Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Martin Eden - Jack London

Martin Eden đề cập đến số phận của một văn nghệ sĩ trong xã hội tư sản, số phận của một con người nhằm rút khỏi cái thế giới chật hẹp của những lợi ích riêng tư. Martin xuất thân là một thủy thủ, Martin đã lý tưởng hóa cái "xã hội thượng lưu", nơi anh cảm thấy dường như có "sự hào hiệp của tâm hồn, những tư tưởng trong sạch và cao thượng, cuộc sống tinh thần khẩn trương…" Trải qua bao nhiêu thiếu thốn, vấp phải những khó khăn gian khổ không kể xiết trên đường đời, cuối cùng, anh đã đạt được vinh quang và giàu có, trở thanh một nha văn nổi tiếng. Nhưng càng gần gũi "thế giới thượng lưu" bao nhiêu anh càng cảm thấy cô đơn bấy nhiêu. Martin càng nhận thấy bộ mặt giả dối của nó. Con đường đời của Martin là cả một chuỗi vỡ mộng cay đắng và cuối cùng đã đẩy anh tới chỗ tự tử. Ngay từ khi còn là một thủy thủ bình thường, Martin đã thấy là kiến thức chân chính dường như chỉ có thể tìm thấy trong "xã hội thượng lưu". Cái vẻ học thức và tinh tế trong gia đình người chủ nhà băng Morse mà lần đầu tiên anh bước chân vào đã làm anh như mê đi. Nhưng anh càng say mê hơn đối với Ruth cô con gái nhà Morse – anh tưởng thấy tất cả sự trong trắng và cái đẹp tinh thần của cô. Nhưng rồi chẳng bao lâu sau, anh đã nhận thấy cái vẻ đẹp bên ngoài của những con người này chứa đựng cái ích kỷ, sự buôn bán bẩn thỉu và sự trống rỗng tinh thần. Trước đây, trong thời gian ngắn, anh đã nhìn vào cái xã hội bạn bè nhà Morse một cách thành kính, giờ đây anh thấy họ là những kẻ nhỏ nhen với những tư tưởng nhỏ nhen, té ra cái nền học vấn thực sự của nhà Morse, của bạn hữu và những người quen biết họ chỉ là một nền học vấn mù quáng. Martin Eden là một nghệ sĩ hiện thực chân chính đã nhìn thấy giá trị của nghệ thuật trước tiên là ở tính chân thật của nó. Trong những truyện ngắn của mình, Martin đã vạch trần khuynh hướng sợ sự thực và tô hồng cuộc sống. Nhưng nghệ thuật hiện thực chân chính thù địch với cái xã hội anh đang sống. Trong cái thế giới của đồng tiền, Martin không thể tìm được sự đồng cảm và ủng hộ. Một viễn cảnh đen tối của cái đói rét vẫn chờ đợi con người nghệ sĩ như thế. Và càng xa lánh giai cấp mình, Martin càng cảm thấy một nỗi cô đơn ghê gớm. Anh đã thấy là trong cái xã hội anh đang sống, nghệ thuật không tùy thuộc ở giá trị chân chính của nó mà là ở tên tuổi của nhà văn. Martin đã nói một cách đúng đắn rằng thành công của anh một phần cũng là do tình cờ. Anh không đánh giá quá cao sự nổi tiếng của mình. Sợi dây cuối cùng nối Martin với xã hội thượng lưu là tình yêu của anh với Ruth. Tình cảm cao quý này đã thúc đẩy anh, khiến anh có được sức mạnh sáng tạo. Nhưng sự vỡ mộng của anh càng thêm khủng khiếp khi anh hiểu rằng ngay cả Ruth cũng chỉ là một cô gái nhà giàu tầm thường với những quan điểm hẹp hòi và nhỏ nhen. Cô không thể vượt khỏi cái vòng đai của giai cấp, cô không hiểu nổi Martin, không cảm thông với nguyện vọng sáng tác của anh, xa lánh anh trong khi anh cần sự khuyến khích của cô hơn bao giờ hết. Cô quay lại làm lành với anh khi anh đã trở thành một nhà văn nổi tiếng. Nhưng Martin lại không thể làm lành với cô, cũng như anh không thể làm lành với xã hội thương lưu đã đánh lừa mọi hy vọng của anh. Anh đã hiểu sâu sắc một chân lý: những quan hệ chân chính chỉ có thể tìm thấy trong những người lao động như Lizzie Collonny, Maria Silva và rất nhiều bạn cũ cùng giai cấp anh. Họ không quan tâm tới vinh quang và sự giàu có, họ đánh giá anh trước hết là đánh giá con người anh. Martin hiểu rất rõ sự chịu đựng đau khổ của người lao động và hết sức cảm thông với họ. Chính anh cũng đã sống trong tình cảnh đó và không thể không cảm thấy sự lung lay của lập trường Nietzsche của anh. Cuối cùng, Martin đã vỡ mộng với triết học Nietzsche, nhưng anh không tìm thấy con đường đến với người cùng giai cấp, Martin thấy mình là một người xa lạ trong cái thế giới thượng lưu đầy những giả dối và lọc lừa nhưng anh lại không thể quay về với những người trong giai cấp anh. Cuộc đời của một nhà văn có tài kết thúc bi thảm: chết trong vòng vây của xã hội, và vẫn còn hoang mang trong sự tìm kiếm về triết học và lẽ sống của mình. Tiểu thuyết Martin Eden kết thúc bằng cái chết của nhân vật chính. *** Đề mục câu chuyện gã vừa nêu ra, nàng liền bắt ngay, nói thao thao, dễ dàng. Gã thấy dễ chịu hơn, khe khẽ ngồi lùi vào trong mép ghế, hai tay nắm chắc lấy thành ghế, như bộ nó có thể tuột đi hất gã xuống sàn. Gã đã làm được cho nàng nói theo lối nói của nàng, và trong khi nàng nói thao thao, gã cố gắng theo dõi, kinh ngạc sao cái đầu nhỏ xinh thế kia lại chứa đựng được biết bao vẻ đẹp thanh tao của khuôn mặt nàng. Gã đã theo dõi nàng mặc dù bị lúng túng vì những ngôn từ không quen thuộc vẫn nhẹ nhàng thoát ra từ đôi môi nàng, vì những lời phê bình và phương pháp tư tưởng xa lạ đối với gã nhưng nó vẫn kích thích và làm trí óc gã rung động. Đây là đời sống tinh thần, gã nghĩ, đây là cái đẹp ấm áp, kỳ diệu, gã chưa bao giờ mơ tới cuộc đời có thể như vậy. Gã quên cả mình, nhìn nàng bằng con mắt khao khát. Đây là một cái gì vì nó mà sống, mà chiến thắng, mà đấu tranh, phải, vì nó mà chết nữa. Sách nói đúng. Trên đời này có những người đàn bà như thế. Nàng là một. Nàng chắp thêm cánh cho trí tưởng tượng của gã, những bức họa rộng lớn, sáng ngời trải ra trước mặt gã, trên đó hiện lên những nhân vật mờ ảo, to lớn của yêu thương, của lãng mạn và của những hành động anh hùng vì một người đàn bà - vì một người đàn bà thanh thanh, một đóa kim hoa. Và qua ảo ảnh rung rinh, bập bồng như một mộng cảnh thần tiên, gã chăm chú nhìn người đàn bà thực kia, ngồi đó bàn luận về văn chương, nghệ thuật. Gã cũng có nghe thấy, nhưng mắt vẫn nhìn chằm chằm, không biết rằng mình nhìn chăm chú quá, không biết rằng tất cả những cái gì thực là đàn ông trong bản chất của gã đang ánh lên trong mắt gã. Nhưng nàng, vốn là một phụ nữ ít biết tới cái thế giới đàn ông, đã nhận thấy rất tinh đôi mắt bốc lửa của gã. Chưa bao giờ có người đàn ông nào nhìn nàng như thế và nó làm nàng lúng túng. Nàng vấp váp rồi lắng yên không nói. Dòng tư tưởng trôi đi mất. Gã đã làm nàng sợ, nhưng đồng thời nàng cũng cảm thấy thích thú một cách lạ kỳ khi được ngắm nhìn như vậy. Là một con người có giáo dục, nàng biết rằng đây là một điều nguy hiểm, một điều sai trái tế nhị, bí hiểm, quyến rũ, trong khi bản năng của nàng lại rung vang trong cơ thể như tiếng kèn thúc giục nàng gạt bỏ đi cả giai tầng, cả địa vị để gần gũi người lữ khách từ một thế giới khác tới đây, người thanh niên vụng về này với đôi bàn tay đầy sẹo, cổ đỏ hằn vì chiếc cổ áo cứng mặc chưa quen, người thanh niên mà, không còn nghi ngờ gì nữa, cuộc sống thô tục đã làm cho nhơ nhớp, hôi tanh. Nàng là con người trong trắng và bản chất trong trắng nàng phản ứng lại, nhưng nàng cũng còn là đàn bà, và nàng bắt đầu thấy tất cả sự mâu thuẫn của một người đàn bà. "Như tôi đã nói... mà tôi đang nói gì ấy nhỉ?" Nàng đột ngột dừng lại và cười vui vẻ vì sự lúng túng của mình. "Cô nói là cái gã Swinburne không trở nên một nhà thơ lớn được và, thưa cô, cô vừa nói đến đấy... " Gã nhắc, rồi chợt thấy như đói cồn; và một niềm rung cảm nhẹ nhàng dâng tỏa nơi xương sống gã khi nghe tiếng nàng cười. "Như bạc," gã nghĩ bụng, "như tiếng chuông bạc rung nhẹ" và ngay lúc ấy, trong giây lát, gã như được mang đi tới một miền xa, nơi đấy, dưới những bông anh đào nở rộ, gã ngồi hút thuốc, lắng nghe tiếng chuông từ một tháp chùa cao gọi tín đồ đi hái rơm về cầu nguyện. "Đúng thế, cảm ơn ông," nàng nói. "Xét cho cùng, Swinburne thất bại là bởi vì, phải, vì ông ta thiếu tế nhị. Có nhiều bài thơ của ông ấy không bao giờ nên đọc. Mỗi dòng thơ của những nhà thơ thực sự vĩ đại phải mang một chân lý đẹp, phải kêu gọi tất cả những gì là tao nhã trong con người. Không một dòng thơ nào của những nhà thơ lớn có thể bỏ qua, mà không vì thế cuộc đời này nghèo nàn đi một chút." "Tôi nghĩ," gã ngập ngừng nói, "những cái tôi vừa đọc thật là tuyệt. Tôi không hề biết ông ấy lại là một - một tên đểu cáng - Tôi nghĩ những cái đó chắc là ở trong những cuốn khác của ông ta." "Ngay trong cuốn ông vừa đọc, có nhiều câu có thể bỏ đi được," nàng nói, giọng kiên quyết khẳng định. "Hẳn là tôi đã bỏ qua những câu ấy. Những đoạn tôi đọc thực là hay. Nó bừng lên, rạng ngời, rọi vào tâm hồn tôi và tỏa sáng trong tôi như ánh mặt trời hay ánh đèn pha. Nó nhập vào tôi như vậy đấy, nhưng thưa cô, tôi đâu có phải là nhà phê bình thơ." Gã ngừng lời. Gã bối rối, đau khổ thấy mình không nói nên lời. Gã cảm thấy cái vĩ đại, ánh hào quang của cuộc sống trong những vần thơ gã đọc, những lời gã nói ra không thỏa đáng. Gã không thể nào diễn tả được những điều gã cảm thấy; trong thâm tâm, gã tự ví mình như một thủy thủ trên con tàu lạ, một đêm tối trời, mò mẫm trong mớ dây buồm trơn tuột không quen thuộc. Được, gã quả quyết, làm quen với cái thế giới mới này là tùy gã thôi. Xưa nay chưa có điều gì gã đã muốn mà lại không đạt được; bây giờ là lúc gã muốn học nói những điều ở trong đầu óc gã sao cho nàng có thể hiểu được. Nàng đã choán ngợp trên chân trời của gã. "Bây giờ đến Longfellow 7 ," nàng nói. "Vâng, tôi đã đọc ông ta," gã hấp tấp ngắt lời nàng, trong lòng như có gì thôi thúc, muốn phô bày tất cả kho tàng tri thức sách vở nhỏ bé của mình, muốn tỏ cho nàng rõ, gã không phải hoàn toàn là một thằng đần ngốc. ""Bài ca cuộc sống", "Vươn lên mãi" và... tôi nghĩ tất cả có thế!" Nàng gật đầu và mỉm cười. Gã cảm thấy nụ cười của nàng có vẻ rộng lượng, thương hại mà tha thứ. Gã định khoe khoang theo kiểu đó thì thật là một thằng ngốc. Cái anh chàng Longfellow này chắc hẳn phải sáng tác cơ man nào là tác phẩm thơ. "Xin cô tha thứ, tôi đã nói liều như vậy. Tôi nghĩ thực ra thì tôi chẳng biết gì nhiều về những chuyện đó. Nó không phải là loại chuyện của tôi, nhưng rồi đây tôi sẽ làm cho nó là loại chuyện của tôi." Câu nói vang lên như một lời đe dọa. Giọng gã quả quyết, mắt gã lóe sáng lên, đường nét trên mặt đanh lại. Nàng thấy hình như quai hàm của gã đã đổi khác, nó bạnh ra, vẻ khiêu khích một cách khó chịu. Đồng thời một làn sóng mãnh liệt mang tất cả sức cường mạnh của giới đàn ông dường như trào ra từ con người gã, đổ ào tới xâm chiếm cơ thể nàng. "Tôi nghĩ rằng ông có thể sẽ làm nó thuộc loại chuyện của ông được lắm chứ. Ông có sức mạnh rất tốt." Nàng chấm dứt câu nói bằng một tiếng cười. Ánh mắt nàng ngừng lại trong giây lát trên cái cổ nổi bắp thịt cuồn cuộn như dây chão, như cổ bò tót, nâu sẫm vì ánh mặt trời, tràn trề sức sống và sức mạnh thô bạo - và mặc dầu, gã ngồi kia, vẻ thẹn thùng, nhún nhường, nàng vẫn cảm thấy bị gã lôi cuốn. Nàng ngạc nhiên vì một ý nghĩ không lành mạnh đã xô đến trong đầu. Nàng thầm nghĩ, giá mà đôi tay nàng có thể đặt lên trên cái cổ kia, để cho tất cả sức mạnh và sự cường tráng của nó trào ra, thấm vào nàng. Nàng cảm thấy ngây ngất vì ý nghĩ đó. Nó dường như đã hé lộ cho nàng rõ sự đe dọa không ngờ tới trong bản chất của nàng. Hơn nữa, đối với nàng, sức mạnh vốn là một cái gì trần tục và thô bạo. Vẻ đẹp đàn ông lý tưởng của nàng bao giờ cũng là vẻ thanh tao duyên dáng. Tuy nhiên, ý nghĩ kia vẫn cứ đeo đuổi. Nàng ngạc nhiên hết sức sao mình lại muốn đặt bàn tay lên cái cổ rám nắng kia. Thực ra, nàng đâu phải là một người khỏe mạnh. Nhưng nàng đã không biết điều đó. Nàng chỉ biết từ trước đến giờ, chưa một người đàn ông nào làm nàng rung động như anh chàng này - cái anh chàng đã làm cho nàng lúc lúc lại phải choáng váng với kiểu ngữ pháp khủng khiếp của y. "Đúng, tôi không phải là một người tàn tật," gã nói. "Những lúc túng quẫn thì ăn sắt cũng tiêu. Nhưng lúc này tôi cứ như bị chứng khó tiêu. Hầu hết những điều cô nói tôi không thể tiêu hóa nổi. Tôi chưa hề được đào luyện theo lối đó, hẳn cô cũng biết. Tôi vẫn thích sách, thích thơ, có thì giờ là đọc nhưng chẳng bao giờ nghĩ về những cái đó theo lối nghĩ của cô. Vì thế, tôi không thể nói những chuyện đó được. Tôi giống như một nhà hàng hải trên một vùng biển lạ, không hải đồ, không địa bàn. Bây giờ tôi muốn xác định phương hướng và vị trí của mình. Có thể là cô cho tôi vài lời khuyên nhủ. Cô làm thế nào mà học được tất cả những điều cô vừa nói nhỉ?" "Tôi nghĩ là bằng cách đến trường và học tập thôi," nàng trả lời. "Hồi còn bé tôi cũng đã đi học," gã cãi lại. "Vâng, nhưng tôi muốn nói đến trường trung học, và nghe những bài giảng ở trường đại học kia." "Cô đã học ở trường đại học?" Gã hỏi, vẻ ngạc nhiên rất thành thực. Gã cảm thấy nàng bỗng trở nên xa cách hơn nữa, ít nhất có đến hàng vạn dặm. "Hiện tôi đương theo học ở đó. Tôi theo những khóa học đặc biệt về tiếng Anh." Gã không hiểu "khoa tiếng Anh" là gì, nhưng gã nhẩm thầm nhớ lấy tên cái môn mà mình dốt và nói qua chuyện khác. "Thế liệu tôi phải học mất bao lâu thì mới vào được đại học?" Gã hỏi. Nàng mừng rỡ khuyến khích lòng ham học của gã và nói: "Đấy là còn tùy xem ông đã học được đến đâu. Ông chưa qua trường trung học phải không? Chắc hẳn là không rồi. Nhưng ông học hết tiểu học rồi chứ?" "Còn hai năm nữa mới hết khi tôi thôi học," gã trả lời. "Nhưng khi còn học bao giờ tôi cũng được xếp hạng cao." Liền ngay đó, gã tự giận mình vì đã khoe khoang, gã nắm chặt lấy tay ghế, điên cuồng đến nỗi đầu ngón tay đau nhói. Đúng lúc ấy gã nhận thấy một người đàn bà bước vào phòng. Gã thấy nàng đứng dậy và nhẹ lướt qua sàn đón người mới tới. Họ hôn nhau, tay quàng lừng nhau tiến về phía gã. Gã nghĩ, chắc đây là mẹ nàng. Bà ta người cao, thân hình thon thả, mái tóc nâu, vẻ đẹp đường bệ. Chiếc áo dài của bà đúng là, gã nghĩ, chỉ có được trong một tòa nhà như thế này. Gã thích thú ngắm nhìn những nếp đẹp của chiếc áo. Bà và chiếc áo của bà nhắc gã nhớ tới những người đàn bà trên sân khấu. Rồi gã nhớ lại đã từng trông thấy những người đàn bà quý phái với những chiếc áo dài tương tự bước vào các rạp hát ở London, gã đứng ngắm và bị những tên cảnh sát đẩy ra ngoài hàng hiên, dưới làn mưa bụi. Rồi trí óc gã lại gợi tới Đại khách sạn ở Iokohama, nơi đây, từ bên kia hè đường, gã cũng đã nhìn thấy các bà quý phái. Rồi thành phố và bến cảng Iokohama, trong muôn vàn hình ảnh hiện lên loang loáng trước mắt gã. Nhưng gã vội xóa đi cái ống kính vạn hoa thu hình của ký ức ấy bởi gã đang bị thôi thúc vì sự khẩn thiết của hiện tại. Gã biết mình phải đứng dậy để được giới thiệu, gã chật vật đứng lên, ống quần phình ra nơi đầu gối, cánh tay buông thõng lố bịch, mặt căng thẳng, đứng chờ sự thử thách sắp tới. ... Mời các bạn đón đọc Martin Eden của tác giả Jack London.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bạc Áo Hào Hoa - Thẩm Thệ Hà
Bạc Áo Hào Hoa” là một cuốn tiểu thuyết mới xuất bản của Thẩm Thệ Hà, một trong những tác giả thuộc thế hệ 1945, thế hệ những Vũ Anh Khanh, Lý văn Sâm, Quốc Ấn. Thế hệ nhà văn kháng chiến. Đề tài của cuốn Bạc áo hào hoa là đề tài của tình yêu, của tuổi trẻ, của thác loạn. Những chương đầu của Bạc áo hào hoa, Thẩm Thệ Hà viết rất hồn nhiên, viết rất trôi chảy. Những nhân vật tiểu thuyết sống rất linh động, sống rất tình cảm, rất thời đại. Bản chất của văn chương là phải thật tự nhiên, thật trong sáng. Thẩm Thệ Hà không phải là không biết như vậy, nhưng ông là nhà văn có lý tưởng, ông là nhà giáo yêu nghề, ông muốn làm văn chương tải đạo. Ý hướng văn chương tải đạo là ý hướng tốt. Nhưng chất đạo đức, chất tư tưởng đòi hỏi một kỹ thuật văn chương tinh vi, tiếc rằng Thẩm Thệ Hà chưa đạt được cao độ, chưa đạt được sự tinh vi, nên để lộ cái ý muốn tải đạo ra. Nói như vậy không có nghĩa là văn chương của Thẩm Thệ Hà trong Bạc áo hào hoa không bay bướm, không tươi trẻ. Văn chương Thẩm Thệ Hà rất bay bướm, rất tươi trẻ, nhưng đó là vẻ bay bướm, tươi trẻ của nhà văn thế hệ 1945. Tóm lại, Bạc áo hào hoa là một cuốn tiểu thuyết viết về tình yêu tuổi trẻ chiến tranh, một cuốn tiểu thuyết của một tác giả danh tiếng và được tác giả sáng tác khá thận trọng. Kết luận, Bạc áo hào hoa là một tiểu thuyết đáng đọc, tác phẩm lành mạnh cho tuổi trẻ hôm nay nhận diện mình, nhận diện cuộc đời, nhận diện hiện tại và tương lai. Sự Thật - Số 125 (Ngày 23-5-1970) Truyện dài “Bạc áo hào hoa” diễn tả nỗi thống khổ và niềm khát vọng hòa bình của người dân quê yêu nước trong cuộc chiến tranh khủng khiếp, điêu tàn. Truyện được chia thành hai phần. Phần đầu lấy bối cảnh nếp sống của thanh niên ở thành thị chịu ảnh hưởng của chiến tranh, học đòi theo lối sống đợt sống mới, hyppies, bất cần tương lai chối bỏ hiện tại. Phần thứ nhì trình diện những nếp sống tinh thần và vật chất của thanh thiếu niên ở thôn quê, chịu ảnh hưởng trực tiếp và triền miên của chết chóc, của tàn phá chiến tranh đến không còn sức để chịu dựng. Và niềm khát khao chung của mọi người là hòa bình cho đất nước, hòa bình cho mọi người Việt Nam đã hơn hai mươi năm chịu đựng cuộc chiến khủng khiếp. Qua trọn nửa phần đầu quyển truyện, tác giả sẽ rước lấy thất bại nếu người đọc không đủ kiên nhẫn. Tác giả đã trình diện nếp sống tinh thần và vật chất của thanh thiếu niên chịu ảnh hưởng theo đợt sống mới. Mất tin tưởng về cuộc đời. Ích kỷ và chỉ biết hưởng thụ trong cuộc sống thác loạn. Ngược lại nửa phần sau, tác giả đã thành công dễ dàng trong việc lôi cuốn người đọc, đưa họ trở về thực trạng của chiến tranh: từng giờ từng phút, từng đêm từng ngày, không lúc nào là không có chết chóc. Chú Tư đầu xóm bị trúng đạn pháo kích chết không kịp ngáp. Cặp trâu của ông Năm bị trúng mảnh bom nằm ngay đơ trên bờ ruộng. Hai bên vừa đụng độ nhau ác liệt ở ngã ba, xác chết ngổn ngang, đầu một nơi, mình một nẻo máu nhuộm đỏ cả một quãng đường. Nhiều nhà tan hoang vì bom đạn. Chết chóc, tang tóc. Lầm than. Ngay cả lớp học đang dạy. Ngay cả đám trẻ đang ôm cặp vào lớp, đang chơi ngoài sân trường cũng bị chết tức tưởi vì chiến tranh. Chiến tranh tàn phá, giết chóc từ nhà này qua nhà khác, từ làng này qua làng khác. Bom đạn đào xới cả mồ mả của người mới chôn. Chiến tranh cướp hết tình người, giết chết hạnh phúc gia đình của người dân quê. Trong nỗi thống khổ tột cùng đó, mọi người dân thiết tha khát vọng hòa bình. Và truyện dài “Bạc áo hào hoa” của Thẩm Thệ Hà đã khơi bùng lên niềm khát vọng hòa bình đó của mọi người yêu nước quá thống khổ vì chiến tranh tàn phá. Hà Liên Tử (Tia Sáng 29-5-1970) *** Thẩm Thệ Hà sinh ngày 9 tháng 3 năm 1923 tại quê nội là làng Gia Lộc, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Thời niên thiếu, ông học ở Trảng Bàng rồi lên Sài Gòn tiếp tục học xong trung học ở đây. Từ năm 14 tuổi, ông đã làm Chủ bút tạp chí Bạn Trẻ quy tụ nhiều cây bút trẻ lúc bấy giờ như: Hường Hoa, Khổng Dương, Vân An, Đoàn Giỏi...Đến năm 1937, thì ông đã có nhiều sáng tác thơ (ký bút danh Thành Kỉnh) đăng trên các báo ở Sài Gòn và Hà Nội như: Phổ Thông bán nguyệt san, Đồng Thinh, Chúa Nhật, Thanh Niên, Điện Tín... Từ sau Cách mạng tháng Tám (1945), ông đổi bút hiệu là Thẩm Thệ Hà và tham gia Ban Điệp báo Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định cho đến năm 1952. Cùng với Vũ Anh Khanh, ông sáng lập nhà xuất bản Tân Việt Nam. Năm 1953 đến 1975, ông hoạt động trong Ban Văn-Báo-Giáo Sài Gòn. Năm 1966, ông cùng với Tô Nguyệt Đình (tức Nguyễn Bảo Hóa) sáng lập nhà xuất bản Lá Dâu. Trước 1975, ông vừa dạy học, vừa làm biên tập viên cho một số tờ báo và tạp chí; sau 1975 ông vẫn tiếp tục dạy học và viết cho các báo và tạp chí như: Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Sâu Khấu Thành phố Hồ Chí Minh, Sài Gòn Giải Phóng Thứ Bảy... Ông là hội viên Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh, hội viên Hội Văn nghệ Tây Ninh. Thẩm Thệ Hà mất tại Bệnh viện Sài Gòn lúc 13g45 ngày 20 tháng 6 năm 2009 vì bệnh già, hưởng thọ 86 tuổi. Sau đó, thi hài ông được đưa đi hỏa táng tại nghĩa trang Bình Hưng Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh. *** Phượng mơ mộng nhìn xuống dòng nước lặng lờ. Gió nam phơ phất mái tóc nàng. Ánh trăng trải trên gương mặt nàng một màu sắc mơ buồn. Dòng sông mông lung huyền ảo. Con đường đêm mờ mờ tương phản với ánh đèn chói chang, rực rỡ từ Hội trường Diên Hồng chiếu xuống công viên. Phượng bỗng giật mình vì có ai nhè nhẹ nắm lấy tay nàng. Nàng ngẩng lên, giọng run run vì xúc động: - Cậu Hoàng! - Cháu Phượng. Bốn mắt nhìn nhau, im lặng. Một lúc lâu, Hoàng mới hỏi: - Phượng chờ cậu có lâu không? Phượng cúi đầu, đôi mi chớp chớp: - Phượng đợi cậu lâu thấy mồ. - Bao lâu mà gọi là lâu? Phượng nhoẻn nụ cười ý nhị: - Gần năm năm rồi, còn gì nữa. Hoàng mỉm cười, đưa tay vuốt nhẹ mái tóc huyền của thiếu nữ. Chàng thấy Phượng vẫn mềm mỏng, khả ái như ngày nào. Chàng thấy lòng rộn rã niềm vui. Trên ghế đá cạnh một bồn bông đang độ nở hoa, một cặp nhân tình ngồi bên nhau tâm sự. Mái tóc óng ả của cô gái dựa vào vai thanh niên. Hai bàn tay nắm chặt lấy nhau, tỏ sự mặn nồng của đôi lòng vừa chớm nhụy yêu đương. Hai bóng hình in xuống thảm cỏ, khắng khít như đôi uyên ương, đằm thắm như đôi chim bồ câu đang cùng nhau âu yếm. ... Mời các bạn đón đọc Bạc Áo Hào Hoa của tác giả Thẩm Thệ Hà.
Lửa Yêu - Kanittaya
  "Lửa yêu" với tiết tấu nhanh, nhiều bất ngờ, hồi hộp và không kém phần ngọt ngào hứa hẹn sẽ đem lại cho bạn đọc những giây phút đầy thú vị. Patiya - người mang trong mình hai dòng máu Thái Lan và Mỹ, nhà sản xuất phim, có biệt danh là "kẻ làm tình bền bỉ", anh quyết tâm làm mọi thứ để bôi nhọ dòng họ danh giá và quyền quý của mình ngay cả việc nhận đóng vai chính trong các bộ phim X của Mỹ, nhằm rửa hận cho mẹ anh, một cựu người mẫu người Mỹ đã bị những người trong dòng họ bên nội của anh khinh ghét vì cho rằng sự có mặt của bà đã làm ô uế thanh danh của họ. Paremai - phóng viên mảng tin hình sự, người đã tuyên bố quyết sẽ lật tẩy mặt nạ của "hắn" để rửa nhục cho Yaimai, cô em gái ngây thơ chết vì bị cưỡng hiếp của cô. Hai con người ấy đáng ra không thể gặp nhau. Một người ở nước Mỹ xa xôi, là một đạo diễn và diễn viên phim X chuyên nghiệp, còn một người ở Thái Lan, vốn ghét cay ghét đắng những tin tức xằng bậy. Nhưng định mệnh đã xoay chuyển khiến họ gặp nhau trong mớ bòng bong của vụ án sát nhân. Hai con người mâu thuẫn với những khác biệt nhưng ngọn lửa của sự ham muốn còn mạnh mẽ hơn hết thảy liệu có khiến họ gục ngã trước sức quyến rũ của nhau... Cuốn sách cũng nhận được nhiều đánh giá của bạn đọc: "Lửa yêu" có thể được coi là masterpieces của Kanittaya (tại thời điểm hiện tại). Đọc cuốn tiểu thuyết này, người đọc sẽ có thêm các hiểu biết về phim porn, về các quá trình của một vụ án hình sự và cả kiến thức về báo chí. Bản thân tôi thích nội dung và những màn đối đáp giữa các nhân vật. Cảnh nóng khá nhiều nhưng không làm mất đi sự tập trung của người đọc. Kanittaya có thể khiến người đọc cảm nhận được sự dịu dàng của tình yêu thông qua từng hành động và cảm xúc mà Patiya dành cho Paremai. - Độc giả Happy Luck Diễn biến truyện nhanh, hấp dẫn. Love scene nhiều nhưng không thô. Tác giả rất biết cách thu thập và sắp xếp thông tin để người đọc thấy dễ hiểu hơn. Hơi bất ngờ về nghề nghiệp của nam chính nhưng sau khi đọc xong lại thấy thông cảm. - Độc giả Aomjai Banjongsirikul *** Tác giả: Kanittaya sinh ngày 31/3 tại tỉnh Phuket, tốt nghiệp Á khoa khoa truyền thông và báo chí, đại học Thammasat. Hiện đang sống ở Bangkok. Đã từng là phóng viên cho tờTime Post, sau đó chuyển sang làm mảng giáo dục cho báo Matichon từ năm 1999 đến nay. Các sách đã xuất bản: Mật mã kẻ giấu mặt (tạm dịch) Con đường sương mù (tạm dịch) Gửi tình yêu qua C-Box (tạm dịch) Hoa hồng trong lửa (tạm dịch) ... *** Bà lớn Nongkhran ngồi suy tư trong một ngôi đình bên bờ hồ, bà đang nghĩ về những chuyện đã xảy ra trong thời gian gần đây, chuyện Pasakorn bị bắt, chuyện vương quốc Warakorn sẽ có ngày bị lụi tàn bởi không có người phù hợp kế tục sự nghiệp, chuyện đám cưới nổi đình nổi đám của Patiya… Bà cứ suy nghĩ miên man như vậy cho tới khi Primprau bước lại gần nói: “Bà ơi, bên ngoài gió lớn lắm, bà vào trong nhà đi. Các nhà sư sắp tới rồi đấy ạ”. Hôm nay là ngày tròn hai mươi bảy năm ngày mất của bố mẹ Patiya, nhân dịp này bà làm lễ cúng cho cả hai. Bà chậm rãi lên tiếng: “Mấy năm rồi nhà chúng ta không có việc vui nhỉ?”. Primprau mỉm cười rồi trả lời: “Nếu muốn nói tới đám cưới thì cũng gần bằng với tuổi của cháu đấy bà ạ. Đang tự nhiên bà nhắc tới chuyện này làm gì ạ?”. “Nhà chúng ta quá yên tĩnh. Lẽ ra phải có tiếng của trẻ con”. Nói rồi bà đưa mắt nhìn quanh khu nhà một lượt. Giữa bãi cỏ rộng hút tầm mắt là những ngôi nhà ba, bốn tầng, trông chúng buồn bã trống trãi không khác gì một khu nhà bỏ hoang. Đôi khi nỗi buồn là do tâm mà ra… Giây tiếp theo bà sững lại: “Đó là thằng Pat mà”. Giọng bà gần như reo lên. “Đúng ạ. Anh ấy về cùng với chị Paremai, vợ của anh ấy”. Primprau trả lời. Bà lớn Nongkhran cắn chặt hai hàm răng: “Sao nó lại về trong khi bà không mời?”. “Mẹ bảo cháu điện thoại mời anh chị ấy đấy ạ. Chúng ta làm lễ cúng cho hai bác mà không báo cho con trai hai bác ấy thì cũng không ra sao cả ạ”. “Nhưng bà không muốn cho con bé phóng viên đó bước vào nhà chúng ta”. “Nhưng giờ chị Paremai đã là một thành viên trong gia đình của chúng ta rồi đấy ạ”. Primprau cảm thấy gần một năm trở lại đây, thái độ của bà đối với anh Pat đã hơn rất nhiều. Cô luôn nghĩ rằng Patiya là đứa cháu mà bà cô yêu quý nhất. “Dứt khoát bà không nhận con bé ấy”. “Nhưng việc trở về lần này, nếu không có chị Pare nói giúp, thì anh Pat cũng sẽ không về tham gia đâu ạ”. “Kệ nó. Nếu ngay cả ngày giỗ của bố mẹ mình mà nó cũng không quan tâm thì nhắc tới nó cũng vô ích”. “Thế bà nỡ để đứa bé trong bụng chị Pare trở thành một anh Pat thứ hai nữa hay sao ạ?”. “Cái gì? Cháu nói cái gì? Con bé phóng viên Paremai ấy có thai à?”. ... Mời các bạn đón đọc Lửa Yêu của tác giả Kanittaya .
Vinh Quang Và Quyền Năng - Graham Greene
Graham Greene, nhà văn Anh nổi tiếng được công chúng Việt Nam biết đến với tiểu thuyết The quiet American (Người Mỹ trầm lặng) đã được dựng phim hai lần, ông được coi là người viết về chiến tranh Việt Nam ấn tượng nhất. Là người sống cuộc đời đầy phiêu lưu và mạo hiểm nên, Greene thích đưa các nhân vật người Anh dè dặt của mình vào những tình huống khắc nghiệt, ở những nơi chốn khác lạ. Trong thế kỷ 20, không nhà văn nào có được những nhìn nhận tinh tế hơn Graham Greene khi đưa ra sự so sánh giữa con người với con người. Khi mà ngày càng có ít các nhà văn cố gắng phân tích những đức tính tốt đẹp của con người rơi vào sự sa ngã, thì Greene là bậc thầy trong sự phân minh đầy tính phức tạp này. Nhân vật của ông tồn tại trong hệ thống phẩm hạnh được xác định rõ ràng… Với thành công đó, nhà văn nào cũng thèm muốn có được sức tưởng tượng chứa đầy sự đột phá vô cùng hấp dẫn như Greene - người không bao giờ thiếu chuyện để viết mà ngược lại, luôn ngập trong những áng văn không ngừng tuôn chảy trong mình. Greene từng nói rằng, thời niên thiếu không hạnh phúc là sự cân bằng vô cùng bổ ích cho ông. Tuổi thơ của ông là sự khổ cực ở trường học, những cuộc vật lộn với thầy hiệu trưởng lại là chính người cha của mình; tìm cách tự vẫn ở tuổi vị thành niên và rồi lại si tình đến mê muội người vợ của chuyên gia tâm thần học chữa bệnh cho mình; không đam mê thể thao và thường bỏ học để dành thời giờ đọc tiểu thuyết phiêu lưu của các nhà văn như Rider Haggard và R. M. Ballantyne… Chính những câu chuyện đó đã có ảnh hưởng sâu đậm tới Greene và giúp ông tạo được phong cách văn chương của mình. Graham Greene là người trầm lặng, kín đáo nhưng cuộc sống riêng tư của ông lại rối như tơ vò. Ông tự nhận mình là “một người chồng tồi và người yêu không kiên định” bởi có quan hệ với nhiều phụ nữ, chưa kể thú đam mê rượu đến mức trở thành huyền thoại. Năm 1925, khi mới 21 tuổi, Graham Greene phải lòng Vivienne Dayrell-Browning – một cô gái xinh đẹp theo đạo Công giáo. Nhà văn tương lai mất hai năm ròng với hàng trăm lá thư tình mùi mẫn mới chinh phục được người đẹp. Chưa hết, trước khi được Vivienne mở lời nói câu đồng ý trước bàn thờ Chúa, Greene còn phải cải đạo để vừa lòng ý trung nhân. Hai người kết hôn năm 1927. Họ đã có một thời gian khá mặn nồng, nhưng càng ngày, bất đồng giữa hai người càng lớn. Vivienne khá khắt khe và có cái nhìn cao đạo với vấn đề tình dục. Trong khi chồng cô lại là một người rất trần tục và luôn thẳng thắn thể hiện các nhu cầu bản năng. Họ có hai người con Lucy Caroline và Francis. Cuộc hôn nhân tan vỡ từ năm 1939 nhưng đến năm 1947, hai người mới chính thức chia tay. Cuốn “Vinh quang và quyền năng” có lẽ là một lời biện hộ muộn màng cho hôn nhân tan vỡ của mình. *** Là tài năng hiếm có trong thế giới văn chương ngày càng mang tính bản địa, một người theo chủ nghĩa quốc tế tài năng có nhận thức chính trị sắc bén, nhưng Graham Greene lại từ chối nhìn nhận mình là một nhà văn chính trị. Nhân kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của ông, Thư viện Anh tổ chức một cuộc triển lãm các kỷ vật của Green; còn tại thành phố Berkhamstead quê bương ông thuộc Tây Bắc London diễn ra hội nghị kéo dài một tuần, trong đó bàn đến những đóng góp của Greene cho nền điện ảnh, món nợ văn chương của ông với Joseph Conrad và mối quan hệ với Vua hề Charlie Chaplin... Nếu còn sống, chắc chắn Graham Greene sẽ là người phản đối quyết liệt cuộc chiến của Mỹ ở Iraq, bởi ông từng lớn tiếng lên án cuộc chiến tranh của Mỹ ở VN: "Đây không chỉ là việc làm xấu xa mà là cuộc chiến xuẩn ngốc nhất...", Greene nói như vậy trong một cuộc phỏng vấn năm 1967. Ông còn chỉ trích về chính sách đối ngoại của Tổng thống Mỹ Ronald Reagan. Greene từng nói rằng, nhiệm vụ của ông là mô tả "nỗi cam go của sự việc theo tâm lý, và đôi khi theo quan điểm chính trị". Đọc sách , độc giả nhận thấy phần lớn trong hơn hai chục tiểu thuyết của ông bộc lộ sự xung đột giữa lòng trung thành và khát vọng, sự giao thoa đầy khó khăn giữa chính trị và đạo đức. *** Tác phẩm của một tiểu thuyết gia công giáo người Anh, một người Anh giáo trở lại, như cuốn “Vinh Quang và Quyền Năng” trước hết mang lại cho tôi cảm giác bỡ ngỡ. Chắc chắn là tôi tìm được trong đó môi trường tâm linh quen thuộc, chính trong sâu thẳm của màu nhiệm quen thuộc mà Graham Greene đã đưa tôi vào. Nhưng mọi việc diễn ra cứ như thể tôi đi vào một khu nhà cổ qua một cánh cửa bị che khuất sau những dây leo, cành cây, mà tôi không biết, và bỗng chốc tôi nhận ra cái lối đi lớn trong vườn nơi ngày xưa tôi thường nô đùa, và tôi nhẩm đọc những chữ viết tắt mà tôi đã khắc lên thân cây sồi trong những kỳ nghỉ hè năm nào. Một người công giáo Pháp chỉ đi vào giáo hội qua cổng chính; họ bị chi phối bởi lịch sử chính thức của giáo hội Pháp; họ dự phần vào những cuộc tranh luận đã từng phân hoá giáo hội Pháp trong nhiều thế kỷ, người ta khám phá ra người nào đó thuộc phe Port Royal hay Dòng tên, họ về phe Bossuet chống lại Fenelon hay họ về phe với Lamenais và Lacordaire hay với Louis Veuillot. Không thể không liên tưởng đến tác phẩm của Bernanos khi đọc “Vinh quang và Quyền năng”. Những tranh luận của giới công giáo trong suốt bốn thế kỷ qua như được phác hoạ lại nơi đây. Sau cha xứ Donissan trong “Dưới ánh mặt trời của Satan” xuất hiện cha sở xứ Ars. Những vị thánh của Bernanos, những linh mục có khuynh hướng tự do, những giáo dân ngoan đạo mà ông mô tả với giọng điệu cay cú nói ngược lại sự tôn kính và sự gớm ghiếc của ông. Phần mình, Graham Greene đã lén lút đi vào vương quốc bí nhiệm, trong vương quốc của thiên nhiên và ân sủng. Không có thiên kiến nào làm vẩn đục cái nhìn của ông. Không có luồng tư tưởng nào làm ông rời xa phát hiện của ông, cái bí quyết mà ông đã đột nhiên tìm thấy. Ông không có một định kiến nào về cái mà chúng ta gọi là “linh mục tội lỗi”. Có thể nói rằng, ông không có trong đầu óc một mô hình đạo đức nào cả. Có bản tính tự nhiên hay hư nát và có Ân sủng quyền năng; có con người khốn khổ, không đáng giá gì sất, ngay cả để làm điều tội lỗi và cái tình yêu nhiệm màu bao trùm con người trong cái khốn nạn cũng như trong cái hổ nhục để biến họ thành thánh, một vị tử đạo. Vinh quang và quyền năng của Chúa Cha toả rạng nơi bản thân một linh mục Mexico nghiện rượu và đã có con với một nữ giáo dân của mình. Mô típ lố bịch, tầm thường và tội trọng của ông chỉ làm cho người ta cười nhạo hay nhún vai và ông linh mục tội lỗi nhận biết điều đó. Cái mà cuốn sách này muốn chứng minh cho chúng ta là, nếu tôi nói không quá, là việc thánh hoá tội lỗi nhờ ân sủng. Vị linh mục phản động, bị chính quyền kết án tử hình, đầu ông bị treo giá (cuốn truyện mượn khung cảnh một nước Mexico bị thao túng bởi những người cầm đầu chống đạo) đã tìm cách đi trốn, như những linh mục khác đã làm, ngay cả những vị thánh thiện nhất. Ông chạy trốn, đã vượt được qua biên giới, nhưng lại quay về khi có người hấp hối cần đến ông hay cả khi ông biết sự hiện diện của ông không mang lại gì hay cả khi ông biết đó là một cái bẫy, rằng người đến kêu cứu ông là người chỉ điểm. Vị linh mục nghiện rượu, tội lỗi, run sợ trước cái chết, đã hiến dâng mạng sống mình nhưng không bao giờ quên cái cảm giác hèn hạ, nhục nhã của mình. Ông ta sẽ cho là chuyện tiếu lâm nếu ai đó nói ông là Thánh. Ông được bảo vệ cách lạ lùng chống lại thói kiêu ngạo, sự tự mãn. Ông đi tử đạo nhưng luôn mang trong mình ý thức về sự sa đoạ, phạm thánh của một linh mục đang trong tình trạng tội trọng, đến nỗi ông hy sinh thân mình nhưng qui chiếu tất cả cho Thiên Chúa, cho quyền lực và vinh quang của Ngài nơi con người khốn nạn nhất trong những con người: chính bản thân ông ta. Và càng đi đến hồi kết, chúng ta càng thấy con người tội lỗi tầm thường này càng hoá thân nên giống Chúa Kitô để nên giống Ngài, nhưng chưa đủ: đến mức đồng hoá mình với Chúa của mình. Mầu nhiệm Thương khó tái hiện nơi tội nhân này, tội nhân được lựa chọn trong cặn bã của nhân loại và đã lặp lại điều Đức Kitô đã làm, không phải ở trên bàn thờ dưới hình bánh hình rượu và mình thì chẳng mất gì, nhưng là hiến tế chính máu và thịt mình trên Thánh giá. Ở nơi con người vị “linh mục tội lỗi” này, không phải là những nhân đức đã tỏ rạng để đối lập với tội lỗi, nhưng chính là đức tin - đức tin vào cái dấu ấn vô hình ông đã lãnh nhận ngày thụ phong, vào cái kho tàng mà chỉ có mình ông (bởi vì những linh mục khác đã bỏ trốn hay đã bị sát hại) còn mang trên đôi tay bất xứng nhưng đã được Thánh hiến. Vị linh mục cuối cùng còn lại trong vùng, ông không thể tin được rằng sau ông sẽ còn linh mục để cử hành thánh lễ, để giải tội, để giúp kẻ liệt trước ngưỡng cửa đời sống vĩnh cửu. Và dù sao đức tin của ông đã không lay chuyển dù ông không biết rằng, ngay khi ông vừa gục ngã dưới làn đạn, một linh mục khác đã đột ngột xuất hiện. Qua đó, chúng ta cảm nhận sự hiện diện bí ẩn của Thiên Chúa trong một xã hội vô thần, cái giòng chảy ngầm của ân sủng đã làm Graham Greene choáng ngợp hơn là cái mặt tiền hoành tráng mà giáo hội trần thế trình ra trước mặt các dân tộc. Nếu có một ki tô hữu nào đó mà sự sụp đổ của giáo hội hữu hình không làm cho xao xuyến, chính là Graham Greene mà tôi nghe nói ở Bruxelles, trước mặt hàng ngàn tín hữu và sứ thần toà thánh, đã gợi lên hình ảnh vị giáo hoàng cuối cùng trong một Âu châu hoàn toàn mất đức tin, đứng xếp hàng trước quầy vé, mặc chiếc quần tây xoàng xĩnh, cầm trên tay, còn lấp lánh chiếc nhẫn của “người đánh cá”, cái cặp giấy carton. Có thể nói rằng, cuốn sách này là một thông điệp gởi đến thế hệ trong đó mọi cái đều bị xem là phi lý. Những người trẻ thời đại Jean Paul Sartre, Camus, những con mồi tuyệt vọng của cái tự do phù phiếm. Graham Greene hé lộ rằng, có thể, sự phi lý này thực ra chỉ là một tình yêu không bờ bến. Ông cũng gởi thông điệp cho những người ngoan đạo, những người chưa bao giờ nghi ngờ về những giá trị của chính mình và luôn mang trong đầu những mô thức thánh thiện, với những phương thế chuyên biệt để đạt được những mức độ đạo đức khác nhau. Ông đặc biệt nhắm tới những kitô hữu, linh mục và giáo dân, các tiểu thuyết gia đang rao giảng con đường thập giá nhưng phải nói là họ chưa chịu “đóng đinh” đủ. Bài học lớn cho những người bị ám ảnh bởi sự toàn thiện, những con người khốn khổ săm soi những khiếm khuyết của mình mà quên rằng ngày phán xét sau cùng, theo thánh Gioan Thánh giá, chính tiêu chuẩn tình yêu là tiêu chí phán xét. Cái đất nước ông mô tả truy lùng các linh mục và giết hại các ngài, đúng là cái đất nước mà chúng ta đang thấy hình thành trước mắt. Đây là giờ của “hoàng tử thế gian”, nhưng ông mô tả họ không chút hận thù: ngay với tên đao phủ, ông cảnh sát trưởng đều mang dấu ấn của lòng thương xót. Họ tìm kiếm chân lý; họ tin đã tìm thấy chân lý và đang phục vụ chân lý, cái chân lý đòi phải hy sinh một số đồng loại. Bóng tối bao trùm vùng đất mà ông mô tả, nhưng có một tia sáng nào đó đang xuyên qua. Dù gì đi nữa, chúng ta không nên sợ hãi, tác giả đã nhắc cho chúng ta rằng điều bí ẩn sẽ được nhận biết, cũng còn những giá trị cho thế giới phi lý này. Cái tự do mà Sartre đề nghị cho con người có những giới hạn: chúng ta biết rằng, những tạo vật được yêu thương như chúng ta không có tự do nào khác ngoài cái tự do từ chối tình yêu đó… Francois Mauriac. Mời các bạn đón đọc Vinh Quang Và Quyền Năng của tác giả Graham Greene.
Bước Khẽ Tới Người Thương - Nhã Ca
H iền lại phạm thêm một lỗi lầm nữa, và ăn năn. Ai mượn Hiền leo lên chiếc xe xích lô đạpđã chớ. Khi vội, sao không gọi chiếc tắc xi. Nhưng Hiền tự chống chế: Mưa mù mịt thấy gì đâu.Xe cộ nào chạy đâu? Có chiếc xích lô, thà leo lên đại. Hiền muốn giục ông xích lô đạp nhanh chút nữa. Nhưng ngồi kín bít bung như thế này, có hét, ông cũng chẳng nghe ra đâu. Người ta đôi khi chậm một chút mà hỏng cả một đời đấy chứ. Ví dụ như Hiền tới không kịp. An chết trước vài phút, thì sẽ ra sao nhỉ? Hiền sẽ sốnh với ám ảnh ghê gớm lắm. Mưa gió thế này. An lại yếu như ngọn đèn sắp tắt. Thê thảm quá. Nghĩ tới An, nằm thoi thóp trong bệnh viện, phấn đấu với thần chết từng giây phút để chờ Hiền. Hiền muốn ứa nước mắt. Anh An Hiền đã đến với anh đây, đến để gật đầu cho anh thấy. Không phải vì nhân đạo, vì lương tâm hay cứu người gì hết, mà vì Hiền yêu An. Yêu thật. Yêu nặng. Ví dụ, lúc Hiền tới, cả nhà đang đông đủ ngồi bên An. Hiền cũng vào như thường. Tưởng tượng An nằm trên giường mặt trắng như sáp, và hơi thở mong manh. An chờ đợi ,An nuối Hiền. Và cả nhà khóc ơi là khóc. Hiền đẩy cửa đi vào. Hiền đẩy cửa thật nhẹ, và bước thật khẽ. Rồi Hiền tới bên giường An. Cả nhà thấy Hiền lại òa lên khóc. Họ phải biết An chờ Hiền chứ. Ðến phút này thì còn đấu diếm gì ai nữa. Hiền còn cần thẹng thùng xấu hổ gì nữa. Hiền dám công khai. Hiền cúi xuống gọi chớ sợgì:- Anh An ,An còn nghe được không? Chắc còn thở thì còn nghe được. Và An nhướng mắt lên. An trông thây Hiền rồi. Trong đôi mắt đang dại dần , ánh lên những tia sáng mừng vui. Miệng An mấp máy. Phải mấp máy chứ, vì An còn ngậm mãi câu hỏi trong miệng:- Hiền yêu An không? Hiền sẽ cầm tay An, và Hiền khóc. Hiền gật đầu, trả lời câu hỏi của An chỉ có Hiền hiểu:- An Hiền có, có thương An. Thương? Hẳn An chưa hài lòng câu trả lời đó. Và mặt An tái đi,An ho. Máu bắn ra dữ quá. Maú bắn lên cả áo Hiền nữa. Hiền gật đầu rối rít:- Anh An ,Hiền yêu anh. Ðó, Hiền trông rõ nụ cười của An. Nụ cười, chao ơi, suốt đời Hiền sẽ ghi nhớ. Và An khẽ đưa tay ra, khẽ cầm chặt tay Hiền úp lên ngực. Và với nụ cười cứ mơ hồ phảng phất trên môi, An đi rất nhẹ nhàng. Mọi người chung quanh sẽ khóc ghê lắm. Còn Hiền ,Hiền chỉ ngồi bên An, tay còn đặt lên trái tim đang lạnh dần của An, và nhỏ nước mắt. Mưa đã khóc dùm Hiền biết bao nhiêu lệ rồi. Hiền sẽ yêu cầu tắt hết điện, để chỉ thắp trong phòng An một ngọn nến. Rồi sau đó, Hiền trả cái xác của An cho gia đình chàng. Hiền với linh hồn An ra đi,trong mưa. Ði đâu nhỉ? Có lẽ phải trở lạinhà Huyên,và nói với Huyên: - Huyên ơi. Thế là hết. Không, phải tìm một câu nào cho thật văn hoa, để Huyên phải ứa nước mắt , phải khóc cho cuộc tình quá đẹp, lại quá mong manh, và tan vỡ. Có lẽ Hiền sẽ nói thế này: - Huyên ơi, tụi này đã mất nhau trong đời. *** Nhã Ca, tên thật là Trần Thị Thu Vân (sinh 1939), là một nữ văn sĩ người Việt với nhiều tác phẩm viết thời Việt Nam Cộng hoà, hiện định cư ở Hoa Kỳ. Nhã Ca sinh trưởng tại Huế đến năm 1960 thì vào Sài Gòn nơi bà bắt đầu viết văn. Trong thời gian 1960 - 1975, 36 tác phẩm của bà được xuất bản gồm nhiều thể loại như thơ, bút ký và tiểu thuyết. Một số tác phẩm của bà lấy xứ Huế làm trọng điểm. Theo lời kể của ông Nguyễn Đắc Xuân (nhà văn) thì bà vốn là một nữ sinh Huế (cùng thế hệ với Nguyễn Đắc Xuân), bỏ học Trung học vào Sài Gòn đi theo Trần Dạ Từ - một người Bắc di cư. Trần Dạ Từ viết báo chống các Phong trào tranh đấu chống Mỹ, hai vợ chồng Trần Dạ Từ và Nhã Ca là hai cây viết tâm lý chiến của Đài Tự do của Mỹ (Đài có nhiệm vụ tuyên truyền chiêu hồi và viết bài tấn công về tư tưởng đối với binh lính đối phương) Cũng vì nội dung trong những tác phẩm của bà, sau năm 1975, Nhã Ca bị chính quyền giam hai năm vì tội "biệt kích văn hóa" (có cuốn sách mang tên là ‘Biệt Kích Văn Hoá’ do các học giả, nhà văn ủng hộ Mặt trận giải phóng như Trần Văn Giàu, Lữ Phương, Vũ Hạnh... viết về 10 tác giả miền Nam. Trong sách này, ngoài bà có Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Hạnh, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến...). Trong tù, bà bị biệt giam và chính quyền tiến hành chính sách "khoan hồng, nhân đạo của Đảng" nhằm hạ gục uy tín của bà. Chính cuốn Giải khăn sô cho Huế bị liệt vào hạng tối kỵ, trưng bày trong "Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy" là chứng tích kết tội bà. Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ, thì bị giam 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc tế phối hợp với hội Ân xá Quốc tế và thủ tướng Thuỵ Điển Ingvar Carlsson, bà được sang Thuỵ Điển tỵ nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống Việt Báo Daily News tại Quận Cam. Theo nhà văn Nguyễn Đắc Xuân thì cặp vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca còn từng phụ trách nguyên cả một chương trình của đài Á Châu Tự do (RFA) của Mỹ. Tác phẩm: Nhã Ca mới (1965) Đêm nghe tiếng đại bác (1966) Bóng tối thời con gái (1967) Khi bước xưống (1967) Người tình ngoài mặt trận (1967) Sống một ngày (1967) Xuân thì (1967) Những giọt nắng vàng (1968) Đoàn nữ binh mùa thu (1969) Giải khăn sô cho Huế (1969) đoạt Giải Văn chương Quốc gia Việt Nam Cộng hòa năm 1970[4] (tái bản ở Hoa Kỳ năm 2008) Một mai khi hòa bình (1969) Mưa trên cây sầu đông (1969) Phượng hoàng (1969) Tình ca cho Huế đổ nát (1969) Dạ khúc bên kia phố (1970) Tình ca trong lửa đỏ (1970) Đời ca hát (1971) Lặn về phía mặt trời (1971) Trưa áo trắng (1972) Tòa bin-đing bỏ không (1973) Bước khẽ tới người thương (1974) v.v... Phim Đất khổ do Hà Thúc Cần sản xuất và hoàn tất năm 1973, đã một phần dựa theo cuốn Giải khăn sô cho Huế và Đêm nghe tiếng đại bác, do Nhã Ca viết đối thoại. Tại hải ngoại, bà tiếp tục sáng tác, như: Hồi ký một người mất ngày tháng Đường Tự Do Sài Gòn (2006). Mời các bạn đón đọc Bước Khẽ Tới Người Thương của tác giả Nhã Ca.