Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Về Nhà

“Về nhà” là cuốn sách quan trọng nhất, “là lý do để viết bộ sách này”. Không còn loay hoay với những câu hỏi như trong đời, đâu là việc chính, đâu là việc phụ, hay sống để làm gì, cuốn sách kể lại những nhân duyên đầu tiên – kỳ quặc, lạ lùng, đáng sợ hay vui vẻ - đã đưa chị trở lại căn nhà đích thực của mình – ngôi nhà bên trong thân và tâm, “nơi tất cả các ham muốn ghi nhận, ghi nhớ, ghi chép, suy luận, tư duy, kết nối, so sánh đều dừng bặt”. Cũng giống như hai cuốn trước, "Về nhà" được viết từ những ghi chép tỉ mỉ của tác giả về mọi việc xảy đến trong cuộc sống, và được chị tự biên tập cắt đi chỉ còn một nửa. *** Bộ sách gồm có Bất Hạnh Là Một Tài Sản: Một mình ở châu Âu Xuyên Mỹ Về Nhà *** Ngày quan trọng nhất Bắt đầu lại từ đâu? Đây là câu hỏi thường trực của mùa hè 2010 sau khi tôi từ Chicago chuyển tới California. Ly hôn là một cánh cửa mà ngay sau ly hôn, như người loanh quanh trên ngưỡng cửa, bạn không chắc bạn vừa bước ra hay vừa bước vào. Bạn thậm chí không chắc bạn bước ra khỏi cái gì và bước vào cái gì. Nhưng ngã ở đâu, bạn phải đứng lên ở đó. Một tuần sau khi tới San Jose, trong tình trạng tỉnh táo mà mê muội đặc thù của thời hậu ly hôn, tôi thuê nhà, nhận phòng làm việc, gặp đồng nghiệp mới, đăng ký ô tô, đổi bằng lái, mở tài khoản ngân hàng, làm tất cả giấy tờ để ổn định cuộc sống, rồi tất bật về Hà Nội giảng một khóa học ngắn về công tác xã hội với trẻ em và gia đình. Lớp học có gần trăm học viên, phần lớn là giảng viên các trường đại học hoặc cán bộ các bộ, sở, tổ chức phi chính phủ - đa phần hiểu biết hơn tôi về chính sách đối với trẻ em tại Việt Nam. Buổi đầu tiên lên lớp, tôi nhận thấy trong 98 học viên của lớp có một thành viên đặc biệt: một nhà sư mà các học viên gọi là “thầy Đạo.” Học viên trong lớp nói rằng thầy trụ trì một ngôi chùa ở ngoại thành Hà Nội. “Chùa ở trong làng cổ, đẹp lắm cô ạ. Hôm nào cô vào chơi.” Một buổi chiều, sau khi tan lớp, học viên rủ tôi đến thăm chùa. Từ trường, chúng tôi đi xe máy ra ngoại thành rồi men theo bờ sông qua một cây cầu xuống con đường đất nhỏ. Xe chạy trên đường đất hẹp dọc sông rất lâu, băng qua các làng cổ để tới một cổng sắt nhỏ dẫn vào ngôi chùa sát bờ sông. Bước qua cổng là khoảng sân rộng lát gạch đỏ có rất nhiều cây nhãn rợp bóng. Đập vào mắt tôi là hàng chục bức tượng Phật lớn bằng xi măng, mỗi tượng cao hơn hai mét, sắp hai hàng song song, chạy từ cổng về phía sau chùa. Khuôn mặt, trang phục, cách ngồi, và dáng tay của các tượng Phật này không hề giống các tượng tôi từng nhìn thấy. Phật ngồi trên tòa sen, đội mũ năm cánh, tóc dài dưới vành mũ, mắt dài nhìn hướng xuống dưới, bàn tay phải thì nắm lấy ngón trỏ của bàn tay trái ở phía trước ngực. Hàng tượng chạy ra sau chùa, ở đó là cánh đồng lớn xanh mướt và những bụi tre. Mặt trời lúc này bắt đầu xuống, hắt ánh nắng rạng rỡ lên hàng tượng Phật. Từ bé, tôi đã luôn cảm mến cảnh chùa nhưng gia đình tôi không theo tôn giáo nào nên một năm tôi chủ yếu đi chùa vào dịp Tết chứ chưa từng tham gia lễ bái, không biết các phong tục, nghi lễ, cũng chưa từng đọc kinh. Với tôi, đạo Phật chỉ lờ mờ trong các khái niệm phổ thông như Phật Bà Quán Âm, A Di Đà Phật, Tây phương cực lạc, Phật tổ Như Lai, nhân quả, hòa thượng, Niết Bàn mà tôi chủ yếu học từ... Tây du ký. Tôi đinh ninh rằng Phật (mà ở Việt Nam còn gọi là Bụt) cũng giống Chúa hay Allah - tức một đấng quyền năng mà người ta kêu cứu khi cùng đường. Tôi thậm chí đinh ninh “A Di Đà Phật” không phải tên một vị Phật mà là câu chào thông thường của người tu hành vì trong phim Tây du ký, rõ ràng Đường Tăng gặp ai cũng chắp tay cúi đầu “A mi thò phò!.” Lần đến chùa này là lần đầu tôi đến một ngôi chùa làng và cũng là lần đầu tôi nói chuyện trực tiếp với một nhà sư. Học viên lớp tôi đều gọi thầy Đạo là “thầy”, “sư phụ”, “cụ” hoặc “cụ chùa”, xưng con; thầy Đạo thì gọi mọi người là cô, chú, và xưng “thầy” hoặc “tôi”. Tôi không biết phải xưng thế nào nên cứ theo phép lịch sự và... dân chủ. “Thầy Đạo cho tôi hỏi, các tượng Phật kia là thế nào ạ?” “À, là Phật Tỳ Lô Giá Na cô giáo ạ.” Lần đầu tiên tôi nghe thấy tên Phật này. Tôi thấy nó vừa thú vị vừa quê quê với lối phiên âm tiếng Việt. “Thế sao tay của Phật lại thế kia ạ?” “À, đó là ấn trí quyền.” - thầy cười. Lại một từ nữa tôi không hiểu. Học viên trong lớp đã lấy ghế tập trung quanh tầng trệt của một nhà sàn gỗ hai tầng nằm giữa sân chùa. Nhiều học viên từng làm cán bộ đoàn lâu năm, thường xuyên phải hoạt động phong trào nên truyện cười, thơ văn, hát hò rất giỏi. Họ kể truyện cười, đọc thơ, vè, ứng khẩu tiếu lâm khiến tôi cười nghiêng ngả. Rồi chúng tôi nói chuyện gia đình, cuộc sống. Từ đầu khóa học đến giờ, tôi chỉ nói chuyện công việc với các học viên nhưng hôm nay, tôi cảm thấy có thể nói chuyện cuộc sống riêng của tôi với họ theo kiểu “người lớn với nhau.” “Chắc các bạn ở đây không biết chứ tôi...” - tôi mở đầu, định nói với họ rằng tôi đã từng kết hôn và bây giờ đã ly hôn. “Ôi cô ơi, mọi người biết hết rồi” - các học viên cười, cắt lời tôi - “Lý lịch của cô thế nào, chúng nó lên mạng điều tra hết rồi cô ạ.” “Thật à? Thế mà tôi cứ tưởng...” - tôi cố vớt vát chữa ngượng. “Cô cứ thoải mái đi, chúng em biết hết rồi.” Chúng tôi bắt đầu nói về tình yêu và hôn nhân. Các học viên hỏi tôi cảm thấy thế nào sau ly hôn. Tôi nói cũng tùy hôm; có hôm thì tôi thấy mình tự do, cuộc đời rộng mở trước mặt; có hôm thì tôi thấy cuộc đời tôi chỉ còn là một chuỗi ngày cầm cự với sự tuyệt vọng không đáy để chờ chết trong cô đơn. “Nhưng mà thực sự tôi không hề trách móc hay oán hận chồng cũ” - tôi nói. “Nếu thế thì có thể là cô chưa bao giờ yêu chồng cô” - một học viên nói - “Yêu thì nhất định phải đi kèm một ít ghen tuông, oán hận chứ ạ.” Tôi nói tôi không thấy thế. Thực sự không cảm thấy thế. Ly hôn chẳng liên quan gì đến tình yêu hay hận thù cả. Câu nói này của tôi lập tức làm nổ ra một cuộc tranh luận giữa các học viên về yêu - ghen - và hận. Nếu yêu mà không ghen thì có phải là yêu không? Yêu mà khi chia tay không hận đối phương một tí nào thì có phải là yêu không? Vô lý. Ớt nào mà ớt chẳng cay, gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng. Thế rồi, được, cứ cho là yêu có thể không ghen, thế chồng hay vợ nó đi ngoại tình thì sao? Có ghen không? Nếu nó say nắng, có tình cảm thật với đứa nào thì sao? Rồi nó ngu, nó không biết giữ gìn, nó có con với đứa khác, thì lúc đấy chia tay có hận không? Không bên nào chịu bên nào. Bên nào cũng có lý và có bằng chứng từ bản thân, từ “con bạn em”, từ “chị cùng cơ quan em”, từ “dì tớ”... Một học viên quay sang thầy Đạo: “Nhức đầu cụ nhỉ, như cụ sướng nhất, khỏi lắm chuyện phức tạp.” Thầy Đạo cười. “Có gì phức tạp đâu. Ở đời, người ta gặp nhau không ngoài chuyện ân oán; có ân thì báo ân, có oán thì báo oán. Vợ chồng cha mẹ anh em là duyên nợ, có duyên thì tụ, hết duyên thì tán. Cô giáo đã trả hết nợ hết duyên thì chia tay không thấy vướng mắc là bình thường mà.” Ha! Tôi chưa bao giờ nghĩ tôi với Sơn lấy nhau vì duyên số. Ừ thì người ta vẫn nói “Vợ chồng là duyên số” nhưng tôi luôn nghĩ đó là một câu dĩ hòa vi quý khi người ta không dùng điều gì khoa học hơn để giải thích được. Và thường chỉ áp dụng cho những người lười nghĩ, mê tín dị đoan, chứ không phải cho người như tôi. Duyên số thì, xin lỗi chứ, bố ai mà chứng minh được. Tôi như thế, Sơn như thế, gặp nhau như thế, tính cách như thế, vậy là chúng tôi lấy nhau. Đơn giản vậy thôi. Vậy mà sống với nhau thì không đơn giản chút nào. À nhưng không đơn giản cũng là vì tôi như thế... Sơn như thế... và chúng tôi là như thế, như thế... về mặt tính cách, xuất thân, hoàn cảnh, hành vi. Nghĩa là dĩ nhiên có thể giải thích được bằng các mô hình tâm-sinh-lý xã hội chứ không phải một thứ duyên số định sẵn nào tồn tại trước cả khi chúng tôi biết nhau. Nhưng mà biết đâu có duyên số thật nhỉ? Lẽ nào những đau khổ tôi phải trải qua là do tôi đã nợ gì Sơn và bây giờ phải trả? Tôi đã làm gì sai? Trong đời này, tôi có thể không hổ thẹn mà nói rằng tuy tôi không hoàn hảo gì nhưng quả thực là tôi ít làm điều ác, cũng ít nghĩ điều ác hay nói điều ác - điều ấy thì tôi tự biết. Với Sơn cũng như với những người quanh mình, tôi có thể đếm chưa hết một bàn tay những lần mà tôi nổi giận. Thế thì có kiếp trước chăng? Tôi đã nợ gì Sơn từ kiếp trước chăng? Từ bé đến giờ, không ít lần những người gặp tôi lần đầu (như ở sân bay) cứ tự động “phán” rằng tôi có “quý nhân phù trợ”, có “năng lực tâm linh đặc biệt”, có “nhiều phước báu”, có “tiên cốt” với “đạo cốt”, còn tôi thì luôn nghĩ các “thánh phán” này muốn phỉnh tôi lấy tiền hoặc bị tẩu hỏa nhập ma do đọc quá nhiều sách huyền thuật. Nếu quả có kiếp trước tức là sống và chết và tất cả những gì chúng ta làm giữa hai mốc đó đều phải được xem xét lại. Cũng tức là có cái lớn hơn thế giới vật chất mà ta thấy bằng mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, này chăng? Cũng tức là chùa chiền, Phật, Chúa thánh thần không phải chuyện mê tín dị đoan, thậm chí không phải một liệu pháp an tâm, một thứ tín ngưỡng hay tập tục văn hóa mà ẩn chứa một sự thật tôi chưa từng biết đến? Có thể nào những hủ tục, tín điều, lễ nhạc ma mị mà người ta phủ lên đạo Phật đã làm người ta hiểu nhầm một hệ thống giải thích thế giới rốt ráo và triệt để? Ít nhất thì, ngay cả khi không hiểu gì về đạo Phật, tôi vẫn thấy khái niệm nhân quả có lý hơn việc cho rằng có một đấng Chúa Trời nặn ta ra từ đất sét và định đoạt cuộc đời ta. Rút cục là thế nào đây? “Trông cô giáo cứ ngơ ngơ ngác ngác buồn cười quá” - thầy Đạo cười - “Thôi ăn cơm đi các cô các chú.” Chúng tôi ăn cơm chay. Đây cũng là lần đầu tiên tôi ăn cơm chay chùa. Tôi không ăn hết được cả đĩa lớn mà học viên lấy nên bỏ lại gần nửa. “Cô chưa ăn cơm chay bao giờ phải không cô?” - một học viên thì thầm với tôi sau khi bữa cơm được dọn đi. “Chưa.” “Ăn cơm chay ở chùa không được bỏ thừa đâu cô ạ” - học viên cười - “một hạt cơm chùa là 72 công đức đấy.” “Thế à? Chết, tôi không biết.” Quá nhiều thứ ở Việt Nam, thuộc về văn hóa bình dân của người Việt Nam mà tôi không hề biết. Lần đầu tiên tôi cảm nhận rõ mình là người Việt, sinh ra và lớn lên ở Việt Nam mà chẳng hiểu gì về lịch sử, văn hóa, tâm lý đích thực của dân tộc mình, về hành vi của những người gọi là “đồng bào mình”. Tức là hiểu họ như họ đang-là chứ không phải như tôi nghĩ hoặc muốn họ là. Tôi thực sự đã lớn lên, đã tuần tự đi học đến hết đại học, rồi ở Mỹ suốt mười năm qua; chủ yếu chỉ có hiểu biết giáo khoa, bó hẹp trong thế giới gồm toàn trí thức đô thị, trong khi đến hơn bảy mươi phần trăm người Việt Nam vẫn ở nông thôn và vận hành một cách có ý thức hoặc vô thức trên các nền tảng văn hóa nông thôn này. Sau bữa ăn, chúng tôi uống trà rồi đi dạo tản mát quanh chùa. Mặt trời đã xuống, gió thổi nhẹ, không gian vẳng tiếng chim và tiếng gà lên chuồng. Rồi trời bắt đầu tối. Thầy Đạo bảo một chú tiểu mở cửa “Tổ Đường” cho chúng tôi vào ngắm “xá lợi”. Lại một từ nữa lần đầu tiên tôi được nghe. “Xá lợi là gì ạ?” “À, khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn thì kim thân của Ngài được các đệ tử hỏa thiêu; sau khi thiêu thì còn lại các hạt xá lợi này. Mỗi bộ phận trên nhục thân của Phật sẽ để lại các loại xá lợi khác nhau; có xá lợi răng, xá lợi tóc, xá lợi xương... mỗi thứ một màu. Rồi còn có xá lợi của các Bồ Tát, thánh tăng, các tổ. Nếu mình tu tập tinh tiến, giữ gìn giới luật nghiêm cẩn, thì xá lợi sẽ tự sinh sôi...” “Cái gì ạ?” “Cô giáo không tin phải không?” - thầy Đạo cười - “người nào thờ xá lợi, kể cả tu sĩ hay cư sĩ tại gia, mà nghiêm trì giới luật, tinh tiến tu hành thì xá lợi từ một viên sẽ nhân hai, nhân bốn, nở đầy ra. Còn nếu không tu hành thì xá lợi sẽ tiêu dần, tiêu dần, rồi biến mất... vi diệu không?” Vâng, “vi diệu” ạ - tôi nghĩ. Nhưng nhất định phải có một cách giải thích khoa học nào đó. Có thể các nhà sư quen ăn một số thực phẩm nhiều canxi hay chất gì đó nên hóa chất đọng lại trong cơ thể thành “xá lợi” giống như sỏi thận. Hoặc Đức Phật là người ở Ấn Độ, xứ đó nóng, thực phẩm dễ hỏng, mà ngày xưa không có tủ lạnh nên người ta quen bảo quản thực phẩm bằng cách tẩm ướp trong các loại gia vị nóng, cay thì có thể lâu dần các vi chất đọng lại và nóng chảy trong quá trình hỏa thiêu. Khi các viên “xá lợi” này gặp xúc tác trong môi trường bình thường thì giãn nở hoặc co lại. Chứ một thứ vô tri vô giác làm sao có thể tự sinh sôi nảy nở? “Chà, không có khoa học thì người ta dễ mê tín thật” - tôi thầm nghĩ - “Thế kỷ 21 rồi mà vẫn còn tin rằng sấm chớp mây mưa là do thần sấm thần sét tạo ra; giàu nghèo, sướng khổ do ai đó ban ơn cho mình. Vậy nên Việt Nam cứ nghèo mãi.” Chúng tôi ở lại uống trà, nói chuyện với thầy Đạo đến khuya mới về. Buổi tối, chùa lộng gió, ếch nhái, côn trùng râm ran. Khung cảnh làng quê thanh bình này đã hàng chục năm rồi tôi không thấy. Từ chùa về, tôi ghi trong nhật ký của mình: “Đây có thể là một trong những ngày quan trọng nhất của đời tôi”. Một cách lờ mờ, tôi nghĩ rằng tôi hoàn toàn mất gốc, tôi không hiểu gì về văn hóa Việt Nam, nhất là cái gốc văn hóa nông thôn, văn hóa tâm linh ăn sâu vào người Việt. Tôi lại cũng nghĩ giờ tôi đã hoàn thành việc học hành của đời mình, nếu tôi muốn trở lại Việt Nam làm công tác xã hội, thì không có cách nào khác là tôi phải hiểu rõ cái làm nên tâm lý, hành vi các cá thể cũng như tâm lý tập thể của người Việt Nam. Nhưng hóa ra tâm thức của chúng ta thường biết những điều mà lý trí có thể phải mất một thời gian dài mới theo kịp. Không lâu sau buổi đến chùa này, tôi trở lại San Jose và mọi việc trôi dần trong những lo toan hằng ngày, cho đến khi một việc xảy ra với tôi: tôi gặp ma. Mời các bạn đón đọc Về Nhà của tác giả Phan Việt.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tây Tạng Giọt Hoa Trong Nắng - Văn Cầm Hải
Được nuôi dưỡng trong nguồn sáng Himalaya, Tây Tạng không bao giờ thiếu vắng ánh nắng. Nắng chiêu đãi cả những gốc cây cọng cỏ, nắng trải thảm trên hàng mi, nắng hoen men môi má, nắng bao dung cử chỉ nhưng tôi không cảm thấy mệt lòng vì sự tù túng, ngược lại trong nguồn sáng bao la của nắng, lần đầu tiên tôi nhìn thấy vẻ đẹp kịch tính con người nguyên thuỷ trong một thế giới phi hình thể. Mọi khái niệm và cảm giác bỗng nhiên tan biến nhường lại cho đôi mắt tha hồ say ánh nhìn tự do! Tây Tạng-Giọt hoa trong nắng không chỉ đơn thuần là cuốn sách kể về hành trình xuyên Tây Tạng của Văn Cầm Hải. Tác giả không dừng lại ở việc miêu tả sự khám phá về nền văn hóa này mà còn lồng vào đó nhiều bài học cuộc sống, những suy nghiệm Phật giáo. Đọc quyển sách này, độc giả không những biết được các phong tục của người Tây Tạng mà còn cùng tác giả khám phá những mảnh đời nhỏ bé nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa nhân sinh của những người dân nơi đây. Tất cả đều được Văn Cầm Hiểu với giọng văn giàu chất thơ, đầy tính nhạc. Dưới cái nhìn của tác giả, dòng sông Yarlung Tsangpo cũng đặc biệt như…triết học bởi vì: Sông Brahmaputra, dòng sông cao nhất thế giới, cũng có tên gọi Yarlung Tsangpo chính là dòng nước chấp chới đàn bướm ánh sáng đang rập rờn chảy qua trước mắt tôi. Dòng sông cũng như một khái niệm triết học. Nhờ sông, trẻ thơ được trở mình lớn dậy và người già lại hồn nhiên trở về những ngày tinh khiết khi tâm linh chưa hề nhám bụi trần ai. Vì những đặc điểm trên, khó có thể nói tác phẩm này chỉ đơn thuần thuộc thể loại du kí bởi nó như một tập tùy bút đầy cảm xúc và sự phóng khoáng, một tập truyện ngắn với những câu chuyện xúc động, một cuốn sách Thiền với nhiều triết lí để chiêm nghiệm. *** T ôi xin cảm ơn Hữu Thu và Seraphin Trần Đình Quyền, nếu không dành cho tôi sự tận tuỵ giúp đỡ với tấm lòng nhẹ nhàng của các anh, tôi không thể đặt chân lên Tây Tạng. Tôi gửi đến người anh em Seraphin Nguyễn Gia Long, Trần Thức, Pan Phùng Phu, Nguyễn Văn Cao, Trần Trung Hỷ, nguời hiền Nguyễn Thiên Hương, Nguyễn Trinh Sơn và những người bạn lòng biết ơn vì sự chia sẻ trong những ngày nhớ về Tây Tạng. Và dĩ nhiên, Cao Quan Hong, không đi hoang cùng anh, tôi khó lòng thấy được Tây Tạng trong con mắt thứ ba của mình. Cuối cùng, xin một lời kinh cảm tạ những vị thầy, những linh hồn gia đình mà từng chữ trong tập sách này quán tưởng đến. Văn Cầm Hải *** Văn Cầm Hải Tên thật: Nguyễn Thanh Hải Sinh ngày 20/01/1972 Quê: Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình -          Tốt nghiệp cử nhân văn học 1992 -          Tốt nghiệp cử nhân luật 2000 -          Tu nghiệp báo chí tại Hà Lan 2002 Tác phẩm: -          Người đi chăn sóng biển - Thơ, Nxb Trẻ, 1995 -          Trên dấu chim di thê - Ký, Nxb Trẻ, 2002 -          Tây Tạng, giọt hoa trong nắng - Ký, Nxb Trẻ, 2004 *** Tây Tạng Giọt Hoa Trong Nắng gồm có: Sợi lông nách của hành tinh xanh Những con ong mật Như Lai Tây Tạng - Giọt hoa trong nắng Bí ẩn trong đôi mắt thiên định ánh sáng Phép giải thoát trên thi hài người chết Vị âm công và tục điểu táng Vũ công không gian trong nhà thổ Lhasa Người đàn bà Tsangfu Dặm đường thần chú Tiếng hát bất tử trên Himalaya Huyền Trân công chúa trên đất Tây Tạng Tây Tạng trong con mắt thứ ba của tôi Mời các bạn đón đọc Tây Tạng Giọt Hoa Trong Nắng của tác giả Văn Cầm Hải.
Hà Nội Ta Đánh Mỹ Giỏi - Nguyễn Tuân
Nói về đóng góp của Nguyễn Tuân qua tập tùy bút "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi", nhà văn Nguyễn Đình Thi nhận định: "Tập tùy bút ấy là đóng góp của Nguyễn Tuân trực tiếp đánh Mỹ". Cũng tương tự, nhưng cụ thể hơn, nhà phê bình văn học Phan Cự Đệ cho rằng, với "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi", Nguyễn Tuân đã "đánh địch với tư thế của một dân tộc đi tiên phong trên tuyến đầu chống Mỹ, với lòng tự hào của một dân tộc đang chiến thắng". Nếu như tập tùy bút "Sông Đà" được xem là tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Tuân về đề tài xây dựng CNXH thì tập tùy bút "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi" lại được xem là tác phẩm tiêu biểu của ông về đề tài đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Cả hai tác phẩm đều giống nhau là có cái tên nghe rất mộc mạc, đọc lên là thấy ngay được chủ đề, khác xa với cách đặt tít điệu đàng của nhà văn - kiểu như "Vang bóng một thời" trước đây. Tuy nhiên, tên sách mộc mạc thì mộc mạc vậy, song dồn nén trong đó là biết bao tâm huyết, trí tuệ, tình cảm. Có trường hợp, như với cuốn "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi", để thu thập, tìm kiếm tư liệu, tác giả đã không ngại ngần đối mặt với hiểm nguy... Tập tùy bút Hà Nội Ta Đánh Mỹ Giỏi gồm có: Ở mặt trận Hà Nội Hà Nội giải tù Mỹ qua phố Hà Nội Cho giặc bay Mỹ nó ăn một cái Tết ta Nôen Mỹ Đèn điện phố phường Hà Nội vui sáng hơn bất cứ lúc nào Có ba phi công Mỹ đi bộ trong chợ hoa sơ tán Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi Nhớ Huế Sài Gòn tống Mỹ Bên ụ súng Hà Nội, một đám cưới phòng không Nó bê-năm-hai phố Khâm Thiên Tái bút (12-1973) Vụn B.52 và hoa Hà Nội chiến thắng Đất cùng trời toàn cõi ta, từ đây sạch hẳn bóng nó Vậy mà đã một năm chiến thắng B.52 Đêm xuân năm Hổ này, nằm ngẫm thêm về bầy hổ Mỹ Những ai từng có mặt tại 51 Trần Hưng Đạo, trụ sở Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam trong 12 ngày đêm năm ấy (1972), hẳn không quên được hình ảnh một lão nhà văn: Mỗi lần nghe tin B52 Mỹ đánh bom, với chiếc mũ sắt đội đầu (do báo Văn nghệ cấp cho cộng tác viên), ông lại tìm đến tận nơi xảy ra chiến sự để hỏi han, ghi chép. Lão nhà văn mặc dù đã ở tuổi ngoại lục tuần song vẫn có cách tác nghiệp như thể một phóng viên mặt trận ấy chính là nhà văn Nguyễn Tuân - tác giả của tập tùy bút "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi" nức tiếng một thời.   Lý do gì mà một tên tuổi như Nguyễn Tuân - người luôn được xem là một vốn quý của văn học đất kinh kỳ - lại quyết bám trụ với Thủ đô tới cùng, quyết không chịu đi sơ tán theo chủ trương của cơ quan? Nhà văn Ngọc Trai, trong cuốn "Trò chuyện với nhà văn Nguyễn Tuân" (NXB Hội Nhà văn, 2010) đã ghi lại lời tâm sự của cụ Nguyễn như sau: "Mình sống được như thế này là lãi rồi, cần trốn tránh làm gì nữa! Bây giờ mình Sống mãi với Thủ đô thôi". Nhà phê bình Mai Quốc Liên, trong một bài viết về nhà văn Nguyễn Tuân in trên tạp chí Hồn Việt cách đây ít lâu cũng ghi lại lời cụ Nguyễn: "Mình là người viết văn, nhà văn Việt Nam. Trong khi Thủ đô - trái tim của cả nước - lâm nguy mà mình bỏ Hà Nội mình đi, thì còn viết cái gì, mình còn ra gì nữa ông?".   Không chỉ vì sự gắn bó, thủy chung với Hà Nội, việc lão nhà văn quyết ở lại "Sống mãi với Thủ đô" (như tên một cuốn tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng) còn bởi bấy giờ, ông đang ấp ủ việc hoàn tất tập bút ký "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi". Cuốn sách đã được Hội Văn nghệ Hà Nội cho xuất bản ngay sau trận bom Mỹ cuối cùng chấm dứt (ngày 30-12-1972). Bài cuối cùng của tập sách là bài "Nó bê - năm - hai phố Khâm Thiên" được lão nhà viết ngay sau khi B52 Mỹ trút bom rải thảm hủy diệt một trong những khu dân cư đông đúc nhất Hà Nội lúc bấy giờ (vào đêm 26, rạng ngày 27-12-1972). Điều này chứng tỏ ngòi bút Nguyễn Tuân đã ứng trực rất kịp thời, và việc ra sách cũng nhanh đến… kỷ lục.   Thật ra, "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi" không chỉ nói về việc quân dân Hà Nội đánh trả và đánh thắng không lực Mỹ trong trận "Điện Biên Phủ trên không". Nhiều bài trong tập được Nguyễn Tuân viết ra từ mấy năm trước. Tập sách cũng không chỉ nói riêng việc Hà Nội đánh Mỹ (trong tập còn có bài "Sài Gòn tống Mỹ" và bài "Nhớ Huế" nói về cuộc tổng tấn công Xuân Mậu Thân 1968 ở Huế). Bản thân bài "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi" cũng được Nguyễn Tuân viết trước đó 5 năm. Tuy nhiên, nếu không có những bài viết đề cập tới cuộc chiến long trời lở đất diễn ra ngay tại "trái tim của cả nước" suốt 12 ngày đêm năm ấy, hẳn cuốn sách sẽ không có được sức nặng như nó cần phải có. Và nếu không được ra mắt bạn đọc đúng thời điểm ấy, thì hẳn cái tên của cuốn sách cũng phần nào giảm ý nghĩa. Đó như thể một thứ Huân chương Chiến công kịp thời đính lên ngực Thủ đô vậy.   Liên quan đến tên gọi của cuốn sách, có một giai thoại vui. Hẳn nhiều người trong chúng ta còn nhớ mấy câu thơ của Tố Hữu (trong trường ca "Theo chân Bác"): "Ôi! Nụ cười vui của Bác Hồ/ Miền Nam đánh giỏi, Mỹ thua to". Hình như trong tâm lý mọi người, chữ "giỏi" là cách nói của người bề trên khi nhận xét về người bề dưới, chí ít thì cũng là người lớn nói với trẻ con, thầy cô nói với học trò. Việc nhà văn Nguyễn Tuân dùng chữ "giỏi" để ngợi khen Thủ đô Hà Nội nghe ra có vẻ gì đó không… thuận?   Quả y như rằng, thoạt nghe cái tên này, nhà văn Tô Hoài đã yêu cầu tác giả phải… đổi.   Bấy giờ nhà văn Tô Hoài là Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội, là nơi cấp giấy phép cho in cuốn sách. Theo ý Tô Hoài thì đặt tên "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi" cứ y như mình "đang đứng ở bề trên mà ban khen cho Hà Nội vậy". Nguyễn Tuân nghe vậy nổi đóa: "Ba cái anh duyệt bài là hay chúa suy diễn. Tôi không có đứng trên đứng dưới cái gì sất, chỉ có điều là tôi không chịu được cái gì chung chung. Tôi nói Hà Nội ta là Hà Nội của chúng ta đây! Hà Nội của ta đây! Tôi tự hào với cái Hà Nội của ta, thế có được không? Thế còn đánh Mỹ giỏi thì phải nói rõ ra là đánh Mỹ giỏi chứ chỉ đánh Mỹ thì ai biết ta đánh Mỹ như thế nào? Một cái tên sách, nó cũng là cái tên sách của tôi, sao ông cứ bắt tôi phải giống mọi người? Nếu ông làm biên tập mà cứ muốn gọt tôi cho tròn vo như vậy, không có cá tính không còn gì của riêng tôi nữa thì thôi, để sách đó, tôi không in nữa". Tô Hoài nghe vậy đành chịu (xem "Trò chuyện với nhà văn Nguyễn Tuân" của Ngọc Trai).   Tập tùy bút "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi" trong lần in đầu gồm cả thảy 11 bài, dài ngót hai trăm trang, nội dung cơ bản đề cập tới cuộc đối đầu của quân dân Hà Nội với không lực Mỹ (có tới hơn 30% tên bài chỉ đích danh giặc lái Mỹ như: "Hà Nội giải tù Mỹ qua phố Hà Nội", "Cho giặc bay Mỹ nó ăn một cái tết ta", "Có ba phi công Mỹ đi bộ trong chợ hoa sơ tán", "Nó bê - năm - hai phố Khâm Thiên"). Có bài, như bài "Đèn điện phố phường Hà Nội vui sáng hơn bất cứ lúc nào", tên thì vậy song nội dung cũng chủ yếu xoay quanh cuộc thẩm vấn của lão nhà văn với một phi công Mỹ - tức Thượng nghị sĩ John McCain hiện nay, người vào năm 2008 từng là ứng viên Tổng thống Mỹ. Đây là bài viết dài nhất trong tập và theo suy nghĩ của cá nhân tôi - cũng là bài viết đặc sắc nhất trong "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi".   Nhiều người đã biết, máy bay của phi công John McCain đã bị bắn rơi ngày 26 - 10 - 1967 khi thực hiện phi vụ đánh bom Hà Nội. Khi nhảy dù, John McCain rơi xuống hồ Trúc Bạch và được dân quân tự vệ của ta vớt lên, đưa tới bệnh viện. Sau này, ông John McCain từng có những phát biểu "tiền hậu bất nhất" về cách hành xử của các cán bộ quản giáo Việt Nam đối với ông thời kỳ ông là tù binh chiến tranh ở Việt Nam. Và đã có lần ông phải lên tiếng xin lỗi Chính phủ và nhân dân Việt Nam về những phát biểu đó.   Bài tùy bút "Đèn điện phố phường Hà Nội vui sáng hơn bất cứ lúc nào" của nhà văn Nguyễn Tuân đã phơi mở cho chúng ta thấy chính sách nhân đạo của Nhà nước Việt Nam trong việc đối xử với tù binh nói chung và với cá nhân Thiếu tá phi công John McCain nói riêng. Trong bài tùy bút, Nguyễn Tuân gọi McCain theo cách ông phiên âm ra tiếng Việt là Mích Kên. Ông kể, khi ông đến để "hỏi chuyện" Mích Kên, bác sĩ đã dặn ông là Mích Kên còn mệt, cần cho an dưỡng nên bớt cho ông ta những câu hỏi hóc búa, chưa nên để Mích Kên "phải động não suy nghĩ nhiều". Và nhà văn già "tôn trọng lời dặn của bác sĩ, tôi đành tạm cất đi mấy câu đó" (tức mấy câu phỏng vấn "chát chúa").   Khi Mích Kên ngỏ ý "Xin ông một điếu thuốc lá", thì nhà văn lớn của Việt Nam trực tiếp cắm thuốc và bật diêm cho Mích Kên hút. Theo mô tả của Nguyễn Tuân thì hành động của ông đã khiến viên phi công Mỹ phải nhiều lần nghển đầu cảm ơn. Cũng tại cuộc "chất vấn" này, Nguyễn Tuân đã nói cho Mích Kên hay, việc ông ta còn sống sau lần máy bay bị bắn hạ không phải vì "Chúa Trời nào đã cứu sống anh đâu mà chính là vì những người dân Hà Nội chân chính đó đã hết sức tôn trọng phép nước đối với tù binh Mỹ bị bắt sống".   Theo phân tích của Nguyễn Tuân, những người bơi ra vớt Mích Kên ở hồ Trúc Bạch hôm ấy hoàn toàn có thể giết chết ông ta vì họ từng là nạn nhân của bom đạn Mỹ. Cuối buổi trò chuyện, Mích Kên thổ lộ "Có lẽ sau này tôi sẽ xin đi làm quản lý ở một công ty nào" và "Tôi là một người đang thấy cần phải có hòa bình và mong chiến tranh kết thúc". Ra về, Nguyễn Tuân đã để cả chỗ thuốc lá còn lại cho Mích Kên.   Đọc tập tùy bút "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi", điều ta nhận thấy trước nhất là tác giả rất chịu khó thu thập thông tin khiến cho câu chuyện luôn đầy ắp các dữ liệu và rất sinh động. Nghệ sĩ nhân dân Đình Quang, trong bài "Nâng chén rượu xuân, nhớ nhà văn Nguyễn Tuân" (sách "Tạp văn", NXB Sân khấu, 2012) cho hay: Một lần cụ Nguyễn chống ba toong đến nhà ông chơi. Cụ đưa ra cho Đình Quang một tờ báo tiếng Đức, bảo Đình Quang dịch xem người ta nói về khách sạn Hilton thế nào. Cụ Nguyễn hỏi đi hỏi lại từng chi tiết rồi lặng suy nghĩ. Chỉ tới khi "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi" ra đời, Đình Quang mới hiểu: Cụ Nguyễn muốn tìm hiểu ngọn ngành một địa chỉ trước khi nhắc tới nó trong trang sách của mình. Nói về đóng góp của Nguyễn Tuân qua tập tùy bút "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi", nhà văn Nguyễn Đình Thi nhận định: "Tập tùy bút ấy là đóng góp của Nguyễn Tuân trực tiếp đánh Mỹ". Cũng tương tự, nhưng cụ thể hơn, nhà phê bình văn học Phan Cự Đệ cho rằng, với "Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi", Nguyễn Tuân đã "đánh địch với tư thế của một dân tộc đi tiên phong trên tuyến đầu chống Mỹ, với lòng tự hào của một dân tộc đang chiến thắng"  *** Nguyễn Tuân (10 tháng 7 năm 1910 – 28 tháng 7 năm 1987) quê ở Hà Nội, là một nhà văn nổi tiếng của Việt Nam, sở trường về tùy bút và kí, được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996. Tác phẩm của Nguyễn Tuân luôn thể hiện phong cách độc đáo, tài hoa, sự hiểu biết phong phú nhiều mặt và vốn ngôn ngữ, giàu có, điêu luyện. Sách giáo khoa hiện hành xếp ông vào một trong 9 tác gia tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Ông viết văn với một phong cách tài hoa uyên bác và được xem là bậc thầy trong việc sáng tạo và sử dụngtiếng Việt. Hà Nội có một con đường mang tên ông. Nguyễn Tuân mất tại Hà Nội vào năm 1987. Năm 1996 ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I). Mời các bạn đón đọc Hà Nội Ta Đánh Mỹ Giỏi của tác giả Nguyễn Tuân.
Sen Nở Trời Phương Ngoại
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) Sen Nở Trời Phương Ngoại của tác giả Thích Nhất Hạnh. Kinh Pháp Hoa là một kinh rất nổi tiếng, có thể nói là một kênh nổi tiếng nhất của đạo Bụt Đại Thừa. Tư tưởng tôn xưng kinh Pháp Hoa là vua của tất cả các kinh đã có từ lâu. Chính nhờ kinh Pháp Hoa mà đạo Bụt Đại Thừa trở thành một cơ sở có căn bản, có truyền thống và biến thành một Giáo hội thực sự với việc tuyên thuyết hai thông điệp chính: (1) Tất cả chúng sinh đều có thể thành Bụt, (2) Chỉ có một con đường tu học duy nhất là Phật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sinh buổi ban đầu. Chủ đích quan trọng nhất của chư Bụt là hướng dẫn chúng sinh đi vào con đường Phật thừa, tức là con đường Khai, Thị, Ngộ, Nhập tri kiến của Bụt. Vì vậy mà triết lý này được gọi là Khai tam hiển nhất, hay là Hội tam quy nhất, nghĩa là gom cả ba cái lại để đưa về một cái. Ðiều đó làm cho kinh Pháp Hoa trở thành Diệu Pháp. Với Sen nở trời phương ngoại, Thiền sư Thích Nhất Hạnh sẽ không giảng từng đoạn kinh Pháp Hoa như nhiều người khác đã làm, mà chỉ đi vào từng Phẩm, tóm lược nghĩa chính của từng Phẩm, khai triển, và diễn dịch những điều căn bản trong từng Phẩm, để quý vị độc giả có được một cái thấy tuy khái quát nhưng rõ ràng về ý kinh. Riêng Phẩm Quán Thế Âm Bồ tát tức là Phẩm Phổ Môn, Phẩm thứ 25, vì là Phẩm được nhiều người tụng đọc nhất trong toàn bộ kinh Pháp Hoa, nên Thiền sư sẽ giảng với nhiều chi tiết hơn. Thêm vào đó, Người cũng sẽ đưa ra một số đề nghị để đóng góp cho sự hoàn bích của đóa hoa đẹp nhất trong Vườn kinh điển Đại Thừa này. *** Tóm tắt Cuốn sách "Sen nở trời phương ngoại" của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một tác phẩm giảng giải kinh Pháp Hoa, một trong những kinh điển quan trọng nhất của Phật giáo Đại thừa. Kinh Pháp Hoa được xem là "vua của tất cả các kinh" và chứa đựng những giáo lý cốt lõi của Phật giáo Đại thừa, bao gồm: Tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Chỉ có một con đường tu học duy nhất là Phật thừa. Cuốn sách được chia thành 25 chương, tương ứng với 25 phẩm của kinh Pháp Hoa. Mỗi chương sẽ tóm lược nghĩa chính của từng phẩm, khai triển và diễn dịch những điều căn bản trong từng phẩm, để giúp độc giả có một cái thấy tuy khái quát nhưng rõ ràng về ý kinh. Review Cuốn sách được viết theo một cách dễ hiểu, dễ tiếp cận, phù hợp với cả những người mới bắt đầu tìm hiểu Phật giáo và những người đã có kinh nghiệm. Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã sử dụng nhiều ví dụ và hình ảnh minh họa để giúp người đọc dễ dàng hiểu được những khái niệm trừu tượng của giáo lý Phật giáo. Cuốn sách đã cung cấp cho người đọc một cái nhìn toàn diện và sâu sắc về kinh Pháp Hoa. Người đọc sẽ hiểu được những giáo lý cốt lõi của Phật giáo Đại thừa, cũng như cách áp dụng những giáo lý đó vào cuộc sống hàng ngày. Một số đánh giá của độc giả "Cuốn sách "Sen nở trời phương ngoại" đã giúp tôi hiểu được những giáo lý cao đẹp của kinh Pháp Hoa. Tôi đã áp dụng những giáo lý đó vào cuộc sống hàng ngày và thấy cuộc sống của mình trở nên ý nghĩa hơn."  "Cuốn sách giúp tôi hiểu được con đường tu học Phật giáo Đại thừa. Tôi đã quyết tâm đi theo con đường đó để đạt được giác ngộ."  "Cuốn sách là một tác phẩm tuyệt vời. Nó đã giúp tôi mở mang tầm hiểu biết về Phật giáo."  Kết luận Cuốn sách "Sen nở trời phương ngoại" là một tác phẩm đáng đọc đối với tất cả những ai quan tâm đến Phật giáo, đặc biệt là Phật giáo Đại thừa. Mời bạn đón đọc Sen Nở Trời Phương Ngoại của tác giả Thích Nhất Hạnh.
Châu Âu Có Gì Lạ Không Em?
Cuốn sách là những ghi chép và mô tả của tác giả về hành trình du lịch của bản thân qua một số quốc gia châu Âu, từ đó chia sẻ những trải nghiệm chân thực và mới mẻ về văn hóa, lịch sử, ẩm thực và con người nơi xứ lạ.  Châu Âu có gì lạ qua đôi mắt của Misa Gjone? Đó là một châu Âu cổ kính với những công trình kiến trúc lâu đời. Đó là một châu Âu đáng yêu với những sắc màu rực rỡ của chậu phong lữ, trái rừng chín mọng. Đó là một châu Âu sôi động với hội hè miên man; những lần đi hytte, những buổi fika cùng gia đình và bạn bè. Đó còn là một châu Âu đầy “tội lỗi” với những cô nàng mang ánh mắt khắc khoải trên phố đèn đỏ, những mảng sáng – tối đối lập chan chát của cuộc sống hiện đại… *** Review của #RinBaBa về sách Châu Âu Có Gì Lạ Không Em:   Cuốn sách này ngọt ngào hơn mình tưởng. Làm mình nhớ tới bộ phim "Me before you". Tự dưng thế thôi! Mình đã đi Châu Âu bao giờ đâu, nhưng xem phim ảnh thì cũng thấy vài nơi. Tuy vậy, xem và trải nghiệm khác nhau lắm. Qua đôi mắt của tác giả thì Châu Âu trong cảm nhận của mình không còn mang vẻ lạnh lùng và xa lạ nữa. Châu Âu lạ lắm, lãng mạn, êm đềm và say say lòng như những cơn gió thu. Mới đọc vài bước trong hành trình của tác giả thôi. Yêu lắm! Tối nay ôm đọc hết. *** Đã từng có một thời, tôi mê mẩn những cuốn sách du ký của các tác giả hàng đầu thế giới trong lĩnh vực này. Thế giới hiện lên một cách sống động, chân thực và đầy góc cạnh sáng tối qua ngòi bút của họ. Bây giờ, tôi vẫn đọc những cuốn sách như thế, của các cây bút trẻ hơn và tôi cũng bắt đầu dành sự quan tâm lớn hơn cho các tác giả Việt. Sách của họ bắt đầu dày lên, chiếm nhiều diện tích hơn trong những thư viện, hiệu sách, ở khu mà tại các hiệu sách lớn của nước ngoài luôn là khu rất lớn, phía trên có gắn dòng chữ “travel”. Không nghi ngờ gì nữa, người Việt ngày càng đi nhiều ra thế giới. Họ không chỉ đi, ngắm nghía, trải nghiệm, thu nhận những điều hay ho, tích cực (và cảm nhận cả những điều tiêu cực), họ còn viết nữa. Đương nhiên, không phải ai trong số họ cũng là nhà văn. Nhiều trong số họ là du học sinh hoặc người Việt sống ở nước ngoài và họ viết rất khác với những tác giả du ký phương Tây. Bởi họ là người Việt, họ nhìn thế giới qua góc nhìn, văn hóa, ngôn ngữ và cảm nhận của người Việt. Đấy không phải là những cuốn sách nghiên cứu về thế giới mà là tập hợp các ghi chép lại về những nơi họ đã đi qua, những gì họ đã ăn, những người họ đã yêu hoặc ghét, những kỷ niệm họ đã có. Họ chính là cầu nối giữa người Việt ở trong nước với thế giới, đưa độc giả theo chân họ ra nước ngoài và truyền cho độc giả cảm hứng đi. Lê Thị Ngọc Quyên hay Misa Gjone, cũng không phải là một nhà văn. Nhưng cô gái trẻ này từ lâu đã được nhiều người biết đến qua blog mang biệt danh của cô. Đấy không phải là một nơi post ảnh đẹp và những dòng văn hay mà là một cửa sổ đưa độc giả ra thế giới, cũng là một kênh để cô trải lòng mình sau những chuyến đi. Tôi đã có lần vào đọc blog của cô và nghĩ: Thật tiếc nếu Quyên không in những câu chuyện của mình thành sách nhỉ? Bây giờ thì câu hỏi ấy đã có lời đáp. Quyên đã in sách và đó chính là cuốn sách mà các bạn đang cầm trên tay, viết về những hành trình mà cô đã đi trong nhiều năm, qua rất nhiều nơi ở châu Âu - nơi hiện cô đang sống cùng với gia đình nhỏ của mình. Tôi, người cũng đã sống và làm việc ở châu Âu nhiều năm và phải thừa nhận rằng: Quyên không thể có những ghi chép sâu sắc đến thế về châu Âu, nếu không yêu nơi này bằng cả trái tim. Đấy là những thành phố ở Đức; là ngày hội ở Ý, trong những thành phố nhỏ; là đêm không ngủ ở Budapest; là thành phố ánh sáng Paris; là dòng Vltava ở Czech; là Na Uy, quê hương thứ hai của cô... Rất, rất nhiều những hành trình đã được viết ra, được kể một cách chi tiết, để độc giả có thể thấy, có thể cảm nhận được những hơi thở của cuộc sống ở đó, thông qua hình ảnh về những con người, những hoạt động văn hóa nghệ thuật. Điều ấy cho thấy tác giả không chỉ là người yêu thích cuộc sống ở khắp nẻo châu Âu mà còn khá am hiểu về những nơi cô đã đi qua. Không phải ai cũng làm được điều ấy. Không phải tác giả Việt nào, kể cả các nhà văn đã từng viết về châu Âu, cũng có được cái nhìn sâu sắc đến thế. Nếu bạn tìm kiếm trong cuốn sách này những chỉ dẫn du lịch, chắc chắn bạn sẽ không thấy. Những chỉ dẫn đó bạn có thể thấy trong blog Misa Gjone của cô. Quyên là một người thích chia sẻ kinh nghiệm du lịch cho người Việt trên blog cá nhân, nhưng cuốn sách này là một tập hợp những bài viết thể hiện cảm nhận của tác giả về những nơi cô đã đi qua, đã in đậm các cảm xúc trong trái tim cô, một người đã đi trên những cung đường châu Âu từ những năm còn rất trẻ. Tôi cũng đi từ khi còn trẻ, nhưng tôi đến châu Âu vẫn còn sau Quyên và tôi cũng hơi ghen tị với Quyên về những cung đường và cảm nhận mà cô đã có ở đó, khi mới tuổi 20...   - TRƯƠNG ANH NGỌC Nhà báo, tác giả du ký   *** Một ngày cuối tháng 10 năm 2007, tôi lúc đó đang học năm nhất đại học, được mẹ chở đến nhà sách Xuân Thu trên đường Đồng Khởi, Quận 1 để mua hai quyển sách: Ngón tay mình còn thơm mùi oải hương và Oxford thương yêu. Những chuyến đi ngang dọc châu Âu của cô sinh viên Giáng Uyên cùng câu chuyện tình lãng mạn của Kim và anh chàng Fernando “bạn trai nhà người ta” đã nuôi lớn giấc mơ du học của tôi từ lúc đó. Suốt những năm đại học, tôi vùi đầu vào sách giáo khoa cùng các đầu sách tiếng Đức vừa hiếm vừa đắt đỏ để nâng cao kiến thức và vốn từ vựng chuyên ngành. Công sức học hành cuối cùng cũng được đền đáp. Tôi lần lượt tham dự các khóa học trao đổi ngắn hạn ở Đức và Ý, đều là học bổng toàn phần do chính phủ các nước cấp cho sinh viên nước ngoài. 22 tuổi, lần đầu tiên tôi biết đến châu Âu, biết đến những thành phố cổ kính, làng mạc thanh bình và những chuyến xe lửa cao tốc chạy êm như ru xuyên qua biên giới các nước. Ở Đức, tôi sống ở ngoại ô thành phố Düsseldorf, trong căn phòng nhỏ cùng hai cô bạn - một Thái Lan, một Phần Lan. Hằng ngày, tôi cùng một anh chàng Phần Lan cao lêu nghêu ở phòng bên cạnh chạy đua với chuyến xe lửa luôn đến trễ đúng năm phút để đến lớp học. Ở Ý, tôi sống ba tháng với một cô bạn người Ấn Độ trên căn gác xép một ngôi nhà cũ ở Porta Pesa, trải đủ mọi vui buồn hờn giận với cô bạn khác màu da và bất đồng ngôn ngữ. Ngày chia tay, tôi đi trước vào buổi sáng, bỏ lại cô nàng ngồi ôm gối khóc hu hu như đứa trẻ. Trở về Việt Nam vào tháng 9 năm 2011, tôi bắt đầu cuộc sống của một cô gái văn phòng sáng xách túi đi, chiều tối muộn xách túi về. Một buổi trưa nọ, lúc đang ngồi ăn cơm, mẹ tôi bỗng kể: “Hồi trước lúc con còn ở Ý, bà bán tàu hũ ngày nào cũng đi ngang qua đây, có bữa hỏi mẹ sao không thấy con cháu đâu, chỉ có hai ông bà già ngồi ăn cơm một mình như vầy”. Bữa trưa hôm đó, tôi ăn cơm mà lòng buồn rười rượi. Giấc mơ du học vẫn chưa nguôi ngoai, phần vì bốn tháng ngắn ngủi ở châu Âu chưa thể gọi là đủ để tôi trải nghiệm cựu lục địa, phần nữa vì tôi có ý định học tiếp cao học để củng cố kiến thức và chuẩn bị cho con đường tương lai. Tôi âm thầm tìm kiếm thông tin học bổng toàn phần của các nước châu Âu để tìm được khóa học thích hợp nhất với mình. Tháng 4 năm 2014, tôi là một trong tám sinh viên Việt Nam nhận học bổng toàn phần cho khóa học cao học tại Thụy Điển. Vậy là tôi lại khăn gói lên đường. Cuộc sống sinh viên ở nước ngoài không hề dễ dàng như tôi tưởng dù không phải lo toan về vấn đề tài chính. Cách học thụ động ở Việt Nam khiến tôi mất một khoảng thời gian mới có thể đuổi kịp phong cách năng động và dân chủ ở châu Âu. Tôi kết thân với vài người bạn: chị H. là đồng hương Việt Nam cũng là bạn chung nhà với tôi suốt thời gian ở Gothenburg, M. là người Palestine lấy chồng cũng là đồng hương ở Thụy Điển và một số bạn bè người Đức, Thụy Điển khác. Những tháng ngày sinh viên vô âu vô lo cộng với túi tiền rủng rỉnh giúp tôi có cơ hội du lịch một số nước trong khu vực Schengen. Sau mỗi chuyến đi, tôi gom góp thông tin và hình ảnh rồi viết bài đăng báo ở Việt Nam. Trước khi sang Thụy Điển, tôi từng làm biên tập viên mục Du lịch cho tòa soạn báo Thế giới văn hóa online. Vì vừa là người biên tập vừa viết bài nên tôi thấu hiểu tâm trạng của các cộng tác viên báo giấy: Người viết thì đầu tư nội dung thật nhiều, viết thật dài nhưng khi tới tay biên tập thì bài bị cắt cho... thật ngắn để vừa với “đất” của chuyên mục. Sau bao nhiêu năm vừa làm “kẻ cắt” vừa làm “người bị cắt”, tôi quyết định lập một trang web du lịch cho chính mình, nơi tôi có thể viết thoải mái mà không lo bị cắt chữ. Website ban đầu chỉ là nơi đăng lại những bài du ký, sau trở thành nơi tôi chia sẻ kinh nghiệm du lịch đây đó, các hàng quán ngon hay những típ hay ho mà tôi học được trên đường thiên lý. Khi nhận được lời mời hợp tác xuất bản từ Sống, tôi mới có dịp để xem lại hết toàn bộ gia tài viết lách của mình từ năm 2012 đến nay. Khi biên tập lại những bài viết này, tôi ngỡ ngàng bởi sự thay đổi trong cuộc sống của chính mình được thể hiện qua nhiều chi tiết rải rác và câu chữ trong các bài viết ấy. Từ một cô sinh viên mới ra trường “chân ướt chân ráo” đến châu Âu lần đầu cho đến khi tôi lập gia đình và trở thành mẹ, từ những ngày ngơ ngác đi sai trạm xe lửa ở Đức cả nửa tháng trời cho đến khi trở thành blogger du lịch rong ruổi khắp châu Âu với chiếc ba lô tím sờn và chiếc máy ảnh Olympus cũ mèm. Để lưu lại hành trình ấy, các bài viết trong du ký Châu Âu có gì lạ không em? sẽ được sắp xếp theo trình tự thời gian được viết thay vì theo quốc gia. Mời bạn, cùng tôi đi qua những miền đất lạ.   - MISA GJIONE Na Uy, 4/4/2019