Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mùi Hương Trầm

Trải dài từ Ấn Độ, Nepal, Tây Tạng, Trung Hoa,... trên thực địa, với núi Linh Thứu, vườn Lộc Uyển, Lâm-tì-ni, Lhasa, thành phố Varanasi,... mỗi dấu chân du hành không mang lấy cái chộn rộn của xu thế du lịch điểm đến phổ biến đương thời, mà hướng người đọc đi vào những "con đường đá trên núi" của sự chậm rãi chiêm nghiệm, sự thấy của đôi mắt bên trong. Con đường thực tế trong thế giới ngổn ngang và con đường tâm thức lấy những kinh văn, tri thức làm trung tâm luôn tìm cách đi đến hợp nhất.   Dấu chân du hành của Nguyễn Tường Bách trong Mùi hương trầm không chỉ mời gọi người đọc khám phá thực địa, mà còn gợi mở sự chứng ngộ, khai mở một cảm quan minh triết. *** Đúng ngày Tết dương lịch 1.1.1989 tôi hăm hở lên đường đi Ấn Độ. Dù lúc đó đã sống hai mươi năm ở nước ngoài, tôi vẫn thấy xa lạ với xứ sở huyền bí này. Ngày xưa dù chưa sống xa nhà, tôi đã có ý niệm về Pháp, về Mỹ, về Canada. Hồi đó tôi đã thích nền văn hóa phương Tây, đã yêu văn chương tiếng Pháp, đã biết lối sống Mỹ. Còn Ấn Độ là gì đối với tôi? Đó là quê hương của Gandhi[1], một vùng bán đảo rộng lớn với Hy-mã lạp sơn, với Hằng Hà đầy cát. Tôi biết Ấn Độ chỉ giản đơn như thế, nhưng điều đậm nét trong tôi là, đây là một xứ sở huyền hoặc, hầu như được bọc trong một tấm màn thần thoại. Những tài danh của Ấn Độ mà tôi biết thường là những nhà văn nhà thơ như Tagore hay Krishnamurti, các vị đó xem ra cũng rất huyền bí. Còn các nhà đạo học, dù đó là Phật Thích-ca hay các đạo sĩ, tất cả đối với tôi có tính hoang đường nhiều hơn thực tại. Và dù các vị đó có thật đi nữa thì họ quá cao xa đối với tôi. Lên đường đi Ấn Độ, tôi chỉ là một người Việt Nam làm công cho một công ty sản xuất máy phát điện ở Đức, làm nhiệm vụ mà ngày nay người ta gọi là tiếp thị, có cái vai trò sales manager đi bán một món hàng hết sức trần thế. Tôi nhớ lại một anh bạn tuổi lớn hơn mình nhiều, anh có tiếng là thầy bói ngoại cảm. Một ngày nọ xa xưa, anh nhìn tôi cười nửa đùa nửa thật: “Chú em kiếp trước làm thầy tu bên Ấn Độ”. Tôi nghe xong lòng không lấy gì thú vị, làm vua chúa thì may ra. Không, làm sao tôi mà là thầy tu được, tôi còn ham rượu thịt, còn ham vui chơi. Tôi càng không phải là người Ấn Độ, nếu không sống tại Việt Nam, tôi chỉ thích sống ở châu Âu văn minh và cổ kính. Máy bay từ châu Âu đến Delhi thường hạ cánh lúc nửa đêm, giờ địa phương. Ngày đó Pan Am còn là một hãng hàng không uy tín của Mỹ, cạnh tranh với Lufthansa của Đức tranh nhau chở khách đi Ấn Độ. Thời đó tôi chưa hiểu sao có nhiều khách đi Ấn Độ, khách làm ăn có, khách du lịch có. Ngày đó tôi đâu biết, đó là một thị trường khổng lồ cho dân làm ăn và một lịch sử vô song cho người du lịch. Ở sân bay Delhi của Ấn Độ có một thứ mùi nửa lạ nửa quen làm tôi chú ý. Mùi này hai mươi năm qua tôi chưa từng hít thở lại. “Eau de javel”! Thì ra cái thứ mùi để chùi rửa vệ sinh của những ngày xa xưa trong thời thơ ấu của tôi nay vẫn được sử dụng tại sân bay quốc tế này. Mùi này tôi đã quên rất lâu, xứ Đức không có, Việt Nam ngày nay cũng không, không ngờ nơi đây vẫn thông dụng. Ngày nay mỗi lần đến Ấn Độ tôi đều chuẩn bị để hít thở mùi này, thứ mùi gây cho tôi cảm giác vừa khó chịu vừa dễ chịu. Khó chịu là chỉ những nơi dơ bẩn ta mới biết đến nó và dễ chịu là sự yên tâm dù sao cũng có ai đó lo cho sự vệ sinh ở đây. Tôi ngồi gọn trong ghế bành nghe người ta nói tiếng Anh. Đồng nghiệp người Đức của tôi nói tiếng Anh rất dễ nghe, có lẽ thứ tiếng Anh của tôi cũng có cái giọng như thế. Đó là một thứ tiếng Anh giọng Đức, thứ tiếng Anh hay bị chê cười trên thế giới. Người ta gọi đó là tiếng Anh của Kissinger vì nhà chính trị này sinh tại Đức, sống lâu ở Mỹ nhưng vẫn nói thứ giọng “quê mùa” này. Còn tiếng Anh của Ấn Độ là một thứ tiếng Anh lạ lùng, tôi nghe không hiểu gì cả. Tôi nhớ mình thích tiếng Anh của người Hồng Kông vì tiếng Anh của họ dễ hiểu, thanh quản và phát âm của họ xem ra giống của tôi. Tôi vốn sợ thứ tiếng Anh của người Úc và của người Mỹ vì khó hiểu nhưng có đến Ấn Độ mới thấy có thứ khó hiểu hơn. Điệu bộ cử chỉ của người Ấn cũng khác, họ hay dùng bàn tay để “minh họa” cho lời nói. Bàn tay của họ cứ lật qua lật lại theo nội dung câu chuyện. Tôi phải làm việc hàng tuần trong cái xứ đầy mùi lạ, tiếng lạ, phòng ốc chật chội này ư? Văn phòng đại diện của chúng tôi tại Delhi thuộc loại tầm cỡ nhưng phòng ốc hết sức hạn chế. Tại sao người ta thuê tuyển nhiều người như thế, bàn nọ kê sát bàn kia, nhân viên hàng tá làm gì cho hết ngày giờ? Sau này tôi mới biết họ có nhiều người là để giúp việc cho chúng tôi, có những tea boy chỉ chuyên bưng trà rót nước, những công việc mà tại phương Tây chúng tôi phải tự làm. Dễ chịu thay. Chỉ sau một ngày, tôi đã nhờ một cô gái đi copy văn bản. Bất ngờ thay, cô ta lắc đầu. Tôi đang tự hỏi tại sao cô này từ chối lời yêu cầu nhã nhặn của mình thì đã thấy cô nhặm lẹ cầm giấy tờ chạy đi làm việc. Thì ra cái lắc đầu của người Ấn Độ chính là cử động gật đầu của ta. Còn khi họ từ chối thật thì đầu họ cũng lắc cách khác. Đối với tôi lúc nào họ cũng lắc đầu cả. Khó hiểu thay, những người Ấn Độ! Từ văn phòng chúng tôi nhìn ra là công trường Nehru đầy người. Đó là chỗ bán cam bán chuối, bến đợi xe bus, xe hàng rang hạnh nhân đậu phộng, chỗ sửa xe taxi, bến đậu xe “túc-túc”, nơi của khỉ làm trò… Cuộc sống ở đây xem ra vừa vội vã vừa chậm chạp. Trên công trường Nehru đó hàng trăm người ngồi chơi sưởi nắng xem ra không có gì làm, hôm nay là một ngày mùa đông. Xung quanh họ là những người ăn mặc hết sức nghiêm túc theo kiểu người Anh đang vội vã rảo bước, họ tìm kiếm điều gì trong xứ sở nghèo nàn này? Về sau tôi biết thêm Ấn Độ là một xứ sở của những hình ảnh đối chọi. Đường sá đầy xe cộ với mùi xăng khét lẹt làm tôi nhớ Việt Nam. Taxi của họ là những chiếc xe nội hóa cũ kỹ với cái tên vang dội “Ambassador” mà bốn bánh xe thường mòn nhẵn làm chúng tôi e ngại, mỗi chuyến đi là một trò chơi ít nhiều rủi ro, nhất là khi gặp trời mưa. Thế nhưng đã quen cách đi liều của mình và thấy đồng nghiệp nhiều năm kinh nghiệm Ấn Độ của tôi cũng chưa có ai mang vết tích gì trên người nên tôi yên tâm tự nhủ đời người có số. Chỉ vài ngày sau khi đến Ấn Độ người ta đã biết đây là một xứ sở mang nặng đầu óc tôn giáo. Trong taxi tài xế thắp nhang liên tục, họ khẩn cầu một vị thần nào bảo hộ cho họ, cho họ nhiều khách và ít tai nạn. Ngoài đường các đàn bò đi đứng nằm ngồi xem ra rất tự nhiên thoải mái, tài xế lái xe thường rất hấp tấp nhưng khi gặp chúng đều kiên trì chờ đợi, không có một tiếng còi. Ra khỏi Delhi vài cây số là đã xanh một màu cây cối, ở đây cơ man nào là khỉ. Theo người Ấn, chúng là hậu thân đáng thương của đời làm người, là cha mẹ anh em ngày trước, chúng được đối đãi bình đẳng và sống chung với người. Ngày nọ tôi đến làm việc tại một cơ quan chuyên trách “kiểm tra chất lượng” của bộ phận turbine. Đó là một tòa nhà nhỏ nằm trong một khu vườn lầy lội sau cơn mưa. Vừa bước xuống xe, một con heo rừng từ đâu đâm đầu chạy đến. Tôi vội thót lên xe, đóng cửa đánh rầm. Sau đó hỏi ra nó chỉ là một heo nhà tầm thường nhưng chạy nhảy nhiều quá nên có cái bụng thon của một con heo rừng lực sĩ. Tại Ấn Độ, thời gian lưu trú nhiều tuần cho phép tôi học nghe tiếng họ nói, học nhìn cách họ làm để giải quyết công việc của mình và khám phá nhiều điều lớn lao hơn. Xuất phát từ một cấu trúc xã hội có tính đẳng cấp, người Ấn Độ rất khó thân cận. Lạ thay, đối với thú vật thì họ gần gũi mà đối với người thì họ xa cách. Hình như mỗi người Ấn Độ khi gặp người khác, việc đầu tiên là họ định nghĩa ai hơn ai, về đẳng cấp huyết thống ai ưu việt hơn ai. Đi Ấn Độ hàng chục lần, tôi kết luận rằng đó là một xứ sở của sự phân biệt giai cấp. Người giàu có thì hợm hĩnh khinh người, người nghèo khổ thì yên phận chịu đựng. Những người mà tôi gặp và làm việc đều là kỹ sư hay thương nhân, họ thuộc thành phần có học và có tiền, trong nội bộ xã hội, họ coi khinh người khác, đối với chúng tôi ở nước ngoài đến thì họ e dè và phức tạp. Đối với người nước ngoài, người Ấn Độ vừa có mặc cảm tự ti vừa tự tôn. Họ biết rất rõ bán đảo bao la của mình là một cái nôi văn hóa và học thuật của loài người. Cuộc đời của nhiều vĩ nhân nước họ là những bó đuốc soi đường cho hậu thế. Nền văn minh, triết lý và tôn giáo của họ là nền tảng của nhiều nền văn hóa lớn trên thế giới, kể cả của Âu Mỹ và Trung Quốc. Thế nhưng nước họ ngày nay thuộc loại lạc hậu nhất, đời sống dân chúng khốn khổ nhất. Họ có cái đau khổ của một nhà quí tộc khánh kiệt. Cho nên khi một người nước ngoài đứng trước mặt họ, họ lúng túng không thể định nghĩa ai hơn ai kém. Và khi gặp chúng tôi, kẻ đi bán một thiết bị hiện đại, họ càng lúng túng. Vì trình độ kỹ thuật còn non, họ phải đi mua; nhưng vì là khách hàng họ thấy mình được o bế. Thế thì ai hơn ai thua, xem ra họ rất thắc mắc. [1] Mohandas Karamchand Gandhi (1869-1948), lãnh tụ tranh đấu giành độc lập của Ấn Độ. Mời các bạnd dón đọc Mùi Hương Trầm của tác giả Nguyễn Tường Bách.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhớ
Tôi là nhạc sĩ nên phải có trí nhớ tốt. Nhớ kỹ hàng ngàn bài hát, thuộc lòng hàng ngàn điệu nhạc. Nhớ những chuyện vui buồn xa lắc xa lơ. Còn nhớ cảnh, nhớ người nữa chứ! Đi nhiều, tất nhiên tôi có nhiều bạn lắm. Nhớ rất nhiều người đã đi qua đời mình... Tôi có nhiều bài hát nhớ quê hương (Tình Hoài Thương, Thuyền Viễn Xứ...), nhớ những cảnh huống (Còn Chút Gì Để Nhớ, Nha Trang Ngày về...) nhưng nhớ người bao giờ cũng da diết hơn là nhớ cảnh, thế mà tôi không có một bài hát nhớ bạn nào cả! Âu là nhớ bạn và viết ra nổi nhớ, khi tôi đã trở về sống tại quê nhà và có ít nhiều ngày tháng rảnh rang... Phạm Duy *** Nhớ cảnh, nhớ người Cuộc đời tôi thật ra chưa có lúc nào yên ổn như bây giờ , khi tôi trở về sống trên quê hương mình sau ba mươi năm hòa bình và thống nhất... Từ khi sinh ra và trưởng thành, hoàn cảnh chung của đất nước thường xuyên biến động, thời cuộc đẩy đưa tôi thành một kẻ giang hồ nay đây mai đó. Đi khắp nơi trong nước, đi khắp nơi trên địa cầu, từ khi còn là tóc xanh môi đỏ cho tới khi đã là tóc bạc răng long. Sống tại nhiều nơi quá, xê dịch nhiều quá, thay đổi chỗ ở luôn luôn đến độ khi tuổi đã trên tám mươi rồi mà vẫn còn phải dọn nhà thêm một lần nữa, phải di chuyển tất cả sách vở, máy móc, đồ đạc từ một lục địa này qua một lục địa khác... Dù rằng trong đầu luôn luôn có nỗi sợ của câu châm ngôn Việt Nam: dọn nhà, như cha chết! Tôi là nhạc sĩ nên phải có trí nhớ tốt. Nhớ kỹ hàng ngàn bài hát, thuộc lòng hàng ngàn điệu nhạc. Nhớ những chuyện vui buồn xa lắc xa lơ. Còn nhớ cảnh, nhớ người nữa chư ! Đi nhiều, tất nhiên tôi có nhiều bạn lắm. Nhớ rất nhiều người đã đi qua đời mình. Tôi có nhiều bài hát nhớ quê hương (Tình Hoài Hương, Thuyền Viễn Xứ), nhớ những cảnh huống (Còn Chút Gì Để Nhớ, Nha Trang Ngày Về) nhưng nhớ người bao giờ cũng da diết hơn là nhớ cảnh, thế mà tôi không có một bài hát nhớ bạn nào cả! Âu là bây giờ ngồi nhớ bạn và viết ra nỗi nhớ, khi tôi đã trở về sống tại quê nhà và có ít nhiều ngày tháng rảnh rang. Nhớ bạn! Bạn nào? Bạn từ bao giờ? Tôi nghĩ rằng lúc chúng ta tới tuổi cắp sách tới trường là lúc chúng ta khởi sự có bạn. Những bạn đầu tiên của tôi là những bạn học ở trường mẫu giáo chỉ có tên gọi là Trường Hàng Thùng và Trường tiểu học Nguyễn Du, tức Trường Hàng Vôi, Hà Nội. Tôi không bao giờ gặp lại những bạn học của thời thơ ấu này, hơn nữa cũng chẳng có ai là bạn thân để tôi nhớ. Tôi chỉ có cơ hội gặp lại một người là Nguyễn Đình Thi, hành nghề bác sĩ tại Orange County, California, USA. *** Cũng như bao người bình thường khác, ở chặng cuối của đường đời, thứ quý giá nhất còn lại với người nhạc sĩ tài hoa chính là kỷ niệm. Nói là quý giá bởi khi đi đến cái tuổi xế chiều, vô số người rơi vào cái tình cảnh “nhớ đấy rồi quên đấy”, thậm chí có khi còn quên hẳn đi những điều đang xảy ra xung quanh mình và với mình nữa chứ chưa kể là những ký ức của mấy mươi năm về trước. Nên còn nhớ được, còn ghi chép lại được những điều từng nghĩ, từng làm của bản thân thành những trang văn là một điều vô cùng may mắn. Được mệnh danh là “cây đại thụ của Tân nhạc Việt Nam”, những hồi ức, kỷ niệm của Phạm Duy trong cuốn bút ký Nhớ cũng trở nên đặc biệt hơn người khác. Ở đó, người ta tìm thấy những yếu tố đã tạo nên con người và cá tính Phạm Duy trong cả âm nhạc lẫn đời thường, những chất xúc tác và hoàn cảnh khiến ông chấp bút viết nên những bản nhạc đi cùng năm tháng. Đặc biệt, qua những dòng hồi ức của ông, người ta còn gặp lại những khuôn mặt lẫy lừng của nền văn nghệ Việt Nam một thuở. Có thể nói cuộc đời Phạm Duy là một cuộc rong ruổi và dạo chơi bất tận. Điều này đã được chính ông xác nhận qua lời tự thuật mở đầu tập bút ký: “Đi khắp nơi trong nước, đi khắp nơi trên địa cầu, từ khi còn là tóc xanh môi đỏ cho tới khi đã là tóc bạc răng long”. Mỗi chuyến xê dịch của ông dường như luôn gắn với một hay nhiều câu chuyện. Đó là câu chuyện của bản thân ông, của nhiều người khác có liên hệ tới ông hoặc cũng chính là câu chuyện của thời cuộc, của đất nước. Trước khi định hình cá tính và tài năng của mình trên lĩnh vực âm nhạc, bản thân Phạm Duy đã trải qua những tháng năm tuổi trẻ dịch chuyển về cả không gian sống và nghề nghiệp, công việc của mình. Có lúc ông hiện diện trong hình ảnh một công nhân học việc, có khi ông lại cận kề với cuộc sống của người nông dân cần lao, rồi những tháng năm lang bạt cùng gánh hát Đức Huy – Charlot Miều trong vai trò ca sĩ hay những ngày trở thành người lính theo kháng chiến chống Pháp… Tất cả đã mang đến cho ông một vốn sống dồi dào và phong phú để về sau trở thành chất liệu vô giá trong công việc sáng tác. Những chuyến đi cũng mang đến cho Phạm Duy rất nhiều bè bạn, họ có thể là những người bình thường, cũng có thể là những tên tuổi lớn của nền văn chương và nghệ thuật Việt Nam những thập niên 1930 – 1940 thuộc thế kỷ trước như: Lưu Trọng Lư, Hoàng Cầm, Văn Đông, Lê Thương… và đặc biệt hơn cả là Văn Cao, người thầy và cũng là người tri kỷ của Phạm Duy trong cuộc sống và trong âm nhạc. Họ đã hội ngộ cùng ông trong một khoảnh khắc nào đó giữa đoạn đời tuổi trẻ đầy sôi nổi, kết mối tương giao với nhau trong cõi mênh mang của thơ, của nhạc, chia ly đằng đẵng, rồi tái ngộ khi tuổi đã xế chiều. Ông đã nhớ, nghĩ và viết về những con người ấy với tất cả sự trân trọng, mến yêu. Ký ức của Phạm Duy còn là thiên ái tình vô tận với vô vàn những bóng hồng đã đi qua trong đời ông. Thói thường, với ái tình, người ta chỉ kể về nó bằng những điều trong trắng, đẹp và mơ mộng nhất, riêng nhạc sĩ họ Phạm thì không, ông kể về ái tình của đời mình với đầy đủ mọi cung bậc: thơ mộng và trần trụi, khổ đau và hoan lạc, thuần khiết và nhục dục, có lúc là cả sai trái… Có thể thấy, sự chân thật trong ái tình có lẽ là một trong những điều đáng quý của con người Phạm Duy. Nhưng đọc Phạm Duy, nghe Phạm Duy không phải chỉ để biết về bản thân hay cuộc đời ông. Mà còn là để hiểu về thời cuộc và những tao đoạn đã diễn ra trong quá khứ, hiện tại khiến bao phận người xô dạt “khóc cười theo mệnh nước nổi trôi”. Nhìn và ngẫm về cuộc đời của ông với những sự xoay chiều về quan điểm hay lập trường, hẳn có người sẽ phê phán ông là một kẻ xu thời, không có chính kiến và là một tay trần tục. Nhưng ngẫm nghĩ lại, có bao giờ Phạm Duy tự nhận hay lựa chọn lối sống cho mình là một thánh nhân đâu. Phạm Duy sống thật, rất thật! Thật với chính mình và thật với đời. Ông không chọn cho mình cách sống đối nghịch với cuộc đời hay thời thế mà luôn luôn xuôi theo nó, sống một cuộc đời tự do, không buộc mình vào bất cứ chủ thuyết hay phe phái nào. Và nói cho cùng, ở đời, nếu được lựa chọn thì ai lại chẳng muốn có một cuộc sống tự do và không bị trói buộc, huống chi là những kẻ sinh ra vốn “mang nợ với gió trăng”.   Mời các bạn đón đọc Nhớ của tác giả Phạm Duy.
Hồi ký Phạm Duy
Kể lại chuyện mình xẩy ra từ sáu, bẩy mươi năm về trước là một việc làm không dễ. Tuy nghề nghiệp bắt buộc người nhạc sĩ phải có trí nhớ tốt để thuộc lầu hàng trăm, hàng ngàn bản nhạc, nhưng khi ngồi đào sâu ký ức để tìm về quá khứ thì tôi thấy những dữ kiện quá ư phức tạp, quá ư hỗn độn. Tôi lại không còn ở trong nước để kiểm chứng hàng chục, hàng trăm những nghi vấn về địa chí, về danh xưng và cũng không có trong tay những bản đồ với tên tỉnh, tên huyện, tên phố đã được thay đổi tới 4, 5 lần dưới nhiều chính thể... Do đó Hồi Ký Thời Thơ Â'u Vào Đời này có những khuyết điểm tuy không quan trọng nhưng tác giả cũng xin một sự độ lượng nào đó của người đọc. Là con mồ côi cha quá sớm, tôi muốn dâng cuốn Hồi Ký này lên người bố mà tôi không được gần gũi, vì tôi tin ở huyết thống. Tôi mường tượng bố tôi sinh ra đã có người Pháp cai trị dân Việt Nam rồi. Bên cạnh những hành động của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cùng với các bạn "đồng chí hướng" như Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Trọng Kim... bố tôi đem uẩn ức của dân nô lệ vào đời và hoạt động trong nhiều địa hạt, khi làm công tác trong một Nghĩa Thục, khi dùng ngòi bút tả chân trong văn chương và báo chí, khi tranh thương với Hoa Kiều v.v... Tất cả cho mục đích thay đổi xã hội, thay đổi cuộc đời. Nói như vậy vì tôi thèm được thấy bạn đọc nhìn nhận Hồi Ký này không khởi sự từ những năm 20 khi tôi vừa ra đời mà còn ôm đồm thêm những dữ kiện về thế hệ cha ông trong những năm đầu của thế kỷ. Nếu được như vậy, toàn bộ Hồi Ký của tôi sẽ bao trùm được đủ 100 năm của thế kỷ mà 50 năm đầu là sự đoàn kết của tất cả "người Việt nô lệ" -- trong đó có bố con tôi -- trong việc giành Độc Lập và Tự Do. Muốn biết rõ hơn cuộc đời của một "người Việt tự do" -- là tôi -- trong 50 năm sau của thế kỷ thứ 20, xin mời bạn đọc tiếp những cuốn Hồi Ký tiếp theo. Thế hệ ông cha ta, với các phong trào Văn Thân, Đông Du và Đông Kinh Nghĩa Thục, thành công hay thất bại, ai cũng đều biết. Riêng tôi biết rõ bố tôi chết đi mà chưa thực hiện được những giấc mơ của mình. Những đứa con là nơi để bố trút bầu tâm sự. Bốn người con lớn không thừa hưởng vẹn toàn thông điệp của bố, có lẽ tại vì các anh các chị chưa phải là thứ "tinh trùng bất mãn" được bố cấy vào trong mẹ. Thằng con út, khởi sự là bào thai đã được bố gửi gấm những hoài bão vào lúc bố biết mình đã thất bại và sắp chết. Nó lớn lên, vì sự linh thiêng của huyết thống, nó thực hiện giấc mộng không thành của người cha ?! Hình như Goethe và Maxime Gorki đã coi những ngày thơ ấu của hai ngài là những ngày Đại Học. Vốn chẳng được theo đuổi việc học hành trong sách vở tại nhà trường, tôi cũng bắt chước hai vị để nói rằng trường Đại Học Âm Nhạc của tôi là kho tàng âm nhạc bình dân mà tôi hấp thụ trong quãng đời sớm lang bạt của tôi. Thuật sống của tôi học được ở mọi tầng lớp nhân dân mà tôi sớm được tiếp xúc. Lẽ dĩ nhiên sự giáo dục về cuộc đời cũng đến với tôi từ mẹ ruột, từ vú nuôi, từ mẹ nuôi, từ thầy giáo, từ bạn bè... đến cả từ những khắc nghiệt của người anh cũng như từ những ân sủng của người tình. Xin được tri ân tất cả! Tôi cũng cần phải cám ơn những người giúp tôi rất nhiều trong việc hoàn tất tập HỒI KÝ này: Bạn cùng học tại những ngôi trường cũ như Bác Sĩ Nguyễn Đình Thi (Trường Hàng Vôi), Cao Trung (Trường Bách Nghệ), Tạ Tỵ, Võ Lăng (Trường Mỹ Thuật). Bạn tâm giao cũ hay bạn mới làm quen là những người ở từng địa phương như Phạm Thanh Liêm, Lê Ninh (Hưng Yên), chị Lê Tôn Hy (YênThế-Bắc Giang), Nguyễn Sĩ Hưng (Thanh Hoá), Cao Xuân Vỹ, Nguyễn Đình Khuê (Nghệ An), Nguyễn Cúc (Huế), Hàn Vĩ, Lê Trọng Nguyễn (Hội An), Nguyễn Văn Sang (Quảng Ngãi), Lữ Liên (Dalat), Trần Văn Khê (Vĩnh Long). Bạn văn nghệ như Lê Văn-Vũ Bắc Tiến, Nguyễn Hiền. Tất cả đã nhắc lại tên các rạp hát và các điạ danh của tỉnh mình, hoặc kể lại vài mẩu chuyện cũ để cho cuốn Hồi Ký của tôi thêm mầu sắc và thêm xác thực. Lẽ ra có hai tập: Hồi Ký Thời Thơ Â'u và Hồi Ký Thời Vào Đời. Nhưng để tiết kiệm thời giờ và tiền mua sách của bạn đọc, tôi thu gọn hai tập vào một cuốn sách. Do đó toàn bộ Hồi Ký chỉ còn 4 tập thay vì 5 tập như tôi đã rao. Vậy tôi xin rao lại, và xin trân trọng mời bạn đọc cùng tôi đi về dĩ vãng. Thị Trấn Giữa Đàng, Mùa Đông 1989 ***   Tôi ra đời tại nhà hộ sinh ở số 40 Rue Takou (phố Hàng Cót) Hà Nội vào lúc 1 giờ 15 sáng ngày 05 tháng 10 năm 1921, theo âm lịch là ngày mùng 5 tháng 9 (nhuận) năm Tân Dậu. Trước đó vài giờ, mẹ tôi còn đang ôm bụng ngồi đánh tổ tôm với mấy bà bạn và với Bác Hàn Làng Vẽ. Mẹ tôi vừa ù xong ván bài tổ tôm thì dở dạ và người nhà vội vàng đưa vào nhà đẻ. Do đó, khi tôi lớn lên, mỗi lần gặp Bác Hàn là bác nhắc tới chuyện ván bài tổ tôm và gọi tôi là thằng Tôm. Ai ngờ bây giờ về già, tôi cũng trở thành một thứ Uncle Tom. Tuy luôn luôn đắc ý cho rằng mình ra đời trong một canh bạc thắng của mẹ, nhưng khi lớn lên thằng Tôm này lại khoái với cái tên tự do chính mình đặt ra là Mộng Vân. Vì sao? Vì trong một lúc quá yêu Tôm, mẹ buột miệng nói rằng đã nằm mơ thấy những đám mây trong thời kỳ có mang... Lại cũng là một cái tên tiền định. Thằng Tôm sẽ như mây, lang thang suốt đời. Và khi du nhập vào nghề hát rong thì đụng ngay một đoàn hát Cải Lương mang tên Gánh Mộng Vân. Ngoài hai tên hiệu đó, cái tên thật -- rất quan trọng vì là tên cúng cơm -- cha mẹ đặt cho khi tôi vừa chào đời, tuy nó chẳng ngộ nghĩnh hay thơ mộng gì cho lắm, nhưng khi tôi trở thành ca sĩ của một gánh hát rong và chỉ dùng chữ họ và chữ đệm để cho khán giả dễ nhớ tên thì... cái tên cúng cơm đó biến mất. Ngay chị ruột tôi, về sau, cũng chỉ gọi tôi bằng tên đệm mà thôi. Giống như là có một sự quên tên hay kiêng tên vậy. Có điều chắc chắn là tôi đã ra thoát được tục lệ từ xưa của người Việt là thường đặt những cái tên rất xấu xí cho con cái để ma quỷ không thèm bắt đi như: (xin lỗi) thằng Buồi, thằng Đít vân vân... Bố tôi là Phạm Duy Tốn, được người đời biết như là một nhà báo, một nhà văn đã từng tiếp súc với văn hóa Âu Tây và đã không còn là một nhà nho thuần túy nữa, nhưng khi bố tôi đặt tên cho con cái thì đều dựa vào chữ nho cả. Tên của ông cũng như tên của các con đều là tên của những đức tính và nếu viết bằng chữ nho thì chữ nào cũng nằm trong bộ ngôn, nghĩa là bộ chữ thuộc vào những hạng người thích ăn to nói lớn. Anh cả của tôi mang tên Khiêm, tới hai người chị là Thuận và Trinh, rồi tới người anh hơn tôi 2 tuổi là Nhượng. Hai người anh trong thực tế sẽ sống bằng nghề ăn nói, họ đều là những ông thầy dạy học. Nhưng họ đều giống tôi ở chỗ tính nết sẽ không như cái tên bố đã đặt cho. Ông Khiêm nhiều khi có vẻ thiếu khiêm cung. Ông Nhượng không hẳn lúc nào cũng nhường nhịn em nhỏ. Còn tôi, với cái tên Cẩn, nếu suốt đời đã sống nhờ chữ ''ngôn'' trong cái tên thì trái với điều mong muốn của bố tôi, chẳng bao giờ tôi thấy trong tôi có được một sự cẩn trọng tối thiểu! Tuy vậy, về sau tôi cũng học mót bố tôi trong việc đặt tên cho tám đứa con. Chúng đều phải mang những cái tên tốt đẹp như: Quang, Minh, Hùng, Cường, Hiền, Thảo, Đức, Hạnh. Tôi đã thừa hưởng tinh thần hướng thượng của bố tôi vậy. Mời các bạn đón đọc Hồi ký Phạm Duy của tác giả Phạm Duy.
Miền Đất Hứa
Cùng với hồi ký Chất Michelle của cựu đệ nhất phu nhân Michelle Obama, First News - Trí Việt vừa giao dịch thành công bản quyền hồi ký A Promised Land (tạm dịch: Miền đất hứa) của cựu Tổng thống Barack Obama. Sách đã được phát hành hơn 3 triệu bản tại Mỹ trong lần xuất bản đầu tiên và sẽ ra mắt độc giả Việt Nam trong thời gian sớm nhất.   Ngày 17-11, dù dịch Covid-19 vẫn đang bùng phát mạnh tại Mỹ nhưng hồi ký Miền đất hứa của cựu Tổng thống Barack Obama vẫn trở thành tâm điểm chú ý của dư luận. Ngay trong lần in đầu tiên, cuốn sách đã phát hành được hơn 3 triệu bản, ngay lập tức tạo nên cơn sốt với hơn 890.000 bản được bán trong ngày đầu tiên phát hành.   Hồi ký Miền đất hứa dày 768 trang, là tập đầu tiên trong bộ hai tập sách của cựu Tổng thống Barack Obama. Tác phẩm viết về những bước đầu trong sự nghiệp chính trị của cựu Tổng thống Mỹ, chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2008 của ông và kết thúc tại sự kiện cái chết của trùm khủng bố Osama bin Laden năm 2011.     Tại Mỹ, NXB Penguin Random House đã dự đoán số người đặt mua sách rất lớn nên đã in 3 triệu bản sách tại thị trường Mỹ. Để dự phòng số đơn hàng tăng cao hơn, nhà xuất bản này đã thêm phương án đặt in thêm một triệu bản tại Đức và sắp xếp vận chuyển trên ba con tàu, 112 container để đưa về Mỹ.   Sau ngày 17-11, tập 1 của hồi ký sẽ được phát hành tại nhiều nước trên thế giới, chuyển ngữ sang 25 thứ tiếng -  trong đó có tiếng Việt, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Trung, tiếng Ả Rập, tiếng Czech, tiếng Phần Lan.   Ông bà Obama đã bán bản quyền những cuốn hồi ký của mình cho đơn vị xuất bản tại Mỹ với giá lên đến 65 triệu USD và gây được những thành công vang dội. Chỉ riêng cuốn hồi ký nổi tiếng của cựu đệ nhất phu nhân Michelle Obama đã bán được hơn 8,1 triệu bản, tính riêng tại Mỹ và Canada cho tới thời điểm này. Sách cũng tạo nên một hiện tượng xuất bản tại Việt Nam về thể loại hồi ký phu nhân nguyên thủ thế giới sau hồi ký Hilary Clinton, cũng do First News - Trí Việt chuyển ngữ phát hành ở Việt Nam.   Năm ngoái, First News - Trí Việt đã tham gia đấu giá Royalty Auction quốc tế, vượt qua hàng chục NXB trong nước để mua bản quyền hai cuốn hồi ký Chất Michelle và Miền đất hứa để xuất bản hai tác phẩm này bằng tiếng Việt.   Được biết, hiện tại First News - Trí Việt đã nhận được đầy đủ file cuốn hồi ký gây sốt của cựu Tổng thống Obama từ NXB Penguin Random House - nơi nắm giữ bản quyền tác phẩm, từ New York chuyển về. Dự kiến, hồi ký của cựu Tổng thống Obama sẽ được First News biên dịch và xuất bản để phục vụ bạn đọc Việt Nam trong thời gian sớm nhất. *** Tôi bắt đầu viết quyển sách này ngay sau khi kết thúc nhiệm kỳ tổng thống của tôi — sau khi Michelle và tôi lên máy bay Không Lực Một lần cuối và đi du lịch về phía Tây trong một kỳ nghỉ dài hạn. Tâm trạng trên máy bay buồn vui lẫn lộn. Cả hai chúng tôi đều kiệt quệ cả về thể chất và tinh thần, không chỉ bởi công sức của tám năm trước mà còn bởi kết quả bất ngờ của một cuộc bầu cử trong đó một người hoàn toàn phản đối tất cả những gì chúng tôi ủng hộ đã được chọn làm người kế nhiệm của tôi. Tuy nhiên, sau khi hoàn thành chặng đường của cuộc đua, chúng tôi hài lòng khi biết rằng chúng tôi đã làm hết sức mình — và dù tôi đã hụt hẫng với tư cách là tổng thống, bất kỳ dự án nào tôi mong muốn nhưng không hoàn thành, đất nước bây giờ đang ở trong tình trạng tốt hơn so với khi tôi bắt đầu. Trong một tháng, Michelle và tôi ngủ muộn, ăn tối nhàn nhã, đi bộ đường dài, bơi ở biển, đi mua sắm, bồi đắp tình bạn, tìm lại tình yêu của chúng tôi và lên kế hoạch cho một hành động thứ hai ít biến cố hơn nhưng hy vọng không kém phần thỏa mãn. Và vào thời điểm tôi đã sẵn sàng trở lại làm việc và ngồi xuống với cây bút và tập giấy màu vàng (tôi vẫn thích viết mọi thứ bằng tay, nhận thấy rằng một chiếc máy tính cung cấp cho ngay cả những bản nháp thô nhất của tôi một độ mượt mà và khiến những suy nghĩ nửa vời trong chiếc mặt nã của sự ngăn nắp) , tôi đã phác thảo rõ ràng về cuốn sách trong đầu. Đầu tiên và quan trọng nhất, tôi hy vọng sẽ tái hiện trung thực thời gian tại vị — không chỉ là bản ghi chép lịch sử về các sự kiện quan trọng đã xảy ra trên đồng hồ của tôi và các nhân vật quan trọng mà tôi đã tương tác mà còn là bản tường thuật về một số mặt chính trị, kinh tế và sự giao thoa văn hóa đã giúp xác định những thách thức mà chính quyền của tôi phải đối mặt và những lựa chọn mà nhóm của tôi và tôi đã đưa ra để đối phó. Nếu có thể, tôi muốn cung cấp cho người đọc cảm giác trở thành tổng thống của Hoa Kỳ là như thế nào; Tôi muốn kéo bức màn lại một chút và nhắc nhở mọi người rằng, đối với tất cả quyền lực và sự phô trương của nó, chức vụ tổng thống vẫn chỉ là một công việc và chính phủ liên bang của chúng tôi là một doanh nghiệp con người như bao doanh nghiệp khác, và những người đàn ông và phụ nữ làm việc ở Nhà Trắng trải nghiệm sự kết hợp hàng ngày với sự hài lòng, thất vọng, xích mích trong văn phòng, những rắc rối và thành tích nhỏ như những người khác. Cuối cùng, tôi muốn kể một câu chuyện cá nhân hơn có thể truyền cảm hứng cho những người trẻ đang cân nhắc cuộc sống phục vụ công cộng: sự nghiệp chính trị của tôi thực sự bắt đầu như thế nào với việc tìm kiếm một vị trí phù hợp, một cách giải thích những khía cạnh khác nhau của tôi - nâng cao di sản, và làm thế nào mà chỉ bằng cách nâng toa xe của tôi đến một thứ lớn hơn bản thân tôi mà cuối cùng tôi đã có thể định vị một cộng đồng và mục đích cho cuộc đời mình. Tôi nghĩ rằng tôi có thể làm tất cả những điều đó trong khoảng năm trăm trang. Tôi dự kiến sẽ được thực hiện trong một năm. Công bằng mà nói thì quá trình viết không diễn ra chính xác như tôi đã định. Bất chấp những ý định tốt nhất của tôi, cuốn sách vẫn tiếp tục phát triển về độ dài và phạm vi — lý do tại sao cuối cùng tôi quyết định chia nó thành hai tập. Tôi đau đớn nhận ra rằng một nhà văn có năng khiếu hơn có thể đã tìm ra cách để kể cùng một câu chuyện với sự ngắn gọn hơn (sau cùng, văn phòng tại nhà của tôi ở Nhà Trắng nằm ngay cạnh Phòng ngủ Lincoln, nơi có một bản sao của quyển Diễn văn Gettysbur g nằm bên dưới tủ kính). Nhưng mỗi lần như vậy tôi lại ngồi viết — cho dù đó là mô tả các giai đoạn đầu của chiến dịch của tôi, hay cách xử lý của chính quyền của tôi đối với cuộc khủng hoảng tài chính, hoặc các cuộc đàm phán với người Nga về kiểm soát vũ khí hạt nhân, hay các lực lượng dẫn đến Mùa xuân Ả Rập — Tôi thấy tâm trí mình đang chống lại một câu chuyện tuyến tính đơn giản. Thông thường, tôi cảm thấy có nghĩa vụ cung cấp ngữ cảnh cho các quyết định mà tôi và những người khác đã đưa ra và tôi không muốn chuyển nó thành chú thích cuối trang hoặc chú thích cuối sách (tôi ghét chú thích cuối trang và chú thích cuối sách). Tôi phát hiện ra rằng không phải lúc nào tôi cũng có thể giải thích động cơ của mình chỉ bằng cách tham khảo hàng đống dữ liệu kinh tế hoặc nhớ lại một cuộc họp báo đầy đủ ở Phòng Bầu Dục, vì chúng đã được định hình bởi một cuộc trò chuyện mà tôi đã có với một người lạ trên đường vận động, một chuyến thăm bệnh viện quân y, hay bài học thời thơ ấu mà tôi đã nhận được từ mẹ tôi nhiều năm trước đó. Ký ức của tôi lặp đi lặp lại những chi tiết dường như ngẫu nhiên (cố gắng tìm một vị trí kín đáo để hút thuốc buổi tối; nhân viên của tôi và tôi cười sảng khoái khi chơi bài trên Không Lực Một) đã ghi lại được, theo cách mà hồ sơ công khai không bao giờ có được, kinh nghiệm sống trong tám năm tôi ở Nhà Trắng   Mời các bạn đón đọc Miền Đất Hứa của tác giả Barack Obama.
Cha Tôi - Tổng Thống Thứ 41 Của Hoa Kỳ
Cuốn sách kể về cuộc sống và sự nghiệp của Tổng thống George H. W. Bush, qua đó tiết lộ về ảnh hưởng của ông đối với cuộc đời Bush con sau này, từ thời thơ ấu ở Texas cho đến khi bước vào con đường chính trị và trải qua hai nhiệm kỳ tổng thống. Đây là cuốn sách mà George Bush - Tổng thống thứ 43 của Hoa Kỳ - muốn bày tỏ tình yêu, sự tôn trọng và biết ơn đối với người cha kính yêu. Trong Cha tôi: Tổng thống thứ 41 của Hoa Kỳ, George Bush đã vẽ lên bức chân dung của người cha bằng tình cảm trìu mến. Ông không chú trọng viết về thời kỳ Bush-cha ngồi trong Nhà Trắng mà chỉ xoay quanh những điều mà ông gọi là “câu chuyện tình yêu” về tình phụ tử: “Nhiều năm qua đi, tôi đồ rằng sẽ có rất nhiều sách phân tích về George Herbert Walker Bush, về con người và nhiệm kỳ tổng thống của ông. Nhiều cuốn trong đó có thể theo chiều hướng khách quan. Nhưng cuốn sách này thì không. Đây là một cuốn truyện tình - chân dung về một cá nhân phi thường, người mà tôi được ban phước lành để gọi là Cha. Tôi không có ý định sẽ miêu tả toàn bộ các khía cạnh trong cuộc sống của ông hoặc những năm ông tại nhiệm. Tôi thật sự hy vọng sẽ thể hiện được lý do tại sao George H.W. Bush thật sự là một vị tổng thống tuyệt vời và là một người cha còn tuyệt vời hơn nữa...” “George W. Bush đã cho độc giả thấy quan điểm hết sức độc đáo về những phẩm chất cá nhân và nguyên tắc đã làm cho cuộc sống phục vụ đất nước và gia đình vô cùng lạ thường của George H. W. Bush thêm sinh động”- Maya Mavjee, nhà xuất bản Crown Publishers, cho biết. *** George Walker Bush (còn gọi là George Bush con, Bush Jr hoặc là Bush 43, sinh ngày 6 tháng 7 năm 1946) là một chính trị gia, doanh nhân, và là Tổng thống thứ 43 của Hoa Kỳ tại nhiệm từ năm 2001 đến năm 2009. Ông là thành viên Đảng Cộng hoà và từng đảm nhiệm chức Thống đốc thứ 46 của tiểu bang Texas từ năm 1995 đến năm 2000. Ngoài ra, ông còn là thành viên của một gia đình có quyền thế ở nước Mỹ, Gia tộc Bush, với cha của ông, George H. W. Bush, là Tổng thống thứ 41 của Hoa Kỳ tại nhiệm năm 1989 đến năm 1993. Bush là con trai cả của Barbara và George H. W. Bush, và là người con trai thứ hai trở thành Tổng thống Mỹ sau cha mình (người đầu tiên là John Quincy Adams). Sau khi tốt nghiệp Đại học Yale năm 1968 và Trường Kinh doanh Harvard năm 1975, ông làm việc trong ngành dầu khí. Bush kết hôn với Laura Welch vào năm 1977. Khoảng một năm sau khi kết hôn, Bush tranh cử dân biểu Hạ viện Hoa Kỳ. Tuy nhiên, ông đã thất bại trong cuộc bầu cử lần đó. Vài năm sau, Bush trở thành đồng sở hữu một đội bóng chày mang tên Texas Rangers. Trong cuộc bầu cử Thống đốc bang Texas năm 1994, ông đã vượt qua vị Thống đốc lúc bấy giờ là Ann Richards để trở thành người lãnh đạo mới của tiểu bang Texas. Bush được bầu làm Tổng thống Hoa Kỳ năm 2000 sau khi đánh bại vị Phó Tổng thống đương nhiệm đến từ Đảng Dân chủ Al Gore. Đây là một chiến thắng khá sát sao và gây nhiều tranh cãi nhất lịch sử khi phải cần đến xét xử của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ để chấm dứt việc kiểm phiếu lại ở tiểu bang Florida. Đồng thời, cũng với chiến thắng này, Bush trở thành người thứ tư được bầu làm Tổng thống với số phiếu phổ thông ít hơn đối thủ. Để đáp trả cuộc tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9, Bush đã phát động cuộc "Chiến tranh chống khủng bố" và mở màng chiến dịch này với chiến tranh Afghanistan năm 2001. Vào năm 2003, ông cũng cho tiến hành Chiến tranh Iraq. Trong thời gian làm Tổng thống, Bush đã ký ban hành nhiều điều luật bao gồm các cắt giảm thuế, Đạo luật Yêu nước (Patriot Act), Đạo luật Giáo dục cho Mọi Trẻ em (No Child Left Behind Act), Đạo luật Cấm Phá Thai (Partial-Birth Abortion Act), Đạo luật Hiện đại Hóa Chương trình Bảo hiểm Sức khỏe (Medicare Modernization Act) và tài trợ cho chương trình cứu trợ AIDS mang tên là PEPFAR. Trong kỳ bầu cử Tổng thống năm 2004, Bush đã giành được một chiến thắng sát sao sau khi vượt qua Thượng nghị sĩ của Đảng Dân chủ John Kerry. Sau khi tái đắc cử, Bush đã phải nhận nhiều lời chỉ trích từ nhiều phía trên phổ chính trị (từ các chính trị gia thuộc cả Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa) vì cách xử lý các vấn đề trong Chiến tranh Iraq, Bão Katrina, cũng như các thách thức khác. Giữa tình hình trên, Đảng Dân chủ đã giành lại quyền kiểm soát Quốc hội trong cuộc bầu cử năm 2006. Vào tháng 12 năm 2007, Hoa Kỳ bước vào thời kỳ suy thoái dài nhất kể từ Chiến tranh Thế giới thứ hai, và thời gian này thường được gọi là thời kỳ "Đại suy thoái". Sự việc này đã khiến chính quyền Bush phải dựa vào sự chấp thuận của Quốc hội cho nhiều chương trình kinh tế nhằm bảo toàn hệ thống tài chính của đất nước. Bush là một trong những tổng thống Hoa Kỳ nhận cả sự mến mộ lẫn không bằng lòng từ người dân. Sau vụ tấn công 11/9, ông có được sự tín nhiệm cao nhất trong lịch sử. Tuy nhiên, khi cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 xảy ra, mức tín nhiệm lại xuống một trong những ngưỡng thấp nhất trong lịch sử. Bush kết thúc nhiệm kỳ thứ hai của mình vào năm 2009 và trở về Texas. Năm 2010, ông đã xuất bản hồi ký của mình mang tên Decision Points. Thư viện Tổng thống của ông được khai trương vào năm 2013. Mặc dù mức ủng hộ của người dân dành cho Bush đã dần được cải thiện đáng kể từ khi rời nhiệm sở, ông vẫn bị đánh giá là một trong những vị Tổng thống tệ nhất trong các cuộc thăm dò của các nhà sử học. *** ài tháng sau khi chúng tôi rời Nhà Trắng, Laura và tôi đã mời Tim Lawson cùng Phu nhân Dorie McCullogh Lawson đến trang trại của chúng tôi tại Crawford, bang Texas. Tôi đã nhờ Tim - một họa sĩ thực thụ, chứ không phải một người nghiệp dư như tôi - vẽ cảnh quan một số địa điểm mà chúng tôi yêu thích. Khi Tim quan sát các thảo nguyên rộng lớn và những gốc sồi sống trên mảnh đất màu mỡ thì Dorie và tôi nói chuyện về thân phụ của bà, ông David Mc Cullough. Tôi đã nói với bà ấy rằng được gặp thân phụ của bà là một điều đặc biệt trong nhiệm kỳ tổng thống của tôi, ông là một nhà sử học uyên bác và đã được nhận giải Pulitzer cho cuốn tiểu sử về Tổng thống John Adams. Sau khi cung cấp cho tôi một số thông tin về sức khỏe và công việc của thân phụ, Dorie nói rằng, “Ngài nên biết rằng điều mà cha tôi cảm thấy đáng tiếc nhất khi nghiên cứu về John Adams đó là không hề có ghi chép cụ thể nào về ông, bởi con trai ông là John Quincy Adams”. Dĩ nhiên bà ấy biết sự tương đồng giữa tôi và John Quincy: Chúng tôi đều là con trai của hai vị tổng thống và đều trở thành tổng thống. “Vì mục đích lịch sử”, bà ấy nói, “Tôi nghĩ ngài nên viết một cuốn sách về cha mình”. Tại thời điểm này, tôi đang hoàn thành hồi ký về nhiệm kỳ tổng thống của mình. Nhưng ý tưởng của Dorie gieo một hạt giống. Cuối cùng, nó đã đâm chồi nảy lộc thành cuốn sách này. Nhiều năm qua đi, tôi đồ rằng sẽ có rất nhiều sách phân tích về Geore Herbert Walker Bush, về con người và nhiệm kỳ tổng thống của ông. Nhiều cuốn trong đó có thể theo chiều hướng khách quan. Nhưng cuốn sách này thì không. Đây là một cuốn truyện tình - chân dung về một cá nhân phi thường, người mà tôi được ban phước lành để gọi là Cha. Tôi không có ý định sẽ miêu tả toàn bộ các khía cạnh trong cuộc sống của ông hoặc những năm ông tại nhiệm. Tôi thật sự hy vọng sẽ thể hiện được lý do tại sao George H.W. Bush thật sự là một vị tổng thống tuyệt vời và là một người cha còn tuyệt vời hơn nữa. Tôi gửi tình yêu vào cuốn sách này. Tôi hy vọng rằng các bạn sẽ thấy thú vị khi đọc nó. Mời các bạn đón đọc Cha Tôi - Tổng Thống Thứ 41 Của Hoa Kỳ của tác giả George W. Bush.