Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyện Ma Ám Ở Dinh Thự Hill

Được mệnh danh là một trong những truyện ma xuất sắc nhất từng xuất bản, CHUYỆN MA ÁM Ở DINH THỰ HILL đã hai lần có phim điện ảnh chuyển thể vào các năm 1963 và 1999, dựng kịch sân khấu vào năm 1964 và 2015. Tiểu thuyết này cũng là nguồn cảm hứng cho bộ phim truyền hình cùng tên ra mắt năm 2018 của dịch vụ trực tuyến Netflix - được đánh giá là phim kinh dị hay nhất của năm. *** “Một trong hai tiểu thuyết siêu nhiên vĩ dại duy nhất trong suốt một trăm năm qua.” — STEPHEN KING   “Có rất ít cuốn sách có thể dọa tôi sự hãi vô cùng... Nhưng CHUYỆN MA ÁM Ở DINH THỰ HILL của Shirley Jackson đã đánh bại tất cả. Tiểu thuyết này từng làm tôi kinh hãi khi còn là thiếu niên và vẫn còn ám ảnh tôi tới tận bây giờ.” — NEIL GAIMAN   *** SHIRLEY JACKSON (1916 - 1965) là một nhà văn người Mỹ được biết đến chủ yếu nhờ các tác phẩm trong dòng truyện bí ẩn và kinh dị. Bà sinh ra tại San Francisco và theo học Đại học Syracuse ở New York, nơi bà gặp chồng mình. Bà đến sống ở North Bennington, Vermont, và đã viết hầu hết các tác phẩm của mình tại đó. Bà xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên vào năm 1948, nhưng thứ khiến danh tiếng bà trở nên nổi như cồn lại là một truyện ngắn được viết cùng năm. Xổ số (The Lottery), với cốt truyện xoay quanh những điều tồi tệ của cuộc sống tại một thị trấn nhỏ, được mệnh danh là một trong những truyện ngắn nổi tiếng nhất trong lịch sử văn học Mỹ. Năm 1959, bà sáng tác Chuyện ma ám ở Dinh thự Hill (The Haunting of Hill House), cuốn tiểu thuyết kinh dị siêu nhiên được nhiều người coi là một trong những truyện ma hay nhất từng xuất bản. Bà có bản tính ẩn dật, hiếm khi nói về các tác phẩm của mình, và từng được những nhà văn tài ba như Stephen King, Sarah Waters và Neil Gaiman nói rằng đã ảnh hưởng đến văn phong của mình. *** Không một sinh vật sống nào có thể liên tục chỉ tồn tại trong thế giới thực mà không hóa điên. Ngay cả chim sơn ca và châu chấu cũng được một số người cho là có biết mơ. Dinh thự Hill thì chẳng còn tỉnh táo nữa. Nó đứng một mình trên những ngọn đồi, lưu giữ bóng tối trong lòng. Nó đã đứng như vậy trong suốt tám mươi năm và có thể sẽ tiếp tục đứng vững thêm tám mươi năm nữa. Bên trong, các bức tường tiếp tục vươn thẳng, gạch xếp chỉn chu, sàn nhà chắc chắn, và cửa nẻo đóng kín rất hợp lí. Sự im lặng kiên định phủ lên các lớp gỗ và đá của Dinh thự Hill, và nếu ở nơi đó mà có bất cứ thứ gì qua lại thì nó cũng qua lại một mình. John Montague là một tiến sĩ; ông ta đã lấy bằng nhân chủng học, mơ hồ cảm thấy rằng nếu hoạt động trong lĩnh vực này, ông ta sẽ có thể làm được những việc sát với nghề nghiệp đích thực của mình nhất, ấy chính là phân tích các hiện tượng siêu nhiên. Bởi vì các công cuộc điều tra của mình là hoàn toàn phi khoa học, ông ta sử dụng học vị của bản thân rất cẩn trọng, hi vọng rằng học vấn của mình sẽ giúp công việc mang vẻ khả kính hơn, hay thâm chí mang tính học thuật. Vì không phải hạng người hay xin xỏ, ông ta đã phải chi ra cả một khoản tiền khổng lồ, đồng thời chấp nhận vứt bỏ sĩ diện để thuê Dinh thự Hill trong ba tháng, nhưng ông ta hết sức tin tưởng rằng mọi nhọc nhằn của mình đều sẽ được bù đắp hoàn toàn. Nguyên nhân là bởi dư luận kiểu gì cũng sẽ xôn xao hết cả lên ngay khi ông ta xuất bản công trình chuẩn mực của mình về các nguyên nhân và hậu quả của những nhiễu loạn ngoại cảm trong một ngôi nhà thường bị gọi là “có ma ám”. Ông ta đã dành cả đời tìm kiếm một ngôi nhà bị ma ám đích thức Khi nghe về Dinh thự Hill, mới đầu ông ta cảm thấy nghi ngờ, sau đó là hi vọng, và rồi kiên trì không biết mỏi mệt. Một khi đã tìm thấy Dinh thự Hill, sẽ không có chuyện ông ta buông bỏ nó. Điều Tiến sĩ Montague định làm đối với Dinh thự Hill bắt nguồn từ các phương thức hoạt động của những thợ săn ma dũng cảm thời thế kỉ mười chín; ông ta sẽ đến sống trong Dinh thự Hill và xem chuyện gì xảy ra ở đó. Ban đầu, ông ta định bụng sẽ bắt chước cái bà vô danh từng đến ở tại Ngôi nhà Ballechin* và tổ chức bữa tiệc tại gia kéo dài suốt mùa hè cho những người hoài nghi và các tín đồ, với bóng cửa* và theo dõi ma là những hoạt động thu hút nổi bật. Nhưng người hoài nghi, tín đồ, và tay chơi bóng cửa giỏi ngày nay khó kiếm lắm. Tiến sĩ Montague buộc phải thuê trợ lí. Có thể nguyên cớ là bởi bản chất nhàn nhã của cuộc sống thời Victoria phù hợp với công việc điều tra tâm linh hơn, hoặc có lẽ là chẳng còn mấy ai đo lường thực tại bằng cách tỉ mẩn ghi chép lại các hiện tượng sự việc nữa. Dù gì thì gì, Tiến sĩ Montague không chỉ cần phải thuê trợ lí, mà còn phải đi tìm kiếm họ. Ngôi nhà Ballechin: Một ngôi nhà bị đồn là có ma ở Scotland. Croquet: Một môn thể thao mà trong đó người chơi dùng gậy để đánh trái bóng gỗ qua khung sắt trên sân cỏ. Ra đời vào thế kỉ 13 tại Pháp, đây là môn thể thao dành cho giới thượng lưu. Vì tự coi bản thân là một con người cẩn thận và chu đáo, ông ta đã dành ra cả một khoảng thời gian đáng kể để tìm kiếm các trợ lí của mình. Ông ta tra cứu hồ sơ của các hội tâm linh, những ấn bản báo chí đăng tin giật gân được lưu trữ, báo cáo của những chuyên viên nghiên cứu về các hiện tượng siêu linh, và đã tập hợp được một danh sách tên của những người từng dính líu với các sự kiện phi thường, không bằng cách này thì cũng bằng cách khác, tại bất cứ mốc thời điểm nào, bất kể ngắn ngủi hay khó đáng tin cậy đến cỡ nào. Trước tiên ông ta loại bỏ khỏi danh sách tên của những người đã chết. Sau đó, ông ta gạch bỏ tên của những người xem chừng muốn đánh bóng tên tuổi, không đủ thông minh, hoặc không phù hợp, bởi rõ ràng là họ rất hay chiếm ánh hào quang. Và rồi ông ta đã có được danh sách với tầm một tá cái tên. Sau đó, mỗi người trong số họ đều nhận được thư từ Tiến sĩ Montague, mời đến nghỉ cả hè hay một phần của mùa hè tại một ngôi nhà thôn quê tiện nghi. Nhà đã cũ, nhưng được trang bị đầy đủ hệ thống dẫn nước, điện đóm, hệ thống sưởi tập trung, và chăn nệm sạch. Những lá thư nêu rõ rằng mục đích ở lại tại đây của họ sẽ là quan sát và tìm hiểu về những câu chuyện ghê rợn đã được đồn đại về ngôi nhà trong gần như toàn bộ quãng thời gian tám mươi năm tồn tại của nó. Những lá thư của Tiến sĩ Montague không nói thẳng thừng rằng Dinh thự Hill bị ma ám bởi vì Tiến sĩ Montague là dân làm khoa học, và cho đến khi đã thực sự trải nghiệm một hiện tượng tâm linh ở trong Dinh thự Hill, ông ta sẽ không làm gì quá liều. Do đó, những lá thư của ông ta mang vẻ nghiêm trang mơ hồ nào đó, được gài vào đầy chủ tâm nhằm khơi gợi óc tưởng tượng của một kiểu độc giả rất đặc biệt. Tiến sĩ Montague đã có bốn thư phúc đáp cho những lá thư của mình. Tám ứng viên còn lại có lẽ đã chuyển nhà và không để lại địa chỉ chuyển tiếp, hoặc có thể đã không còn hứng thú với các hiện tượng siêu thường, hay thậm chí còn có khả năng là chưa bao giờ tồn tại. Tiến sĩ Montague viết thư trả lời bốn người đã phúc đáp kia, nêu cụ thể ngày tháng ngôi nhà chính thức dùng để ở được, và gửi kèm theo hướng dẫn chỉ đường chi tiết. Như ông ta buộc phải giải thích, thông tin về đường đến ngôi nhà này khó kiếm vô cùng, đặc biệt là từ cộng đồng người dân quê sống quanh nó. Vào cái ngày trước khi lên đường đến Dinh thự Hill, Tiến sĩ Montague đã được thuyết phục để cho một đại diện của gia đình sở hữu ngôi nhà đến ở cùng mình. Bên cạnh đó, ông ta nhận được bức điện tín từ một trong những người tham gia, xin rút với cái lí do nghe rõ ràng là bịa đặt. Thêm một người khác không hề trình diện hay viết thư nhắn lại gì cả, có lẽ vì vướng phải vấn đề cá nhân cấp bách nào đấy. Hai người còn lại thì đến.   Khi đến Dinh Thự Hill, Eleanor Vance ba hai tuổi. Vì bây giờ mẹ đã mất, người duy nhất trên đời mà cô thực sự căm ghét chính là chị gái của cô. Cô không thích gã anh rể và đứa cháu gái năm tuổi của mình, và cô cũng chẳng có bạn bè gì cả. Nguyên nhân chủ yếu là do quãng thời gian mười một năm cô phải bỏ ra để chăm sóc người mẹ ốm yếu của mình. Giai đoạn ấy đã giúp cô phần nào trở thành một y tá thạo việc, đồng thời cũng khiến cô không thể không chớp mắt trong ánh nắng chói chang. Cô chẳng thể nhớ nổi liệu mình đã có lần nào cảm thấy thực sự hạnh phúc trong quãng đời trưởng thành hay chưa. Những năm tháng cô sống cùng mẹ chỉ toàn cảm giác tội lỗi, với các màn trách mắng vặt vãnh, mệt mỏi triền miên, và nỗi tuyệt vọng khôn nguôi. Cô chưa bao giờ muốn hình thành một bản tính dè dặt và nhút nhát, nhưng do đã phải ở một mình quá lâu, không có ai để yêu thương, thế nên cô luôn thấy ngại và chẳng biết lựa lời ra sao khi nói chuyện với người khác, kể cả khi chỉ là vài lời xã giao. Tên của cô xuất hiện trong danh sách của Tiến sĩ Montague bởi vì một ngày nọ, hồi cô mười hai tuổi và chị gái cô mười tám tuổi, bố của họ bấy giờ mới chết chưa được một tháng, một trận mưa đá đã trút xuống nhà họ, không chút dấu hiệu cảnh báo hay chút mục đích, lí do nào, đá cục rơi xuống từ trần nhà, ồn ã lăn xuống dưới tường, phá vỡ các cửa sổ và đập điên cuồng trên mái. Trận đá tiếp tục trút xuống cách quãng suốt ba ngày. Trong suốt thời gian đó, Eleanor và chị gái cô không sợ mớ đá bằng những người hàng xóm và người hiếu kì hằng ngày vẫn tụ tập ngoài cửa trước, và cả sự quả quyết đầy mù quáng, cuồng loạn của mẹ họ rằng đứng đằng sau toàn bộ vụ việc này là những cư dân độc ác, ném đá giấu tay sống trong khu, vốn đã thù ghét bà kể từ khi bà đến đây. Sau ba ngày, Eleanor và chị gái cô được chuyển đến nhà một người bạn và những viên đá ngừng rơi, đồng thời cũng không bao giờ còn tái xuất hiện nữa, mặc dù Eleanor cùng với chị và mẹ đã trở về sống trong căn nhà ấy, và mối thù hẳn với người dân trong khu mãi không đi đến hồi kết. Ngoài những người mà Tiến sĩ Montague đã tham vấn thì câu chuyện đã bị tất cả mọi người lãng quên. Eleanor và chị gái của cô thì chắc chắn đã quên chuyện ấy, dù lúc vụ việc diễn ra, mỗi người bọn họ đều cho rằng người kia là thủ phạm. Trong suốt quãng đời khốn khổ của mình, kể từ hồi có những kí ức đầu tiên, Eleanor đã chờ đợi một thứ như Dinh thự Hill. Trong suốt quãng thời gian chăm sóc mẹ, nhấc một bà già cáu bẳn từ ghế lên giường, bày ra một lượng bất tận những khay nhỏ gồm xúp và bột yến mạch, giặt giũ mớ đồ bẩn thỉu, Eleanor luôn vững tin rằng đến một ngày nọ, sẽ có chuyện gì đó xảy ra. Cô đã gửi thư chấp nhận lời mời đến Dinh thự Hill, mặc dù anh rể của cô nhất quyết đòi gọi cho một vài người để đảm bảo rằng cái tay tiến sĩ này không có ý định làm trò gì với Eleanor, mấy trò mọi rợ liên quan đến cái chuyện mà chị gái Eleanor tin rằng một phụ nữ trẻ chưa lập gia đình không nên biết. Trong phòng ngủ riêng của hai vợ chồng, chị của Eleanor đã thì thầm rằng, Chưa biết chừng Tiến sĩ Montague nêu đó rốt cuộc đúng là tên của ông ta - chưa biết chừng cái ông Tiến sĩ Montague này SỬ DỤNG phụ nữ để phục vụ cho một... ờm... THÍ NGHIỆM nào đó. THÍ NGHIỆM ấy... em BIẾT mà, cái kiểu ngữ ấy vẫn hay làm đó. Chị Eleanor cứ nói luôn miệng về các thí nghiệm mà mình từng nghe bảo giới tiến sĩ vẫn hay làm. Eleanor không biết gì về những chuyện như thế, hoặc nếu có thì cũng không sợ. Nói tóm lại, Eleanor sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu. Theodora - đó là cái tên dài nhất mà chị sử dụng. Các bản vẽ của chị được kí tên là “Theo”, và trên cửa căn hộ cũng như cửa sổ xưởng vẽ, danh bạ điện thoại, mớ giấy trắng và phía dưới bức ảnh đáng yêu đứng trên bệ lò sưởi của chị, cái tên luôn luôn chỉ là Theodora. Theodora hoàn toàn khống giống với Eleanor. Đối với Theodora, bổn phận và lương tâm là những đức tính của hội Nữ Hướng Đạo. Thế giới của Theodora tràn đầy niềm vui và sặc sỡ những sắc màu mềm mại. Chị lọt vào danh sách của Tiến sĩ Montague bởi vì sau một lần vừa cười đùa vừa mang trên mình hương nước hoa thảo dược vào trong phòng thí nghiệm, bằng cách nào đó chị đã xác định được chuẩn xác mười tám trong số hai mươi thẻ do một người trợ lí giơ khuất tầm mắt và tầm tai, rồi đến mười lăm trong hai mươi thẻ, và đến mười chín trong hai mươi thẻ, chí lấy làm thích thú và hào hứng trước tài năng đáng kinh ngạc của mình. Tên của Theodora nổi bật hẳn trong hồ sơ của phòng thí nghiệm, thế nên lẽ đương nhiên, nó lọt vào tầm ngắm của Tiến sĩ Montague. Theodora lấy làm khoái chí trước lá thư đầu tiên của Tiến sĩ Montague và đã phúc đáp vì tò mò (chưa biết chừng chính khả năng được khơi dậy trong Theodora, thứ từng giúp chị đoán biết biểu tượng ghi trên những tấm thẻ được giơ khuất tẩm nhìn là gì, đã thúc đẩy chị tìm đến với Dinh thự Hill), ấy nhưng chị lại hoàn toàn có ý định từ chối lời mời. Dẫu vậy, khi thư xác nhận của Tiến sĩ Montague được gửi đến, Theodora chẳng hiểu sao lại tự nhiên nổi hứng đi cãi nhau nảy lửa với người bạn ở chung căn hộ. Có thể thủ phạm lại là cái cảm giác thôi thúc đầy cấp bách kia. Cả hai bên đều đã thốt ra những lời mà chỉ thời gian mới có thể xóa nhoà. Theodora đã cố tình và đầy lạnh lung đập vỡ bức tượng nhỏ đáng yêu khắc họa hình ảnh của chị mà người bạn kia đã làm ra, và bạn chị đã tàn nhẫn xé nát tập thơ của Alfred de Musset*, món quà sinh nhật từ Theodora, đặc biệt chú tâm hành hạ cái trang có dòng chữ đề tặng đầy thương mến, cợt nhả của Theodora. Đây tất nhiên là những hành động không thể lãng quên được, và sẽ phải mất thời gian lâu sau họ mới có thể cười đùa được với nhau về chuyện này. Ngay tối hôm đó, Theodora đã viết thư chấp nhận lời mời của Tiến sĩ Montague và ra đi trong sự im lặng đầy lạnh nhạt vào ngày hôm sau. Alfred de Musset (1810 - 1857): Nhà viết kịch, nhà thơ, và tiểu thuyết gia nổi tiếng người Pháp giai đoạn thế kỉ 19. Luke Sanderson là một kẻ dối trá. Hắn cũng là một tên trộm. Dì hắn, chủ nhân của Dinh thự Hill, rất thích khoe rằng cháu mình là người được cho ăn học ở những nơi tốt nhất, quần là áo lượt nhất, ăn sơn hào hải vị ngon nhất, và giao du với những thành phần bất hảo nhất mà bà từng biết. Bà sẵn sàng tận dụng mọi cơ hội có thể để tống hắn đi xa cho an toàn trong vòng vài tuần. Luật sư của gia đình đã thuyết phục được Tiến sĩ Montague rằng ông ta sẽ không thể thuê ngôi nhà để thực hiện mục đích của mình nếu không có sự hiện diện tại gia của một thành viên gia đình trong quãng thời gian ông ta lưu lại ở đó. Và có thể là ngay trong cuộc gặp gỡ đầu tiên của họ, ông tiến sĩ đã nhận thấy Luke sở hữu một sức mạnh hay bản năng sinh tồn nào đó chẳng khác gì loài mèo, và chính thế mà ông ta cũng muốn đưa Luke đến sống trong ngôi nhà chẳng kém gì bà Sanderson. Dù sao đi nữa, Luke cũng thấy thích thú, bà dì của hắn thì lấy làm biết ơn, và Tiến sĩ Montague thì hết sức hài lòng. Bà Sanderson nói với luật sư gia đình rằng đằng nào thì trong nhà cũng không có gi Luke ăn cắp được cả. Bà bảo rằng chỗ đồ bạc cũ cũng có chút giá trị, nhưng nó tượng trưng cho một khó khăn mà Luke gần như không đời nào vượt qua nổi: sẽ phải bỏ công bỏ sức ra để đánh cắp và biến được chúng thành tiền. Bà Sanderson nói thế là oan cho Luke. Khó có chuyện Luke cuỗm đồ bạc của gia đình, hoặc đồng hồ của Tiến sĩ Montague, hoặc vòng đeo tay của Theodora. Mấy trò bất lương của hắn chủ yếu chỉ giới hạn trong việc lấy mấy xu lẻ từ túi của dì mình và cờ gian bạc lận. Hắn cũng hay bán đồng hồ và hộp thuốc lá do bạn bè của dì hắn quý mến và đỏ mặt tặng. Một ngày nào đó Luke sẽ thừa kế Dinh thự Hill, nhưng hắn chưa bao giờ nghĩ mình sẽ sống trong đó. Mời các bạn đón đọc Chuyện Ma Ám Ở Dinh Thự Hill của tác giả Shirley Jackson & Nguyễn Thành Long (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Khúc Ca Tú Cầu Của Ác Quỷ
Sau khi phá giải những án mạng tinh vi gây chấn động khắp nước Nhật, thám tử Kindaichi Kosuke không khỏi nhức nhối vì bi an trần tục, nên quyết định tạm nghỉ một thời gian. Không muốn loanh quanh phố thị cho đời mỏi mệt nữa, anh chọn một nơi thật hẻo lánh, bình yên, dân phong chất phác, cốt để lắng nghe chim hót buổi sớm, ve kêu trưa hè, dế gáy đêm khuya cho thư thái. Nơi anh đến là một xóm núi cách biệt với xã hội loài người, giao thông bất tiện, vẫn còn dùng xe kéo. Kindaichi lắng nghe chim hót ve kêu chưa bao lâu thì ngay chỗ anh nghỉ có người bị giết trong tư thế quái lạ: phễu gang mồm. Dù chỉ đến để nghỉ, nhưng Kindaichi cũng không thể bình chân như vại được, đành bắt tay phá án. Tiếc nỗi làng xóm khuất nẻo, giao thông bất tiện, việc thu thập tin tức bị gián đoạn, tạo điều kiện để vụ giết người tiếp theo xảy ra, cuối cùng phát triển thành giết người hàng loạt. Khi án mạng đủ nhiều để nổi lên điểm chung, Kindaichi mới biết, những cái chết này đều liên quan đến một khúc đồng dao cổ người làng vẫn hát khi chơi tú cầu hồi xưa, nhưng giờ không ai còn nhớ nữa. Không ngờ nơi chất phác lại có kiểu án mạng của chất phác, Kindaichi buộc phải đào sâu lại lịch sử và chứng nhân của làng, chạy đua với ác quỷ trong bóng tối nhằm rút tỉa quy luật để cứu lấy nạn nhân tiếp theo. Cũng như Đảo Ngục Môn, Rìu đàn cúc, KHÚC CA TÚ CẦU CỦA ÁC QUỶ là một tác phẩm nằm trong series phá án của thám tử Kindaichi Kosuke. Tác phẩm là sự đối đầu của âm mưu mang phong vị cổ xưa và kĩ thuật phá án đang bước vào bình minh phát triển. *** Khúc ca tú cầu của ác quỷ (Yokomizo Seishi) – Khúc ca chết chóc vọng lên từ miền ký ức By Mọt Mọt - April 30, 2021 Các thảm án liên hoàn xảy tới liên tiếp như đã bào mòn sức lực lẫn trí tuệ của thám tử Kindaichi Kosuke. Bởi vậy, anh quyết định dành cho bản thân một chuyến nghỉ dưỡng để khôi phục tinh thần tại một địa điểm cách xa thế giới con người. Theo gợi ý của chỉ huy Isokawa, Kindaichi đã tới làng Đầu Quỷ, ngôi làng hẻo lánh nằm án ngữ trên ranh giới giữa hai tỉnh Hyogo và Okayama song lại xa phủ xa tỉnh, gần như bị cô lập bởi núi non tứ phía. Nhưng thay vì có chuyến nghỉ ngơi đúng nghĩa, anh lại bị cuốn vào một thảm án liên hoàn khác. Không chỉ vậy, bức màn bí ẩn vốn bị phủ kín 20 năm trước, theo đó cũng dần lộ diện. khúc ca tú cầu của ác quỷ yokomizo seishi      Những án mạng đậm màu nghi thức Tạo dựng trên trang văn những án mạng đậm màu nghi thức gần như đã trở thành điểm chung, motif thường thấy ở cả series truyện về thám tử Kindaichi Kosuke của nhà văn Yokomizo Seishi. Từ tiếng đàn tranh nhức nhối trong tác phẩm đầu tay Cung đàn báo oán đến thảm sát trên Đảo Ngục Môn, tới những kí hiệu Rìu, đàn, cúc xuất hiện trong liên hoàn án tại gia tộc Inugami. Và cả các biểu tượng cho từng “hàng” đi liền với mỗi thi thể người con gái đẹp thuộc gia tộc ấy ở tiểu thuyết Khúc ca tú cầu của ác quỷ. Nhưng trước tiên cần phải khẳng định rằng, bối cảnh xảy đến của Khúc ca tú cầu của ác quỷ khá đặc biệt. Khác nhiều sáng tác thuộc cùng series, Kindaichi đóng đúng vai “thám tử”, được đương sự, thân chủ mời tới hoặc nhờ ngăn chặn án mạng có thể xảy ra hay phá giải một vụ án hóc búa nào đấy. Còn ở Khúc ca tú cầu của ác quỷ, Kindaichi đặt chân tới vùng đất có tên Đầu Quỷ với tâm thế của một người đi du lịch, an dưỡng, nghỉ ngơi, tránh xa trần tục và nhất là những án mạng đã bào mòn anh suốt thời gian dài. Vì thế, đối mặt với một ngôi làng tràn ngập những điều quái lạ cùng những con người cũng hết sức kì quái, sống trong hiện tại nhưng dường như luôn bị bóng đen quá khứ bao trùm, thời gian đầu Kindaichi vẫn quyết giữ thái độ lẳng lặng, trung dung hết mực, không để ý, không tìm hiểu, không can thiệp vào đời sống nơi đây, chỉ cốt tận hưởng trọn vẹn kỳ nghỉ hiếm hoi. Cho nên, khi biến cố đầu tiên xảy ra, có thể nói,  anh đã thật sự trở tay không kịp. Và cũng không thể không nói rằng, tâm lý muốn “nghỉ dưỡng” sau hàng loạt vụ án ly kỳ cũng khiến anh thêm phần chủ quan, kém nhạy bé. Dù rằng, chính anh cũng sớm nhận ra, thảm sát liên hoàn tại làng Đầu Quỷ, có nhiều nét tương đồng với chuỗi án mạng tại đảo Ngục Môn khi mang dáng dấp nghi thức rất rõ rệt. Thật vậy, yếu tố nghi thức đã thấp thoáng thể hiện ngay trong không gian ma mị tựa bao phủ lên cả làng Đảo Quỷ: ngôi làng bị ngăn sông cách chợ bời núi non tứ phía cô lập; những ngôi nhà cách nhau cả quãng đường núi dài tít tắp hay ngôi nhà quan cai lọt bên bờ hồ đen kịt; chiều hoàng hôn đổ bóng lên thân thể con người lần dần đi trên sườn núi; đêm mưa chớp giăng đầy trời làm sạt núi, ngăn đường; buổi đón rước cô ca sĩ mới nổi Yukari và cả không gian thăm thẳm miền ký ức về án mạng xưa người dân vẫn vô tình, hay cố ý nhắc đến… Để rồi, nghi thức được cụ thể hóa vào từng biến cố, án mạng xảy đến tại ngôi làng xa phủ, xa tỉnh này. Ngay trong biến cố đầu tiên, sự mất tích của hậu duệ dòng dõi quan cai làng Đầu Quỷ, Tatara Hoan, sự sắp đặt của một nghi thức đã tràn ngập cả căn nhà sập xệ Hoan sống. Chiếc bàn ăn cơm bày biện đủ món, hai chiếc ghế đối diện nhau bên mâm cơm ăn dở, vệt máu trên sàn, lu chum sau nhà nhốt đầy lũ kì nhông sơn tiêu cùng vùng đầm lầy đen kịt xung quanh. Tất cả, cảnh còn, hiện trường còn, nhưng người đã không còn nơi đây. Chỉ để lại một không gian quái dị, như lời báo hiệu nghi thức báo tử đã chính thức bắt đầu. Và cũng như Đảo Ngục Môn, thảm án liên hoàn tại làng Đầu Quỷ cũng là ba án mạng liên tiếp xảy tới với ba cô gái xinh đẹp trong làng. Đồng thời, hiện trường vụ án cũng được dàn dựng hết sức công phu với những kí hiệu hung thủ để lại, vừa như bước cuối cùng hoàn thiện nghi thức gây án, vừa như gợi ý hung thủ cố tình để lại nhằm thách thức người điều tra. Với nạn nhân đầu tiên là Yasuko, xác cô đi liền với phễu và hũ; với nạn nhân thứ hai tên Fumiko, hung thủ lại giắt trên thắt lưng cô cái cân và một nhành bỏng gạo; còn nạn nhân cuối cùng, Satoko không những bị lột trần mà bên người cô, còn có một ổ khóa cùng một chùm chìa khóa không vừa ổ. Nhưng nếu ở đảo Ngục Môn, hung thủ dùng hiện trường để mô phỏng lời thơ, thì nghi thức diễn ra ở làng Đầu Quỷ lại dùng hiện trường để tái hiện một khúc ca chơi tú cầu rất xa xưa, vốn như đã thất lạc trên mảnh đất này. Để rồi, khi những thanh âm của khúc ca ấy vọng lên giữa bầu không gian tang tóc, bí ẩn nghi thức dần hé lộ, cũng là lúc người đọc nhận ra, văn hóa truyền thống Nhật Bản tại những mảnh đất bị cô lập vẫn đang chảy theo một mạch ngầm xuyên suốt series thám tử Kindaichi Kosuke. khúc ca tú cầu của ác quỷ review Đọc thêm: Đảo Ngục Môn – Vụ án mạng trên đảo địa ngục Cung đàn báo oán (Yokomizo Seishi) – Tập truyện mở đầu của series thám tử Kindaichi Kosuke Án nằm trong án và bi kịch tình yêu truyền kiếp Trong tiểu thuyết trinh thám từ cổ điển tới hiện đại, một khi hung thủ gây án đã tạo dựng hiện trường như một nghi thức đầy công phu thì mục đích hắn hướng tới, hầu như không đơn thuần chỉ là sự đánh đố, thách thức người điều tra. Mà sâu xa hơn, nghi thức chính như một cách hung thủ gửi gắm một câu chuyện, ẩn ức gã vẫn luôn giấu kín. Hàng loạt án mạng xuất hiện trên trang viết của Yokomizo Seishi cũng thế, và Khúc ca tú cầu của ác quỷ cũng phải ngoại lệ. Ngay từ lời dẫn truyện, có lẽ độc giả đã sớm biết cấu trúc tiểu thuyết Khúc ca tú cầu của ác quỷ được Yokomizo tiên sinh xây dựng theo lối án lồng trong án: thảm án hôm nay, liên đới tới vụ án năm xưa. Hay nói cách khác, vụ án năm xưa là nguyên nhân và thảm án năm nay là kết quả của cả một chuỗi bi kịch kéo dài truyền kiếp. Vụ án năm xưa, chính là cái chết bí ẩn 20 năm trước của người đàn ông tên Genjiro, chồng Rika, bà chủ Nước nóng Kame, người đã cho Kindaichi tá túc ở trọ những ngày anh sống tại làng Đầu Quỷ. Mà hung thủ, vẫn luôn được mọi người đinh ninh rằng gã đàn ông lừa đảo tên Onda. Tuy nhiên, thi thể trong vụ án này lại là “tử thi không mặt”, gương mặt đã bị hủy hoại tới mức không ai có thể nhìn rõ. Sự bí ẩn ấy, không khỏi dấy lên nỗi nghi vấn trong lòng chỉ huy Isokawa về việc đổi vai giữa nạn nhân và hung thủ. Nhưng có là nạn nhân hay hung thủ, thì cả Genjiro lẫn Onda đều đã để lại những giọt máu rơi vương vất ở làng Đảo Quỷ. Kẻ chẳng còn trên cõi đời, lại gieo rắc nợ đào hoa khắp chốn. Kẻ thuộc về dĩ vãng 20 năm trước, dấu ấn lại vẫn hiện diện mọi ngõ ngách trên ngôi làng hoang vắng. Và tất cả, đã biến thành tấn thàm kịch của 20 năm sau, với chuỗi án mạng liên hoàn được tạo dựng như một nghi thức phỏng theo khúc ca tú cầu thất truyền. Một nghi thức vừa nhằm tái hiện quá khứ đầy nhục dục dẫn tới hiện thực trái ngang, vừa nhằm khắc họa nỗi hận thù vẫn âm ỉ cháy, thiêu đốt trong lòng hung thủ suốt bao năm, lại vừa như lời cáo chung của chính hung thủ, muốn tận diệt mọi thứ sau 20 năm đằng đẵng. Khúc ca tú cầu của ác quỷ, cuốn tiểu thuyết là sự kết hợp của hai thể loại trinh thám vẫn thường thấy: án mạng trong phòng kín khi cả làng Đẩu Quỷ tựa căn phòng kín khóa trái, bị cô lập với cuộc sống bên ngoài cùng hiện trạng tử thi không mặt trong vụ án xưa kia. Và nói truyện nằm trong truyện, án nằm trong án xuất phát từ bi kịch tình yêu, bi kịch gia đình, bi kịch của nhục dục truyền kiếp 20 năm trên trang văn Khúc ca tú cầu của ác quỷ chính là vì thế. khúc ca tú cầu của ác quỷ *Cre: Page IPM Đọc thêm: Rìu, đàn, cúc (Yokomizo Seishi) – Bi kịch từ những yêu thương lạc lối Khúc ca tú cầu, khúc ca chết chóc vọng lên từ miền ký ức Bên cạnh chữ bi bao trùm cả câu chuyện, thì có thể nói, Khúc ca tú cầu của ác quỷ còn là cuốn tiểu thuyết như được tạo tác từ cả miền ký ức thăm thẳm. Căn nguyên mọi chuyện, bắt nguồn từ quá khứ. Quá khứ rất xa xưa tại mảnh đất Đầu Quỷ còn nhiều lạc hậu với sự phân chia giai tầng, đẳng cấp sâu sắc. Quá khứ đậm màu nhục dục của 20 năm trước với đủ những toan tính trả thù, lừa đảo, phản bội. Và cả quá khứ về những lời ca tưởng đã thất truyền như tái hiện lên cả câu chuyện lịch sử đẫm máu về ngôi làng Đầu Quỷ tồn tại lâu đời nhưng vẫn luôn bị cô lập với cuộc sống bên ngoài. Vì thế, có thể nói chăng, không chỉ những vụ án mạng xuất hiện trên trang viết của Yokomizo tiên sinh mới được tạo dựng như một nghi thức mô phỏng, mà cả tiểu thuyết Khúc ca tú cầu của ác quỷ, vốn đã là một trước tác đậm sắc nghi thức trên mọi phương diện. Như toàn bộ tác phẩm, là một khúc ca lớn, cáo chung cho những bi kịch kéo dài không dứt trên mảnh đất tác biệt trước cuộc đời. Khúc ca tú cầu của ác quỷ, cuốn trinh thám cổ điển viết năm 1957 của Yokomizo Seishi, vẫn còn rất thô sơ trên khía cạnh suy luận phá án của người điều tra hay phần tâm lý hung thủ. Nhưng cuốn sách ấy, vẫn là một tạo tác đầy ma mị từ không gian lịch sử, không gian văn hóa truyền thống, không gian nghi thức, không gian tâm địa bàng bạc phủ khắp câu chuyện. Tựa tới tận cùng, tiếng ngâm hát, tiếng đập tú cầu cùng nụ cười tủm tỉm như có như không của cụ bà hơn 80 tuổi nhà Yura, vẫn văng vảng đâu đây. Mọt Mọt *** Trong các tạp chí mà bạn bè tôi tham gia xuất bản, có một ấn phẩm khổ nhỏ gọi là Điển tích dân gian. Tuy gói gọn trong 64 trang A5 và chỉ in với số lượng có hạn phục vụ hội viên, nhưng đọc cũng khá thú vị. Ngay từ cái tít Điển tích dân gian và tít phụ “Làng quê và tập tục dân gian”, có thể thấy ấn phẩm này tập hợp các truyện dân gian, điển tích truyền miệng, phong tục tập quán kì lạ trên khắp đất Nhật. Bên cạnh số ít tác giả đã thành danh, đa phần bài viết ở đây đều do những cây bút vô danh gửi tới. Dù cách hành văn đôi khi non nớt, nhưng nội dung lại thú vị dị thường, đem lại nhiều kiến thức mới cho người đọc. Thú vui của tôi là sưu tầm các số của ấn phẩm này, đóng thành tập để lấy ra đọc những lúc nhàn rỗi. Nhờ đó, gần đây tôi đã phát hiện ra một bài viết hết sức hấp dẫn mà khi trước từng bỏ sót. Bài viết có tên “Đôi dòng suy nghĩ về khúc ca tú cầu làng Đầu Quỷ”. Bài này đăng trên số tháng Chín năm 1953, đề cập đến khúc đồng dao khi chơi tú cầu gần như đã bị lãng quên ở một địa phương nọ. Tác giả là Tatara Hoan, ngoài tên không có thông tin cụ thể gì khác. Đây có lẽ cũng là một trong nhiều cây bút vô danh đóng góp bài viết cho tạp chí. Khúc ca tú cầu làng Đầu Quỷ đóng vai trò then chốt trong câu chuyện đáng sợ, mà tôi sắp kể sau đây (với sự cho phép của thám tử Kindaichi Kosuke). Thế nên tôi mạn phép trích dẫn bài viết của Tatara Hoan kèm theo một vài ý kiến cá nhân. Tôi tin rằng việc lướt qua đôi dòng này trước khi bước vào câu chuyện sẽ không hề lãng phí đâu. Lạc đề một chút thì, tên làng lẽ ra phải là Đồ Quỷ, nhưng thường bị đọc chệch thành Đầu Quỷ. Bản thân khúc ca tú cầu làng Đầu Quỷ vẫn còn những lời khác, nhưng Tatara Hoan chỉ đề cập tới ba đoạn dưới đây. Theo tác giả này, các bài đồng dao hát khi chơi tú cầu đa phần theo thể thức hát đếm hoặc nối âm, thường triển khai dựa vào liên tưởng, ít khi có nội dung hay khuôn khổ nhất quán. Tuy nhiên khúc ca tú cầu làng Đầu Quỷ lại khiến người ta cảm thấy tính nhất quán thấp thoáng tồn tại trong lời hát. Tatara Hoan nhận định, nhiều khả năng nông dân địa phương đã lồng vào khúc ca này những cảm nhận về cách chấp chính của lãnh chúa trong vùng. KHÚC CA TÚ CẦU LÀNG ĐẦU QUỶ Ở khu vườn sau nhà, ba chú sẻ nghỉ cánh Chú đầu tiên cất tiếng, ta là lãnh chúa trong biệt phủ Rất thích săn bắn, rượu chè, gái gú Đằm thắm vô cùng con gái hàng hũ Quán xá chỉn chu nhưng nát rượu quá chừng Đong rượu bằng hũ rồi uống bằng phễu Suốt ngày chìm đắm trong hơi men Vẫn không thỏa mãn nên bị đuổi về, bị đuổi về. Chú thứ hai tiếp lời, ta là lãnh chúa trong biệt phủ Rất thích săn bắn, rượu chè, gái gú Đằm thắm vô cùng con gái hàng cân Quán xá chỉn chu nhưng tằn tiện vô ngần Đếm củ dưa hành đo lọ nước mắm Suốt ngày chỉ thiết tha tính toán Ngủ cũng chi li nên bị đuổi về, bị đuổi về. Chú thứ ba góp chuyện, ta là lãnh chúa trong biệt phủ Rất thích săn bắn, rượu chè, gái gú Đằm thắm vô cùng con gái hàng khóa Quán xá chỉn chu nhưng lãnh cảm chán đời Là khóa hỏng chẳng chìa nào tra nổi Khóa không đúng chìa nên bị đuổi về, bị đuổi về. Cũng đã muộn rồi, hãy dừng ở đây thôi. Giờ thử tìm hiểu một chút về địa hình làng Đầu Quỷ xem sao. Nằm ở ranh giới giữa hai tỉnh Hyogo và Okayama, cách biển nội địa Seto chưa đến ba mươi cây số, đây là một thung lũng vùng cao đúng nghĩa, bị cô lập bởi núi non tứ phía và cũng không có tuyến đường quan trọng nào chạy qua. Quan sát trên bản đồ thì dù xét theo địa hình hay giao thông, nơi này cũng nên được sáp nhập vào tỉnh Hyogo mới phải. Tuy nhiên, thật kì lạ là nó lại được phân về tỉnh Okayama, có lẽ do cùng đơn vị hành chính từ thời Mạc phủ. Đặc điểm đó đã gây trở ngại lớn cho việc điều tra mỗi khi có vụ án xảy ra. Do chướng ngại địa lý và một số nguyên nhân khác, làng Đầu Quỷ bị cảnh sát tỉnh Okayama coi như con ghẻ. Còn cảnh sát Hyogo thuận tiện đi lại thì luôn viện cớ nằm ngoài địa bàn phụ trách để ngó lơ trị an ở đây. Ngay trong vụ án mà tôi sắp kể, không thể phủ nhận rằng chính điều này đã gây hại không nhỏ cho quá trình điều tra. Về mặt sử liệu, Đầu Quỷ vốn là lãnh địa của nhà Ito, trấn thủ Shinano. Danh sách võ gia vào năm Minh Trị nguyên niên[1] ghi rõ: trấn thủ Shinano[2] Ito, gian Yanagi[3], triều tán đại phu, 10.343 thạch[4]. Đây là mức bổng lộc thuộc hàng thấp nhất trong số các lãnh chúa, nên thái ấp Đầu Quỷ của dòng họ Ito cũng chỉ là một biệt phủ chứ không phải thành quách tráng lệ gì cho cam. Vì vậy, vị “lãnh chúa trong biệt phủ” mà khúc ca tú cầu nhắc đến nhiều khả năng là một trong các tổ tiên nhà Ito. Theo Tatara Hoan thì đó chính là Ito Sukeyuki, đương chủ thời Thiên Minh[5], một bạo chúa háo sắc dâm loạn. Hắn thường lấy danh nghĩa săn bắn để dạo quanh lãnh địa, bắt mọi cô gái vừa mắt, không kể già trẻ chồng con thế nào. Đến khi no xôi chán chè, chỉ cần cô gái kia phạm phải lỗi nhỏ là hắn vịn vào đó để xử tử. Xoay quanh cái chết đột ngột của Sukeyuki vào khoảng những năm cuối Thiên Minh đầu Khoan Chính[6], Tatara Hoan cho rằng hắn đã bị hạ độc. Còn đoạn điệp khúc “bị đuổi về, bị đuổi về” trong khúc ca tú cầu làng Đầu Quỷ thật ra phải là “bị giết đi, bị giết đi” để đúng với những hành vi bạo ngược của Ito Sukeyuki. Bên cạnh đó, hàng hũ hàng cân hàng khóa xuất hiện trong bài hát không hẳn là nghề nghiệp của mỗi cô gái, mà là tên hiệu các thường dân không họ dùng để phân biệt lẫn nhau dưới thời Mạc phủ. Từ thời Minh Trị, sau khi thường dân có quyền đặt họ, người cao tuổi thỉnh thoảng vẫn quen xưng hô bằng tên hiệu này. Trên đây là đôi dòng giới thiệu về nguồn gốc của khúc ca tú cầu làng Đầu Quỷ mà tôi phát hiện được từ tạp chí Điển tích dân gian. Mong rằng chút thông tin dự bị này sẽ giúp các bạn sẵn sàng hơn để bước vào vụ giết người hàng loạt tại làng Đầu Quỷ. Mời các bạn mượn đọc sách Khúc Ca Tú Cầu Của Ác Quỷ của tác giả Seishi Yokomizo & Mentaiko (dịch).
Another S/0 (Tiếng Việt)
Another S/0 là bộ truyện gồm hai cuốn: tiểu thuyết Another S và manga Another 0, lần lượt nằm vào hai thời điểm sau và trước Another. Lấy điểm rơi là lúc Sakakibara đã tìm ra đối sách để chấm dứt “hiện tượng”, trả kẻ đã chết về cho Thần Chết, Another S dõi theo bước chân của Misaki đến biệt thự bờ biển cách đó khá xa. Tưởng đã được nghỉ ngơi sau một năm sóng gió bị xung quanh coi là người cõi âm, nào ngờ ở đây cô lại gặp một tiền bối khóa trên, người đã tháo chạy khỏi Bắc Yomi để trốn tránh tai ương, nhưng cuối cùng vẫn không thoát được vệt loang định mệnh. Rốt cuộc thì bàn tay đen của “hiện tượng” Bắc Yomi có thể lan xa đến đâu, sau khi đã sống lâu đến hai mươi mấy năm như thế? Another 0 lại chọn điểm rơi là trước ngày Sakakibara đến Bắc Yomi, đặt chân vào mạng nhện tai ương của trường, với các chi tiết đậm tính báo hiệu điềm gở, từ một góc nhìn mà sau này ta mới nhận ra là rất đáng thương. Another 0 vốn là phần không xuất bản riêng ở Nhật, mà được đính kèm đĩa anime Another, nay được IPM in gộp vào bộ S/0 này để độc giả có cái nhìn hoàn chỉnh về ba thời điểm trước/trong/sau của vở bi kịch vô tình mà thành tội tình của các học sinh Bắc Yomi, khi cố níu kéo người đã chết ở lại thế giới không còn phù hợp với họ. Đầy tính chiêm nghiệm và điềm báo, Another S/0 còn mở đường cho Another 2001, khi tai ương trở lại với Bắc Yomi vào năm 2001… *** Introduction “Tôi kể cho cậu nghe nhé.” Misaki Mei nói, những ngón tay mảnh khảnh khẽ vuốt miếng băng trắng trên mắt trái, “Để tôi kể cậu nghe, Sakakibara. Về câu chuyện mùa hè cậu chưa từng biết đến.” Tôi bất giác nghiêng đầu, “Hử?” “Về một ‘Sakaki khác’. Cậu muốn nghe chứ?” Chúng tôi đang ở khu phố Misaki, cụ thể là ở hiệu búp bê “Đôi mắt xanh trống rỗng. Dưới ánh chiều tà của Yomi”. Trong không gian quen thuộc, tức là vẫn cứ mờ tối như buổi hoàng hôn, nụ cười của Mei trông thật gượng gạo. Cô có vẻ do dự, dù chính cô là người chủ động gợi chuyện. “Nếu cậu hứa không nói với bất kỳ ai, tôi sẽ kể cho mà nghe.” “Chuyện về một Sakaki khác.” “Không phải Sakaki của cậu đâu. Người này tên là Sakaki Teruya.” Cô cho biết, Sakaki Teruya viết theo Hán tự là “Hiền Mộc Hoảng Dã”[1]. Đây là lần đầu tôi nghe thấy cái tên này. “Trước buổi dã ngoại với lớp vào tháng Tám, tôi đã rời Yomiyama khoảng một tuần, nhớ không?” “À… Cậu cùng gia đình đến căn biệt thự ở bờ biển nhỉ.” “Tôi gặp vào lúc ấy đấy.” “Gặp Sakaki Teruya?” “Nói sao nhỉ? Tôi gặp hồn ma của anh ấy.” “Hả?” Tôi lại bất giác nghiêng đầu. “Hồn ma…” “Sakaki qua đời vào mùa xuân năm nay. Anh ấy chết rồi. Vì vậy, thứ mà tôi gặp hồi mùa hè là hồn ma của anh ấy.” “Hừm, vậy là…” “Không liên quan gì đến ‘hiện tượng’ ở Yomiyama đâu. Không giống ‘kẻ đã chết’ hồi sinh ở lớp 9-3.” Mei chậm rãi chớp con mắt bên phải, “Hồn ma thật đấy.” Bởi con mắt búp bê dưới băng gạc của Mei có thể nhìn thấy “màu của cái chết”. Vậy nên, việc cô thấy thứ đó… Giữa bầu không khí lắng đọng và lạnh lẽo thường trực trong phòng trưng bày dưới tầng hầm, tôi đảo mắt nhìn quanh, cảm thấy câu chuyện này rất đáng ngờ. Từ đêm dã ngoại hồi tháng Tám, “hiện tượng” của năm nay đã dừng lại, kỳ nghỉ hè kết thúc, học kỳ hai cũng bắt đầu. Hạ tuần tháng Chín, tiết trời chuyển sắc thu rõ rệt. Hôm ấy là ngày thứ Bảy thứ tư của tháng, buổi chiều, chúng tôi được nghỉ học. Tôi vừa ghé bệnh viện thành phố ở Yumigaoka để kiểm tra hậu phẫu xem phổi hồi phục đến đâu, và lúc này đang trên đường trở về nhà. Nói mới nhớ, khá lâu rồi tôi chưa tạt vào Dưới ánh chiều tà của Yomi. Tiếc thay, phòng trưng bày tầng một lại đóng cửa. Tôi băn khoăn không biết có nên gọi vào điện thoại bàn nhà Misaki ở tầng trên không, nhưng rốt cuộc lại thôi. Đang định rời đi, di động trong túi áo bỗng đổ chuông. Là Misaki Mei. “Sakakibara? Cậu đang ở trước cửa nhà tôi phải không?” “Sao cậu biết?” Tôi hết sức bất ngờ. Trước sự kinh ngạc của tôi, Mei chỉ lạnh lùng đáp, “Tình cờ thôi. Tôi vô tình nhìn ra ngoài.” “Vô tình nhìn ra từ cửa sổ tầng ba á?” Tôi bối rối ngước lên, thấy một bóng đen thấp thoáng sau dãy cửa sổ tầng ba. “Cậu gọi… bằng di động à?” “Ừ. Tôi có lưu số điện thoại của cậu.” Sau buổi dã ngoại đó, Mei kể rằng đã ném di động xuống sông. Nhưng cô cũng bảo, dù có ném đi, Kirika sẽ lại bắt cô dùng máy mới ngay thôi. “Hôm nay phòng trưng bày đóng cửa nhỉ?” “Ừ, một chuyện hiếm, bà Amane đột nhiên đổ bệnh.” “Ồ!” “Cậu không vào à?” “Vào được không?” “Lâu rồi cậu mới đến. Kirika… mẹ tôi cũng ra ngoài rồi. Tôi xuống mở cửa cho cậu đây. Chờ một chút nhé.” Phải tầm hai tháng rồi. Nếu nhớ không nhầm, lần gần nhất tôi ghé thăm Dưới ánh chiều tà của Yomi là ngày 27 tháng Bảy. Hôm ấy là ngày giỗ mẹ tôi. (Mẹ đã sang thế giới bên kia từ mười lăm năm trước, gần như ngay sau khi tôi chào đời.) Cùng ngày, tôi có hẹn với Teshigawara ở quán cà phê Inoya. Hẹn xong ra về thì vào hiệu búp bê. Hình như chính hôm đó tôi được biết Mei cùng gia đình sắp đi nghỉ ở biệt thự bên bờ biển. Bố tôi vừa về. Dứt lời, trông Mei có vẻ khá ưu phiền. Muốn cùng hai mẹ con tới biệt thự của gia đình. Tôi chẳng ham, nhưng trước giờ vẫn thế, nên không thể từ chối. Nhà cậu có biệt thự à? Ở đâu? Gần biển. Đi ôtô từ đây thì mất cỡ ba tiếng. Không thuộc Yomiyama chứ? Ừ. Ở Yomiyama làm gì có biển, đúng chưa nào? Sau khi đứng đợi lâu hơn “một chút”, tôi được mời vào cửa hiệu không bóng người. Tiếng chuông cửa leng keng vang lên. Misaki Mei xuất hiện trong chiếc váy dài liền thân, vạt váy điểm những mũi khâu màu xanh rải rác trên nền vải đen, mắt trái vẫn là miếng băng gạc thường ngày. “Cậu vào đi.” Cô nói gọn rồi bước về góc phòng, theo cầu thang đi xuống tầng hầm. Tôi bước sau Mei, chợt nhận ra cô đang kẹp dưới cánh tay một quyển ký họa. Quyển sổ khổ tám[2], bìa màu xanh ô liu. Phòng trưng bày dưới tầng hầm trông có phần giống kho chứa đồ, la liệt toàn búp bê và các bộ phận cơ thể. Cách bài trí vẫn y như lần tôi ghé hai tháng trước, trừ chiếc bàn tròn sơn đen và hai chiếc ghế bành bọc vải đỏ mới được kê thêm ở góc phòng. “Cậu ngồi đi.” Mei nói, và chỉ chiếc ghế. “Hay cậu muốn nói chuyện ở chỗ khác?” “À, không sao đâu.” Tôi ngồi xuống, tay để ngang ngực, hít thở sâu. “Có lẽ tớ quen rồi.” “Hôm nay cậu cũng vừa từ viện về à?” “Sao cậu biết?” “Lần trước cậu có nói.” “À. Có nói sao?” Nhờ trời, quá trình hồi phục khá suôn sẻ. Bác sĩ phụ trách còn phấn khích động viên rằng, bởi tôi quyết định phẫu thuật nên nguy cơ tái phát bệnh chắc chắn sẽ giảm đi nhiều. Mei ngồi vào ghế đối diện, nhẹ nhàng đặt lên bàn quyển ký họa lúc nãy. Tôi để ý đến số “1997” nhỏ xíu ở góc bìa màu xanh ô liu, và bất chợt lẩm bẩm, “Quả nhiên.” “Quả nhiên gì cơ?” “Quyển này có màu khác với quyển Misaki thường mang theo. Quyển kia màu nâu sẫm nhỉ? Với cả, trên bìa quyển này còn ghi số ‘1997’ nữa.” “Cậu tinh ý hơn tôi tưởng đấy.” “Đây là sổ vẽ năm ngoái mà, sao cậu lại đem nó theo?” Chẳng lẽ là cố tình à? “À. Tôi định cho cậu xem.” “Có bức tranh nào đặc biệt sao?” “Không hẳn,” Mei khẽ bật cười, rồi ngồi thẳng dậy, ngước mắt nhìn. “Nhưng mà, tôi nghĩ ít nhiều nó cũng có ý nghĩa.” Ít nhiều có ý nghĩa? Ý nghĩa gì cơ? “À ừm, vậy thì…” Tôi bỏ lửng câu nói, cũng không thể thẳng thắn đón nhận ánh nhìn trực diện của Mei. “Tôi kể cho cậu nghe nhé.” Misaki Mei nói, những ngón tay mảnh khảnh khẽ vuốt miếng băng trắng trên mắt trái, “Để tôi kể cậu nghe, Sakakibara. Về câu chuyện mùa hè cậu chưa từng biết đến.” Sakaki Teruya, một “Sakaki khác”. Mei gặp anh ta lần đầu vào mùa hè năm 1996, năm cô 13 tuổi. Kỳ nghỉ hè đầu tiên của cấp hai, như thường lệ, cô cùng gia đình đến căn biệt thự bên bờ biển… “Ở thị trấn Hinami. Không xa biệt thự có gia đình Hiratsuka, người quen của bố tôi. Hai nhà thường qua lại thăm chơi, đôi khi còn bày biện ăn uống kiểu tiệc tại gia.” Nếu bày biện ở nhà Misaki thì ai sẽ là người nấu nướng? Một thắc mắc nhảm nhí thoáng qua đầu tôi. Kirika có vẻ không giỏi bếp núc, khả năng gia chánh của Mei cũng chẳng hơn gì con số không. Vậy là, ông bố? Thật ra đó chỉ là thắc mắc tầm phào, nhưng Mei đã lên tiếng như thể nhìn thấu suy nghĩ của tôi, “Người ấy… bố tôi, chắc quen với nếp sống nước ngoài nên có vẻ thích tiệc tùng. Song hầu như chỉ tổ chức theo kiểu catering[3] thôi, đại loại vậy.” Ra thế. Cũng phải nhỉ! “Sakaki là em vợ ông Hiratsuka. Kỳ nghỉ hè năm ấy gia đình họ sang chơi, anh cũng đi cùng.” Mei lật bìa ký họa, lấy ra một tấm hình cỡ 2L[4] kẹp bên trong. “Đây là ảnh chụp hôm đó.” Nói đoạn, cô lặng lẽ chìa ảnh cho tôi. Tôi nghiêm nghị gật đầu và cúi xem. Hẳn là chụp trên hiên biệt thự, trong ảnh có Kirika và Mei. Dáng vẻ Mei hai năm về trước đã nhuốm màu bí ẩn rồi (chỉ khác là không đeo băng mắt). Ngoài hai mẹ con họ còn có năm người nữa, cả nam lẫn nữ. “Sao cậu không đeo băng mắt?” “Mẹ tôi bảo tháo ra vì có khách tới chơi.” Con mắt giả màu xanh thay cho bên mắt trái đã mất khi còn nhỏ của Mei là do bà mẹ nghệ nhân búp bê đặc biệt chế tác cho. Vậy mà Mei lại dùng băng mắt che nó đi, mẹ cô hẳn không khỏi đau lòng. “Người ngoài cùng bên phải là Sakaki, 24 tuổi vào thời điểm ấy.” “Bố của Misaki đâu?” “Người đó chụp ảnh, nên không có mặt trong hình.” Đôi nam nữ tầm tuổi trung niên này chắc là vợ chồng Hiratsuka, ngồi lọt thỏm giữa họ là một bé gái. Cách xa hai vợ chồng một chút, bên cạnh Sakaki Teruya, là một cậu bé nhỏ nhắn. Trừ Mei và Sakaki, mọi người trong hình đều cười tươi và nhìn thẳng vào máy ảnh. “Cậu bé cạnh Sakaki là So, con riêng của cô Tsukiho vợ ông Hiratsuka. Lúc đó cậu bé đang học lớp Bốn.” Tức là dưới tôi và Mei ba khóa. Da cậu bé rất trắng, nhưng không bằng Mei. Trông khá trầm tính. Nhìn thì rõ là mỉm cười, nhưng không hiểu sao cứ toát ra vẻ gì cô đơn. “Còn bé gái?” “Mirei. Bấy giờ cô bé mới được ba tuổi thì phải. Mirei là em gái khác cha của So.” “Vậy là…” “Cô Tsukiho tái giá với ông Hiratsuka rồi sinh bé Mirei. So là đứa con với người chồng trước. Ông ta mất sau khi So chào đời.” Ừm. Câu chuyện tuy hơi lắt léo, nhưng cũng không tới mức khó hiểu. “Nói chung,” Mei đặt hai khuỷu tay lên mép bàn, vừa đỡ cằm vừa rướn người nhìn vào tấm hình trên tay tôi. “Đó là lần đầu tôi gặp Sakaki. Anh sẽ đáp lại nếu có ai hỏi chuyện, nhưng không bao giờ chủ động mở lời. Ấn tượng của tôi về anh ấy là, một con người ít nói và khó gần.” “Trông hơi giống thầy Chibiki nhỉ?” “Chắc thế.” “Không phải là giống thầy Chibiki sôi nổi hoạt bát thời trẻ đâu. Cứ xem ảnh cũ của thầy thì thấy thời đó với bây giờ cứ như hai người khác nhau vậy. Ý tớ là Sakaki trông hơi giống thầy Chibiki trầm lặng của hiện tại ấy, nhưng chỉnh tuổi về lứa ngoài hai mươi. Nếu đeo kính có khi còn giống hơn nữa.” “Có vẻ cũng đúng.” “Anh này không sống cùng gia đình Hiratsuka à?” “Ừm,” Mei trả lời rồi lấy lại tấm hình. “Anh ấy sống một mình ở biệt thự bên hồ.” Cô đặt tấm hình sang bên, do dự một hồi lại với lấy quyển ký họa, mở đến trang giữa rồi nói “Đây này!” và cho tôi xem. Bức tranh vẽ một ngôi nhà. Dù ký họa bằng bút chì, nhưng có thể nói, khả năng của người vẽ vượt trội so với học sinh cấp hai bình thường. Viền sau ngôi nhà là một vạt rừng hay rặng cây. Nhìn qua cũng thấy nhà cửa khá lớn và bề thế. Có lẽ đây là “biệt thự bên hồ” mà Mei đang nói đến. Biệt thự gồm hai tầng, xây dựng theo kiến trúc phương Tây. Tường ốp ván gỗ. Cửa sổ cơ bản là kiểu cao hẹp, đóng mở bằng cách đẩy lên đẩy xuống. Mái nhà không mang hình tam giác thông thường, mà ở lưng chừng lại gập xuống, tạo thành độ nghiêng dốc hơn so với phía trên[5]. Ở phần tường sát mặt đất là một dãy cửa sổ nhỏ. “Trang tiếp theo cũng là căn biệt thự ấy.” Nghe Mei nói, tôi lật sang xem. Bức này thay góc nhìn. Khác với các cửa sổ còn lại, cửa sổ tầng hai khá độc đáo, có hình ô van cắt bỏ nửa dưới, rồi lại bổ dọc thành hai phần nằm đối xứng nhau. Cứ như đôi mắt vậy! “Hơi giống ngôi nhà Amityville[6].” Tôi buột miệng. “Đó là gì?” Mei nghiêng đầu. “Cậu chưa xem Chuyện rùng rợn ở Amityville[7] à? Ngôi nhà xuất hiện trong phim ấy đấy.” Hơn nữa, còn là một ngôi nhà cực kỳ ma quái. “Tôi không biết.” Mei đáp ngay, vẫn nghiêng đầu. “Ừm, bức này vẽ vào hè năm ngoái à? Vì ở góc phải bức tranh có nguệch ngoạc mấy số “8/1997”. “Giờ này năm ngoái, tôi cũng đến biệt thự bên bờ biển. Trong lúc đi dạo, tôi phát hiện ra ngôi nhà và bỗng muốn vẽ thử.” Mei trả lời, nhẹ nhàng gấp sổ lại. “Tình cờ nó lại là nhà của Sakaki.” “Nghĩa là năm ngoái cậu cũng gặp anh Sakaki đó?” “Gặp mấy lần.” “Trong lúc vẽ tranh?” “Lúc ấy cũng có gặp, nhưng gặp lại lần đầu là ở bờ biển cơ.” “Biển? Ban nãy cậu nói là ‘biệt thự bên hồ’ mà?” “À, thế hả? Chỗ này là hồ, mà cũng không lớn tới mức đó, có vẻ giống cái ao hơn.” Mei khẽ nheo mắt phải, “Ở đấy có biển, từ bờ biển đi xa khỏi khu rừng một lúc sẽ gặp cái ao. Tên nó là Minazukiko[8]… À, vậy đúng là hồ rồi.” Dù nghe giải thích, nhưng tôi không mường tượng nổi địa hình khu vực Mei đang miêu tả, nên vẫn chẳng hiểu gì cả. “Bấy giờ Sakaki đang chụp ảnh ở bờ biển. Chụp ảnh là sở thích của anh ấy thì phải. Sakaki đi cùng So, còn tôi thì đi một mình. Đấy là lần gặp mặt tình cờ đầu tiên sau một năm từ giã. Cậu cháu họ cũng nhớ chúng tôi từng gặp nhau vào năm kia.” “Ừm, vậy là hai người đã nói chuyện?” “Chút đỉnh.” Là chuyện gì? Tôi định hỏi nhưng lại thôi, cứ hỏi dồn hết câu này đến câu khác thì sớm muộn gì cô cũng nói “Tôi ghét bị hỏi nhiều” và từ chối trả lời cho mà xem. Thế nhưng, Mei vẫn tiếp tục kể, “Tự dưng Sasaki bắt chuyện với tôi, ‘Ồ! Em đeo băng mắt đấy à…’” Em là Mei phải không? Năm ngoái, chúng ta gặp nhau tại biệt thự nhà Misaki đúng chứ? Sakaki Teruya tiến lại gần, tay vẫn cầm chiếc máy ảnh cơ. Anh kéo lê chân trái, điệu bộ hơi mất tự nhiên. Anh bị thương ư? Mei hỏi. À, không… Sakaki đáp, nhưng lại khẽ gật đầu. Tôi gặp tai nạn, từ rất lâu rồi. Vết thương từ dạo ấy không hồi phục, đến tận bây giờ vẫn phải lê chân trái để đi. Tai nạn xảy ra khi Sakaki còn học cấp hai. Chiếc xe buýt của lớp bị xe tải đâm… “Hả?” Nghe chuyện, một ký ức trỗi dậy, tim tôi run rẩy đến lạnh toát cả người. “Tai nạn xe buýt trường cấp hai?” Ban nãy Mei có nói, vào thời điểm trong hình, Sakaki Teruya 24 tuổi. Tức là năm nay anh ta 26 tuổi, thời anh ta còn học trung học cơ sở, là hơn mười năm về trước. “Lẽ nào…” Tôi lẩm bẩm, rồi hít một hơi thật sâu. “Cái người tên Sakaki đó, ngày xưa cũng ở Yomiyama? Anh ta từng học trường Bắc Yomi, lớp 9-3, lẽ nào lại như vậy?” “Tai nạn thảm khốc năm 87 nhỉ?” Mei gật đầu lặng lẽ. “Tôi cũng từng nghĩ như vậy. Khi bắt đầu thực hiện ‘đối sách’ cho năm nay, trong lúc nghe thầy Chibiki kể chi tiết những câu chuyện về tai ương ngày xưa, tôi chợt nhớ đến chuyện của Sakaki.” Mười một năm trước, mùa xuân năm 1987, tai ương ập đến với lớp 9-3 trong buổi du lịch ngoại khóa. Xe buýt riêng của lớp xuất phát từ Yomiyama hướng đến sân bay ngoại thành, tai nạn xảy ra giữa đường đi. Một chiếc xe tải từ làn đường bên kia đâm thẳng vào xe buýt do tài xế ngủ gật… Tính cả học sinh và giáo viên phụ trách, có tất cả bảy người thiệt mạng. Sự cố khiến Sakaki Teruya mang thương tật bên chân trái, lẽ nào lại là vụ việc ấy? “Vì vậy, mùa hè năm nay,” Mei lặng lẽ cất lời. “Tôi định sau khi đến biệt thự ở biển sẽ đi gặp anh Sakaki để xác nhận chuyện này. Giá biết thêm thông tin gì đó hữu ích thì tốt quá, nhỏ nhặt thôi cũng được.” Ầy, thật tình! Tôi nhìn chăm chăm vào khuôn mặt Mei. Cô ấy cứ im ỉm hành động là sao, chí ít cũng nên nói một tiếng cho tôi biết chứ. Dù sao thì, tôi buộc phải công nhận đây đúng là một biểu hiện rất Misaki Mei của Misaki Mei. Không bận tâm đến những suy tư của tôi, Mei tiếp tục, “Thế nhưng khi tôi đến gặp Sakaki thì anh ấy mất rồi, mất vào mùa xuân vừa qua, đâu tháng Năm.” Mei khẽ vén tóc mái, thở dài. “Cuối cùng tôi chỉ gặp được hồn ma Sakaki… Sao, Sakakibara? Cậu có muốn nghe tiếp không? Hay là chúng ta dừng ở đây, để tránh gợi lại những ký ức cũ buồn đau?” “À…” Tôi chau mày, ngón cái ấn vào thái dương bên phải. Cùng lúc, tôi cảm nhận được âm thanh trầm thấp nặng nề, yếu ớt vang lên đâu đó trong đầu. Ùng, ùnggg… “Tớ muốn nghe chứ, tất nhiên rồi.” Mei mím chặt môi, gật đầu, “Sakaki đã chết vào mùa xuân năm nay. Nhưng không thấy thi thể đâu cả. Anh ấy biến thành hồn ma để tìm kiếm xác mình.” Mời các bạn mượn đọc sách Another S/0 (Tiếng Việt) của tác giả Yukito Ayatsuji & Trang Phạm (dịch).
Quái Đàm - Chuyện Yêu Quái Và Dị Trùng Nhật Bản
Ở Nhật, kem đá, cá vàng, chuông gió, pháo hoa và lễ hội các xứ là những thứ có tính đặc trưng của mùa hè, đem mát lành và thơ mộng đến làm dịu không khí oi nồng. Nhưng ngoài những thứ nghe rất tao nhã ấy ra, Nhật Bản còn một cách làm mát truyền thống, đó là truyện ma quái. Truyện ma quái được lồng vào rất nhiều hình thức sinh hoạt hè, như kịch kabuki, tấu nói rakugo, trò chơi gọi ma bách vật ngữ. Và đơn giản nhất, là ngồi quây quần với nhau, mỗi người kể một câu chuyện thật rùng rợn, sao cho sống lưng lạnh toát, mồ hôi dầm dề, cứ tự làm mát như thế đến khuya, tiết trời dịu đi là có thể ngủ được. Ma quái ở Nhật không chỉ có linh hồn người chết, mà còn đồ vật-thực vật-hiện tượng tự nhiên thành tinh, lảng vảng ở nhân gian với tâm tư mục đích vô cùng đa dạng, bày ra những trò rất đỗi ly kì. Tất cả những truyện như thế được xếp vào một thể loại, gọi là QUÁI ĐÀM (chuyện về ma quái hoặc sự lạ). Nhờ những hoạt động mùa hè ấy, và nhờ cả những bản chép tay quý báu của các tác giả dân gian, kho tàng quái đàm Nhật Bản được lặng lẽ lưu truyền qua nhiều thế hệ. Nhưng cũng trong rất nhiều thế hệ, chúng chỉ đi loanh quanh ở các thành trấn thôn làng trên đảo quốc này. Phải bước sang thế kỉ 20, kho tàng ấy mới lần đầu phát sáng ra ngoài biên giới, rọi sang châu Âu châu Mỹ, nhờ công sức của một tác giả phương Tây là Lafcadio Hearn. Ông đã lắng nghe bao truyện xưa tích cũ trên khắp đất Nhật, chắt lọc những điển lạ lùng nổi tiếng nhất và tiến hành nhuận sắc, tái hiện trên giấy bằng những kiến giải và cảm xúc của mình, để tạo ra một tác phẩm rồi đây sẽ trở thành nguồn mạch cho thể loại quái đàm cận đại Nhật Bản. Tác phẩm đó là QUÁI ĐÀM ~ Chuyện yêu quái và dị trùng Nhật Bản, triệu hồi những yêu quái nổi tiếng như quỷ ăn thịt người, yêu quái cổ dài, vô diện, nàng tuyết… tập hợp những điển tích lạ như uyên ương, Hoichi cụt tai, giấc mơ hóa kiến, kèm một bản ballad dịu dàng hoài niệm về cổ tích phương Tây, cuối cùng là ba tùy bút về thế giới côn trùng, trong đó khéo léo đan cài nhiều cảm nhận về hội họa, âm nhạc, tôn giáo, tiến hóa sinh vật và triết học. Từ sau QUÁI ĐÀM của Hearn, ma mãnh chúng nó không chịu ở yên đồng sâu nước đọng, mà chuyển về làm ma đô thị, ma trường học… không chỉ trườn bò trên câu chữ, mà vươn lên phim ảnh, kịch nghệ, diễn xướng, bò ra cả màn hình, cuối cùng biến thành một thứ văn hóa kinh dị riêng. Tác phẩm này cũng đã được chuyển thể thành phim, thành nguồn tham chiếu không thể thiếu khi cần tìm hiểu về yêu ma xứ Phù Tang. QUÁI ĐÀM ~ Chuyện yêu quái và dị trùng Nhật Bản của Lafcadio Hearn  nằm trong tủ sách kinh điển của IPM, sẽ có dạng bìa cứng ở lần đầu phát hành và bìa mềm từ lần thứ hai trở đi. *** Có lẽ "Quái đàm" không phải món ngon dành cho kẻ vội vàng, vì nó đúng như đầu đề "Quái đàm" - đàm luận về quái, hay câu "Chuyên yêu quái và dị trùng Nhật Bản". Cuốn sách chia ra làm hai phần, 17 truyện đầu tiên về yêu quái, 3 chương cuối về dị trùng. Những câu chuyện ngắn, ghi chép gãy gọn, nếu đọc nhanh sẽ khó đọng lại gì. Thực lòng rất khó đánh giá "Quái đàm" có phải một cuốn sách hay hay không, nếu mê kinh dị, thì cuốn sách không quá hấp dẫn, những câu chuyện khá ngắn, nội dung đơn giản. Nhưng nếu muốn tìm hiểu về văn hóa, những câu chuyện kỳ bí của Nhật, thì đây có thể là một cuốn sách hay đáng đọc. "Quái đàm" có phần hơi giống Truyền kỳ mạn lục, đều là những ghi chép những truyện kỳ bí trong dân gian, so ra, nếu Quái đàm nhỉnh hơn Truyền kỳ mạn lục ở những câu chuyện có đầu có kết hơn, cũng có phần dễ hiểu hơn, cũng có những lời bình, trích dẫn của tác giả ở phần dị trùng. Không chỉ trong mắt người phương Tây mà thực ra người phương Đông cũng cảm thấy nền văn hóa của mình rất kỳ bí. Nhưng nhìn chung, dù có khác ở vài điểm, nhưng nếu đặt lên bàn cân thì những câu chuyện truyền miệng từ xa xưa đều có rất nhiều điểm giống nhau. Cuốn Quái đàm này cũng có ghi chép lại một số truyện, có liên quan tới văn hóa Trung Hoa. Bản in lần đầu của "Quái đàm" có bìa cứng và áo, bìa cứng bên trong khá đẹp, có điều cảm giác giấy hơi mỏng, và cuốn sách này cũng chỉ dày gần 200 trang, đọc chút là hết. Điểm: 7.5/10 *** Review sách Quái Đàm Lafcadio Hearn để hiểu thêm về dòng chảy văn hóa Nhật Bản. Quái Đàm là một tác phẩm văn học đặc biệt, tạo nên từ sự cống hiến và sự tổng hợp của tác giả Lafcadio Hearn, một người mê mẩn văn hóa truyền thống Nhật Bản đến mức kết hôn với một phụ nữ Nhật, nhập quốc tịch vào đất nước này và có tên Nhật riêng là Koizumi Yakumo. Nội dung của truyện Quái Đàm tập trung vào những câu chuyện cổ truyền về yêu ma quỷ quái đã tồn tại từ thời cổ đại trong dân gian Nhật Bản. Tập truyện được chia thành hai phần: phần Yêu quái và phần Dị trùng. Với tác phẩm Quái Đàm, Lafcadio Hearn đã đưa độc giả vào một thế giới đa sắc, đa màu sắc của những câu chuyện kỳ ảo đậm đà truyền thống Nhật Bản. Truyện đưa chúng ta vào những hình ảnh về yêu quái, hiện tượng và con người mà chúng ta thường nghe được nhưng không phải ai cũng hiểu rõ về sự tồn tại và hoạt động của những yêu quái đó. Chẳng hạn như những câu chuyện về loài hoa anh đào, biểu tượng của Nhật Bản, và lòng kiên cường của người Nhật trong hình tượng việc hi sinh của một bà vú để cứu người con gái trẻ, hoặc hình bóng của một người đàn ông sẵn lòng đánh đổi cuộc sống của mình để bảo vệ sinh mệnh của loài hoa. Đó là những câu chuyện đáng sợ về con lửng có thể biến hình thành người nhưng thiếu hoàn toàn ngũ quan, hoặc về những yêu quái cổ dài dụ dỗ con người và ăn thịt. Còn có câu chuyện về Yuki, một nàng tuyết mang trong lòng tình yêu và hận thù, hay về Aoyagi, một cô gái liễu đầy tình yêu đối với một samurai tài ba… Quái Đàm – Truyện yêu ma quỷ quái lưu truyền trong dân gian nước Nhật Giới thiệu tác giả Quái Đàm – Lafcadio Hearn Lafcadio Hearn (1850-1904) là nhà báo và nhà văn gốc Hy Lạp, đã dành nhiều năm nghiên cứu về những câu chuyện yêu ma vô cùng hấp dẫn của Nhật Bản và cho ra đời tác phẩm Quái đàm. Lafcadio Hearn đã thay đổi tên thành Koizumi Yakumo sau khi cưới vợ là một người phụ nữ Nhật Bản và nhập quốc tịch vào Nhật Bản. Hearn có một cuộc đời đa sắc, đa văn hóa. Ông lớn lên ở Ireland và sau đó di cư sang Mỹ. Sau khi làm việc như một nhà báo tại Mỹ, ông đã có cơ hội du học và làm việc ở Nhật Bản từ năm 1890. Tại Nhật, Hearn đã phát triển sự đam mê với văn hóa truyền thống và thần thoại Nhật Bản. Ông đã tìm hiểu và sưu tầm rất nhiều câu chuyện cổ truyền, truyền thuyết và truyện dân gian Nhật Bản. Công lao lớn nhất của tác giả Quái Đàm Lafcadio Hearn là viết và dịch nhiều tác phẩm văn học về Nhật Bản, giúp đưa văn hóa Nhật Bản đến với công chúng quốc tế. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là “Kwaidan: Stories and Studies of Strange Things” (Quái Đàm – Chuyện Yêu Quái Và Dị Trùng Nhật Bản), xuất bản năm 1903. Lafcadio Hearn đã đóng góp quan trọng vào việc giới thiệu và khám phá văn hóa Nhật Bản đến với thế giới phương Tây. Ông đã tạo nên sự kết hợp độc đáo giữa tư duy phương Tây và truyền thống phương Đông trong những tác phẩm của mình, và trở thành một trong những tác giả tiên phong trong việc khám phá và phân tích văn hóa Nhật Bản. Sách Quái Đàm và chuyện Yêu Quái Dị Trùng Nhật Bản Là tác phẩm kết tinh từ công sức sưu tầm, tập hợp, nhuận sắc của tác giả Lafcadio Hearn, một người yêu văn hóa cổ truyền Nhật Bản vô ngần. Bao chứa trong Quái Đàm chính là mạch nguồn những câu chuyện cổ liêu trai về yêu ma quỷ quái lưu truyền trong dân gian nước Nhật từ cổ chí kim. Tập truyện được chia ra làm hai phần: phần Yêu quái và phần Dị trùng. Có thể nói sách hay Quái Đàm là “Liêu Trai Chí Dị” phiên bản Nhật. Tuy nhiên, Liêu Trai Chí Dị của tác giả Bồ Tùng Linh xoay quanh nhiều về những câu chuyện tình nam nữ, người âm kẻ dương cách trở với những pha 18+ dày đặt đến kì cục, thì Quái Đàm chỉ đơn thuần là sưu tầm lại những câu chuyện về yêu quái và dị trùng ở khắp nơi trên đất nước Nhật Bản mà tác giả đã gom nhặt từ những người địa phương. Mặc dù cuốn này khá ít truyện nhưng phần nào khiến đọc giả hiểu thêm 1 chút về truyện yêu quái và dị trùng trong văn hóa Nhật Bản. Ở Nhật, truyện ma quái được lồng vào rất nhiều hình thức sinh hoạt hè, như kịch kabuki, tấu nói rakugo, trò chơi gọi ma bách vật ngữ. Và đơn giản nhất, là ngồi quây quần với nhau, mỗi người kể một câu chuyện thật rùng rợn, sao cho sống lưng lạnh toát, mồ hôi dầm dề, cứ tự làm mát như thế đến khuya, tiết trời dịu đi. Ma quái ở Nhật không chỉ có linh hồn người chết, mà còn đồ vật-thực vật-hiện tượng tự nhiên thành tinh, lảng vảng ở nhân gian với tâm tư mục đích vô cùng đa dạng, bày ra những trò rất đỗi ly kì. Nhờ những hoạt động mùa hè ấy, và nhờ cả những bản chép tay quý báu của các tác giả dân gian, kho tàng quái đàm Nhật Bản được lặng lẽ lưu truyền qua nhiều thế hệ. Nhưng cũng trong rất nhiều thế hệ, chúng chỉ đi loanh quanh ở các thành trấn thôn làng trên đảo quốc này. Phần Quái Đàm – Yêu Quái gần với thể ghi chép một cách chân thực các câu chuyện được truyền miệng còn phần Quái Đàm – Dị Trùng ghi chép các tích truyện xưa chỉ là yếu tố phụ trợ cho những bình luận, triết lý, chiêm nghiệm của riêng tác giả. Vì thế, chất Nhật cổ xưa, liêu trai huyễn ảo vừa thể hiện ở không gian cổ tích, huyền thoại vừa thể hiện ở cách nhìn nhận của con người vào sâu lớp trầm tích văn hóa dân gian. Đặc biệt, bản thân Lafcadio Hearn còn có sự sáng tạo huyền thoại cho riêng bản thân trong chính tác phẩm ông sưu tầm, biện giải ở truyện Hoa hướng dương. Đọc review sách Quái Đàm sẽ biết đây không chỉ là sự ghi chép một cách giản đơn tất cả những gì Lafcadio Hearn sưu tầm được trong dân gian. Ở tác phẩm này có sự gia công, gọt giũa, nhuận sắc viên ngọc thô từ những câu chuyện liêu trai truyền miệng. Để từ đấy, tạo lên một tập truyện vừa mang âm hưởng cổ xưa, cũng vừa mang nét hiện đại đương thời “tác phẩm dung hòa được hình thức hiện đại với chất liệu cổ điển, chan chứa mỹ cảm Đông – Tây, vừa có giá trị thưởng thức vừa có giá trị kiến thức”. Cũng bởi vậy, Quái đàm không chỉ là tập hợp những câu chuyện dân gian về một thời đã qua, do những con người vô danh kể lại mà còn là câu chuyện hôm nay, trong trục thời gian vẫn đang tiếp diễn. Truyện Quái đàm và dòng chảy văn hóa Nhật Bản Quái Đàm là tập hợp những truyện kỳ ảo về yêu ma và dị trùng. Nhưng sâu trong tác phẩm ấy là dòng chảy lịch sử cũng như đời sống, tâm thức con người Nhật Bản qua các thời kỳ. Và chính yếu tố lịch sử cùng yếu tố con người càng làm đậm sâu thêm tính đặc trưng riêng biệt cho mỗi câu chuyện xuất hiện trên trang sách. Đó là truyện về thời loạn Jisho – Juei với cuộc chiến giữa hai gia tộc Genji và Heike cùng những hệ lụy cuộc chiến đó gây ra với đời sống con người Nhật Bản dẫu chiến trận có kết thúc. Đó là thời loạn Eikyo đã xuất hiện một vị samurai kiệt xuất Isogai làm việc cho gia tộc Kikuji. Sau khi gia tộc sụp đổ, Isogai trở thành một vị sư mang dòng máu ngang tàng, kiên cường của người samurai năm nào. Hay đó là thời Bummei (1469 – 1486) đã diễn ra mối tình cảm động giữa người samurai trẻ tuổi Tomotada với nàng liễu Aoyagi khiến lãnh chúa cũng phải cảm động mà tác thành cho hai người… Từ những câu chuyện kỳ ảo về yêu ma và dị trùng đó, người xưa đã gián tiếp phê phán những cuộc chiến tranh phong kiến đẫm máu. Mặc dù chiến tranh đã xa xôi, nhưng hồn ma của quá khứ vẫn tiếp tục tồn tại và ảnh hưởng đến cuộc sống người dân, bất kể thời đại hay mức độ chúng ta “không nghe, không thấy”. Các câu chuyện cũng vẽ lên hình ảnh của con người Nhật Bản, sống đắm mình trong lịch sử với ý chí, nghị lực và tình thương, theo nguyên tắc “đạo” đã được ghi dấu mãi mãi. Ví dụ như câu chuyện về chàng mù Hoichi, tài năng và bất hạnh, nhưng dù bị yêu quái cắt mất đôi tai, anh ta vẫn quyết không than khóc. Có cả những samurai và những người theo đạo võ sĩ sẵn sàng hi sinh tính mạng vì người khác. Có những đôi vợ chồng trung thành, vượt qua ranh giới và định kiến để tìm kiếm hạnh phúc hoặc giữ trọn vẹn tình yêu của họ. Đồng thời, thông qua Quái đàm, độc giả cũng có thể hiểu sâu hơn về phong tục, tập quán và đời sống của người Nhật trong lịch sử. Nơi đó có truyền thống kể chuyện kèm theo nhạc đàn biwa, lễ nghi đối với người đã khuất hoặc nguyện vọng của người sống tới kiếp sau. Tất cả này tạo nên một Quái đàm, đúng như nhận định: “Không chỉ chứa đựng tinh túy của văn học dân gian, Quái đàm còn phác họa diện mạo lịch sử Nhật Bản thông qua một số sự kiện và nhân vật đáng chú ý.” Hay nói cách khác, Quái đàm như một mảnh ghép chứa đựng những dấu vết quá khứ của đất nước Nhật. Thật vậy, qua tác phẩm Quái đàm, Lafcadio Hearn đã đưa độc giả từ một quốc gia khác, sống trong một nền văn hóa khác, đến một thế giới phong phú, đa dạng của truyền thuyết kỳ ảo đậm chất truyền thống của Nhật Bản. Những hình ảnh yêu quái, hiện tượng, con người mà chúng ta thường nghe kể, nhưng không phải ai cũng hiểu rõ về tính cách và hoạt động của những yêu quái đó. Đó là các câu chuyện về hoa anh đào, biểu tượng của Nhật Bản, về lòng kiên cường của con người Nhật trong hình tượng bà vú hy sinh để cứu người con gái trẻ hoặc người đàn ông sẵn sàng đánh đổi mạng sống để bảo vệ hoa anh đào. Đó là những câu chuyện đáng sợ về con lửng biến hình thành người nhưng không có mắt, mũi, miệng hoặc về những yêu quái dài có khả năng lừa dối và ăn thịt con người. Đó là câu chuyện về Yuki, nàng tuyết mang lòng yêu hận, hay chuyện Aoyagi, nàng liễu đầy tình yêu với samurai tài ba. Phải đến thế kỷ 20, những kho tàng đó mới được khám phá bên ngoài biên giới, lan rộng đến châu Âu và châu Mỹ, nhờ Lafcadio Hearn, một tác giả phương Tây. Ông lắng nghe những truyền thuyết cổ xưa trên khắp Nhật Bản, chọn lọc những câu chuyện nổi tiếng nhất và tái hiện chúng trên trang giấy bằng những giải thích và cảm xúc của mình, tạo ra một tác phẩm sẽ trở thành nguồn cảm hứng cho thể loại quái đàm hiện đại của Nhật Bản. Kết luận review truyện Quái Đàm Như đã đề cập, Quái Đàm không chỉ đơn thuần là một sưu tập ghi chép của Lafcadio Hearn về những câu chuyện dân gian. Trong tác phẩm này, có sự khéo léo, chỉnh sửa và tinh tế để tạo nên một tập truyện kết hợp giữa sự cổ xưa và cái mới, kết hợp hài hòa hình thức hiện đại với tinh thần cổ điển. Tác phẩm này mang trong mình sự kết hợp của cảm nhận Đông – Tây, mang đến giá trị vừa về mặt thẩm mỹ vừa về mặt kiến thức. Quái Đàm – Lafcadio Hearn không chỉ đơn thuần là một tập hợp các câu chuyện dân gian về quá khứ, kể lại bởi những người vô danh, mà còn là một câu chuyện ngày nay, trong bối cảnh thời gian vẫn đang diễn ra. Mọi sự tinh tế và tạo hình trong tác phẩm này đã biến Quái Đàm trở thành một tác phẩm vừa dành cho hiện tại và cả tương lai. Bởi vì con người, bất kể sống ở thời đại nào, đều cần một nguyên tắc để không bị lạc lối, và cần trân trọng tình yêu và ý nghĩa trong cuộc sống, bởi cuối cùng, phú quý và vinh hoa chỉ là những giấc mộng thoáng qua. Và xã hội, cộng đồng loài người luôn tiến bộ để đạt đến sự hoàn thiện, cả về tổ chức và đạo đức cá nhân. Quái Đàm kể về những yêu ma nhưng nó cũng kể về con người như thế. Mời các bạn mượn đọc sách Quái Đàm - Chuyện Yêu Quái Và Dị Trùng Nhật Bản của tác giả Lafcadio Hearn & Khánh Linh (dịch).
Chỉ Đen
Trút nỗi đau quá khứ lên những trang sách, nữ nhà văn Senna Richards nhanh chóng nổi tiếng khi cuốn tiểu thuyết của cô được chuyển thể lên màn ảnh rộng. Những tưởng cô sẽ tiếp tục tận hưởng thành công hiện tại của mình trong cô độc. Nhưng khi cô tỉnh dậy vào ngày sinh nhật thứ ba mươi ba, mọi thứ đã hoàn toàn thay đổi. Bị giam cầm trong một căn chòi xa lạ giữa núi tuyết hoang vu, phải chống chọi với con đói và cái rét, chìm đắm trong các cơn trầm uất và những câu hỏi không lời giải thích… Senna buộc phải tìm ra danh tính kẻ bắt cóc và lí do của hắn. Kẻ đứng đằng sau chuyện này không lộ diện, nhưng hắn biết về Chỉ Đen – bí mật đen tối nhất của cô và đã bày sẵn một trò chơi nguy hiểm. Một lần nữa, Senna phải đối diện với quá khứ và tìm mật mã mở cánh cửa giam giữ mình. Chỉ sự thật mới có thể giải phóng cô khỏi hoàn cảnh này. Và cô nhận ra, mình không hề đơn độc trong căn chòi ấy… *** Tôi đến với CHỈ ĐEN bởi 2 lý do: Thứ nhất: tôi thích truyện trinh thám, đặc biệt đam mê những truyện khắc hoạ sâu tâm lý nhân vật. Thứ hai: tôi bị ấn tượng với tựa đề cuốn sách, một tựa đề kích thích tính tò mò, làm sao cưỡng nổi! Và tôi ngấu nghiến từng trang, từng trang một, chỉ để muốn biết Chỉ Đen là gì. Trong hành trình miệt mài ấy, tôi đã bắt gặp Senna, nhân vật trung tâm của câu chuyện, một nhà văn với cuộc sống khép kín, một tính cách gai góc, một cô gái mang trong tim những vết thương của quá khứ vẫn còn mưng mủ, một cô gái với hiện tại đầy bi kịch. Sẽ ra sao khi bất ngờ bạn bị một tên biến thái cưỡng hiếp ngay ngày lễ Giáng Sinh? Với Senna chỉ có thể gói gọn trong 4 từ: “SỐNG MÀ NHƯ CHẾT”. Và chính vào cái ngày bi kịch ấy, cô đã gặp được Isaac, một bác sĩ phẫu thuật, người mà sau này vừa là ân nhân, lại vừa là người làm xáo trộn cuộc đời cô. Dù hết sức ân cần và tinh tế, Isaac vẫn chưa thể giúp Senna vượt qua được nỗi đau ngày Giáng Sinh. Ấy vậy mà nỗi đau khác ập tới, như một trò chơi khăm tai ác của số phận, cô phát hiện mình bị ung thư vú. Cô hoàn toàn gục ngã! Trống rỗng! Chơi vơi! Cứ ngỡ với tấm lòng nhân hậu, sự kiên trì của một bác sĩ, với tình yêu không toan tính của người đàn ông cao thượng, Isaac sẽ giúp Senna vượt qua tất cả, chuyện tình của họ sẽ có một cái kết đẹp. Nhưng không, đến một ngày cô lặng lẽ ra đi. Có lẽ cô sợ. Có lẽ cô thấy mình không xứng đáng. Có lẽ cô ghét lòng thương hại. Có lẽ là tất cả! Và rồi, ba năm sau, ngay ngày sinh nhật thứ 33 của cô, họ gặp lại nhau. Họ gặp lại nhau trong một hoàn cảnh không ai mong muốn. Cả hai bị nhốt trong căn chòi nhỏ, với xung quanh là tuyết trắng, vực thẳm, và hàng rào điện. Ai là kẻ chủ mưu? Người nhốt họ có mục đích gì? Isaac và Senna phải trải qua 9 tháng vật lộn để sinh tồn và tìm ra lời giải! Truyện không nhiều nhân vật, không có tình tiết ly kỳ, không có nhiều nút thắt ngộp thở. Và nhân vật bí ẩn xuất hiện không làm thoả mãn những ai mê trinh thám. Tuy nhiên tác giả đã thật xuất sắc khi để Isaac “ phẫu thuật” trái tim cho Senna. Từng lớp tính cách, từng lớp cảm xúc của nhân vật được bóc tách đầy đau đớn, mà thật đẹp biết bao. Đọc CHỈ ĐEN để thấy rằng, trong mỗi chúng ta đều có một góc tối trong tâm hồn. Đọc CHỈ ĐEN để thấy cái gọi là “tình yêu không toan tính” là có thật, chỉ cần ta dám đối diện trái tim mình! Minh Hoàng *** Ngày thứ nhất Tôi viết một cuốn tiểu thuyết. Nó đã được phát hành. Cuốn sách xuất hiện trên Danh sách bán chạy của New York Times. Rồi một ngày, tôi ngồi trong rạp chiếu phim, ôm túi bỏng ngô lớn thơm ngậy mùi bơ, chứng kiến câu chuyện của mình trên màn ảnh rộng. Cuốn tiểu thuyết của tôi. Do chính tôi viết ra. Tôi làm mọi thứ một mình, chỉ là tự bản thân thích vậy. Nếu mọi người muốn trả tiền để được nhìn vào tâm trí hỗn loạn của tôi, xin cứ tự nhiên. Cuộc đời quá ngắn ngủi để chăm chăm giấu giếm sai lầm của bản thân. Thay vào đó, tôi chỉ tự giấu mình. Đó là ngày sinh nhật thứ ba mươi ba của tôi. Tôi tỉnh dậy, khắp người đổ mồ hôi lạnh. Nóng. Không, tôi lạnh. Lạnh đến mức người như đông cứng lại. Lớp chăn quấn quanh chân trở nên xa lạ - nó quá mềm. Tôi kéo chăn, cố phủ kín cả thân người, cảm thấy những ngón tay bám vào lớp chăn mềm bỗng trở nên núc ních và thô sạn - hình như chúng bị sưng. Trong khi đầu óc còn nặng trịch, hai mắt díp vào nhau, người tôi nóng trở lại. Cũng có thể tôi lạnh. Từ bỏ việc co kéo tấm chăn, tôi mặc cho bản thân mình trôi dạt... trôi ngược lại... ngược lại... Tôi tỉnh dậy, cảm nhận thứ ánh sáng lờ mờ qua hàng mi. Ngoài trời khá tối - ngay cả so với một ngày trời mưa ở Seattle. Phòng ngủ của tôi có cửa sổ chạm sàn, tôi lăn về hướng đấy và tự ép mình mở mắt ra, nhưng chỉ thấy trước mặt là tường. Một bức tường gỗ. Nhà tôi làm gì có thứ như vậy. Tôi đảo mắt dọc theo chiều cao bức tường, đến tận trần nhà để rồi bật dậy, rồi tỉnh hẳn. Tôi không ở trong phòng ngủ của mình. Tôi thảng thốt nhìn quanh căn phòng. Phòng này của ai? Tôi nghĩ về đêm hôm trước. Liệu có phải... Không đời nào. Từ lâu rồi tôi chẳng còn để ý đến bọn đàn ông... không thể có chuyện tôi theo ai đó về nhà. Hôm qua tôi dùng bữa tối với một biên tập viên. Chúng tôi có uống vài ly rượu. Rượu Chianti chẳng khiến bạn bất tỉnh được. Tôi bắt đầu thở gấp trong khi cố nhớ lại chuyện gì xảy ra sau khi mình rời nhà hàng. Xăng, tôi có dừng lại đổ xăng ở cây xăng Red Sea trên đường Magnolia and Queen Anne. Rồi sau đó? Tôi không nhớ nổi. Tôi nhìn xuống chiếc chăn lông vũ dưới chân, giữa những ngón tay trắng muốt. Chăn lông vũ... Màu đỏ... Lạ lẫm! Tôi đưa chân xuống sàn và rồi cả căn phòng lắc lư, chao đảo, kéo theo sau là cảm giác buồn nôn - kiểu nôn nao khó chịu bạn thường thấy vào buổi sáng, sau những buổi chè chén say bí tỉ. Tôi thèm hít hà chút không khí, cố thở thật sâu để xua đi cảm giác buồn nôn trong lồng ngực. Chắc không phải do rượu Chianti, tôi tự nhủ. “Mình đang mơ,” tôi nói lớn. Nhưng chính tôi cũng biết không phải vậy. Tôi đứng dậy, bị hoa mắt đến mười giây trước khi bước đi nổi. Rồi tôi cúi xuống và nôn thốc nôn tháo... ra sàn gỗ. Dạ dày tôi trống rỗng, nhưng dù sao tôi cũng nôn khan ít nhiều. Tôi đưa tay lên để lau miệng và cảm thấy cánh tay quá nặng nề. Phải rồi, không phải do rượu, mà tôi đã bị bỏ thuốc mê. Tôi cúi gập người vài giây rồi mới đứng thẳng dậy được. Cảm giác như thể bản thân đang ngồi trên vòng quay ở hội chợ. Tôi lảo đảo đi về phía trước, nhìn quanh quất. Một căn phòng hình tròn. Lạnh cóng. Có lò sưởi - nhưng không đốt lửa - và một chiếc giường có bốn cột trụ cao. Không có cửa ra vào. Cửa đâu rồi? Bất chợt cơn hoảng loạn dâng lên, tôi vụng về chạy lòng vòng rồi bám vào giường để trụ lại, trong khi hai chân như nhũn ra. Cửa đâu rồi? Tôi thấy hơi thở của mình phả vào không khí. Luồng hơi tan ra, rồi biến mất. Phải mất một lúc lâu mắt tôi mới có thể tập trung trở lại. Tôi chẳng rõ mình đã đứng thần ra đấy bao nhiêu lâu, hai bàn chân tôi bắt đầu đau nhức. Tôi nhìn xuống mũi chân nhưng chẳng cảm nhận được gì. Tôi phải chuyển động. Làm gì đó. Rời khỏi đây. Trên bức tường trước mặt có một ô cửa sổ. Gạt tấm rèm mỏng sang bên, thứ đầu tiên tôi nhận thấy là mình đang ở trên tầng hai. Thứ hai là - Chúa ơi! Một cơn buốt lạnh chạy từ não bộ xuống dọc sống lưng - một lời cảnh báo. Mày tiêu đời rồi, Senna. Chấm hết. Chết rồi. Có kẻ đã bắt cóc mày. Khi miệng tôi bắt đầu phản ứng trở lại, tôi nghe thấy hơi thở hổn hển của mình rõ mồn một giữa căn phòng tĩnh lặng. Tôi vẫn luôn nghĩ thở dốc chỉ là một cách nói phóng đại, cho đến khi nghe thấy tiếng thở của chính mình. Khoảnh khắc này - cái khoảnh khắc phập phồng, nín lặng - khi tất cả trong mắt tôi chỉ là màu trắng của tuyết. Rất nhiều tuyết. Dường như tất cả tuyết trên thế giới đều đang chất đống ở dưới nơi mà tôi đang đứng. Tôi nghe thấy tiếng thân thể mình va vào mặt gỗ, rồi tất cả chìm vào bóng tối. Khi tỉnh lại, tôi đang nằm ở trên sàn, giữa bãi nôn của chính mình. Tôi cất tiếng rên rỉ và một cơn đau sắc bén sượt qua cổ tay khi tôi đang cố vực bản thân đứng dậy. Tôi bật khóc và đưa tay chặn ngang miệng. Lỡ có ai đó ở đây thì tôi không muốn họ nghe thấy tiếng mình. Được đấy, Senna, tôi nghĩ. Mày nên nghĩ đến chuyện này trước khi bắt đầu rên rỉ hay kêu gào. Tôi dùng tay còn lại để nắm lấy cổ tay bị thương và dựa vào tường để đỡ lấy thân mình. Lúc này tôi mới nhận ra thứ mình đang mặc. Đây không phải quần áo của tôi. Một bộ đồ ngủ bằng vải lanh màu trắng đắt tiền. Mỏng dính, thảo nào người tôi lạnh cóng. Ôi Chúa ơi. Tôi nhắm mắt lại. Ai đã thay đồ cho tôi? Ai đã mang tôi đến đây? Hai bàn tay của tôi tê cứng lại khi tự lần khắp người để kiểm tra thân mình. Tôi chạm vào ngực, kéo quần xuống kiểm tra. Không bị chảy máu, không có vết thương, ngoại trừ một chiếc quần lót trắng mà hẳn là ai đó đã mặc vào cho tôi. Có kẻ nào đó đã động đến người tôi. Nhắm mắt lại, tôi bắt đầu rùng mình không thể kiểm soát. Không, làm ơn, đừng. “Ôi Chúa ơi.” Tôi nghe thấy tiếng mình. Tôi phải hít thở thật sâu, thật từ từ. Mày đang chết cóng đấy, Senna. Và mày đang bị sốc. Tập trung lại nào. Nghĩ đi. Bất cứ kẻ nào đã mang tôi đến đây chắc hẳn có kế hoạch gì đó xấu xa hơn là bỏ mặc cho tôi chết cóng. Tôi nhìn quanh phòng. Trong lò sưởi có củi. Nếu gã tâm thần nào đó cho tôi củi, chắc hẳn cũng để lại thứ gì để nhóm lửa. Chiếc giường nơi tôi tỉnh dậy nằm ở giữa phòng, được chạm khắc bằng tay, có bốn cột trụ cao. Vắt qua những cây cột là lớp vải voan mỏng kiều diễm, nó khiến tôi phát ốm. Tôi tiếp tục khám phá những phần khác của căn phòng: một chiếc tủ nhỏ bằng gỗ, tủ áo, lò sưởi và một tấm thảm lông thú dày cộp. Mở toang chiếc tủ, tôi lướt qua đám quần áo... có rất nhiều trang phục. Chúng dành cho tôi? Bàn tay tôi mân mê một cái mác áo. Tôi rợn người khi nhận ra tất cả những thứ ở đây đều trùng với kích cỡ của mình. Không, tôi tự nhủ. Không, chúng không thể là của mình được. Tất cả chuyện này là một sự nhầm lẫn. Đám quần áo này không thể dành cho mình được, ngay cả màu sắc cũng không đúng. Đỏ... xanh... vàng... Dẫu vậy, trong đầu tôi hiểu rõ, không có gì nhầm lẫn ở đây cả. Đầu tôi đã kịp quen với những cơn rùng mình và cơ thể tôi cũng vậy. Có việc cần làm đây, Senna. Tôi tìm thấy một chiếc hộp bạc kiểu cách ở kệ trên cùng của chiếc tủ áo. Tôi lấy nó xuống và lắc lắc. Khá nặng. Trông thật kì lạ. Bên trong đó là một hộp bật lửa, một chiếc chìa khóa và một con dao bạc nhỏ. Tôi tự hỏi những thứ trong hộp để làm gì. Tôi xem xét kĩ và thử chạm vào chúng. Tôi cần nhanh chóng rời khỏi đây. Tôi dùng con dao cắt một dải vạt áo, rồi xoắn lại, dùng bên tay lành lặn và răng để thắt nút. Tôi dè dặt đưa bên cổ tay bị thương vào chiếc nẹp tự chế. Bỏ con dao vào túi, tôi sờ đến những chiếc bật lửa, quờ quạng phía trên chiếc hộp. Có tám chiếc Zippo màu hồng. Tôi bật lửa. Lửa không lên. Tôi nhất định phải nhóm được lửa, không sớm thì muộn, vì tôi đang lạnh cóng. Tay tôi run run. Đây hẳn là một sự trùng hợp. Tôi cười phá lên. Mấy thứ liên quan đến bắt cóc cũng có thể trùng hợp được sao? Tôi sẽ nghĩ về điều này sau, bây giờ cần sưởi ấm trước đã. Các ngón tay của tôi đã tê liệt. Tôi phải thử đến sáu lần mới làm cho cái bánh xe đánh lửa quay được, hằn một rãnh đỏ trên ngón tay cái. Gỗ ẩm, không chịu bắt lửa. Hắn đặt củi ở đây bao lâu rồi? Tôi muốn tìm gì đó để mồi lửa, nhưng chẳng nghĩ ra thứ gì. Tôi nghĩ đến khả năng sống sót của bản thân và bắt đầu hoảng sợ. Có thể dùng thứ gì để mồi lửa đây? Tôi rà soát khắp phòng cho đến khi nhìn thấy một chiếc hộp trắng nhờ ở góc tủ áo với dấu thập đỏ phía trên. Một hộp dụng cụ sơ cứu. Tôi chạy tới và mở nắp, bên trong là băng gạc, thuốc giảm đau, rồi kim tiêm. Chúa ơi! Cuối cùng tôi đã tìm thấy mấy gói bông thấm cồn dùng một lần, bèn lấy và mang về phía lò sưởi. Mở một túi ra, tôi đốt một góc nắm bông. Nó bén lửa. Tôi dúi nắm bông đang cháy vào thanh củi, tiếp tục xé vỏ túi bông khác, lặp lại quy trình. Trong lúc thổi nhè nhẹ vào ngọn lửa, tôi cầu nguyện bất cứ vị thần nào làm chủ thứ năng lượng này. Củi bắt lửa. Tôi kéo cái chăn dày khỏi giường và cuộn mình trong đó, co ro ngồi trước đốm lửa le lói. Vẫn chưa đủ. Tôi rét đến nỗi chỉ muốn gieo mình vào trong ngọn lửa, để nó thiêu trọn hơi lạnh đang vồ vập từng góc da thịt. Tôi cứ ngồi thu mình như vậy cho đến lúc ngừng run rẩy. Sau đó, tôi đứng dậy. Mời các bạn mượn đọc sách Chỉ Đen của tác giả Tarryn Fisher & Thùy Dương (dịch).