Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mười Lẻ Một Đêm

"Có một người đàn ông và một người đàn bà bị nhốt trong căn hộ trên tầng sáu suốt mười một ngày đêm". Đó là hai người nửa bạn nửa tình nhân mới gặp lại nhau sau hơn mười năm xa cách, và họ muốn trao thân cho nhau, lần đầu tiên. Họ mượn căn hộ của một người bạn - Họa sĩ Chuối Hột - để gặp gỡ, và đã bị nhốt ở đó bởi sự đãng trí ma lanh của ông bạn trời đánh. Chỉ một tình huống trớ trêu ấy mà cả một không gian xã hội rộng lớn đã mở ra, mở ra theo những trải nghiệm quá khứ của ba nhân vật tham gia tấn trò đời: Họa sĩ Chuối Hột, Người đàn ông và Người đàn bà. Tiếp đó là hàng loạt nhân vật khác. Tất cả các câu chuyện đều được kể lại từ ngôi thứ ba số ít; và luôn luôn giọng phát ngôn này bị đan cài, bị đánh lẫn vào giọng của chính các nhân vật đang được nói tới, nó tạo nên một kiểu giọng tưng tửng, giỡn cợt, giễu nhại rất đặc trưng cho văn xuôi Hồ Anh Thái. *** Chất hài hước, nghịch dị trong 'Mười lẻ một đêm' Bằng tiếng cười, tác giả của “Mười lẻ một đêm” đã phanh phui những cái nhẽ ra không có quyền tồn tại song lại nghiễm nhiên đang tồn tại trong cuộc sống. Mặt khác, nhà văn cũng buộc người đọc phải nhận thức một sự thật: cuộc sống này, ở đây, bây giờ, tất cả đều đang ngổn ngang, và chắc hẳn để có một trật tự tương đối, sẽ phải mất không ít thời gian và nỗ lực! 1. Tiểu thuyết Mười lẻ một đêm 1 của nhà văn Hồ Anh Thái có thể khiến người ta phải bật cười, bởi tính chất hài hước của nó. (Tôi không nói đây là cuốn tiểu thuyết hài, vì như thế sẽ sa vào một sự phân loại cực kỳ phức tạp). Cái đó có thể có gì đặc biệt hay không? Tôi cho rằng có. Nếu tôi không nhầm thì kể từ khi Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng ra đời đến nay, văn xuôi nghệ thuật Việt Nam nói chung và tiểu thuyết Việt Nam nói riêng đã đánh mất (một cách rất đáng tiếc) tiếng cười hài hước. Suốt một thời gian dài các nhà văn Việt Nam ít cười và cũng ít muốn khiến cho độc giả phải bật cười thông qua tác phẩm của mình. Chúng ta quá trang nghiêm, trang nghiêm đến mức coi sự cười cợt thoải mái là một trò lố, một sự vô bổ và thậm chí là có hại. Khi bắt tay vào việc viết một cuốn tiểu thuyết, nếu tôi không võ đoán, hẳn là các nhà văn của chúng ta đều "hằm hằm" nghĩ đến chuyện tác phẩm của mình sẽ phản ánh cái gì và phản ánh đến đâu, nó có vươn tới phục vụ những nhiệm vụ chính trị xã hội hay không và phục vụ đến đâu, nó có nêu một tấm gương đạo đức hay không và nêu đến đâu, nó có đưa ra một sự cảnh báo hay không và cảnh báo đến đâu... Nói chung, việc sáng tác tiểu thuyết bị đè xuống bởi một cứu cánh quá ư đạo mạo, nghiêm túc; và trong tình thế ấy thì không (hoặc khó) có thể bật ra tiếng cười giòn giã, vang rền, "xả láng". Nếu có chăng, nó chỉ là cái cười gằn, cười mỉa, hoặc cười mà ầng ậc nước mắt mà thôi! 2 2. Trở lại với tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của nhà văn Hồ Anh Thái. Ta hãy đọc đoạn mở đầu tác phẩm: "Có một người đàn ông và một người đàn bà bị nhốt trong căn hộ trên tầng sáu suốt mười một ngày đêm. Mười lẻ một đêm và mười lẻ một ngày. Chính xác thì không đúng mười lẻ một đêm ngày, nhưng thực sự là bao nhiêu thì độc giả phải theo dõi hết cả cuốn sách mới biết được. Chẳng phải tác giả giữ mánh hay giấu bí quyết gia truyền, mà cái gì cũng phải tuần tự. Đôi khi đọc sách cũng là dịp thử thách lòng kiên nhẫn. Sách dở thì thử thách lòng khoan dung". Có thể thấy, giọng văn ở đây là kiểu giọng phát ngôn tưng tửng, nó được xuyên thấm bởi tính bỡn cợt, giễu nhại. Dường như có một khế ước mà tác giả đã thảo ra trước bạn đọc: "Các anh nên đọc hết cuốn sách này. Đọc xong các anh có thể tin hoặc không, vì những chuyện tôi kể có thể rất nghiêm túc hoặc có thể hết sức tầm phào”. Không đặt mục tiêu thuyết phục độc giả, nhà văn bày ra một cuộc chơi, bước vào cuộc chơi ấy, độc giả có thể vừa thưởng thức, vừa chứng nghiệm, vậy thôi! Và, cuộc chơi này được bắt đầu từ tình huống như vừa kể trên, "Một người đàn ông và một người đàn bà bị nhốt trong trong căn hộ trên tầng sáu suốt mười một ngày đêm. Mười lẻ một đêm. Và mười lẻ một ngày". Còn số mười lẻ một đêm buộc người ta phải nghĩ đến truyện Nghìn lẻ một đêm lừng danh mà người Ba Tư đã cống hiến cho nhân loại, nghĩ đến những chuyện kể được tạo nên bằng sự tưởng tượng cực kỳ phóng túng, bất chấp logic đời sống thực tế. Chất phóng túng ấy có ở Mười lẻ một đêm. Trước hết, nó được thể hiện qua các nhân vật đậm tính nghịch dị (grotesque, mà hầu như tất cả các nhân vật của cuốn sách đều là nhân vật nghịch dị). Họa sĩ Chuối Hột chẳng hạn: "Bốn mươi tám cái xuân xanh là bốn mươi tám mùa cởi mở. Thời trang yêu thích nhất là bộ cánh lúc lọt lòng mẹ". Sở thích - nếu có thể gọi đó là sở thích - khoả thân của Họa sĩ Chuối Hột được tác giả phóng đến cực đại. Ấn tượng nhất có lẽ là hình ảnh này: "Trong một góc nhà gã chống đầu xuống đất hai chân dốc thẳng lên trời, thân người bóng nhẫy, trắng lôm lốp như thân chuối. Tất nhiên là chuối hột trổ hoa ở quãng lưng chừng trời". Đó là cảnh hoạ sĩ Chuối Hột khoả thân tập yoga khi cửa nhà mở ra thông thống! Cảnh này, không hiểu sao cứ khiến tôi phải liên tưởng tới chàng hiệp sĩ xứ Mantra của Cervantes - nhân vật nghịch dị vĩ đại trong văn học thế giới: khi điên cuồng nhớ tới nàng Dulcinea, Don Quijote đã trồng cây chuối, áo sơ mi dốc xuống trùm mặt và chàng ta không hề mặc quần! Nhân vật Bà mẹ cũng đậm chất nghịch dị. Cái dâm của người đàn bà này được mở rộng tới mức quá khổ trên văn bản. Qua năm lần đò và vô vàn những cuộc phiêu lưu tình ái - tất cả đều diễn ra trước cặp mắt của đứa con gái, "con bé phải chứng kiến tất cả các thể loại đàn ông của mẹ" - Bà mẹ quả là mẫu người ham hố nhục dục đến mức vô độ và vô sỉ. "Về làm gì, ở lại đây ngủ cho vui" - đó là câu nói được bà mẹ lặp đi lặp lại với từng đối tác mới trong thú vui xác thịt triền miên vô tận. Cũng có thể coi đó như một dấu hiệu cá biệt hoá nhân vật, giống câu "Biết rồi, khổ lắm, nói mãi" của cụ Cố Hồng trong văn Vũ Trọng Phụng. Nhẹ dạ, nông nổi, nhiều lầm lạc, con thiêu thân trong lò lửa đam mê - không ít lần tác giả làm người đọc ngỡ tưởng như vậy về nhân vật Bà mẹ - nhưng tất cả ấn tượng ấy phải được xét lại trước một thực tế thế này: "Năm lần lấy chồng, năm lần li dị, mỗi lần li dị được một cái nhà. Chồng đầu tiên được một cái nhà để xe. Chồng thứ hai được chia đôi căn phòng 26m2. Chồng thứ ba căn hộ tập thể tầng hai. Chồng thứ tư được 9m2 phố cổ. Chồng thứ năm khá nhất, giáo sư viện trưởng, căn hộ chung cư chất lượng cao". Việc nâng dần cấp độ đền bù sau mỗi lần li hôn như vậy là một cách phóng đại cho cái tham của Bà mẹ. Để rồi, người đọc không khỏi bật cười trước sự tổng kết của cô con gái: "Mẹ ngửi thấy mùi đàn ông và mùi đất đều chén được"! Có một cặp nhân vật nghịch dị không thể không nói đến trong Mười lẻ một đêm, đó là giáo sư Một tên Xí, giáo sư Hai tên Khoả. Ông Khoả vốn là chồng thứ năm của nhân vật Bà mẹ. Ông khác đời ở cái bệnh cười vô tiền khoáng hậu: "Chỉ định bật lên một tiếng cười thôi thì cứ thế mà cười mãi. Không sao hãm lại được. Hơ hơ hơ hơ. Mãi. Chập dây thần kinh cười". Không có thuốc chữa tận gốc căn bệnh ấy, chỉ có một giải pháp tình thế: "Hễ bật lên tràng cười không tắt được thì chỉ việc tát cho chàng một cái. Đứt luôn". Từ cái bệnh cười ấy của ông mà tác giả cho chúng ta một "xen" hài kịch đáng xem: ông Khoả hướng dẫn luận văn cho nữ sinh viên, đến lúc ra về, sinh viên khẩn khoản xin lại thầy cái chân. "Thầy bật cười khan. Cười khan tức là chỉ cười một tiếng. Chết dở, nãy giờ thầy cho em về mà thầy vẫn giữ đùi em. Thầy cười khan, nhưng bệnh cười vượt quá quy định, bắt đầu nhân ra thành chuỗi cười bất tận. Cô sinh viên hoảng quá. Chẳng biết ứng phó thế nào. Cũng không dám rút chân ra khỏi tay thầy. Đúng lúc nàng (tức Bà mẹ) về. Nàng chồm lên tát vào mặt chồng một cái. Tịt. Nàng hất chân con kia ra khỏi tay chồng. Dứt". Hoạt cảnh này bóc lộ cái dâm, sự bất lực và cả cái quái đản của nhân vật, chính vì thế mà người ta phải bật cười. Từ hình ảnh một ông giáo sư già, tay nắm chân một người con gái trẻ, miệng cười không dứt, người đọc có quyền liên tưởng tới hình ảnh một con đười ươi tay giữ ống tre, nhìn về phía mặt trời cười sằng sặc, như dân gian thường kể, không nhỉ? Đó là ông giáo sư Hai, còn người tạo nên với ông hình ảnh cặp bài trùng, ông giáo sư Một, thì sao? Ngay từ đầu tác giả đã giới thiệu với chúng ta rằng ông là một nhà văn hoá lớn, là người duy nhất trong đám giáo sư tiến sĩ có thể sử dụng tiếng Anh để giảng dạy. Nhưng ngay sau đó, ông đã bị "lật tẩy" bằng chính những hành vi cực kỳ đối nghịch với các chuẩn mực văn hoá hiện hành. Dù không phải là đại biểu được mời tham luận trong một hội nghị quốc tế, ông vẫn "vô tư" phát biểu quá thời lượng cho phép, khiến cho cả chủ và khách đều lâm vào tình thế khó xử, mọi thứ rối tung như canh hẹ. Ông ăn uống trong bữa tiệc chiêu đãi sau hội thảo như trong chốn không người, đúng hơn, như một anh mõ trong xó bếp bần hàn của mình. Và đặc biệt là việc ông "tè bậy" vào chân nhóm tượng đài công nông binh - một công trình văn hoá - đều đều ngày hai lần, và bao giờ cũng khoan khoái, thoả mãn! Nhà văn hoá tiểu tiện vào công trình văn hoá, sự tương phản giữa cái "nó phải là" và cái "nó thực sự là" chính là một tình huống kiểu mẫu để bộc lộ cái hài. Chỉ có điều, cái "nó thực sự là" ở ông giáo sư Một, nhà văn hoá lớn, đã vượt ngưỡng phản văn hoá. Khai thác triệt để sự vượt ngưỡng này qua các hành vi ăn uống, tiêu hoá - vốn liên quan đến phần dưới cơ thể, phần được coi là thô, nặng, đục, uế tạp - của nhân vật, tác giả đã cho ta một hình ảnh đầy chất nghịch dị! (Hãy nhớ lại những nhân vật tương tự trong Gargantua và Pantagruel của Rabelais). 3. Còn có thể nói về chất nghịch dị - và từ đó gây cười - ở một số nhân vật khác trong Mười lẻ một đêm. Tựu trung, nó được hình thành từ việc tác giả chú ý nhặt ra một (hoặc một vài) thói tật và sự lập dị, bơm phồng lên, tô đậm vào, biến nó thành một tồn tại bất bình thường trong đời sống bình thường, một sự lộ liễu quá mức hình dung sẵn có về đối tượng. Và chính từ những nhân vật nghịch dị này mà tác giả đưa chúng ta vào những phạm vi hoạt động xã hội cũng đầy tính nghịch dị. Với họa sĩ Chuối Hột, chúng ta đặt chân tới hội họa đương đại, nơi mà nghệ thuật sắp đặt (installation) và nghệ thuật trình diễn (performance) đang rùm beng khua chiêng gõ mõ. Nó là cái gì thế? Xem nhé: "Bày mấy cái chậu nhựa trên vỉa hè. Treo lủng lẳng trên mỗi chậu một cái nón. Rồi cầm vòi nước tưới lên nón cho mưa rơi xuống chậu. Thế là hoàn chỉnh một tác phẩm. Ngũ Hổ cởi hết mở hết, đóng độc cái khối ngồi thế kiết già trong công viên. Bảo một thằng Tây đối tác đi qua từng vị cởi mở, lấy gậy gõ lên từng cái đầu trọc. Gõ một cái thì cái đầu trọc lại kêu cốc một cái kêu boong một cái. Thế là được một sô". Khoan hẵng bàn về chuyện đó là nghệ thuật hay không nghệ thuật. Điều chắc chắn là những hoạt động này không trở thành mục đích của chính nó. Như Họa sĩ Chuối Hột giảng giải, thì: "Sắp đặt và diễn là để thu hút. Người ta thấy là lạ ngô ngố ghê ghê kinh kinh, người ta xúm lại xem. Cái ú ớ khờ khạo vớ vẩn lại làm cho người ta thinh thích nhơ nhớ. Tên tuổi ta được lưu vào bộ nhớ của công chúng. Từ đó công chúng đếu đâu cũng để ý tìm tên tuổi ta. Từ đó công chúng mới xem tranh ta mua tranh ta. Đến đó mới là mục đích". Với nhân vật người đàn ông và chuyến đi dọc theo đất nước của anh, chúng ta tham dự hội Lim, nơi có "anh hai đi giày tây, chị hai đi giày khủng bố"; chúng ta lên vùng cao vào chợ văn hoá Bắc Hà, nơi mà những sơn nữ người Mông, người Dao đã biết sỗ sàng đòi tiền khách du lịch mỗi khi khách định chụp ảnh; chúng ta tới Đà Lạt, thành phố ngàn hoa với thác Cam Ly ngày một ít nước, còn rác rưởi thì vứt như thể đó là bãi tập trung rác cho cả khu vực! Theo chân Người đàn ông đưa con sang nước ngoài du học, chúng ta biết đến cảnh những du học sinh con các ông to bà lớn tụ bạ với nhau để chơi đêm, tán chuyện, đánh bài đánh bạc, hút hít chích choác, và "thực hành tiếng Việt đến mức điêu luyện" trên xứ sở của Anh ngữ! Với hai ông giáo sư khả kính Khoả và Xí, tác giả đưa chúng ta vào lãnh địa của khoa học xã hội nhân văn đương đại, nơi mà khá nhiều giáo sư đầu ngành "mãi mãi dừng lại ở trình độ cử nhân bổ túc công nông. Có thêm cái lanh cái ma cái xảo của cá tính. Có thêm kiến thức tham khảo khoa học xã hội Đông Âu đến những năm 1980". Tóm lại, đó là những ngụy khoa học gia với đầy những cố tật: uyên bác rởm, tham quyền cố vị, lừa bịp người đời và cũng tự huyễn hoặc chính mình (nhưng điều nguy hiểm là họ lại được một bộ phận đông đảo trong xã hội coi như là những giá trị!). Theo con đường "một bước lên bà" của nhân vật Người đàn bà, người đọc được khám phá một phần những "bí sử" cười ra nước mắt ở chốn quan trường. Nhiều, và nhiều những kẻ giống như nhân vật ông Víp (chồng của người đàn bà), loại chính khách xuất thân từ những phong trào "cờ đèn kèn trống" cơ sở, năng lực yếu, chuyên môn kém, nhưng lại được đặt vào những vị trí công tác trọng yếu, và bản thân họ cũng rất biết kiếm lợi từ đó. Quan ông thì thế, quan bà cũng không kém. Hội các phu nhân vụ trưởng, phu nhân thứ trưởng, phu nhân bộ trưởng được nói đến trong Mười lẻ một đêm quả đúng là một êkíp mua quan bán tước, mua đất kiếm lời đại tài và đầy gian ngoan. Tuy vậy, cái nét thô lậu "nhà quê" trong căn tính các mệnh phụ thì vẫn không sao gột rửa được. Chi tiết bà vợ một ông to "tắt mắt" lấy trộm cái đĩa sứ trong bữa tiệc do sứ quán nước ngoài chiêu đãi đã cho thấy điều này. Đó là một tiếng cười, tiếng cười lột tả đến đáy của sự thực: con vịt xấu xí không bao giờ có thể trở thành con thiên nga xinh đẹp! Đến đây thì đã có thể nhận xét đôi điều về những tình huống nghịch dị trong Mười lẻ một đêm. Được tạo ra bởi những nhân vật nghịch dị - tôi muốn nói là những nhân vật mang trong mình một vài nét tính cách lập dị, thậm chí là quái đản, nó phô lộ ra giữa chợ đời một cách hồn nhiên và hoàn toàn không nghĩ rằng mình lập dị, quái đản - những tình huống nghịch dị này tạo ra ấn tượng mạnh về một đời sống mất chuẩn: những chân giá trị và ngụy giá trị xâm thực, chồng chéo, che phủ lẫn nhau, người ta không có cách nào phân biệt được và vì thế luôn phải mò mẫm giữa các vách tường của ảo tưởng. Bằng tiếng cười, tác giả của Mười lẻ một đêm đã phanh phui những cái nhẽ ra không có quyền tồn tại song lại nghiễm nhiên đang tồn tại trong cuộc sống, và mặt khác, nhà văn cũng buộc người đọc phải nhận thức một sự thật: cuộc sống này, ở đây, bây giờ, tất cả đều đang ngổn ngang, và chắc hẳn để có một trật tự tương đối, sẽ phải mất không ít thời gian và nỗ lực! 4. Tiểu thuyết Mười lẻ một đêm của nhà văn Hồ Anh Thái, như đã nói, bắt đầu bằng việc "Có một người đàn ông và một người đàn bà bị nhốt trong căn hộ trên tầng sáu suốt mười một ngày đêm". Đó là hai người nửa bạn nửa tình nhân mới gặp lại nhau sau hơn mười năm xa cách, và họ muốn trao thân cho nhau, lần đầu tiên. Họ mượn căn hộ của một người bạn - hoạ sĩ Chuối Hột - để gặp gỡ, và đã bị nhốt ở đó bởi sự đãng trí ma lanh của ông bạn trời đánh. Chỉ một tình huống trớ trêu ấy mà cả một không gian xã hội rộng lớn đã mở ra, mở ra theo những trải nghiệm quá khứ của ba nhân vật tham gia tấn trò: Hoạ sĩ Chuối Hột, Người đàn ông và Người đàn bà. Tiếp đó là hàng loạt nhân vật khác. Tất cả các câu chuyện đều được kể lại từ ngôi thứ ba số ít; và luôn luôn giọng phát ngôn này bị đan cài, bị đánh lẫn vào giọng của chính các nhân vật đang được nói tới, nó tạo nên một kiểu giọng tưng tửng, giỡn cợt, giễu nhại rất đặc trưng cho văn xuôi Hồ Anh Thái giai đoạn gần đây 3. Tính trào lộng suồng sã hết mức ở các sự kiện, các chi tiết được kể lại trong truyện khiến cho tôi, dù không muốn, cũng buộc phải nhớ tới một luận điểm cốt tử trong lý luận về tiểu thuyết của nhà bác học Nga Mikhail Bakhtine 4 rằng tiểu thuyết tiếp xúc với thế giới ở cái ngày hôm nay không hoàn kết; và rằng chính bằng thái độ trào lộng suồng sã hết mức ấy mà người viết mới có thể xoá bỏ mọi khoảng cách, "nắn gân bắt mạch" đối tượng một cách đầy tự tin và nói về nó một cách chính xác! Dẫu sao đi chăng nữa, chỉ riêng việc khiến cho độc giả có thể cười khi đọc Mười lẻ một đêm - trong bối cảnh một tình hình văn học quá ư đạo mạo nghiêm túc - đã là một thành công của nhà văn Hồ Anh Thái. Và để kết thúc bài viết này, xin lặp lại một câu của Milan Kundera trong tập Những di chúc bị phản bội: "Tim tôi đau thắt, khi nghĩ đến ngày Panurge 5  không còn gây cười". (Nguồn: Người Đại biểu Nhân dân, số ra ngày 25/4/2006) Mời các bạn đón đọc Mười Lẻ Một Đêm của tác giả Hoàng Anh Thái.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân
Nhà xuất bản Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh đã cho ấn hành một trong những tác phẩm nổi tiếng của Pearl Buck đã được trao giải Nobel Văn Chương năm 1938 với tựa đề: Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân. *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ; Những mảnh hồn sầu xứ. Khi người con gái lên núi *** Đã qua nửa đêm... Lương phu nhân hạ bút và gấp sổ thu chi lại. Ngôi nhà hoàn toàn im vắng. Tại tầng dưới, trong nhà hàng chỉ còn thưa thớt một vài thực khách đang ngồi nán lại. Ba xô ghế đứng dậy, chiếc ghế bành lớn bằng gỗ gụ, cùng bộ với cái bàn viết kiểu Trung Hoa nặng nề mà bà đã thừa hưởng của thân phụ, và mang từ quê nhà, tại một tỉnh xa đến đây. Bà đến bên cửa sổ, nhưng không vén mơ cánh rèm xa tanh màu đỏ. Mặc dầu được sống yên ổn, với tư cách là chủ nhân một nhà hàng đẹp nhất trong các khu tân tiến ở thành phố Thượng Hải, bà cũng không dại gì để bóng dáng mình in lên khuôn kính một căn phòng sáng trưng ánh đèn. Nào ai biết được kẻ thù đang ẩn nấp nơi đâu. Thiếu gì kẻ thấy bà nổi tiếng rồi ghen ghét. Chẳng ai biết bà đã xoay sở cách nào, để hàng ngày vẫn cung cấp được những món ăn thật đặc biệt, cho khách hàng là các nhân vật quan trọng trong chính giới, các đại thương gia tỷ phú, và các sĩ quan cao cấp trong quân đội. Hầu hết họ là bạn thân của bà. Bà ung dung đi đi lại lại trong nhà hàng, bề ngoài xem như chẳng quan tâm gì đến các sự lộn xộn chính trị. Chắc có nhiều kẻ ghen ghét, hậm hực với bà. Vì thế bà không vén rèm, mà chỉ luồn người ra ngoài để hé mở cửa sổ. Trong bầu không khí ấm áp của một buổi tối đầu hè, hương hoa nhài bay lên thoang thoảng. Ngôi nhà của bà trước kia là của một gia đình người Mỹ giàu có, bạn thân của bà. Sau khi có cuộc sung công các nghiệp vụ xuất nhập cảng tại Trung Hoa, gia đình này đã phải trở về nước. Lương phu nhân đã mua lại ngôi nhà này, cùng các khu vườn trong tô giới Anh cũ. Có rất nhiều người Mỹ cư ngụ trong tô giới Pháp và Anh, vì họ không có tô giới riêng. Trước khi Hồng Quân tiến chiếm toàn bộ lãnh thổ Trung Hoa, Lương phu nhân có nhiều bạn hữu trong đám người Mỹ này, vì vậy bà đã gởi ba ái nữ sang Hoa Kỳ du học. Giờ đây, dĩ nhiên là không còn một người Mỹ nào tại Trung quốc, nên cả một thế hệ thanh niên Trung Hoa, lớn lên mà chẳng biết mặt một người Mỹ nào, cũng như chẳng được nghe đến một tiếng Anh nào. Họ chỉ được nghe tiếng nói của hận thù đối với một dân tộc, mà riêng bà lại thấy là ít đáng hận thù hơn các người Tây phương khác. Người Mỹ là những người da trắng duy nhất không tàn ác, không cướp đất của người Trung Hoa. Bà thở dài nghĩ đến cái gia đình đầm ấm xưa kia đã cư ngụ dưới mái nhà này: Ông bà Brandon và năm người con. Họ yêu quí nước Trung Hoa biết dường nào. Họ yêu quí nước này đến nỗi đồ đạc trong nhà hoàn toàn theo kiểu Trung Quốc, với những bức tranh thủy mặc treo trên tường. Họ đã phải hấp tấp lìa bỏ tất cả, và Lương phu nhân đã lén bước sang nhà họ để tiễn chào vĩnh biệt. Bà Brandon đã tựa vào vai bà, khóc nức nở: - Ba Lương ơi: Sau này họ có cho chúng tôi trở lại nữa không? Bà xiết chặt người đàn bà Mỹ trong vòng tay mà chẳng trả lời. Làm sao ba có thể trả lời được rằng: “Bà sẽ không bao giờ được trở lại nữa”. Bởi vậy, tốt hơn là bà lặng thinh, và năm tháng cứ trôi qua trong khi đời sống càng ngày càng trở nên khó khăn hơn. Nhưng bà đã gởi mấy cô con gái của bà sang Hoa Kỳ sống với gia đình Brandon, và thỉnh thoảng... Mời các bạn đón đọc Ba Người Con Gái Lương Phu Nhân của tác giả Pearl S. Buck.
Uyên Ương Gãy Cánh
"Với những trang sách chứa chan tình người, tràn ngập hình ảnh thơ mộng, sóng sánh chất thơ và bát ngát hương vị cảm xúc, Uyên Ương Gãy Cánh mang tình yêu xuống chiều sâu thẳm tận đáy hồn người với những lý luận ngọt ngào của trái tim, và nâng tình yêu lên độ cao nhất, bất diệt với thực tại siêu việt. Từ đó, người đang yêu đọc nó và mỗi sớm mai "được thức dậy lúc rạng đông với con tim chắp cánh, đưa lời cảm tạ vì có thêm một ngày yêu thương nữa." (Nguyễn Ước) *** Bản Việt ngữ này dịch từ cuốn The Broken Wings do Anthony R. Ferris dịch từ nguyên tác của Kahlil Gibran bằng tiếng Ả Rập sang Anh ngữ. Chúng tôi đã ngẫu cảm chuyển tựa đề Việt ngữ thành Uyên Ương Gẫy Cánh vì thấy nó rất phù hợp với những trang tình sử này. Người Đông phương đã đem vào huyền thoại loài chim Uyên ương sống từng đôi trống mái, mỗi con chỉ còn một cánh, phải chấp nhau mà bay cùng. Chúng ăn ở với nhau tình thâm nghĩa trọng đến nỗi nếu một trong đôi lứa có mệnh hệ nào thì con kia đành xếp cánh tuyệt vọng trước những từng trời thăm thẳm. Chim Uyên Kahlil Gibran đã nhỏ từng giọt máu trong tim chép lại chuyện tình của chính mình như một chúc thư cho những tình nhân mai sau. Mối tình đầu của con người tài hoa đa cảm đó cũng là mối tình không-thể-thay-thế của ông; sau khi bị quê hương hắt hủi lưu đày biệt xứ, tác giả suốt đời lang thang phiêu bạt và không bao giờ lập gia đình. Đủ thấy vết thương ở tim tác giả còn đau buốt mãi cho đến lúc vĩnh viễn nhắm mắt. Nhưng con chim Uyên cao thượng khác thường đó không phải chỉ biết cất tiếng hót sầu thảm để oán trách Trời Đất đã ghen với tài tử và hồng nhan. Cho nên người đời còn được đọc những tác phẩm hào sảng hùng tráng khác của Kahlil Gibran. Đó chính là nhờ ngọn lửa thiêng bất khả diệt trong tâm hồn tác giả. Và cũng nhờ sự hy sinh cao quý của chim Ương: tự mình cắt lìa chiếc cánh bị thương để chim Uyên có thể bay đi đem tiếng hót tặng cho đời... Người dịch mong mỏi rằng quý vị độc giả sẽ vì mủi lòng cho mối tình tan tác của hai tâm hồn u uất mà rộng lượng gạt đi những thành kiến, nhất là trong địa hạt tôn giáo, khi quý vị đọc bản chúc thư tình yêu này. Nghĩa cử đó sẽ muôn ngàn lần cao đẹp hơn là... nếu có dịp quý vị đặt những bó hoa lên mồ của những Uyên Ương gẫy cánh... Sau cùng, chúng tôi xin mạn phép tặng bản Việt dịch này cho một phụ nữ Việt Nam - chúng tôi không tiện nêu lên - đã can đảm sống theo một luân lý tự mình tìm ra, giữa một xã hội còn vương lại quá nhiều gông cùm của thành kiến và hủ bại. N. N. M.   *** Khalil Gibran (tên đầy đủ tiếng Ả Rập Khalil Gibran Gibran, đôi khi viết là Kahlil) (6/1/1883 - 10/4/1931) là một nghệ sĩ, nhà thơ và nhà văn Liban. Sinh ra tại thị trấn Bsharri ở phía bắc Liban ngày nay (lúc đó là một phần của Mount Lebanon Mutasarrifate, Đế quốc Ottoman), khi còn trẻ ông di cư cùng gia đình đến Hoa Kỳ, tại đó ông nghiên cứu nghệ thuật và bắt đầu sự nghiệp văn chương của mình, viết bằng cả tiếng Anh và tiếng Ả Rập. Trong thế giới Ả Rập, Gibran được coi là một kẻ nổi loạn trong văn học và chính trị. Phong cách lãng mạn của ông là tâm điểm của sự phục hưng trong văn học tiếng Ả Rập hiện đại, đặc biệt là thơ văn xuôi, tách ra từ trường phái cổ điển. Tại Lebanon, ông được coi như một thiên tài văn học. Ông chủ yếu được biết đến trong thế giới nói tiếng Anh vì cuốn sách The Prophet (tiên tri) năm 1923 của ông, một ví dụ đầu tiên của tiểu thuyết truyền cảm hứng bao gồm một loạt các bài tiểu luận triết học được viết bằng thơ văn xuôi tiếng Anh. Cuốn sách bán rất chạy mặc dù bị chỉ trích lúc đầu. Nó được phổ biến trong những năm 1930 và một lần nữa trong những năm 1960 với nền văn học chống văn minh xã hội. Gibran là nhà thơ có sách bán chạy nhất thứ ba của mọi thời đại, sau Shakespeare và Lão Tử. Tác phẩm: Uyên ương gãy cánh Đóa Hoa Khát Vọng Ngôn Sứ (Kẻ Tiên Tri) Trầm Tưởng Tiếng vô thanh và người tình vĩnh cửu Giêsu Con của Con người Hoài vọng phương Đông Mật khải Tình yêu tận hiến Mây trên đỉnh núi và kẻ mộng du Nhà Tiên Tri ... Mời các bạn đón đọc Uyên Ương Gãy Cánh của tác giả Kahlil Gibran.  
Người Đàn Ông Đào Hoa
Nguyên văn tiếng Anh: The Ginger Man Dịch giả: Nguyễn Bích Lan  Tác phẩm Người Đàn Ông Đào Hoa được xuất bản vào năm 1955. Cuốn tiểu thuyết này đã trở thành kiệt tác, khiến tên tuổi Donleavy nổi tiếng khắp thế giới.  Nhân vật chính - Sebastian Dangerfield là người đàn ông được mệnh danh là "người ngoài "cô đơn trong một xã hội đầy thù địch , một kẻ luôn bị rượu và gái dẫn dắt bởi sự tham lam và lòng đố kỵ. Tuy nhiên, đằng sau thói phóng túng và hoa đường đó vẫn ẩn chứa một trái tim dịu dàng và ước muốn có được mái ấm gia đình mà trước đó anh ta đã từ bỏ .... *** J. P. Donleavy sinh năm 1926 tại Brooklyn. New - York trong một gia đình người Ailen nhập cư. Ông tham gia hải quân Mỹ trong thế chiến thứ hai sau đó sang Ailen theo học tại trường đại học Trinity, ở Dublin.  James Patrick Donleavy là một tiểu thuyết gia và nhà viết kịch người Ireland / Mỹ. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là cuốn tiểu thuyết The Ginger Man (Người Đàn Ông Đào Hoa), ban đầu bị cấm vì tục tĩu. *** Một ngày nắng hiếm hoi của mùa Xuân. Chiếc xe ngựa lóc cóc chạy trên đường Tara xuôi về khu bến cảng trong khi bọn nhóc mặt trắng đi chân đất đua nhau hò hét.  O'Keefe bước vào quán rượu, đặt mông lên một chiếc ghế cao. Lúc lắc chiếc ba lô trên lưng , anh ta đưa mắt nhìn Sebastian Dangerfield.  - Bồn tắm ở đó to đùng. Hai tháng tớ mới tắm. Càng ngày tớ càng giống người Ailen. Muốn vào tắm cậu phải đi qua một cái cửa quay, giống như đi tàu điện ngầm ở Mỹ vậy.  - Cậu đi hạng nhất hay hạng ba, Kenneth?  - Hạng nhất. Tớ đến vỡ mông vì phải ngồi vò đồ lót và trong những căn phòng ẩm ướt ở Trinity thì chẳng cái quái gì có thể khô được. Cuối cùng tớ phải mang khăn tắm ra hiệu giặt là. Ở Havard tớ có thể tắm thỏa thích dưới vòi sen và có thể thọc chân vào đồ lót sạch sẽ.  - Cậu sẽ được uống gì đây nhỉ, Kenneth?  - Ai trả tiền?  - Tôi vừa mới đem cái lò sưởi điện ra hiệu cầm đồ.  ​​​​​​​ Mời các bạn đón đọc Người Đàn Ông Đào Hoa của tác giả J. P. Donleavy.
Máu Hồng Y
Brian Moore, người được văn hào Graham Greene xem là một trong những tiểu thuyết gia đương thời mà ông ái mộ, sinh năm 1921 tại Belfast, Bắc Ireland. Cuối Thế Chiến Hai, ông phục vụ trong Bộ Vận tải Quân sự của Anh. Sau chiến tranh, ông làm việc cho Liên Hiệp Quốc ở châu Âu rồi di cư tới Bắc Mỹ năm 1948, làm ký giả và nhập tịch Canada. Từ năm 1955, ông nổi tiếng trên văn đàn với tác phẩm The Lonely Passion of Judith Hearne - Sự Thương Khó Hiu Quạnh Của Judith Hearne, một chuyện kể đầy buốt nhói về nỗi cô đơn và sự tan vỡ các ảo tưởng. Hai cuốn tiểu thuyết kế đó: The Luck of Ginger Coffey - Vận Số Của Ginger Coffey, 1975 và The Great Victorian Collection - Bản Sưu Tập Quí Báu Thời Victoria, 1975 đều được giải thưởng văn chương của Phủ Toàn Quyền Canada. Các cuốn tiểu thuyết khác của ông như Catholics - Người Công Giáo (1972), The Mangan Inheritance - Quyền Thừa Kế Mong Manh (1979), đều nằm trong danh sách đề cử nhận giải thưởng văn học danh tiếng Booker. Riêng cuốn Máu Hồng Y, tên nguyên tác là The Color of Blood - Màu Của Máu, 1987, cùng một lúc được hai giải thưởng, The Sunday Express Book of the Year Award và Canadian Authors Association Literary Award for Fiction. Ông hiện cùng gia đình sống ở Malibu, California, Hoa kỳ. Tuy tác giả không nêu tên quốc gia bối cảnh Máu Hồng Y nhưng xét theo tình tiết, có lẽ đó là Tiệp Khắc, một nước Trung Âu mà đại đa số dân chúng là người Công giáo. Từ năm 1948, Tiệp Khắc (Czech) bị đảng Cộng sản cai trị, và cùng với các nước Cộng sản Đông Âu khác, trở thành chư hầu của Liên bang Sô Viết tàn độc. Cuộc quật khởi “Mùa xuân Praha” 1968 thất bại trước đoàn xe bọc sắt của Sô Viết. Người Nga nhân đó chiếm đóng Tiệp Khắc và kìm kẹp nghiệt ngã hơn. Mãi đến 1989, nhờ chuyển biến ngay tại Nga và vận hội mới của các nước Đông Âu, cuộc “Cách mạng nhung” mới thành tựu, bắt đầu thể chế tự do dân chủ mà không có bạo động, đổ máu. Cuốn Máu Hồng Y, xuất bản năm 1987, viết về cuộc xung đột tối hậu giữa Giáo hội Công giáo với Nhà nước mà thực chất chẳng liên quan tới “Tình yêu Thiên Chúa”. Khi sắp bùng lên một cuộc nổi loạn nhằm lật đổ chế độ Cộng sản, Hồng y giáo chủ Stephan Bem thấy mình bị mắc kẹt và bí lối trong một mạng lưới của những lừa lọc, bạo động và dàn dựng chính trị không chút xót thương. Sau khi may mắn thoát khỏi một lần mưu sát tàn bạo và một cuộc bắt cóc mờ mịt, ông trở thành kẻ chạy trốn, không biết cất chân bước về hướng nào vì bốn phía đều trùng điệp kẻ nghịch. Tuy bối cảnh Máu Hồng Y không phải là Việt Nam nhưng đi vào tác phẩm, độc giả Việt có cơ hội nhìn lại những vấn đề thiết thân như bản chất và cùng đích của tôn giáo; phẩm chất của con người tôn giáo; tương quan giữa tôn giáo và chính trị trong lòng dân tộc… Độc giả cũng sẽ bắt gặp những bóng dáng không xa lạ gì với hoàn cảnh Việt Nam. Một chế độ toàn trị; một mặt xem tôn giáo như một thế lực gây thương tổn và sỉ nhục chính quyền; một mặt muốn sử dụng vài phần tử tôn giáo làm kẻ chính trị ngoại vi cho mình. Những tín đồ “thuần thành” và những tín đồ “yêu nước”. Các khuynh hướng chính trị tuy đối kháng nhau nhưng đều muốn dùng tôn giáo và tín đồ của nó để làm sức lực và phương tiện cho cái gọi là “phục vụ quyền lợi của quốc gia dân tộc” mà thực chất chỉ là tranh đoạt quyền lực… *** Vào khoảng giữa chín giờ và chín giờ rưỡi tối, chiếc xe hơi đưa ông về Nhà Chung chạy vào Quảng trường Tuyên ngôn Độc lập. Trời mưa, mưa mùa hạ. Trong quảng trường, các bức tượng, các mái nhà và các đài tưởng niệm sũng ướt, trơn mượt; vỉa hè bóng loáng. Ông bấm chiếc đèn pin nhỏ bằng cây bút rọi vào kẹp hồ sơ, không phải để coi lại những điều ông vừa ghi trong cuộc họp mà là để đọc cuốn sách nhỏ của thánh Bernard thành Clairvaux:[1] Bạn có nghĩ rằng con người bẩm sinh với lý trí mà không sống theo lý trí của mình thì, theo cách nào đó, không thua kém gì thú vật? Khi thú vật không tự chế được bằng lý trí thì nó có lý do gì về mặt tự nhiên, nó không được ban cho tặng phẩm ấy. Nhưng con người mà sống như thế thì không gì có thể biện minh được. Đôi lúc trong khi đọc thánh Bernard, ông có thể buông rơi thế giới đầy trách vụ của mình để rút vào cõi thinh lặng, nơi Thiên Chúa chờ đợi và phán xét. Nhưng lúc này, cùng với cảm giác đó, ông thấy có một chiếc xe hơi màu đen đang lạng sát vào xe mình. Ông quay mặt ngó. Người lái xe đen là một phụ nữ đầu quấn chiếc khăn lụa màu lục. Trên chiếc ghế bên cạnh cô, một người đàn ông rậm râu hai tay cầm súng lục, giơ lên, nhắm thẳng mặt ông. Trong chớp mắt, Joseph, tài xế của ông, quặt mạnh tay lái, cố ý táng xe mình vô chiếc xe đen. Sức ly tâm làm người ông bật lên, quay tròn và văng ra ngoài. Người ông rơi uỵch xuống vệ đường ẩm ướt. Trong một lúc lâu, ông nằm đau đớn, nửa mê nửa tỉnh, mắt nhìn lên bóng tối trời đêm mịt mùng. Có tiếng còi xe hơi; ông nghe bước chân tiến tới gần. Từ phía trên ông, một phụ nữ trẻ đang ngó xuống, đầu quấn chiếc khăn lụa màu lục. Mặt cô ứa máu, ghim đầy mảnh kính nhỏ li ti. Ông cố nhỏm dậy, thấy trên đùi cô loang lổ vết đen đặc, chỗ máu ứa ra thấm loang qua váy. “Cô không sao chứ?” ông hỏi, một cách ngớ ngẩn và bối rối. “Cô bị thương ư?” Không trả lời, cô xoay người đi thẳng, bước rất lẹ tuy khập khễnh, nhắm hướng Đường Trung Tâm Chợ. Dòng xe cộ chạy vào quảng trường bị cuốn hút bởi tai nạn, chậm dần và ngừng hẳn. Ông đứng lên, xâm xoàng. Khi mắt đã thôi mờ mịt, ông thấy có người đàn ông đang ngồi trong một chiếc xe, nhìn ông. “Ngài…” người ấy nói, như thể đang suy tính gọi ông theo danh xưng nào. “Cha không sao chứ… thưa Đức cha?” ... Mời các bạn đón đọc Máu Hồng Y của tác giả Brian Moore.