Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hang Động

Lấy cảm hứng từ huyền thoại hang động trong đối thoại triết học của triết gia thời cổ đại Platon, José Saramago đã viết cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Hang động, để phê phán xã hội tiêu thụ nói riêng và chủ nghĩa tự do mới của chủ nghĩa tư bản hiện đại, thông qua hình ảnh hủng khiếp của Trung tâm thương mại khổng lồ đang từng ngày từng giờ bành trướng về đất đai, về quyền uy, không chỉ về vật chất mà cả tinh thần, “một thành phố trong một thành phố, nhưng lại to hơn chính cái thành phố kia”. Cuốn tiểu thuyết phản ánh bước chuyển biến từ xã hội nông nghiệp - thủ công nghiệp sang xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá với tốc độ nhanh chóng trên đất nước Bồ Đào Nha, qua đó chỉ rõ mỗi con người trong quá trình này đang bị đặt vào thế tiến thoái lưỡng nan: khi mà lối sống thực dụng, thói quen tiêu thụ, triết lý thị trường của xã hội tư bản ngày càng phát triển, sinh ra những mối quan hệ mới, những thế giới quan mới, buộc người ta phải quen với một trạng thái nô lệ kiểu mới, “ai không điều chỉnh được sẽ không dùng được”, và cũng như trong tác phẩm của Platon, một số người thoát ra khỏi hang động này, kịp thời nhận ra có thể có một cách sống khác. Câu chuyện xoay quanh số phận của một gia đình ba đời làm nghề gốm ở một vùng quê nghèo và đã bị Trung tâm đẩy vào bước đường cùng. Là nhân viên của Trung tâm, Marcal thì làm việc quần quật, đến nỗi vợ của anh, Maarta “chỉ được tận hưởng sự có mặt của chồng ở nhà và ở trên giường vẻn vẹn có sáu đêm và ba ngày mỗi tháng”. Trước bước phát triển như vũ bão của nền kỹ thuật, công nghiệp, cha con ông Cipriano Algor là những người thợ gốm cuối cùng cũng đành bỏ nghề, một nghề xưa nay vẫn có thể sản xuất ra của cải nay chỉ còn là kỷ niệm, nhà xưởng biến thành nghĩa trang, sản phẩm thành di sản khảo cổ cho hàng ngàn năm sau. Họ chuyển vào sống ở Trung tâm, vốn là ước mơ của bao người, trong gần ba tuần, mà chẳng khác gì bị tù, để rồi người cha phải thốt lên: “tại sao mình lại có thể để bị giam kín trong suốt ba tuần mà không nhìn thấy mặt trời và những ngôi sao…”. Cuộc sống tự do đã thôi thúc họ từ bỏ tất cả, đi tìm một cuộc sống mới không chỉ cho họ mà cho cả con cái của họ nữa. Câu chuyện có ý nghĩa hiện thực sâu sắc và cũng hết sức cảm động về tình cảm vợ chồng, cha con, về tình yêu giữa hai người goá bụa nảy nở trong hoàn cảnh khó khăn cùng cực. Một cốt truyện giản dị, sâu sắc được kể liền mạch như trong một cuộc độc thoại nội tâm dài. Phong cách viết tiểu thuyết của José Saramago hết sức độc đào. Ông thường viết những câu văn rất dài, dùng dấu chấm, dấu phẩy mới nhìn tưởng là sai ngữ pháp, nhưng xem kỹ lại thấy hợp lý, mọi đối thoại đều liền mạch nối dài như mãi không dứt. Xen vào mạch truyện, ông thường đưa ra những nhận xét về mọi bình diện của cuộc sống, tuy đôi khi có những ý kiến rất khó hiểu những độc giả luôn tiếp nhận một cách thích thú. *** José de Sousa Saramago (16/11/1922 - 18/6/2010) là nhà văn, nhà thơ Bồ Đào Nha đoạt giải Nobel Văn học năm 1998. José Saramago sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở một làng nhỏ cách thủ đô Lisboa 100 km. Bố là lính pháo binh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, quyết định bỏ công việc đồng áng lên sống ở Lisboa. Những năm tiểu học, cậu là một học sinh giỏi: hoàn thành lớp ba và lớp bốn chỉ trong một năm. Khi lớn lên, vì không có khả năng tài chính Saramago phải vào học một trường kĩ thuật để trở thành thợ cơ khí. Học xong hai năm, Saramago làm việc cho một tiệm sửa chữa xe hơi, vào buổi tối, ông thường tới một thư viện công cộng ở Lisboa để đọc sách tự học thêm. Năm 1944, José Saramago cưới vợ, chuyển sang làm việc ở cơ quan phúc lợi xã hội. Năm 1947, ông viết xong cuốn tiểu thuyết đầu tiên Viúva (Góa phụ) nhưng do yêu cầu nhà xuất bản đã đổi thành Terra do Pecado (Mảnh đất tội lỗi). Sau đó Saramago còn bắt tay viết thêm mấy tiểu thuyết, nhưng rồi ông hiểu ra rằng mình chưa có gì để nói với thế giới nên đã lặng lẽ biến khỏi văn đàn suốt 19 năm không ai để ý. Vì các lý do chính trị, năm 1949 Saramago bị thất nghiệp nhưng nhờ lòng hảo tâm của một thầy giáo cũ ở trường kĩ thuật, ông tìm được việc làm ở công ty hợp kim. Sau đó ông chuyển sang làm việc với nhà xuất bản Estudios Cor. Đến năm 1966, ông xuất bản Os Poemas Possíveis (Chùm thơ có thể) đánh dấu sự trở lại của ông với văn chương. Năm 1969 ông vào Đảng Cộng sản Bồ Đào Nha. Năm 1970, ông xuất bản tập thơ Provavelmente Alegria (Có thể đây là niềm vui). Sau khi li dị năm 1970, ông có mối quan hệ với nhà văn Isabel Da Nóbrega. Năm 1971, ông rời nhà xuất bản, làm việc trong hai năm cho tờ báo buổi tối Diario de Lisboa. Năm 1975, Saramago xuất bản tập thơ O Ano de 1993 (Năm 1993) và tiểu thuyết Manual de Pintura e Caligrafia (Tài liệu về hội họa và thư pháp, 1978); tiếp đó ông liên tiếp cho ra đời các tập truyện và tiểu thuyết như Objecto Quase (Mục tiêu Quase, 1978), Đêm tối (1979), Que farei com este livro? (Tôi có thể làm gì với quyển sách này?, 1980)... Năm 1988, ông kết hôn với nhà báo Pilar Del Rio. Năm 1993, ông bắt đầu viết hồi ký gồm năm tập. Năm 1995, ông được trao giải Camoes. Năm 1998 ông được trao giải Nobel Văn học, cho đến nay là người Bồ Đào Nha duy nhất được nhận giải thưởng này. Năm 2000 Saramago hoàn thành tiểu thuyết A Caverna (Hang động), là cuốn cuối cùng trong bộ ba tiểu thuyết - 2 cuốn đã xuất bản là Ensaio sobre a Cegueira (Mù lòa, 1995) và Todos os nomes (Tất cả các tên gọi, 1997). Sáng tác của Saramago đa dạng và đầy mâu thuẫn. Tiểu thuyết Phúc âm theo Jesus Christ (1991) bị nhà thờ Cơ đốc giáo buộc tội "coi thường sự thật lịch sử và xuyên tạc các nhân vật chính trong Tân ước" nhưng lại được tái bản hơn hai chục lần trong nước và được dịch ra 25 thứ tiếng nước ngoài. Một trí thức tự học, gắn bó với văn chương từ trẻ nhưng phải đến sáu chục tuổi mới được thừa nhận, Saramago thường cay đắng nói: "Lên sao Hỏa còn dễ hơn là gọi được cửa trái tim của những kẻ cùng thời". Tuy vậy, giải Nobel có vẻ đã phủ nhận suy nghĩ bi quan này. Một số tác phẩm của được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Mọi Cái Tên Mù Lòa Hang Động ... *** Đồ đạc của bố ở đây, Marta nói, không nhiều lắm, chứa đủ trong chiếc vali nhỏ nhất, hình như bố đã linh cảm thấy mình chỉ ở đây có ba tuần thôi phải không, Đến một lúc nào đó trong cuộc đời người ta chỉ còn vác trên vai cái thân mình nữa thôi, Cipriano Algor nói, Câu nói hay đấy, Vâng, thưa bố, nhưng con chỉ muốn bố nói xem sẽ sống bằng gì nào, Nhìn ngắm những bông hoa loa kèn, chúng đẹp giản dị, chẳng thêu dệt rắc rối. Cũng là một câu nói đẹp, chính vì thế thứ hoa đó mãi mãi cũng chỉ là hoa loa kèn, Con là một kẻ hoài nghi điên cuồng, một kẻ vô sỉ khó chịu, Bố ơi, con xin bố, con đang nói chuyện một cách nghiêm túc, Bố xin lỗi con, Con hiểu chuyện vừa rồi là một cú sốc lớn đối với bố, cả đối với con nữa, dù con không xuống dưới đó, con hiểu rằng những người đàn ông và đàn bà kia không chỉ đơn giản là những người đã chết, còn có ý nghĩa lớn hơn nhiều, Thôi con đừng nói nữa, bởi vì họ không chỉ đơn giản là những người đã chết mà còn có ý nghĩa lớn hơn nhiều nên bố không muốn tiếp tục sinh sống ở đây nữa, Thế còn chúng con, còn con thì sao, Marta hỏi, Các con hãy tự quyết định lấy cuộc đời mình, bố đã quyết định đời của bố rồi, bố sẽ không sống nốt những ngày còn lại của mình trong cảnh bị trói chặt vào ghế đá và nhìn vào bức tường. Thế bố sẽ sống ra sao, Bố có tiền mà người ta thanh toán cho những hình người bằng gốm, đủ sống một hoặc hai tháng, sau đó ta sẽ tính tiếp, Con không nói đến chuyện tiền nong, bằng cách này hay cách khác thì bố cũng không thiếu tiền cho những nhu cầu về ăn, mặc, điều con muốn nói là bố sẽ phải sống một mình, Bố đã có con Achado, rồi hai con thỉnh thoảng lại về thăm bố nữa, Bố ơi, Gì cơ, Thế còn Isaura, Isaura thì có liên quan gì đến chuyện này, Bố đã nói với con là tình hình giữa hai người đã có thay đổi, nhưng lại chẳng giải thích rõ nó thay đổi như thế nào và tại sao bằng, Và đúng vậy đấy, Nếu như vậy, Như vậy thì sao nào, Hai người có thể sống chung với nhau, ý con muốn nói như vậy. Cipriano Algor không trả lời. Ông xách vali lên, Bố đi đây, ông nói. Cô con gái ôm chặt lấy bố, Chúng con sẽ về thăm bố trong ngày nghỉ đầu tiên của Marçal, trong tiếng từ giờ đến lúc đó bố phải luôn thông báo tin tức cho con nhé, khi về đến nơi, bố nhớ gọi điện ngay cho con nói xem căn nhà ra sao, và cả tình hình con Achado nữa, đừng quên con Achado đấy, bố nhé. Với một chân ở ngoài cửa, Cipriano Algor còn nói, Con hãy ôm hôn Marçal thay cho bố nhé, Thì bố đã ôm hôn anh ấy và đã chia tay anh ấy rồi mà, Ừ, nhưng bố cứ nhờ con thêm một lần nữa. ... Mời các bạn đón đọc Hang Động của tác giả José Saramago.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sulamif - Aleksandr Kuprin
Sulamif là câu chuyện tình giữa vua Solomon và một cô gái dân thường, một tình yêu cháy bỏng, trong sáng, cao cả đầy chất thơ, truyện kết thúc buồn nhưng đầy chất nhân văn. Từ bấy đến nay đã nhiều thế kỉ trôi qua. Đã có biết bao vua chúa và vương quốc tồn tại trên trái dất này và tất cả đầu như những ngọn gió thổi ngang sa mạc, không để lại một dấu vết nào. Đã có biết bao những cuộc chiến tranh tàn khốc, lâu dài để lại tên tuổi những thống soái sáng chói qua các thế kỉ như những ngôi sao bầm máu, nhưng rồi ngay cả những kỉ niệm về họ đến nay cũng đã bị thời gian xóa sạch. Còn tình yêu của một cô gái nghèo con người gác nho và nhà vua vĩ đại sẽ không bao giờ bị phai mờ và quên lãng, vì rằng tình yêu đó mạnh như cái chết, vì rằng mỗi người đàn bà đang yêu đều là một nữ hoàng, và vì rằng tình yêu là đẹp nhất trên đời! *** TỦ SÁCH ĐÔNG TÂY TÁC PHẨM​ Nền văn học phương Tây đã sản sinh ra biết bao thi hào, văn hào có tầm ảnh hưởng sâu rộng tới trào lưu văn học của cả thế giới. Tủ Sách Đông Tây tác phẩm sẽ giới thiệu tới các độc giả yêu văn học phương Tây những tác phẩm của những nhà văn nổi tiếng này. Thi hào Alexandr Pushkin - mặt trời của nền thi ca Nga, ngọn cờ của dòng văn học lãng mạn Nga thế kỉ XIX, sẽ được giới thiệu tới độc giả Việt Nam qua tuyển tập Truyện ngắn Alexandr Pushkin nổi tiếng gồm 6 truyện: Con đầm bích, Phát súng, Bão tuyết, Ông chủ hiệu đám ma, Người coi trạm, Cô tiểu thư nông dân. Mikhail Prishvin là một trong những nhà văn Nga viết về thiên nhiên nổi tiếng nhất. Và thế là Giọt rừng ra đời như một trải nghiệm nghiên cứu đầy chất thơ cái thiên nhiên được hiểu trong sự hoà hợp với con người sống trong nó và tạo ra nó... William Thackeray, tác giả tiểu thuyết kinh điển Hội chợ phù hoa, một trong những nhà văn Anh quan trọng nhất thời Victoria, nổi tiếng về nghệ thuật châm biếm. Nhờ được hưởng một gia sản thừa kế khá lớn, ông đã dành nhiều thời gian đi du lịch, sang Paris và Weimar. Ông viết nhiều thể loại, cả truyện thiếu nhi và lịch sử, những hầu hết đều có tính chất châm biếm, nhằm đả kích xã hội tư sản quý tộc Anh đương thời. Tủ sách Đông Tây tác phẩm lần này sẽ giới thiệu tới độc giả Việt Nam một trong những tác phẩm viết cho thiếu nhi nổi tiếng của ông: Chiếc nhẫn và bông hồng, một câu chuyện châm biếm và đầy kịch tính. Chiếc nhẫn và bông hồng là truyện cổ tích đầy kịch tính, xoay quanh cuộc phiêu lưu của hai chàng hoàng tử Giglio và Bulbo, hai công chúa Rosalba và Angelica. Câu chuyện kết thúc có hậu, hoàng tử Giglio lấy Rosalba; hoàng tử Bulbo lấy Angelica khi đã trải qua nhiều khó khăn, nguy hiểm. Chiếc âu vàng là một trong những áng văn xuôi hay nhất của nước Đức trong thế kỷ XIX, tinh hoa của một trí tưởng tượng cực kỳ phong phú và khoáng đạt, đầy sức hấp dẫn bởi sự biến hóa khôn lường giữa cái ảo và cái thực, giữa vô thức và hữu thức, giữa cái nội tại và cái ngoại tại. Hai trăm năm qua, Chiếc âu vàng- món quà tặng của tình yêu luôn được nhìn nhận là tuyệt tác của nhà ảo thuật phương Đông... Có người nói, E.T.A. Hoffmann là nhà văn lãng mạn - huyễn tưởng, thậm chí có nhà nghiên cứu coi ông như một bậc tiền bối của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, và gần đây nhất, trong một công trình giới thiệu Hoffmann với đông đảo bạn đọc Đức qua tủ sách phổ thông Reclam, nhà phê bình K. Nussbaecker còn khẳng định tác phẩm Chiếc âu vàng là một điển hình của chủ nghĩa siêu thực trong văn học. Các bạn độc giả cũng sẽ phải tủm tỉm cười trước những áng văn hài hước, châm biếm vô cùng hóm hỉnh của tác giả và hồi hộp theo dõi cuộc đời kỳ dị của Zaches Tí Hon trong Zaches Tí Hon mệnh danh Zinnober, một con quỷ lùn xấu xí như rễ cây, nhưng đã trở thành quan thượng thư và là niềm vinh quang của cả một vương quốc… Với Đêm trắng của Fyodor Mikhailovich Dostoyevsky lại là một câu chuyện tình đẹp và buồn được viết theo phong cách lãng mạn tình cảm. Vanina Vanini được viết năm 1829 là một tác phẩm ngắn nhưng ấn tượng. Thông qua câu chuyện tình của một công nương La Mã trẻ với chiến sĩ Carbonari kiên cường bị tù tội, Stendhal bày tỏ thiện cảm và sự ủng hộ của mình đối với cuộc đấu tranh vì tự do của nhân dân Italia mà ông gắn bó. Chiếc vòng thạch lựu là thiên truyện tình hay nhất của nhà văn Aleksandr Kuprin, một mối tình trong sáng, mãnh liệt, cao cả, đẹp và buồn, sẵn sàng hi sinh bản thân bởi tình yêu, câu chuyện nhẹ nhàng đầy tính chất nhân văn. Còn Sulamif lại là câu chuyện tình giữa vua Solomon và một cô gái dân thường, một tình yêu cháy bỏng, trong sáng, cao cả đầy chất thơ, truyện kết thúc buồn nhưng đầy chất nhân văn. Trái tim chó - Mikhail Bulgakov kể về câu chuyện xảy ra khi nhà bác học Preobrajenski qua thí nghiệm kết hợp thể xác chó với tuyến yên não người đã tạo ra một sinh vật biết sử dụng ngôn ngữ người. Qua "Trái tim chó" tác giả cảnh báo về nguy cơ "Saricov", một dạng người có trái tim chó, hay nói đúng hơn là một dạng người mang tâm lí chó vốn không quá hiếm trong cuộc đời xung quanh. Cánh Buồm Đỏ Thắm của Aleksandr Grin là câu chuyện cổ tích trở thành hiện thực. Một cô gái cô đơn giàu mơ ước và niềm tin có thể trở thành nàng công chúa, một chàng trai có tâm hồn bay bổng là chàng hoàng tử. Đây là câu chuyện nhẹ nhàng có thể khiến bạn mỉm cười khi đọc. Bộ sách do các dịch giả có danh tiếng trong làng dịch thuật chuyển ngữ: Thái Bá Tân, Đoàn Tử Huyến, Nguyễn Duy Bình, Phương Hồng và Quang Chiến. Mời các bạn đón đọc Sulamif của tác giả Aleksandr Kuprin.
Những Con Chữ Tình Yêu - Katie Fforde
Một chuyện tình lãng mạn, đầy kịch tính giữa một nữ độc giả nhạy cảm và thông minh với tác giả văn học nổi tiếng đầy quyến rũ. Laura Horsley - một nhân viên bán sách và tổ chức sự kiện văn học- trong lúc buồn chán vì cửa hàng sách nơi cô đang làm việc sắp đóng cửa, đã liều lĩnh nhận lời giúp tổ chức cho một liên hoan văn chương tại một miền nông thôn nước Anh xa xôi. Mọi sự rắc rối nhưng cũng đầy đam mê bắt đầu khi Laura nhận nhiệm vụ phải mời bằng được nhà văn Dermot Flynn - người đang sống ẩn dật tại Ireland, nổi tiếng vì tài năng và tính khí thất thường nhưng cũng vô cùng quyến rũ. Chuyện gì sẽ xảy ra khi một tác giả văn học nổi tiếng lại dính sét ái tình với người hâm mộ, và oái oăm thay nữ độc giả nhạy cảm và thông minh đó lại vẫy vùng trốn tránh sức quyến rũ từ thần tượng mà cô ngày đêm thờ phụng? Một câu chuyện đuổi bắt và chinh phục tình cảm đầy lãng mạn như chỉ có ở trong sách. *** Ai đó thì thào vào tai Laura, khiến cô giật nẩy mình. “Cô nghĩ anh ta thế nào?” Hiệu sách đông nghịt: khu vực họ đã dọn dẹp cho buổi đọc sách chật ních người; một đoàn người rồng rắn dài dằng dặc đang đứng trước bàn ký tặng sách, tán gẫu sôi nổi, ai nấy nắm chặt trong tay những cuốn sách mới mua. Trước đây, Laura cứ ngỡ tổ chức một sự kiện sau lễ Giáng sinh là việc làm khá liều lĩnh, nhưng bây giờ cô đang ngắm nhìn những con người đầy háo hức kia với cảm giác vừa nhẹ nhõm vừa thỏa mãn. Cho dù bạn chuẩn bị cho một sự kiện ở hiệu sách cẩn thận đến mức nào, bạn không bao giờ biết chính xác bao nhiêu người sẽ tới cho đến khi họ xuất hiện. Bạn cũng không thể chắc chắn liệu tác giả có thực hiện tốt vai trò của mình không. Viết lách là một công việc rất riêng tư, thầm lặng, và Laura thường nghĩ quả là tàn nhẫn khi bắt họ đứng trước các độc giả. Nhưng cho dù được đánh giá theo những tiêu chuẩn cao của cô, sự kiện này vẫn là một thành công. Đang mải mê suy nghĩ nên cô không nhận ra có người tiến đến sau lưng. Quay ngoắt lại và cô trông thấy một phụ nữ thấp bé sắp qua tuổi trung niên mặc một bộ đồ nổi bật. Laura lập tức nhớ rằng đã thấy bà ta khi bà ta bước vào hiệu sách trong nhóm người đi cùng với tác giả. Chiếc áo vét của bà ta trông như được may từ thảm thêu và đồ trang sức có vẻ được làm bởi bàn tay của một đứa cháu với bộ đồ hàn, hoặc bởi một nhà thiết kế mới nổi, thật khó mà biết được. Điều khiến cô sửng sốt nhất trước sự tiếp cận của bà ta là ánh mắt khắc nghiệt, xuyên thấu. Đôi mắt giống như đá mã não màu xanh lục. “Dĩ nhiên là rất ổn,” Laura nói, giật mình, nhưng vẫn lịch sự như từ trước đến giờ, cảm thấy mình quá mờ nhạt trong chiếc quần đen phổ biến và chiếc áo sơ mi trắng. Câu trả lời này có vẻ không hoàn toàn thỏa mãn đôi mắt màu xanh lục đang nhìn xoáy vào cô. “Thế cô đã đọc cuốn sách mới của anh ta chưa?” “Dĩ nhiên,” lúc này Laura đã vững vàng hơn, phẫn nộ trước giọng điệu hiếu chiến của người phụ nữ đó. Cô làm việc trong một hiệu sách. Công việc của cô là nắm rõ mặt hàng mình bán. Người phụ nữ kia nhướng một bên lông mày mảnh như đường kẻ bút chì. “Tôi không muốn nghe từ ‘dĩ nhiên’. Cô nghĩ gì về cuốn sách?” Laura định nói “tuyệt vời” nhưng rồi lại quyết định nói thật. Suy cho cùng, lúc này cô chẳng còn gì để mất: công việc yêu thích sắp bị tước đi - cô có thể gạt bỏ khả năng ứng xử khéo léo quen thuộc sang một bên và nói thực lòng mình. “Tôi nghĩ nó không hay bằng cuốn sách đầu tay của anh ta nhưng tôi thực sự đón đợi cuốn tiếp theo.” Cô là một độc giả hăng hái, nhiệt tình nhưng khó tính; cô có thể nhận ra khi nào một tác giả không ở trên đỉnh cao phong độ. Rồi đột nhiên những đồng penny[1] tuôn rào rào trong đầu cô, như những đồng xu từ một máy giật xèng khi ai đó trúng thưởng. “Ôi Chúa ơi, bà là người đại diện của anh ta, phải không?” Nỗi xấu hổ khiến người cô chuyển từ nóng sang lạnh rồi lại từ lạnh sang nóng. Người phụ nữ nheo mắt xác nhận sự thật này, nhưng Laura không biết bà ta đang cười hay đang bày tỏ sự phản đối - miệng bà ta không cử động. “Phải, đúng là tôi có vinh hạnh đó.” Vẫn còn đỏ mặt, Laura vén một lọn tóc lòa xòa ra sau tai và nhìn sang phía chàng thanh niên trẻ măng đang ký sách cho một hàng dài người hâm mộ. Cô nhận thấy mỗi người mua sách đều nhận được một nụ cười quyến rũ, mỗi cuốn sách đều nhận được một thông điệp riêng nho nhỏ cũng như một lời đề tặng. Không chỉ một mà có tới tận hai chuyên viên truyền thông từ nhà xuất bản đi cùng anh ta, không phải để kiểm soát đám đông, mà vì họ ngưỡng mộ anh ta. Những nhà văn như anh ta thật hiếm. Chính vì anh ta có hai người phụ nữ trẻ trung quá đỗi nhiệt tình với việc mở các quyển sách đến đúng trang, nhét chúng vào những cái túi giấy và liên tục rót rượu cho anh ta nên Laura mới đang đứng rỗi rãi như thế này; họ không cần đến sự giúp đỡ của cô. Và Henry, ông chủ tiệm sách, cứ một mực nói. “Cô đã sắp đặt toàn bộ mọi việc; mời được những người này đến đây, gọi rượu vang, mở những suất ăn nhẹ đựng trong hộp xốp. Giờ thì hãy nghỉ ngơi một chút!” “Anh ta là một ngôi sao,” Laura nói sau khi quan sát anh ta thêm một lúc nữa. Cô không nịnh người bạn ghê gớm đang trò chuyện cùng; cô chỉ đang nói sự thật. “Tôi biết. Nhân đây, xin tự giới thiệu tôi là Eleanora Huckleby.” “Tôi biết... ý tôi là bây giờ thì tôi đã biết,” Laura nói, cảm thấy thoải mái hơn một chút. Những người đại diện cho các nhà văn thường không đến tham dự các sự kiện ở hiệu sách, nhưng Damiel Stubbs là người đặc biệt. “Tôi là Laura Horsley.” ... Mời các bạn đón đọc Những Con Chữ Tình Yêu của tác giả Katie Fforde.
Mùa Cưới - Katie Fforde
Tất cả những gì bạn cần là tình yêu…?   Sarah là một nhà lên kế hoạch tổ chức đám cưới đang che giấu một sự thật vô cùng phiền phức - cô không tin vào tình yêu. Hoặc không tin vào chính bản thân cô. Nhưng khi những bông hoa giấy tung bay trong làn gió nhẹ tháng Sáu của một đám cưới thành công khác, cô nhận ra mình đã đồng ý nhận lời tổ chức cho thêm hai đám cưới nữa, vào cùng một ngày và chỉ cách thời điểm hiện tại nữa chưa đến hai tháng. Và khi cô dâu là người nổi tiếng lại dễ thương và hiểu biết, thì em gái của cô lại khiến cô điên lên vì những yêu cầu quá cao nhưng đi kèm với một ngân sách hạn chế.   May mắn thay, Sarah có hai người bạn đáng tin cậy để giúp cô. Elsa, một nhà thiết kế áo đầm đầy tài năng nhưng không thích bị mọi người chú ý, và Bron, một thợ cắt tóc đa tài, người đang sống với anh bạn trai gia trưởng. Họ có thể rất giỏi trong công việc nhưng sự lãng mạn lại không được đánh giá cao trong đời sống của họ.   Khi ngày trọng đại đang đến gần, cả ba người phụ nữ nhận ra rằng sự kiên nhẫn chắc chắn là một đức tính tốt trong trò chơi hôn nhân. Và khi tất cả các giờ làm việc miệt mài của họ dành cho việc chuẩn bị cho một đám cưới của năm, họ chắc chắn chẳng có lấy thời gian để suy nghĩ về tình yêu; hay họ có nhỉ? *** Katie Fforde, nhũ danh Catherine Rose Gordon-Cumming (27/9/1952 ở Wimbledon, London, Anh), là một tiểu thuyết gia văn học lãng mạn hiện đại từ năm 1995.   Là người sáng lập ra Học bổng Katie Fforde dành cho các tác giả mới, chưa từng ký hợp đồng xuất bản. Bà là thành viên ủy ban điều hành của Hiệp hội Các nhà văn Văn học lãng mạn (Romantic Novelists’ Association), từng làm Chủ tịch thứ hai mươi lăm của Hội (2009-2011), và là Tổng thư ký lần thứ tư của Hội. Vào tháng Sáu năm 2010, bà là người bảo trợ cho Tuần lễ Truyện ngắn Toàn quốc lần đầu tiên được tổ chức ở nước Anh. Nhiều tác phẩm của bà từng lọt vào Top 10 sách bán chạy nhất do tờ Sunday Times bình chọn.   Mời các bạn đón đọc Mùa Cưới của tác giả Katie Fforde.
Mù Lòa - Jose Saramago
"Mù lòa" giống như câu chuyện ngụ ngôn giàu triết lý. Với lối viết tỉ mỉ, châm biếm, Jose Saramago cuốn hút người đọc vào từng trang sách, cười khóc với các nhân vật trong truyện. Mù lòa là cuốn tiểu thuyết siêu thực, đa nghĩa, đầy ẩn dụ được nhà văn José Saramago viết năm 1995. Năm 2008, Mù lòa được chuyển thể thành phim và chiếu mở màn tại Liên hoan phim Cannes. Đó là câu chuyện hư cấu về một thành phố kỳ lạ - thành phố bỗng dưng hóa mù.  ... Căn bệnh mù trắng đã lan ra ngoài bốn bức tường của phòng giam, vỏ bọc của xã hội thành thị văn minh sụp đổ hoàn toàn và trở về trạng thái nguyên thủy man rợ. Toàn bộ cơ sở hạ tầng của thành phố bị phá hủy, mối liên kết giữa các cá thể trong cộng động sụp đổ hoàn toàn. Xác chết ngập đường, lương thực thiếu thốn, người nọ chiếm cứ nhà của người kia, ai cũng làm đủ mọi cách để sinh tồn, bất chấp việc chà đạp lên đồng loại… Chứng kiến những cảnh tượng kinh hoàng ấy, vợ ông bác sĩ - người sáng mắt duy nhất đã có lúc thốt lên mong muốn được mù như mọi người, “mù nhưng thấy”. Không phải bỗng dưng tác giả mở đầu cuốn sách bằng câu đề từ: “Nếu ngươi có thể thấy, hãy nhìn. Nếu ngươi có thể nhìn, hãy quan sát”. Lời đề từ như tiếng sấm truyền từ một cuốn sách cổ xưa để lại, khiến người đọc không khỏi bàng hoàng, thảng thốt. Thì ra từ “thấy” đến “nhìn” và “quan sát” là cả một chặng đường dài về nhận thức mà không phải kẻ “mắt sáng” nào cũng làm được.  Mù lòa giống như một câu chuyện ngụ ngôn giàu triết lý. Với lối viết tỉ mỉ, châm biếm, Jose Saramago đã cuốn hút người đọc vào từng trang sách, cười khóc với các nhân vật trong truyện. Hơn hết, Mù lòa đặt ra cho người đọc những triết lý nhân sinh cần suy ngẫm qua lời vợ ông bác sĩ nói trong phần kết của tác phẩm: “Em không nghĩ chúng ta đã hóa mù, em nghĩ từ trước đến giờ chúng ta vẫn mù, Mù nhưng nhìn được, Những người mù có thể nhìn được, nhưng không thấy”. *** Jose Saramago sinh năm 1922 tại Azinhaga, thuộc tỉnh Ribatejo, Bồ Đào Nha. Tác phẩm của ông đầy chất huyền thoại và đa nghĩa, gợi lại cổ tích qua cách nhìn độc đáo về lịch sử, xã hội và con người. Văn của ông đi sâu vào chỉ tiết, châm biếm và dí dỏm, siêu thực và đầy ẩn dụ. Mãi đến năm sáu mươi tuổi ông mới được nhiều người biết đến qua tác phẩm Memorial do Convento (Ký ức về nhà tu kín, 1982). Tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi nhất của ông là O Evangelho Segundo Jesus Cristo (Phúc âm theo Chúa Jesus, 1991), bị Thứ trưởng Ngoại giao Bồ Đào Nha loại khỏi danh sách các tác phẩm đề cử giải Văn chương châu Âu. Ông nhận giải Nobel Văn chương năm 1998. Một số tác phẩm của ông gồm có: Manual de Pintura e Caligrafia (Cẩm nang hội họa và thư pháp, 1977), Viagem a Portugal (Du lịch Bồ Đào Nha, 1981) O Ano da Mortc de Ricardo Reis (Năm vua Ricardo băng hà, 1984), A langada de Pedra (Chiếc bè đá, 1986), História do Cerco de Lisboa (Trận bao vây Lisbon 1989), Todos os Nomes (Mọi cái tên, 1997), O Conto da llha Desconhecida (Chuyện hòn đảo vô danh, 1997), A Caverna (Hang động, 2001), O Homem Duplicado (Kẻ giống hệt, 2003), Ensaio sobre a Lucidez (Trong sáng, 2004), Don Giovanni ou O Dissoluto Absolvido (Don Giovanni hay Gã phóng đãng vô tội, 2005), As Intermitências da Morte (Thần chết tạm nghỉ, 2005), As Pequenas Memórias (Kỷ niệm ấu thơ, 2006), A Viagem do Elefante (Chuyến đi của con voi, 2008), Cain (2009). Mù lòa (Ensaio sobre a Cegueira, 1995) dịch từ bản tiếng Anh, Blindness, của Giovanni Pontiero, ông mất trước khi sửa xong bản dịch; Margaret Jull Costa hoàn tất việc sửa bản tiếng Anh; nhà xuất bản Harcourt, Florida, ấn hành năm 1999. “Nếu ngươi có thể thấy, hãy nhìn. Nếu ngươi có thể nhìn, hãy quan sát.” Mời các bạn đón đọc Mù Lòa của tác giả Jose Saramago.