Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đánh thức trí thông minh - Krishnamurti

Ba Cuộc Nói Chuyện Ở Thành Phố New York 1 Cuộc cách mạng bên trong Cần thiết phải thay đổi. Một tiến trình trong thời gian hay tức thời? Ý thức và vô thức; những giấc mộng. Tiến trình phân tích. Thấy nội dung của ý thức mà không có sự tách biệt giữa người quan sát và cái được quan sát. Ồn ào và kháng cự. “Khi có sự dừng dứt hoàn toàn sự phân chia giữa người quan sát và cái được quan sát, bấy giờ ‘cái đang là’ không còn là cái đang là nữa.“

Ba Cuộc Nói Chuyện Ở Thành Phố New York 1 Cuộc cách mạng bên trong Cần thiết phải thay đổi. Một tiến trình trong thời gian hay tức thời? Ý thức và vô thức; những giấc mộng. Tiến trình phân tích. Thấy nội dung của ý thức mà không có sự tách biệt giữa người quan sát và cái được quan sát. Ồn ào và kháng cự. “Khi có sự dừng dứt hoàn toàn sự phân chia giữa người quan sát và cái được quan sát, bấy giờ ‘cái đang là’ không còn là cái đang là nữa.“

Ba Cuộc Nói Chuyện Ở Thành Phố New York

1 Cuộc cách mạng bên trong

Cần thiết phải thay đổi. Một tiến trình trong thời gian hay tức thời? Ý thức và vô thức; những giấc mộng. Tiến trình phân tích. Thấy nội dung của ý thức mà không có sự tách biệt giữa người quan sát và cái được quan sát. Ồn ào và kháng cự. “Khi có sự dừng dứt hoàn toàn sự phân chia giữa người quan sát và cái được quan sát, bấy giờ ‘cái đang là’ không còn là cái đang là nữa.“

2 Tương quan Tương quan. “Bạn là thế giới.“ Cái ngã tách biệt; bại hoại. Thấy cái thực sự “đang là”. Cái không phải là tình thương. “Chúng ta không có đam mê; chúng ta có tham dục, chúng ta có lạc thú.“ Hiểu cái chết là gì. Tình thương là sự vĩnh cửu của chính nó. 3 Kinh nghiệm tôn giáo. Thiền định. Có một kinh nghiệm tôn giáo không? Tìm cầu chân lý; ý nghĩa của sự tìm cầu. “Cái gì là một tâm tôn giáo?“ “Cái gì là tính chất của tâm không kinh nghiệm nữa?” Kỷ luật; đức hạnh; trật tự. Thiền định không phải là trốn thoát. Chức năng của kiến thức và tự do khỏi cái biết. “Thiền định là tìm ra liệu có một trường xứ đã không nhiễm ô bởi cái biết.” “Bước đầu tiên là bước cuối cùng.” PHẦN III. Hai Cuộc Trò Chuyện: Krishnamurti và Alain Naudé 1 Rạp xiếc tranh đấu của con người 2 Về tốt và xấu ẤN ĐỘ PHẦN IV. Ba cuộc Nói Chuyện ở Madras 1 Nghệ thuật thấy Thấy, không phải từng phần mà toàn phần. “Hành động thấy là chân lý duy nhất. Chỉ một phần mảnh của tâm bao la được dùng. Ảnh hưởng phần mảnh của văn hóa, truyền thống. “Sống trong một góc nhỏ của một trường méo mó.“ “Bạn không thể thấu hiểu qua một phần mảnh.“ Giải thoát khỏi “góc nhỏ”. Cái đẹp của thấy. 2 Tự do Chia xẻ một tâm tự do. “Nếu chúng ta gặp gỡ cái này, đó thực sự là một đóa hoa huyền nhiệm.“ Tại sao con người không có cái này? Sợ hãi. “Sống” là không sống. Những lời chữ được cho là bản chất. Hao phí năng lượng. “Tâm trưởng thành thì không có so sánh… không có đo đạc.“ Hiệu lực của “đời sống bạn sống mỗi ngày… không hiểu nó bạn sẽ chẳng bao giờ hiểu thương yêu, cái đẹp hay cái chết.” Qua phủ định, cái độc nhất vốn là khẳng định hiện bày. 3 Cái thiêng liêng Cày, không bao giờ gieo. Ý niệm hóa. Sự nhạy cảm không có trong đời sống. Chú ý và thông minh. Vô trật tự trong bản thân chúng ta và trong thế giới: trách nhiệm của chúng ta. Vấn đề thấy. Những hình ảnh và tiếp xúc trực tiếp. Cái thiêng liêng. “Khi bạn có yêu thương bạn có thể vất bỏ mọi cuốn sách thiêng của bạn.“ PHẦN V. Ba cuộc Đối Thoại ở Madras 1 Xung đột Những hình ảnh: chúng ta có biết chúng ta thấy qua những hình ảnh? Những quan niệm; lỗ trống giữa những quan niệm và cuộc sống hàng ngày; sanh ra xung đột. “Để sáng tỏ bạn phải có thể nhìn.“ “Sống không xung đột, nhưng không đi ngủ.“ 2 Thời gian, không gian và cái trung tâm Lý tưởng, quan niệm, và “cái đang là”. Cần hiểu khổ đau: đau đớn, cô đơn, sợ hãi, ghen tỵ. Trung tâm cái tôi. Không gian và thời gian của cái trung tâm. Có thể không có một trung tâm cái tôi nhưng vẫn sống trong thế giới này? “Chúng ta sống trong nhà tù của sự suy nghĩ của chính chúng ta.” Thấy cơ cấu của cái trung tâm. Nhìn không có trung tâm. 3 Một câu hỏi nền tảng Cái gì là suy nghĩ sáng tỏ liên hệ đến cuộc sống hàng ngày? Gặp gỡ hiện tại với quá khứ. Làm sao để sống với trí nhớ và kiến thức kỹ thuật nhưng vẫn thoát khỏi quá khứ? Làm sao sống mà không có sự phân mảnh? Im lặng trước cái bao la của một câu hỏi nền tảng. “Bạn có thể sống trọn vẹn đến độ chỉ có cái hiện tại sống động bây giờ?“

2 Tương quan

Tương quan. “Bạn là thế giới.“ Cái ngã tách biệt; bại hoại. Thấy cái thực sự “đang là”. Cái không phải là tình thương. “Chúng ta không có đam mê; chúng ta có tham dục, chúng ta có lạc thú.“ Hiểu cái chết là gì. Tình thương là sự vĩnh cửu của chính nó.

3 Kinh nghiệm tôn giáo. Thiền định.

Có một kinh nghiệm tôn giáo không? Tìm cầu chân lý; ý nghĩa của sự tìm cầu. “Cái gì là một tâm tôn giáo?“ “Cái gì là tính chất của tâm không kinh nghiệm nữa?” Kỷ luật; đức hạnh; trật tự. Thiền định không phải là trốn thoát. Chức năng của kiến thức và tự do khỏi cái biết. “Thiền định là tìm ra liệu có một trường xứ đã không nhiễm ô bởi cái biết.” “Bước đầu tiên là bước cuối cùng.”

PHẦN III.

Hai Cuộc Trò Chuyện:

Krishnamurti và Alain Naudé

1 Rạp xiếc tranh đấu của con người

2 Về tốt và xấu

ẤN ĐỘ

PHẦN IV.

Ba cuộc Nói Chuyện ở Madras

1 Nghệ thuật thấy

Thấy, không phải từng phần mà toàn phần. “Hành động thấy là chân lý duy nhất. Chỉ một phần mảnh của tâm bao la được dùng. Ảnh hưởng phần mảnh của văn hóa, truyền thống. “Sống trong một góc nhỏ của một trường méo mó.“ “Bạn không thể thấu hiểu qua một phần mảnh.“ Giải thoát khỏi “góc nhỏ”. Cái đẹp của thấy.

2 Tự do

Chia xẻ một tâm tự do. “Nếu chúng ta gặp gỡ cái này, đó thực sự là một đóa hoa huyền nhiệm.“ Tại sao con người không có cái này? Sợ hãi. “Sống” là không sống. Những lời chữ được cho là bản chất. Hao phí năng lượng. “Tâm trưởng thành thì không có so sánh… không có đo đạc.“ Hiệu lực của “đời sống bạn sống mỗi ngày… không hiểu nó bạn sẽ chẳng bao giờ hiểu thương yêu, cái đẹp hay cái chết.” Qua phủ định, cái độc nhất vốn là khẳng định hiện bày.

3 Cái thiêng liêng

Cày, không bao giờ gieo. Ý niệm hóa. Sự nhạy cảm không có trong đời sống. Chú ý và thông minh. Vô trật tự trong bản thân chúng ta và trong thế giới: trách nhiệm của chúng ta. Vấn đề thấy. Những hình ảnh và tiếp xúc trực tiếp. Cái thiêng liêng. “Khi bạn có yêu thương bạn có thể vất bỏ mọi cuốn sách thiêng của bạn.“

PHẦN V.

Ba cuộc Đối Thoại ở Madras

1 Xung đột

Những hình ảnh: chúng ta có biết chúng ta thấy qua những hình ảnh? Những quan niệm; lỗ trống giữa những quan niệm và cuộc sống hàng ngày; sanh ra xung đột. “Để sáng tỏ bạn phải có thể nhìn.“ “Sống không xung đột, nhưng không đi ngủ.“

2 Thời gian, không gian và cái trung tâm

Lý tưởng, quan niệm, và “cái đang là”. Cần hiểu khổ đau: đau đớn, cô đơn, sợ hãi, ghen tỵ. Trung tâm cái tôi. Không gian và thời gian của cái trung tâm. Có thể không có một trung tâm cái tôi nhưng vẫn sống trong thế giới này? “Chúng ta sống trong nhà tù của sự suy nghĩ của chính chúng ta.” Thấy cơ cấu của cái trung tâm. Nhìn không có trung tâm.

3 Một câu hỏi nền tảng

Cái gì là suy nghĩ sáng tỏ liên hệ đến cuộc sống hàng ngày? Gặp gỡ hiện tại với quá khứ. Làm sao để sống với trí nhớ và kiến thức kỹ thuật nhưng vẫn thoát khỏi quá khứ? Làm sao sống mà không có sự phân mảnh? Im lặng trước cái bao la của một câu hỏi nền tảng. “Bạn có thể sống trọn vẹn đến độ chỉ có cái hiện tại sống động bây giờ?“

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

THUẬT NGỮ HUYỀN HỌC - TRẦN VĂN KHÁ
Huyền là một thuật ngữ được đặt ra để gọi tên cho những hiện tượng nằm ngoài phạm vi hiểu biết bình thường hoặc khoa học hiện tại không thể giải thích hay đo lường được. Khác với một số sự tồn tại giả định ví dụ như vật chất tối hay năng lượng tối, những hiện tượng siêu linh không phù hợp với thế giới như đã được hiểu thông qua quan sát thực nghiệm kết hợp với phương pháp khoa học.Hàng ngàn Thuật Ngữ liên quan đến hiện tượng huyền bí được tìm thấy trong văn hoá, văn học dân gian, và những hồi ức của các đối tượng cá nhân sẽ được liệt kê đầy đủ trong cuốn sách này, qua đó giúp cho bạn đọc muốn tìm hiểu về bộ môn Huyền Học sẽ có trong tay công cụ tra cứu tuyệt vời nhất.
MINH TÂM BỬU GIÁM - TRƯƠNG VĨNH KÝ (1924)
Các sách Minh Tâm Bảo Giám lưu hành rộng rãi ở Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam trước đây phần lớn dựa theo bản Vạn Lịch (người ta không nhắc tên người biên soạn nữa có lẽ vì tác giả thực thụ chính là những người phát biểu ý kiến đã được trích dẫn). Người dùng sách ngày nay nên hiểu rằng bản gốc của Thu Quát chỉ còn ý nghĩa lịch sử, còn ý nghĩa văn hóa thì thuộc về bản Vạn Lịch ra đời sau bản Thu Quát ngót hai trăm năm.  Bản Vạn Lịch tuy chỉ nhiều hơn 1 thiên nhưng nội dung lại gấp đôi bản Thu Quát và chắc chắn là nó không cộng vào đó toàn văn bản Thu Quát. Các sách Minh Tâm Bảo Giám lưu hành rộng rãi ở Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam trước đây phần lớn dựa theo bản Vạn Lịch (người ta không nhắc tên người biên soạn nữa có lẽ vì tác giả thực thụ chính là những người phát biểu ý kiến đã được trích dẫn). Người dùng sách ngày nay nên hiểu rằng bản gốc của Thu Quát chỉ còn ý nghĩa lịch sử, còn ý nghĩa văn hóa thì thuộc về bản Vạn Lịch ra đời sau bản Thu Quát ngót hai trăm năm.  Bản Vạn Lịch tuy chỉ nhiều hơn 1 thiên nhưng nội dung lại gấp đôi bản Thu Quát và chắc chắn là nó không cộng vào đó toàn văn bản Thu Quát.Hán học du nhập Việt Nam từ thời nội thuộc nhà Hán (179 trước Công Nguyên). Các triều đại kế tiếp của Trung Quốc đều duy trì ý thức vun đắp cho nền văn hóa và chính trị khu vực bằng tinh thần "đồng văn". Do đó, sách vở Trung Quốc lưu hành ở Việt Nam không thua kém gì ở Trung Quốc nhờ sự qua lại khá thường xuyên của giới ngoại giao và giới doanh nhân hai nước. Tuy nhiên, sách Minh Tâm Bảo Giám có mặt nhan nhản trong dân gian hầu hết lại là sách chép tay gia truyền của những gia thục chứ các nhà xuất bản địa phương không hề tham gia phát hành, khắc in như đối với các sách khác - Phần lớn các ông Ðồ lại thường dạy theo trí nhớ thành thử thử ít đảm bảo tính chính xác, thống nhất của văn bản. Tựu trung các sách ấy thuộc hai dòng chính: - Dòng 1: Sách gồm 20 thiên (từ thiên Kế thiện đến thiên Phụ hạnh). Dân gian quen gọi sách nầy là "Minh Tâm mắc". - Dòng 2: Sách không chia thiên, chỉ rút những câu dễ hiểu ở cuốn trên, tổng số chữ chỉ còn phân nửa. Dân gian quen gọi sách nầy là "Minh Tâm rẻ" Cả hai sách ấy đều tập hợp những danh ngôn dạy đạo làm người, rất nhiều câu trong đó đã đi sâu vào cuộc sống đến mức người không hề học chữ Hán cũng vẫn nhắc đúng được nguyên văn. Sách Minh Tâm Bảo Giám đã được Trương Vĩnh Ký (1837 - 1898) dịch ra Việt ngữ từ cuối thế kỷ XIX. Sang thế kỷ XX có thêm các bản dịch của Tạ Thanh Bạch, Ðoàn Mạnh Hy, Nguyễn Quốc Ðoan, vv... dựa vào những văn bản khác nhau nhưng đều có điểm chung là nguyên tác vốn từng được nhiều thế hệ thuộc lòng trước khi nó được giới dịch thuật chiếu cố (trong khi đại đa số dịch phẩm trên thị trường lại thường nhằm ý đồ giới thiệu những danh tác chưa được nhiều người biết đến nguyên bản). - Dòng 1: Sách gồm 20 thiên (từ thiên Kế thiện đến thiên Phụ hạnh). Dân gian quen gọi sách nầy là "Minh Tâm mắc".- Dòng 2: Sách không chia thiên, chỉ rút những câu dễ hiểu ở cuốn trên, tổng số chữ chỉ còn phân nửa. Dân gian quen gọi sách nầy là "Minh Tâm rẻ"Cả hai sách ấy đều tập hợp những danh ngôn dạy đạo làm người, rất nhiều câu trong đó đã đi sâu vào cuộc sống đến mức người không hề học chữ Hán cũng vẫn nhắc đúng được nguyên văn.Sách Minh Tâm Bảo Giám đã được Trương Vĩnh Ký (1837 - 1898) dịch ra Việt ngữ từ cuối thế kỷ XIX. Sang thế kỷ XX có thêm các bản dịch của Tạ Thanh Bạch, Ðoàn Mạnh Hy, Nguyễn Quốc Ðoan, vv... dựa vào những văn bản khác nhau nhưng đều có điểm chung là nguyên tác vốn từng được nhiều thế hệ thuộc lòng trước khi nó được giới dịch thuật chiếu cố (trong khi đại đa số dịch phẩm trên thị trường lại thường nhằm ý đồ giới thiệu những danh tác chưa được nhiều người biết đến nguyên bản).MUA SÁCH (TIKI) MUA SÁCH (TIKI) MUA SÁCH (TIKI)
MƯU LƯỢC TOÀN THƯ - QUỶ CỐC TỬ
Trong lịch sử Trung Quốc, thòi Chiến Quốc là thời kỳ xã hội rối ren, loạn lạc. Có thể nói, đây là giai đoạn lịch sử liên tục biến đổi, thậm chí là tùng giò, từng phút. Thời đại như vậy đã sản sinh ra rất nhiều nhà chính trị, nhà quân sụ, nhà mưu lược, cũng như các phe phái học thuật và các lý thuyết mưu lược. Trong lịch sử Trung Quốc, thòi Chiến Quốc là thời kỳ xã hội rối ren, loạn lạc. Có thể nói, đây là giai đoạn lịch sử liên tục biến đổi, thậm chí là tùng giò, từng phút. Thời đại như vậy đã sản sinh ra rất nhiều nhà chính trị, nhà quân sụ, nhà mưu lược, cũng như các phe phái học thuật và các lý thuyết mưu lược. Mỗi nhà chính trị, quân sự, mưu lược đều có lý thuyết mưu trí riêng cho mình, họ đã thể hiện rõ sự tài ba, cũng như phát huy được sở trường của mình trong những cuộc đấu tranh lịch sử. Quỷ Cốc Tử đã lớn lên trong bối cảnh xã hội như vậy, ông là thuỷ tổ của Tung Hoành gia, mặc dù Ông sống ẩn dật nơi núi cao rừng sâu, song tên tuổi của ông vẫn được nhiều ngưòi biết đến. Rốt nhiều học trò của ông đã vận dụng tốt thuật Tung Hoành của ông đi du thuyết chư hầu, tạo dựng sự nghiệp thành công và để lại tiếng vang muôn đời. Mỗi nhà chính trị, quân sự, mưu lược đều có lý thuyết mưu trí riêng cho mình, họ đã thể hiện rõ sự tài ba, cũng như phát huy được sở trường của mình trong những cuộc đấu tranh lịch sử. Quỷ Cốc Tử đã lớn lên trong bối cảnh xã hội như vậy, ông là thuỷ tổ của Tung Hoành gia, mặc dù Ông sống ẩn dật nơi núi cao rừng sâu, song tên tuổi của ông vẫn được nhiều ngưòi biết đến. Rốt nhiều học trò của ông đã vận dụng tốt thuật Tung Hoành của ông đi du thuyết chư hầu, tạo dựng sự nghiệp thành công và để lại tiếng vang muôn đời.“Quỷ Cốc Tử Mưu Lược Toàn Thư” nghiên cứu trí tuệ quyền thuật và mưu lược trong xã hôi cổ đại. Cao Tự Tông đời Tống đã từng ca ngợi rằng: “Những mưu trí, thuật số, cách ứng biến của cuốn sách này, là tiêu chuẩn của người thời Chiến Quốc”; là “Kiệt tác của một thời”.“Quỷ Cốc Tử Mưu Lược Toàn Thư” và “Binh Pháp Tôn Tử” đều được mệnh danh là “Thánh điển binh thư”, trong đó “Binh pháp Tôn Tử” thiên về chiến lược tổng thể, còn “Quỷ Cốc Tử Mưu Lược Toàn Thư” lại thiên về kỹ xảo chiến lược tấn công, do đó hai cuốn sách này có thể sử dụng bổ trợ cho nhau.“Quỷ Cốc Tử Mưu Lược Toàn Thư” là sự hội tụ kiến thức xã hội chính trị thâm thúy, tài năng hùng biện cao siêu và quyền thuật mưu lược xuất sắc, nó mang ý nghĩa chỉ đạo sâu sắc cho người đời sau trong đối nhân xử thế, cũng như trong chính trị, thương trường. Có thể nói, giá trị của nó tồn tại mãi mãi.“Quỷ Cốc Tử Mưu Lược Toàn Thư” là tác phẩm duy nhất của phái Tung Hoành còn tồn tại tới ngaỳ nay, tiên phong trong việc sáng tạo ra thuật du thuyết Trung Quốc, từng được mọi người lý giải và vận dùng từ nhiều góc độ khác nhau.MUA SÁCH (TIKI) MUA SÁCH (TIKI)
Khuyến Học
Khuyến Học Khuyến Học Khuyến Học là tác phẩm có ảnh hưởng sâu rộng nhất đến công chúng Nhật Bản. Khi mới đựơc in lần đầu, cuốn sách này có một số lượng ấn bản kỷ lục là 3,4 triệu bản, trong khi dân số Nhật Bản thời đó chỉ khoảng ba mươi lăm triệu người. Fukizawa Yukichi đề cập tinh thần cơ bản của con người và mục đích thực thụ của học vấn. Với các chương viết về sự bình đẳng, ý nghĩa của nền văn học mới, trách nhiệm của nhân dân và chính phủ trong một quốc gia pháp trị… khuyến học đã làm lay chuyển tâm lý người Nhật Bản. Với tuyên ngôn “trời không tạo ra người đứng trên người và cũng không tạo ra người đứng dưới người”, Fukuzawa Yukichi đã gây kinh ngạc và bàng hoàng cho đa số người Nhật Bản vốn quen phục tùng phó mặc và e sợ quan quyền. Công Ty Nhật Bản Made In Japan: Chế tạo tại Nhật Bản Nghệ Thuật Bài Trí Của Người Nhật Fukuzawa Yukichi phê phán lối học “từ chương” và nhấn mạnh Nhật Bản phải xây dựng nền học vấn dựa trên “thực tế”. Nền học vấn thực học phải gắn liền với cuộc sống hằng ngày, phải dựa trên tinh thần khoa học, tinh thần độc lập, tính thực dụng. Việc tiếp thu văn minh phương Tây phải có chọn lọc. Quan điểm xuyên suốt cuốn sách là “làm thế nào để bảo vệ nền độc lập Nhật Bản” trong bối cảnh các cường quốc phương Tây đang muốn biến toàn bộ châu Á thành thuộc địa. Khuyến Học sẽ giúp độc giả Việt Nam hiểu rõ hơn những đặc điểm về tính các và tinh thần của người Nhật Bản hiện đại, những người từ thân phận nông nô “ăn nhờ ở đậu” nhờ có sự khai sáng đã trở thành “quốc dân” của một đất nước Nhật Bản hiện đại.