có thể sớm đoán được hung thủ, riêng Biển thì cứ ngu ngơ mù mờ đọc mãi mà chẳng đoán được gì! Tóm lại đây là 1 quyển trinh thám hay, khiến Biển sau khi đọc xong tự dưng muốn đi nhuộm tóc màu xanh lam sáng. (Sea, 7-7-2018) *** Review Vòng hoa cúc - Sharon Bolton người review Hana Bùi - fb/trinhthamgroup #Review #Vòng_hoa_cúc Một cuốn sách trinh thám không xuất sắc đến ngạc nhiên nhưng cũng đủ để mình thấy hài lòng. Vòng hoa cúc này thuộc dòng trinh thám tâm lý xoay quanh một nữ nhà văn, luật sư có mái tóc màu xanh thông minh và bí ẩn - Maggie Rose cùng anh chàng bác sĩ Hamish Wolfe hào hoa, thông minh không kém và mang tội giết người hàng loạt nhưng một mực khẳng định mình bị oan. Maggie Rose là một nhân vật phức tạp, cô độc và tách biệt, và lạnh lùng. Hamish thì dường như có tất cả, từ ngoại hình hấp dẫn, sự nghiệp bác sĩ trọng vọng, đến một gia đình với người mẹ yêu thương hắn ta; nhưng hắn lại là một người có phần toan tính và độc đoán. Và không kể đến các tuyến nhân vật phụ khác, chỉ việc trông ngóng sự tương tác cùng tìm hiểu những tình tiết, bí mật về 2 nhân vật này và mối quan hệ của họ cũng đã đủ khiến mình đủ tò mò để ngồi đọc hết câu chuyện này rồi. Ban đầu Maggie rất kiên quyết từ chối những đề nghị của Hamish nhưng sau đó cô đã đổi ý và quyết định đó thực sự là 1 bước ngoặt làm câu chuyện trở nên hấp dẫn hơn. Mọi điều gay cấn thì sau đây sẽ rõ ^^ Đọc truyện mình có cảm giác các nhân vật trong truyện ai cũng có bên mình 1 chiếc mặt nạ và nhiều khi cũng không phân biệt được khi nào họ đang đeo mặt nạ, khi nào không. Mình nghĩ 1 điểm hấp dẫn và đáng được đánh giá cao trong cách viết của Bolton đó là việc dẫn dắt người đọc rất khéo, rất biết ""thả thính"" đưa ra các manh mối, tình tiết liên quan, phản ứng, suy nghĩ của người trong cuộc để người đọc có chút cơ sở phán đoán và đôi khi ngỡ ngàng vì... mình đoán sai rồi. Tóm lại là cuốn sách này đủ để khiến mình bất ngờ và hồi hộp từ đầu đến cuối, đặc biệt là cái kết truyện (spoil một tí). Bạn nào thích đọc trinh thám tâm lý thì có thể thử tìm đọc cuốn này, cũng ra trò ra phết đó   Mời các bạn đón đọc Vòng Hoa Cúc của tác giả Sharon Bolton.
Cuốn Sách Tiên Tri
"Trong cuốn tiểu thuyết tuyệt vời này, một Erika Swyler đầy tài hoa  đã xuyên suốt qua nhiều thế hệ và nhiều thế kỷ, dịch chuyển một cách khéo léo và dệt các mạch truyện thành một tấm thảm tuyệt đẹp. Tôi ngay tức khắc hòa mình vào trong câu chuyện gia đình đầy thủ đoạn và bất hòa. Văn chương của Swyler hoa mỹ và thanh tao tới mức vô cùng dễ hiểu, tỏa sáng hệt như giọng nói đặc biệt của bà - cách miêu tả của bà về biển và vẻ hung hãn của nó có thể sánh ngang với Annie Proulx trong tác phẩm Shipping News. Tôi thực sự yêu thích cuốn sách này và đã ngấu nghiến đọc một mạch từ đầu đến cuối"  - Trích lời Sara Gruen, tác giả cuốn Water for Elephants; At the Water's Edge - *** Văn học giả tưởng, ma mị là một thể loại cực kỳ thu hút độc giả. Mời các bạn đón đọc review Cuốn sách tiên tri – một câu chuyện cực hot trong thể loại trên. “Trong khi Peabody vẽ và mơ ước, hàng xe vẫn đi theo con đường quanh co chạy theo chiều dài Catawba. Trục xe rên rỉ phản kháng, những cánh cửa xe đóng sập lại và bị kẹt, không khí ẩm ướt khác thường bao trùm lên cả gánh xiếc khi họ mù quáng đi vào trong sương mù.” Cuốn sách tiên tri có cái ma mị của ‘Rạp xiếc đêm’, cũng có chút bất cần tuổi trẻ của ‘Những thành phố giấy’. Cái ma mị bí ẩn trong hình ảnh ngôi nhà bên vách đá gắn với những kỉ niệm, hiệu sách cũ, lửa trại, những lá bài tarot, gánh xiếc, người cá, cuốn sách cổ, những cái chết.. tất cả góp phần tạo nên một không gian truyện bí ẩn và cuốn hút. Đan xen vào đó là những khao khát, ước mơ và cả tình yêu của những con người trẻ tuổi, những con người mang trong mình những đam mê nồng cháy và cảm xúc bùng nổ khi đối diện với người họ thương yêu. Bằng cách kể chuyện song song ở hai khoảng thời gian hiện tại và quá khứ, tác giả như đang thì thầm những bí mật về những con người xa lạ hóa ra lại có mối liên hệ gắn bó và bị thu hút về phía nhau vậy. Tớ rất thích cách viết gắn kết những con người tưởng chừng không chút liên quan, mà qua ngòi bút của tác giả, sợi dây liên kết giữa họ rõ ràng hơn và kì diệu hơn rất nhiều. Không chỉ có vậy, đây còn là câu chuyện về tình cảm gia đình gắn bó, những kỉ niệm đã qua vẫn còn lưu lại trong kí ức tuổi thơ của những kẻ trưởng thành cô đơn, hay những day dứt về sự bồng bột và những hành động trong quá khứ vẫn xuất hiện trong tâm trí họ. Liệu người thân hay chính bản thân họ có dám đối diện với những sai lầm ngày còn trẻ, có thể bằng lòng tha thứ hay không? Bên cạnh đó thì đôi lúc mạch truyện cũng hơi chậm, cảm giác như tác giả cũng đang băn khoăn tìm hướng đi cho nhân vật vậy. Tớ cũng không thích vài chi tiết tình cảm người lớn trong cuốn này, cứ thấy cái gì đó không hợp câu chuyện lắm đâu. Chung lại thì đây là một cuốn khá ổn, nếu anh em muốn thử một cuốn bí ẩn ma mị mà không thiếu đi sự sâu lắng của tình cảm con người thì tớ nghĩ đây sẽ là một câu chuyện phù hợp đó. Cuốn sách tiên tri xoay quanh Simon Watson, anh chàng thủ thư vừa mất việc, rơi vào chán chường vì mất việc đồng nghĩa với không có tiền sửa sang lại căn nhà thơ ấu với bao kỉ niệm cùng bố mẹ và em gái Enola. Một ngày, Simon nhận được cuốn sách cổ từ chủ hiệu sách Churchwarry&son mà trong đó, anh chợt nhận ra những mối liên hệ bất ngờ và một sự trùng hợp kì lạ về những con người đặc biệt từ nhiều năm về trước. Trích dẫn Cuốn sách tiên tri: “Trong khi Amos mơ những giấc mơ của một Cậu bé Rừng xanh – có những đầm lầy dồi dào muông thú, có những đám rong rêu mềm mại để anh ngủ ngon lành trên đó, có sự sảng khoái của những dòng sông mát lạnh áp vào da thịt, có một cô gái đáng yêu trong nước, mái tóc bồng bềnh xung quanh như thảm cỏ – thì những giấc mơ của Evangeline lại u ám hơn nhiều. Cô mơ đến việc bò ra khỏi ngôi nhà màu xám ở Kromeskill, đầu gối đẫm máu, bùn đóng cứng lại cùng với lá thông. Lúc nào bà cô cũng đi theo cô, khuôn mặt tím tái, cầu xin lòng nhân từ và sự cứu giúp. Tại sao? Tại sao? Bà rất yêu cháu. Gánh xiếc đang rời Philadelphia để đến những ngôi nhà gạch có đầu nhọn ở New Castle thì bầu trời nổi gió và mưa trút xuống đe doạ sẽ cuốn trôi cả bầy thú. Con ngựa nhỏ đá chân và lồng lên bên trong xe ngựa của mình, con lạc đà rít lên như một đứa trẻ bị thương. Lo sợ rằng việc cố gắng đi tiếp sẽ khiến chúng bị sa lầy, Peabody lệnh cho tất cả các cỗ xe dừng lại cho đến khi mưa tạnh. Màn đêm buông xuống với hơi nóng dày đặc buộc mọi người phải lên giường đi ngủ. Không khí nặng nề với những đám mây mưa, bầu trời như một quả cân kéo Evangeline xuống như bà của cô đã từng làm. Cô ngủ một giấc ngủ bồn chồn, không yên vì tội lỗi.” Với Cuốn sách tiên tri, tớ chấm 4/5 điểm. *** Ngôi nhà cheo leo bên rìa dốc thẳng đứng trông thật nguy hiểm. Cơn bão đêm qua đã cày tung đất, khuấy đảo vùng biển, khiến bãi biển đầy rẫy chai lọ, rong biển, mai cua hình móng ngựa. Mảnh đất tôi đã sống cả cuộc đời này không chắc có thể trụ qua được mùa bão. Eo biển Long Island rải rác tàn tích của những ngôi nhà và những mảnh đời, tất cả bị chôn vùi trong cái dạ dày tham lam của cát. Nó là một kẻ chết đói. Các biện pháp như xây vách ngăn, tôn nền cao đều không có. Sự thờ ơ của bố đã khiến tôi phải gánh chịu một vấn đề không thể giải quyết, một vấn đề quá tốn kém với một thủ thư ở Napawset. Nhưng, những thủ thư chúng tôi nổi tiếng là có tài xoay xở. Tôi đi về phía những bậc thang gỗ dẫn xuống vách đá. Chân tôi đau nhói ở nơi đá găm vào. Ở bờ biển Bắc này, có một vài thứ cần thiết hơn là bàn chân chai cứng. Vào mùa hè, tôi và em gái Enola thường chạy chân đất cho đến khi vỉa hè nóng ran đến nỗi ngón chân chúng tôi lún xuống nhựa đường. Người ngoài không thể đi bộ trên những bờ biển thế này. Frank McAvoy vẫy tay với tôi từ dưới chân bậc thang trước khi quay ra nhìn chằm chằm vào vách đá. Ông mang theo con thuyền nhỏ xinh xắn, trông như thể được đục đẽo từ một tấm gỗ duy nhất. Frank McAvoy là thợ đóng thuyền gỗ và là một người tốt bụng, đã quen biết gia đình tôi trước cả khi tôi chào đời. Khi cười, khuôn mặt ông hằn lên những nếp nhăn loang lổ của một người Ireland bao năm dãi dầm mưa nắng; cặp lông mày cong lên trên và mất hút dưới vành mũ cũ kỹ. Nếu bố tôi sống đến sáu mươi tuổi, có thể trông ông sẽ giống như Frank, với hàm răng vàng khè và những vết tàn nhang ửng đỏ. Nhìn vào Frank, tôi lại nhớ đến tôi hồi trẻ thơ, đang bò giữa những thanh củi được xếp để đốt lửa trại, bàn tay to lớn của ông kéo tôi khỏi một khúc gỗ đang lung lay. Ông khiến tôi nhớ lại những kỷ niệm về bố, khi ông đang loanh quanh với món lợn quay, ngô nướng, mùi vỏ khô cháy thành than và mùi lụa cháy, trong khi Frank tiêu khiển cho chúng tôi bằng những câu chuyện đi câu. Frank có biệt tài nói dối như thần, đó là điều rất rõ ràng. Mẹ tôi và vợ ông ấy giục ông kể tiếp, tiếng cười của họ khiến cho lũ mòng biển cũng phải khiếp sợ. Hai người họ giờ đã không còn nữa. Tôi nhìn Frank và thấy bố mẹ tôi, tưởng tượng rằng ông không thể nhìn tôi mà không thấy những người bạn đã mất. - Có vẻ như cơn bão đã ảnh hưởng nhiều đến cháu đó. - Ông nói. - Cháu biết. Cháu mất một mét rưỡi. - Một mét rưỡi là đã nói giảm nói tránh rồi. - Bác đã bảo bố cháu phải dựng kè, trồng thêm cây. - Nhà ông McAvoy cách nhà tôi vài trăm mét về phía tây, nằm xa biển, với một cái dốc đứng có bậc thang và cây trồng, được thiết kế để bảo vệ ngôi nhà trong bất cứ hiểm nguy nào. - Bố cháu không bao giờ biết lắng nghe cả. - Đúng thế. Ngoài ra thì một hay hai miếng che trên kè có lẽ đã có thể cứu cháu khỏi một biển rắc rối. - Bác biết bố cháu thế nào mà. - Sau đó là một khoảng lặng đầy cam chịu. Frank hít không khí qua kẽ răng, tạo ra một tiếng huýt sáo khô khốc. - Bác cho rằng bố cháu nghĩ ông ấy có nhiều thời gian hơn thế để sửa chữa mọi thứ. - Có lẽ vậy. - Tôi nói. Ai mà biết được bố tôi đã nghĩ gì. - Dù vậy, mấy năm nay, nước đã lên cao. - Cháu biết, cháu không thể để việc này tiếp diễn lâu hơn được nữa. Nếu bác quen một ai đó mà bác tin tưởng, cháu sẽ rất cảm kích nếu được bác cho biết tên của một nhà thầu. - Chắc chắn rồi. Bác có thể gửi người đến chỗ cháu. - Ông gãi đầu - Nhưng bác không muốn nói dối, tiền công sẽ không rẻ đâu. - Không còn gì khác nữa phải không bác? - Không, bác nghĩ là không. - Cháu có thể xem xét bán một số thứ. - Thật buồn khi thấy cháu làm việc đó. - Vầng trán Frank nhăn lại, khiến chiếc mũ sụp xuống. - Đất đai còn có chút giá trị ngay cả khi ngôi nhà biến mất. - Hãy suy nghĩ thêm. Frank biết vấn đề tài chính eo hẹp của tôi. Cô con gái Alice của ông cũng làm việc tại thư viện. Tóc hoe đỏ và xinh xắn, Alice có nụ cười của bố và cô ấy rất biết cách lấy lòng bọn trẻ. Alice biết cách giao thiệp với mọi người hơn tôi, đó là lý do tại sao cô ấy làm nhiệm vụ thiết lập chương trình, còn tôi làm công việc tra cứu. Nhưng chúng tôi không ở đây để nói về Alice, hay tình trạng nguy hiểm của căn nhà. Chúng tôi ở đây để làm công việc chúng tôi đã làm suốt một thập kỷ qua, thả phao để cách ly một vùng ngập nước. Cơn bão đủ mạnh để kéo phao và mấu neo vào bờ, để lại một đống những dây xích han gỉ và dây thừng bện màu cam, san sát những hàu. Tôi thấy hơi ngạc nhiên khi bị mất đất. - Chúng ta đi chứ? - Tôi hỏi. - Tại sao không? Thời gian không còn dài nữa. Tôi cởi áo, nhấc dây xích và dây thừng lên một bên vai, rồi chầm chậm bước xuống nước. - Có chắc là cháu không cần giúp một tay không? - Frank hỏi. Con thuyền đã chạm mặt cát khi ông đẩy nó xuống nước. - Dạ không, cảm ơn bác, cháu làm được. - Tôi có thể tự mình làm việc này, nhưng có Frank đi theo vẫn an toàn hơn. Ông ở đây không phải vì tôi, mà là vì cái lý do đã khiến tôi làm việc này vào mỗi năm: để tưởng nhớ mẹ tôi, Paulina, bà đã chết đuối ở vùng nước này. Eo biển thật lạnh lẽo vào tháng 6, bước xuống tôi hòa mình vào nó, bàn chân tôi quắp vào nhũng hòn đá bám đầy tảo biển. Dây xích có móc neo khiến tôi chậm lại, nhưng Frank vẫn duy trì tốc độ, xoay tròn mái chèo. Tôi bước đi cho đến khi nước ngập đến ngực, rồi đến cổ. Ngay trước khi lặn xuống, tôi thở hết ra, rồi hít vào, như mẹ tôi đã hướng dẫn tôi trong một buổi sáng ấm áp vào cuối tháng 7, như tôi đã hướng dẫn em tôi. Mẹo để nín thở là chịu khát. “Thở một hơi thật nhanh và mạnh,” mẹ tôi nói, giọng bà êm ái bên tai. Ở vùng nước nông, mái tóc đen dài của mẹ trôi quanh chúng tôi tựa một dòng sông. Hồi đó tôi năm tuổi. Bà ấn bụng tôi cho đến khi các cơ thắt chặt vào, rốn gần chạm xương sống. Bà đẩy mạnh, móng tay sắc nhọn chọc vào tôi, “Bây giờ con hãy hít vào, nhanh. Nhanh, nhanh, nhanh. Xương sườn căng ra. Nghĩ rộng ra.” Bà hít vào, lồng ngực mở rộng, những chiếc xương mảnh như xương chim bành ra cho đến khi bụng bà tròn như cái thúng. Bộ áo tắm của bà là một ánh sáng trắng rạng rỡ trong nước. Tôi nheo mắt nhìn. Bà xỉa một ngón tay vào xương ức tôi. “Con đang thở ra đấy, Simon. Nếu con thở ra, con sẽ chết đuối.” Một cái chạm khẽ khàng. Một nụ cười mỉm. Mẹ bảo tôi hãy tưởng tượng rằng tôi đang khát, cổ họng khô khốc và trống rỗng, rồi uống không khí vào. “Hãy thư giãn xương cốt và uống vào thật nhiều, thật sâu.” Khi bụng tôi đã tròn như chiếc trống cái, bà thì thầm, “Tuyệt, tuyệt. Bây giờ chúng ta lặn xuống nào.” Lúc này tôi lặn xuống. Những tia nắng mềm mại xuyên xuống quanh bóng chiếc thuyền của Frank. Thỉnh thoảng, tôi nghe thấy tiếng mẹ tôi, đang trôi giạt trong làn nước, và thỉnh thoảng tôi thoáng thấy bà, phía sau lớp rong biển, mái tóc đen hòa lẫn với tảo bẹ. Hơi thở của tôi biến thành một màn sương đẹp đẽ bao phủ lên làn da. Mẹ tôi là một diễn viên ở rạp xiếc và lễ hội, người bói bài tarot, trợ lý ảo thuật gia, và người cá, chuyên sống bằng cách nín thở. Bà dạy tôi bơi như cá, và bà khiến bố tôi mỉm cười. Bà thường xuyên biến mất. Bà thường bỏ việc hoặc làm đồng thời hai hay ba việc một lúc. Bà ở khách sạn chỉ để thử những chiếc giường khác nhau xem chúng như thế nào. Bố tôi, Daniel, là một thợ máy và là một người chồng chung thủy. Ông ở nhà, mỉm cười, đợi vợ trở về, đợi bà gọi ông là anh yêu. Simon, con yêu. Bà cũng gọi tôi như vậy. Tôi lên bảy tuổi vào ngày bà gieo mình xuống nước. Tôi cố quên, nhưng nó đã trở thành kỷ niệm thân thương nhất của tôi về bà. Bà đã bỏ chúng tôi sau khi chuẩn bị xong bữa sáng. Trứng luộc chín phải được đập vào cạnh đĩa và phải dùng móng tay để bóc vỏ. Tôi đập và bóc trứng cho em gái, cắt chúng thành miếng cho vừa những ngón tay nhỏ xíu của đứa trẻ mới chập chững biết đi. Có bánh mì nướng khô và nước cam đi kèm. Những giờ đầu điên của mùa hè khiến bóng tối trở nên tối hơn, khuôn mặt trở nên sáng hơn và chỗ hõm trở nên góc cạnh hơn. Mẹ Paulina là một cảnh tượng đẹp trong sáng hôm đó, vô cùng duyên dáng, không ai sánh bằng. Bố tôi đang làm việc ở nhà máy. Chỉ có mẹ ở nhà với chúng tôi, quan sát, và gật đầu khi tôi cắt trứng cho Enola. - Con là một người anh tốt, Simon à. Con hãy trông chừng Enola. Con bé sẽ muốn chạy trốn khỏi con. Hãy hứa với mẹ rằng con sẽ không để em đi. - Con hứa. - Con là một chàng trai tuyệt vời, phải không? Mẹ không bao giờ trông chờ điều đó. Mẹ không trông chờ điều đó ở con một chút nào. Quả lắc trên chiếc đồng hồ chim cu tích tắc qua lại. Bà gõ một gót giày lên tấm vải son lót sàn nhà, yên lặng. Enola bôi đầy trứng và mảnh bánh mì vụn lên người. Tôi vật lộn với việc vừa ăn sáng, vừa giữ cho em gái tôi sạch sẽ. Một lát sau, mẹ đứng dậy và vuốt thẳng vạt trước của chiếc váy mùa hè màu vàng bà đang mặc rồi nói: - Gặp lại con sau nhé, Simon! Tạm biệt Enola! Bà hôn lên má Enola và áp môi lên đỉnh đầu tôi. Bà vẫy tay tạm biệt, mỉm cười và đi làm, tôi đã nghĩ như vậy. Làm sao tôi có thể biết được lời tạm biệt đó lại chính là lời vĩnh biệt. Những suy nghĩ khó khăn chất chứa trong những lời nói nhỏ bé. Khi bà quan sát tôi trong buổi sáng hôm đó, bà biết rằng tôi sẽ chăm sóc cho Enola. Bà biết chúng tôi không thể theo bà. Đó là thời gian duy nhất bà có thể đi. Không lâu sau đó, khi tôi và Alice McAvoy đang đua xe trên chiếc thảm trải sàn phòng khách nhà cô ấy, mẹ tôi đã trẫm mình xuống eo biển. Tôi lao xuống nước, đẩy nước bằng ngực, thọc chân sâu xuống. Sau khi đã lặn thêm vài mét nữa, tôi thả một cái neo, nó rơi xuống với một tiếng vang nghẹt lại. Tôi nhìn vào bóng của chiếc thuyền. Frank đang lo lắng. Mái chèo đập xuống mặt nước. Hít thở dưới nước sẽ như thế nào nhỉ? Tôi tưởng tượng khuôn mặt méo mó của mẹ tôi, nhưng vẫn tiếp tục đi cho đến khi tôi có thể thả một cái neo khác, và rồi tôi đẩy hết không khí ra khỏi phổi và bước về phía bờ, cố gắng ở phía dưới lâu nhất có thể - đó là một trò chơi mà tôi và Enola đã thường chơi. Tôi chỉ bơi khi không thể giữ nổi thăng bằng để bước đi, sau đó cánh tay tôi di chuyển thành những sải bơi ổn định, cắt qua eo biển như một trong những chiếc thuyền của Frank. Khi nước vừa đủ sâu để ngập đầu, tôi lại chạm xuống dưới đáy. Điều tiếp theo tôi làm là vì Frank. “Chậm thôi, Simon. Hãy mở mắt ra, ngay cả khi con thấy cay mắt. Không được chớp mắt.” Mẹ bảo tôi. Muối làm cho mắt đau nhói nhưng mẹ không bao giờ chớp mắt, không chớp mắt trong nước, không chớp mắt khi không khí bắt đầu đập vào mắt mẹ. Bà đang di chuyển như một bức tượng. “Đừng có thở, ngay cả khi mũi con đã ở phía trên mặt nước. Nếu con hít thở quá nhanh, miệng con sẽ đầy muối. Hãy đợi,” Mẹ nói, kéo dài từ này như một lời hứa. “Đợi cho đến khi miệng con đã lên khỏi mặt nước, nhưng hãy hít thở bằng mũi, hay trông như con bị mệt. Con không bao giờ có thể bị mệt. Rồi con mỉm cười.” Dù miệng nhỏ và môi mỏng nhưng nụ cười của bà luôn căng rộng ra như làn nước. Mẹ chỉ cho tôi cách cúi chào đúng đắn: cánh tay giơ cao, ngực ưỡn ra, như một con sếu chuẩn bị bay. “Đám đông thích những người rất nhỏ và rất cao. Đừng gập cong người như một diễn viên, điều đó sẽ ảnh hưởng đến con. Hãy để họ nghĩ rằng con cao hơn thực chất của mình. Mẹ mỉm cười với tôi khi đang giơ cao cánh tay bà. “Và con sẽ rất cao, Simon à.” Một cái gật đầu căng hết cỡ tới những khán giả vô hình. “Và con hãy thật duyên dáng, Hãy luôn luôn duyên dáng.” Tôi không cúi chào, không phải vì Frank. Lần cuối cùng tôi cúi chào là khi tôi dạy Enola và muối đâm vào mắt chúng tôi đau đến nỗi trông chúng tôi như thể mới đánh nhau. Dù vậy, tôi vẫn mỉm cười và hít một hơi thật sâu qua mũi, để cho xương sườn giãn ra và lồng ngực căng đầy. - Bác nghĩ là bác sẽ phải theo sau cháu. - Frank gọi. - Cháu ở dưới bao lâu rồi bác? Ông nhìn vào chiếc đồng hồ đeo tay bằng dây da đã rạn và thở ra: - Chín phút. - Mẹ cháu có thể làm được mười một phút. - Tôi giũ nước khỏi tóc, đập đập hai lần để nước ra khỏi tai. - Không bao giờ hiểu được điều đó. - Frank thốt lên khi lôi mái chèo ra khỏi khóa. Chúng kêu loảng xoảng khi ông ném chúng vào thuyền. Có một câu hỏi mà cả hai chúng tôi đều không hỏi: mất bao lâu để một người nín thở bị chết đuối? Khi tôi mặc áo, nó đầy cát, đó là hậu quả của việc sống ở bờ biển, cát luôn có trong tóc, dưới móng chân, trong những nếp khăn trải giường. Frank đi đến sau tôi, thở hổn hển vì kéo thuyền. - Lẽ ra bác nên để cháu giúp việc đó. Ông vỗ lưng tôi: - Nếu thỉnh thoảng bác không vận động thì bác sẽ chỉ có già đi thôi. Chúng tôi nói chuyện phiếm về mọi thứ ở bến du thuyền. Ông phàn nàn về sự thịnh hành của những chiếc thuyền bằng sợi thủy tinh, cả hai chúng tôi đều lan man về Windmind, chiếc thuyền đua mà ông và bố tôi cùng sở hữu. Sau khi mẹ tôi chết đuối, bố tôi chẳng nói chẳng rằng đã bán luôn chiếc thuyền đó đi. Ông thật tàn nhẫn khi làm vậy với Frank, nhưng tôi cho rằng Frank đã có thể mua được nó ngay tức khắc nếu ông muốn vậy. Chúng tôi tránh không nói chuyện về ngôi nhà, dù rõ ràng là ông buồn rầu với ý tưởng bán nó đi. Tôi cũng không muốn bán nó. Thế nên chúng tôi cùng trao đổi những lời nhận xét hài hước về Alice. Tôi nói tôi đang để ý đến cô ấy, dù điều đó là không cần thiết. - Thế còn em gái cháu thì sao? Nó đã ổn định ở đâu chưa? - Cháu không rõ. Thật ra mà nói, cháu không biết liệu nó có từng muốn vậy không. Frank khẽ mỉm cười. Cả hai chúng tôi đều nghĩ về điều đó: Enola cũng hoạt bát như mẹ tôi. - Vẫn đang bói bài tarot à? -Nó đang xoay sở với công việc đó. - Em tôi đã bỏ đi cùng với một gánh xiếc. Khi nói ra điều này, chúng tôi đã kết thúc cuộc hội thoại tất yếu. Chúng tôi lau khô và nhấc chiếc thuyền nhẹ trở lại cái kè. - Bác sẽ lên chứ? Cháu sẽ đi bộ về với bác. - Tôi nói. - Hôm nay trời thật đẹp. Bác nghĩ là bác sẽ ở đây thêm một lát nữa. - Nghi thức đã xong. Chúng tôi đi theo hai hướng khác nhau khi chúng tôi đã dìm chết hồn ma của chính mình. Tôi bước lên những bậc thang trở lại, tránh cây thường xuân độc leo lên rào chắn và mọc dày đặc trên dốc đứng - không ai kéo nó xuống, bất cứ thứ gì bám chặt vào cát xứng đáng với bất cứ tội lỗi nào nó đem lại - Và cắt qua đám cỏ biển, hướng về nhà. Giống như rất nhiều ngôi nhà ở Napawset, nhà của tôi là một thuộc địa thực sự, được xây dựng vào cuối những năm 100. Có một tấm bảng từ xã hội lịch sử được treo cạnh cửa trước cho đến khi nó bị thổi bay mất trong một cơn gió đông bắc vài năm trước. Ngôi nhà Timothy Wabash. Với màu sơn trắng bong tróc, bốn cửa sổ vặn vẹo, và một bậc thang dốc, vẻ bề ngoài của ngôi nhà cho thấy nó đã bị lãng quên từ lâu và thiếu tiền tu bổ trầm trọng. Trên bậc thang trước màu xanh lá bạc màu (phải nói đến điều đó) là một gói đồ được dựng mở trên cửa lưới. Người giao hàng luôn để cửa mở dù đã vô số lần tôi để lại lời nhắn là không được như vậy, tôi phải treo lại một cánh cửa vào một ngôi nhà đã không vuông vức kể từ ngày nó mới được xây. Tôi không đặt món hàng nào và không thể nghĩ được ai có thể gửi cho tôi món gì. Enola hiếm khi ở một nơi nào đủ lâu để gửi thư mà chỉ gửi một tấm bưu thiếp. Ngay cả nếu có vậy, chúng cũng thường trống trơn. Gói hàng nặng, kỳ cục, và được đề địa chỉ bằng những nét chữ nguệch ngoạc, khẳng khiu của một người lớn tuổi - một kiểu mà tôi đã quen thuộc, vì khách quen của thư viện chủ yếu là một nhóm những người lớn tuổi. Điều đó nhắc tôi rằng, cần phải nói chuyện với Janice về việc kiếm thêm một khoản trong ngân sách của thư viện. Mọi thứ sẽ không quá tồi nếu tôi có thể đắp kè. Không cần phải tăng lương, chỉ cần một khoản tiền thưởng vào một dịp nào đó, vì thâm niên làm việc. Người gửi là một ai đó tôi không biết, một người nào đó có tên là M. Churchwarry ở Iowa. Tôi dọn sạch một chồng giấy khỏi mặt bàn, đó là một vài bài báo về gánh xiếc và lễ hội, những thứ tôi đã sưu tầm trong những năm qua để bắt kịp cuộc sống của em gái tôi. Hộp đồ có chứa một cuốn sách khá lớn, được bọc cẩn thận. Dù chưa mở thì cái mùi mốc, hăng hăng cho thấy đó là mùi giấy, gỗ, da và keo dán cũ. Nó được gói trong tấm vải mỏng và giấy in báo, khi mở ra, nó là một bìa sách da màu tối trên đó có thể là những họa tiết xoắn phức tạp nếu nó không bị nước hủy hoại. Tôi cảm thấy hơi choáng váng. Nó rất cũ kĩ, không phải một cuốn sách có thể sờ mó bằng những ngón tay trần, mà nó như một thứ đã bị hư hỏng hoàn toàn, tôi hồi hộp chạm vào nó như chạm vào một cái gì đó của lịch sử. Mép trang giấy không bị hỏng mà còn thật mềm mại. Bộ sưu tập săn cá voi của thư viện đã khiến tôi lao mình vào công việc lưu trữ và phục chế, đủ để nói rằng quyển sách có cảm giác như đã tồn tại ít nhất từ những năm 1800. Đây là một sự sắp đặt, không phải một cuốn sách bạn chuyển đến mà không báo trước. Tôi xếp những tờ báo của mình thành hai chồng nhỏ để đỡ cuốn sách - sự thay thế đáng thương cho một cái giá sách nó đáng có được, nhưng như vậy cũng ổn. Có một lá thư được nhét bên trong bìa trước, được viết bằng mực nước cũng với nét chữ run rẩy đó. Cậu Watson thân mến, Tôi tình cờ thấy cuốn sách này tại một buổi đấu giá, nó nằm trong một mớ mà tôi đã mua để đầu cơ. Tình trạng hư hại của cuốn sách này cho thấy nó vô dụng với tôi, nhưng một cái tên bên trong nó - Verona Bonn - đã khiến tôi tin rằng nó có thể là mối quan tâm của cậu hay gia đình cậu. Đó là một cuốn sách thú vị và tôi hy vọng nó tìm được một ngôi nhà tuyệt vời với cậu. Làm ơn đừng do dự liên lạc với tôi nếu cậu có bất kỳ câu hỏi nào cậu cho rằng tôi có thể trả lời. Nó được ký bởi một ông Martin Churchwarry của Hiệu sách Churchwarry & Son nào đó, và có cả một số điện thoại đi kèm. Một người bán sách, chuyên về những cuốn sách cũ và sách cổ. Verona Bonn. Tên bà tôi xuất hiện trong cuốn sách này nằm ngoài sức tưởng tượng của tôi. Là một người biểu diễn lưu động như mẹ tôi, bà sẽ không có thời gian cho một cuốn sách như thế này. Tôi khẽ lật một trang sách bằng mép ngón tay. Trang sách bên trong đầy những chữ viết phức tạp, một bản khắc đồng được trang trí với những nét cong bay bướm kì dị. Có vẻ như nó là một cuốn sách kế toán hay hành trình của một ông Hermelius Peabody nào đó, liên quan đến điều gì đó có chứa từ xách tay và phép màu. Bất cứ chi tiết nào khác để nhận dạng cũng rất khó đọc vì bị nước làm hư hại và vì sự cống hiến cho nghệ thuật viết chữ đẹp của ông Peabody. Tôi lướt qua thấy những bức phác họa về phụ nữ, nam giới, những tòa nhà, và những cỗ xe ngựa mái cong, tất cả đều màu nâu. Tôi chưa bao giờ biết mặt bà tồi. Bà mất khi mẹ tôi còn nhỏ, mà mẹ tôi thì chẳng bao giờ nói nhiều về bà. Tôi không rõ cuốn sách này có liên quan đến bà tôi không, tuy nhiên, điều đó cũng thật thú vị. Tôi quay số, lờ đi những âm thanh ám chỉ đó là một tin nhắn. Nó reo một hồi vô cùng lâu trước khi chuyển sang chế độ trả lời tự động và giọng nói già nua của một người đàn ông nói rằng tôi đã gọi đến Hiệu sách Churchwarry & Son, hướng dẫn tôi nhắn lại ngày và thời gian ngoài một lời nhắn chi tiết về bất kỳ cuốn sách cụ thể nào mà tôi đang tìm kiếm. Chữ viết tay không nói dối. Đây là một ông lão. Mời các bạn đón đọc Cuốn Sách Tiên Tri của tác giả Erika Swyler.
Kẻ Hành Pháp
Thanh tra Stafford King đã toàn tâm toàn ý suốt ba năm nhằm vạch trần băng nhóm của đại tá Dan Boundary ra pháp luật nhưng vẫn chưa có đủ bằng chứng để kết tội. Một ngày nọ, người ta tìm thấy thi thể của “Snow” Gregory tại một rãnh nước trên đường Lambeth. Khi lục soát quần áo nạn nhân, cảnh sát tìm thấy một hộp nhỏ chứa cocaine, và lá bài tây - J Nhép. Gregory không chỉ là một con nghiện mà còn là một con bạc và có quan hệ mật thiết với Dan Boundary. Ba tháng sau, Dan Boundary nhận được lá bài vấy bẩn loang lổ - cây J nhép, kèm theo lời nhắn cảnh cáo từ Jack - Kẻ Hành Pháp. Ông ta quyết định báo cho Stafford King và ngài Ủy viên của Cục Hình Sự Stanley Belcom biết rằng mình đang bị Kẻ Hành Pháp đe dọa. Pinto Silva, White Solomon, Lollie Marsh, “Swell” Crewe, Hanson ... vốn là những cộng sự thân tín của Boundary. Olaf Hanson - viên thư ký của Boundary đã phản bội băng nhóm và chấp nhận ra tòa làm chứng chống lại ngài đại tá. Tuy nhiên, anh ta bị hại chết ngay trong phiên xét xử và cảnh sát buộc phải trả tự do cho Boundary. King nộp đơn từ chức nhưng ngài Stanley đã khuyên giải và gợi mở cho anh hướng điều tra mới. Ngài Solomon vì muốn tách ra khỏi đại tá nên đã trốn đi nơi khác. Đại tá đã sai người bắt cóc cô con gái Maisie để buộc Solomon lộ diện. Sau đó, ông ta sai một gã người Pháp bắn chết Solomon. Nhưng rồi kẻ sát nhân ấy cũng phải bỏ mạng dưới tay Kẻ Hành Pháp cùng quân J nhép quen thuộc... Cuối cùng, băng nhóm của đại tá cũng phải tan rã, Crewe và Lollie ăn năn về những sai lầm của mình, họ kết hôn và chuyển đến Bồ Đào Nha; Pinto bị cảnh sát bắt; còn căn hộ của Boundary thì đột nhiên cháy rụi hoàn toàn. Boundary sau khi trốn thoát khỏi vụ cháy, đã chuyển đến Chatham làm thợ mộc. Khi ông ta chuẩn bị lên tàu để bỏ trốn thì Kẻ Hành Pháp chính thức lộ diện - đó chính là ngài Stanley đáng kính, cũng chính là cha của Gregory. Hai tiếng súng vang lên cùng lúc và khi Stafford King bước vào thì Boundary đã gục chết trên giường, còn ngài Stanley đang hấp hối. Trước lúc qua đời, ông nhờ King giữ kín bí mật này. Để khiến những kẻ tội phạm phải đền tội, ông đã dấn thân vào hầu hết mọi loại tội phạm. Nhưng chính ông đã thay mặt pháp luật phá tan băng đảng của đại tá Boundary, thứ mà luật pháp không thể chạm tới... *** Đại tá Dan Boundary – kẻ cầm đầu một băng đảng chuyên tổ chức những phi vụ tống tiền, ép chuyển giao tài sản giá rẻ bằng cách tìm ra những nhược điểm của các chủ doanh nghiệp, chủ nhà đất hay những người giàu có. Không những vậy, đại tá Boundary còn thực hiện một loạt các tội ác như giết người, thủ tiêu các nhân chứng có thể chống lại mình,… Tuy vậy, mọi hành động của hắn thì vô cùng kín kẽ và đa số do tay chân của mình làm nên hầu như phía cảnh sát không thể tìm được bằng chứng chống lại hắn.   Thế nhưng, cuộc sống của Boundary bị đảo lộn bởi một kẻ tự xưng là Jack – Kẻ hành pháp cùng với lá bài J nhép bí ẩn. Từ đây, những phi vụ làm ăn của hắn liên tục bị thất bại. Bắt đầu từ đó, cuộc săn đuổi giữa Dan Boundary và Kẻ hành pháp chính thức bắt đầu. Vậy Kẻ hành pháp là ai? Động cơ của Jack là gì? Và liệu thanh tra Stafford Kinh có thể vạch trần được tội ác của Boundary và băng đảng của hắn? Với những ai đã từng đọc “Vòng tròn máu” rồi thì có thể dễ nhận ra một điều là ở quyển này, vai trò của cảnh sát và thanh tra vô cùng mờ nhạt. Xuyên suốt câu chuyện chủ yếu là cuộc đối đầu vô cùng căng thẳng giữa đại tá Boundary với Kẻ hành pháp. Truyện không nhiều vụ giết người như cuốn “Vòng tròn máu” nhưng không bởi vậy mà truyện mất đi sự hấp dẫn của nó. Những tình tiết lắt léo, những màn xuất quỷ nhập thần của Kẻ hành pháp đem lại cho mình một cảm giác như là ảo thuật gia vậy. Xuất hiện đúng lúc và không ai biết Jack bằng cách nào lại xuất hiện như vậy. Hình tượng nhân vật Boundary và Jack cũng được tác giả xây dựng thành công. Boundary được xây dựng với hình tượng một tên tư bản chủ nghĩa, dùng mọi cách thức tàn nhẫn và độc ác nhất để đoạt được mục đích của mình. Jack – kẻ hành pháp tuy ngoại hình kì quặc nhưng lại vô cùng thông minh, lúc nào cũng đi trước Boundary một bước. Câu chuyện cũng khắc hoạ sinh động một xã hội nước Anh thời kì chủ nghĩa tư bản. Những tên tư bản luôn tìm mọi cách để kiếm tiền bằng những thủ đoạn bẩn thỉu nhất. Cùng với đó là sự bất lực của hệ thống pháp luật nước Anh lúc bấy giờ trước những tên tội phạm mưu mô và quỷ quyệt. Điểm: 7,5/10 Minh Sơn Review Đại tá Dan Boundary có bề ngoài là doanh nghiệp thành đạt, nhưng đằng sau là một băng nhóm tội phạm chuyên thực hiện các vụ tống tiền kín kẽ nên bên cảnh sát không thể sờ gáy. Nhưng vào một ngày, Gregory -một thành viên băng bị phát hiện giết chết với lá bài J nhép trong túi. Đó chỉ là khởi đầu của chuỗi ác mộng với băng đảng khi một kẻ bịt mặt bí ẩn bí danh Jack- ”Kẻ hành pháp” tuyên bố sẽ lật tẩy Boundary và đồng bọn. So với ”Vòng tròn máu” thì cuốn này có nội dung phức tạp và hấp dẫn hơn. Vai trò của cảnh sát mờ nhạt nhưng trọng tâm là trò vờn nhau giữa Đại Tá và Kẻ Hành Pháp. Nhân vật Boundary được xây dựng thành công với sự tàn nhẫn và những mánh khóe tống tiền xảo quyệt. Kẻ Hành Pháp tuy ngoại hình khoa trương kì quặc nhưng còn cao tay hơn với những ngón đòn bất ngờ, từng bước bào mòn lực lượng và tinh thần của băng đảng, khiến chúng sụp đổ dần. Với những kẻ tội phạm nguy hiểm mà pháp luật bất lực thì những thủ đoạn ”phi chính thống” đó cũng là xứng đáng và phù hợp. Danh tính của Jack có đoán được cũng không quá quan trọng vì diễn biến li kỳ, gay cấn đã đủ khiến mình không thể bỏ dở cho đến trang cuối cùng. Nếu cho chấm đểm lại thì ”Vòng tròn máu” mình chỉ chấm 7.5. Cuốn này xứng đáng cao điểm hơn, với cá nhân mình phải ít nhất 7.75/10. Khuyến khích các bạn tìm đọc. Nam Do Review Mời các bạn đón đọc Kẻ Hành Pháp của tác giả Edgar Wallace.