Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ác Mộng Ven Hồ

Gina Royal là một phụ nữ bình dị sống cuộc sống êm đềm bên chồng và hai đứa con thơ tại vùng Wichita, tiểu bang Kansas. Thế giới của cô bỗng đảo lộn hoàn toàn vào ngày nọ, khi cô lái xe đưa các con đi học về thì phát hiện một chiếc xe hơi đã tông vào bức tường gara nhà cô, để lại một khoảng trống hoác đồng thời phơi bày bí mật kinh hoàng: một thi thể phụ nữ chết trong tư thế bị treo cổ. Gia đình Gina bỗng chốc rơi xuống vực thẳm. Để sinh tồn, cô buộc phải trốn chạy, bỏ đi mọi thứ mình từng có, những mong làm lại cuộc đời. Gina cuối cùng tìm được bến đỗ tại ngôi nhà nhỏ bên hồ Stillhouse. Nhưng hy vọng mới còn chưa kịp bén rễ thì cuộc đời một lần nữa đẩy cô đến bờ vực khốn cùng. Cô phải làm thế nào để giữ được sự tỉnh táo trong trò chơi ú tim của kẻ giết người đã hiểu rõ cô và cô cũng hiểu hắn rất rõ? Phải làm thế nào để vừa giữ an toàn cho các con, vừa phải gìn giữ sợi dây tình cảm mong manh với hai đứa trẻ tuy còn nhỏ mà đã phải chịu quá nhiều thương tổn?  Là tập đầu tiên trong series trinh thám Stillhouse gồm ba cuốn, cùng với Con lạch chết chóc và Dòng sông hắc ám, Ác mộng ven hồ sẽ đưa người đọc cùng Gina trải qua hành trình đi tìm sự thật với vô vàn ngã rẽ cùng những nút thắt mở bất ngờ đến phút chót. ----- Về tác giả Rachel Caine Rachel Caine là một trong những tác giả ăn khách nhất thế giới với hơn năm mươi đầu tiểu thuyết nằm trong danh sách bán chạy, bao gồm hai series truyện dành cho tuổi thiếu niên là Ma cà rồng vùng Morganville và Đại Thư viện. Các dòng sách bà theo đuổi gồm có: tiểu thuyết giật gân, huyền bí, kỳ ảo hiện đại, khoa học viễn tưởng và tiểu thuyết siêu linh dành cho giới trẻ. Bà hiện sống cùng gia đình tại Fort Worth, bang Texas, Mỹ. *** Ác mộng ven hồ Tác giả: Rachel Caine. Dịch giả: Ngụy Thanh Tuyên Thể loại: Trinh thám hiện đại phương Tây, hồi hộp Gwen Proctor là người mẹ đơn thân của hai đứa trẻ, con gái lớn 14 tuổi đang trong thời kỳ nổi loạn, con trai nhỏ 11 tuổi tương đối hiểu chuyện và biết quan tâm đến chị gái. Gwen cũng là học viên xuất sắc tại trường dạy bắn súng cạnh vùng hồ Stillhouse thuộc bang Tennessee. Ngôi nhà của họ tọa lạc ở nơi có phong cảnh rất nên thơ, nhưng Gwen giữ thái độ xa cách và hết sức thận trọng với hàng xóm. Cô ép mình tập luyện gắt gao những bộ môn tự vệ nhằm cố gắng duy trì tinh thần ổn định và giữ tính mạng cho bản thân và hai đứa con. Cách đây bốn năm, Gwen từng là người phụ nữ nội trợ hạnh phúc có chồng làm thợ mộc, cuộc sống vô tư vô lo trôi qua từng ngày, cho đến khi một tài xế say rượu tông vỡ nát bức tường garage nhà cô, làm lộ ra thi thể một phụ nữ chết trong tư thế bị treo cổ. Tôi định chọn “Ác mộng ven hồ” làm một quyển trinh thám đọc chơi vào cuối tháng 9, không nghĩ rằng nó cuốn hút như thế này, khiến tôi bỏ ngủ và đọc hết trong vòng chưa đến hai ngày. Cuốn sách khiến tôi liên tưởng nhiều đến quyển “Săn đuổi đến cùng” (Lisa Gardner), cả hai cuốn đều đưa độc giả hoàn toàn rơi vào bầu không khí căng thẳng nhiều phần tối tăm của câu chuyện, hồi hộp theo từng hành động của nhân vật, sợ hãi với diễn biến kịch tính của truyện. Cả hai cuốn cũng không nhấn mạnh lắm vào vai trò của cảnh sát, nhân vật chính không thuộc giới thi hành pháp luật, họ chỉ vô tình rơi vào vòng xoáy tội ác và phải nỗ lực bằng cả tính mạng để giải thoát chính mình + người thân. Ngay phần mở đầu của “Ác mộng ven hồ” đã có cảnh khiến tôi sợ. Nếu là vài năm trước thì tôi đã không dám đọc tiếp, nhưng nay bớt nhát rồi, thêm nữa là cách viết của tác giả quá cuốn hút nên tôi đánh liều đọc đến hết, và khá ưng ý với quyển sách này. “Ác mộng ven hồ” không có những câu tả cảnh hữu tình hay những lời thoại chứa đầy kiến thức tâm lý ứng dụng như trong truyện của Lee Child hoặc Baldacci, cách viết của Rachel Caine khiến tôi nghĩ đến Tử Kim Trần: miêu tả rõ ràng gãy gọn, tập trung vào nhân vật và hành động, rất thực tế nhưng không khô khan, cảm giác như không có chữ nào dư thừa. Thêm một lý do khiến tôi thích cuốn này là vì tác giả không đưa vào quá nhiều tình cảm lãng mạn, thay vào đó, chất trinh thám tỉnh lạnh và đậm đặc hoàn toàn làm hài lòng các độc giả trinh thám. Suốt quá trình đọc, tôi cảm nhận sâu sắc rằng Rachel Caine đúng là một tác giả NỮ viết cho bạn đọc NỮ, vì nội dung truyện nhấn mạnh vào diễn biến tâm lý của một phụ nữ trẻ, cách cô ấy bảo vệ con như một loài thú dữ, cách cô ấy so sánh người đàn ông trong hiện tại và người đàn ông của quá khứ, cách cô ấy vận dụng toàn bộ sức mạnh yếu ớt của nữ giới để chống lại kẻ xấu… Không biết những cuốn khác trong loạt truyện “Stillhouse” thì sao nhưng sau cuốn này thì tôi kết luận mình thích truyện của Rachel Caine. Có một số truyện trinh thám tôi từng đọc qua đề cập đến tác hại của Internet đối với cuộc sống con người, chẳng hạn như “Cây thập tự ven đường”, “Dữ liệu tử thần”, “Sát nhân mạng” (cả ba truyện vừa nêu đều của tác giả Jeffery Deaver). “Ác mộng ven hồ” cũng tương tự như vậy. Trước khi đọc cuốn này, tôi chưa từng tưởng tượng vợ con của một kẻ sát nhân sẽ nhận được thái độ đối xử như thế nào từ công chúng? Thông cảm, hay thờ ơ không quan tâm? Trái với lầm tưởng ngây thơ của tôi, mức độ thù hằn đổ lên đầu họ còn gấp nhiều lần đổ lên chính kẻ sát nhân. Họ chỉ là phụ nữ và trẻ con, và dù vô tội, họ vẫn bị những tay anh hùng bàn phím vô nhân tính thiếu não đe dọa bằng những từ ngữ tục tĩu dơ bẩn, những hành động tiểu nhân bỉ ổi. Trong truyện có nhiều câu, nhiều đoạn rất thấm thía mô tả suy nghĩ của Gwen Proctor khi cô và các con phải nhận lấy những lời lẽ / những cách cư xử mà họ hoàn toàn không đáng phải chịu. Tuy hiểu rằng người sử dụng Internet không phải toàn người xấu, nhưng quyển sách này vẫn đem đến cho tôi những góc nhìn mới, giúp tôi sáng mắt ra và từ nay thêm phần e sợ khi dùng Internet nói chung và mạng xã hội nói riêng. Thiết kế bìa rất hợp với tựa sách, lẽ ra tôi phải sợ nhưng tôi chỉ thấy bìa đẹp!, gợi liên tưởng đến bìa cuốn “Tiếng thét”của Hamanaka Aki. Phần dịch thuật xuất sắc, giúp cho việc đọc câu truyện càng trở nên dễ dàng và thú vị hơn đối với bạn đọc VN. Tuy có để ý tìm kiếm nhưng tôi không nhớ mình có gặp lỗi chính tả hay lỗi biên tập nào trong truyện hay không. Loạt truyện “Stillhouse” của tác giả Rachel Caine còn những cuốn khác gồm + Killman Creek: Con lạch chết chóc, đã được dịch tiếng Việt Còn những tựa sách sau thì tôi mạn phép tự dịch là + Wolfhunter River: Dòng sông săn sói + Bitter Falls: Thác nước đắng cay + Heartbreak Bay: Vùng vịnh tim vỡ Hy vọng những cuốn còn lại đều sẽ được dịch và xuất bản tiếng Việt. Bây giờ đọc tiếng Việt, vài năm sau nếu có cơ hội đọc lại nguyên tác tiếng Anh thì tôi nghĩ mình sẽ có thêm quãng thời gian tận hưởng những quyển sách thú vị này. *** (Sea, 29-9-2020) Cáo Biển Non Xanh Gina Royal có lẽ không tin nổi đến một ngày nọ gia đình hạnh phúc của cô lại rơi vào vực thẳm của bi kịch: Người chồng chung sống bao lâu nay thực ra là một thằng sát nhân bệnh hoạn! Tội ác của hắn chỉ thực sự lộ tẩy khi có 1 tai nạn hi hữu xảy ra ở gara, nơi hắn thường xuyên làm việc tại nhà. Gina bị cáo buộc đồng loã nhưng sau đó được tuyên trắng án. Để bắt đầu cuộc sống mới với 2 con, người phụ nữ này sẽ phải làm những gì? “Ác mộng ven hồ” là câu chuyện về hành trình chỉ có trốn chạy và trốn chạy của một người đàn bà yếu ớt không một tấc sắt trong tay. Rong ruổi hết bang này sang bang nọ với những thân phận mới. Mục đích của cô là để đem lại nơi chốn an toàn và ổn định cho các con của mình. Có vẻ định mệnh đã sắp đặt cô dừng chân lại ở vùng Hồ Stillhouse, bang Tenessa. Nhưng vì sao toà đã tuyên án vô tội mà Gina Royal vẫn phải chạy trốn ko ngừng? Nói đến đây tôi lại nhớ về “Thư” của Higashino Keigo: Một kẻ phạm tội bị cầm tù 15 năm; và 15 năm đó cũng là ngần ấy ngày cuộc đời em trai của anh ta bị “cầm tù” ở phía bên ngoài song sắt. Gina có phần giống với người em trong câu chuyện ấy, chính xác thì cuộc đời của cô ngay cả khi chồng bị tống vào ngục vẫn ko thể ngóc đầu lên được, nhưng cô thê thảm theo một cách khác. Cả 3 mẹ con liên tục bị đe doạ tấn công, giết chết. Những thân nhân của các nạn nhân mà thủ phạm là gã chồng cũ không chấp nhận việc Gina vô tội, người ta tìm cách truy lùng họ để trả thù. Bọn cuồng tín tôn thờ chủ nghĩa man rợ phát tán các hình ảnh thoá mạ các con cô…Bằng một cách nào đó, chính người chồng đầu ấp tay gối đã “cầm tù” và bóp nghẹt cơ hội làm lại cuộc đời của vợ con mình. Một con thú khát máu trong vỏ bọc người chồng mẫu mực liệu có bao giờ nghĩ đến viễn cảnh đó hay không? Tôi đọc cuốn sách này nhanh và hoàn thành sớm hơn tôi tưởng. Đây là một cốt truyện gần như đè bẹp yếu tố trinh thám thuần mặc dù có đầy đủ yếu tố: người chết, cảnh sát, nghi phạm, điều tra. Xương sống của truyện tập trung về đời sống nội tâm và cách ứng phó của nhân vật chính với các diễn biến bên ngoài. Nhiều lúc cứ ngỡ như đây là một cuộc chiến sinh tồn, vì vai trò của Gina không khác gì một con mồi dễ triệt hạ. Tôi cũng thừa nhận rằng không ít lần tôi phát bực với nhân vật này. Nhu nhược và yếu đuối, thường tìm cách đổ lỗi cho bản thân mình, có phần hơi kém thông suốt tâm lý của con cái, bề ngoài thì luôn đề phòng nhưng kì thực rất dễ tin người. Tin mình đi, Gina dễ tin người vãi lá; không cần đọc đến đoạn tác giả lồng ghép vào về sau thì ngay từ ban đầu cũng thừa dữ kiện để nhận ra rồi. Nhưng suy xét kĩ thì tôi thấy cũng dễ hiểu. Gina sống với không một sự giúp đỡ và tâm trạng cảnh giác cao độ luôn luôn khiến cô mệt mỏi. Hoàn cảnh khắc nghiệt làm thay đổi tâm tính của cả cô lẫn 2 con. Cuộc sống của cô là chỉ cần bạn ngồi yên một chỗ, rồi tai hoạ và rắc rối cũng sẽ tự dưng tìm đến bạn. Gina không thông minh lên được là bao, nhưng mạnh mẽ thì có, sự mạnh mẽ chậm dần đều. Đơn giản Gina chỉ là một phụ nữ an phận hiền lành, không có kĩ năng va vấp ngoài xã hội từ trước. Nếu nói thứ cảm xúc nào rõ ràng nhất sau khi đọc xong cuốn sách này thì đó là sự phẫn nộ. Không những nạn nhân là nữ, chết thảm, mà đối tượng bị đổ lỗi ở đây cũng vẫn lại là phụ nữ; Luôn là phụ nữ. Một xã hội nhân danh diệt trừ cái ác nhưng không hiểu rõ bản chất cái ác. Kẻ tội đồ lại thành “ai-đồ”, có fandom sùng bái. Cái nhìn thiển cận của đa số con người trong xã hội đối với một cá nhân có vết đen là vấn đề không thể tránh khỏi, vì khó có người nào thật sự muốn bản thân mình buộc phải có trách nhiệm nhân ái và bao dung với đồng loại. Luật pháp trong câu chuyện này còn thua cả luật rừng. Tôi thấy nực cười nhất là đám cảnh sát. Thầm nghĩ có lẽ tác giả muốn gia tăng độ khó và mức độ hiểm trở cho hành trình của nhân vật chính nên suốt từ đầu đến cuối không có nổi lấy 1 tay nào thông minh nhạy bén Nếu không muốn nói là có mặt chắc chỉ để hằm hè đe doạ. Và cuối truyện thì chỉ cần nói “Tôi nợ chị cả một trời xin lỗi” xí xoá là xong! Tôi không chê tác phẩm này về mặt logic phá án, bởi vì nó quá mờ nhạt, không có gì để phân tích và suy đoán thì biết lấy gì ra để chê? Chẳng có gì khác ngoài một vài biểu hiện không thiện chí và gây khó dễ cho nhân vật chính, không cấu thành nổi dữ kiện để đặt nghi vấn ai là kẻ đứng sau. Và như đã nói từ trước là Gina ngây thơ vãi lá, hoặc nếu tác giả xem đó là thử thách gây bất ngờ cho độc giả phát hiện ra điều bí mật thì xem ra quá nhẹ nhàng. Vậy suy cho cùng, chạy trốn mãi vẫn không thể là giải pháp thực sự hữu hiệu, Gina buộc phải đối mặt và phải trở nên cáo già hơn. Chúng ta chờ xem ở phần 2, “Con Lạch chết chóc” có khởi sắc hơn phần 1 này hay không nhé? À mà phải nói thêm rằng gã chồng trong truyện cũng thuộc dạng bệnh nhất trong các loại bệnh. Các bạn đọc “Vỏ bọc hoàn hảo”- Lisa Gardner; “Những thiên thần mất tích”- Karin Slaughter; “Sau cánh cửa đóng”- B.A Paris dễ thấy hình ảnh tương tự nhưng đảm bảo không “bệnh” bằng Chồng của Gina đâu, mặc dù hắn chỉ xuất hiện qua sự hồi tưởng của cô là nhiều. Phần 1 kết thúc mở, phần 2 sẽ hứa hẹn gay cấn hơn. *** GINA ROYAL Wichita, bang Kansas Gina chẳng bao giờ hỏi tới cái gara. Ý nghĩ ấy sẽ khiến cô phải thao thức bao đêm ròng suốt nhiều năm về sau, làm mí mắt cô nóng ran, đùng đùng giật liên hồi. Lẽ ra mình phải hỏi. Phải biết. Nhưng cô đã không hỏi, cô không biết, và cuối cùng, chính điều đó đã hủy hoại cô. Thường thường, cô về nhà lúc ba giờ chiều, nhưng chồng cô gọi, báo rằng anh có việc gấp ở sở làm và cô phải tới trường đón Brady và Lily thay anh. Cũng chẳng vấn đề gì lắm, thật thế - vẫn còn vô khối thời gian để dọn dẹp nhà cửa trước khi nấu bữa tối. Anh tỏ ra rất đáng yêu và rối rít xin lỗi khi làm xáo trộn lịch trình của cô. Thực sự, Mel có lẽ là người đàn ông tốt nhất, hấp dẫn nhất trên đời và cô sẽ đền đáp cho anh; cô đã quyết định như thế. Tối nay, cô sẽ nấu món anh thích nhất: gan chiên bơ hành, uống kèm với vang pinot noir thượng hạng mà cô vừa lấy ra khỏi tủ và đang bày trên bàn bếp kia. Sau đó là buổi tối cả nhà quây quần, là ngả người trên sofa xem phim cùng lũ trẻ. Chắc sẽ là bộ phim siêu anh hùng mới ra mà bọn trẻ kêu gào đòi xem suốt mấy hôm nay, dẫu Mel rất kĩ tính với các thể loại phim ảnh cho trẻ nhỏ. Lily sẽ cuộn người lại như cục bông tròn nóng sực, rúc sát vào Gina, còn Brady nằm dài trong lòng bố, đầu gác lên tay ghế. Chỉ có những đứa trẻ dẻo người mới nằm thoải mái được như thế, nhưng đó là điều Mel yêu thích nhất trần đời: thời gian bên gia đình. Chậc. Điều yêu thích thứ hai, sau nghề mộc của anh. Gina hy vọng tối hôm nay anh sẽ không kiếm cớ ra ngoài và lại hì hục làm cái nọ, sửa cái kia trong xưởng mộc. Một cuộc sống bình thường. Dễ chịu. Không hoàn hảo - tất nhiên rồi. Chẳng ai có cuộc hôn nhân hoàn hảo cả, phải không nào? Nhưng Gina cảm thấy hài lòng, nói chung là thế. Cô rời nhà mới được có nửa giờ, đủ lâu để phi tới trường, đón bọn trẻ, và phóng trở lại nhà. Ôi trời! Ngộ nhỡ nhà ai bị cháy thì làm sao đây? Đó là ý nghĩ đầu tiên nảy ra trong đầu khi cô rẽ vào góc đường và thấy đèn hiệu nhấp nháy ở khu phố nhà mình. Cô đứng tim trước ý nghĩ đó, nhưng ở giây tiếp theo, giây phút ích kỷ, cô lại nghĩ: Thế này thì bữa tối muộn mất. Chuyện nhỏ nhặt là thế nhưng khiến người ta phát bực. Đường bị chặn hoàn toàn. Cô đếm thấy có ba chiếc xe cảnh sát đằng sau rào chắn, đèn chớp trên xe họ khiến những ngôi nhà gần như giống hệt nhau ở gần đó chìm trong màu đỏ lừ của máu và màu xanh tái của những vết bầm. Một xe cứu thương và một xe cứu hỏa nằm thu lu ở tít cuối đường, rõ ràng đang bị bỏ không. “Mẹ ơi?” Brady, cậu bé bảy tuổi đang ngồi ở ghế sau, hỏi. “Mẹ, có chuyện gì vậy mẹ? Là nhà ta ạ?” Giọng cậu có vẻ phấn khích. “Nhà mình cháy à mẹ?” Gina cho xe đi thật chậm và cố quan sát hiện trường: một bãi cỏ bị xới tung, một thảm lan diên vĩ bị san phẳng và mấy lùm cây bị nghiền nát. Một cái xác hộp thư móp méo vắt vẻo nửa trong nửa ngoài rãnh thoát nước. Hộp thư nhà họ. Bãi cỏ nhà họ. Nhà của họ. Phía cuối bãi chiến trường đó là một chiếc SUV màu nâu sẫm, động cơ vẫn còn đang xì khói. Chiếc xe bị kẹt phân nửa trong bức tường ở mặt tiền gara - xưởng của Mel - và ngật ngưỡng tì lên đống đổ nát từng là một phần của ngôi nhà gạch vững chãi. Cô vẫn luôn nghĩ rằng nhà mình rất vững chãi, rất chắc chắn, rất bình thường. Đống gạch vụn và những miếng thạch cao vỡ nát như một bãi nôn kia nom mới kinh tởm làm sao. Chúng trông mong manh quá. Cô hình dung ra chiếc SUV khi nó lao lên lề đường, hất tung hộp thư, trượt trên sân, và đâm sầm vào gara. Khi trong đầu vẽ ra cảnh tượng đó, chân cô cuối cùng cũng nhấn xuống phanh xe mình, lực đạp khá mạnh, đủ để cô cảm nhận được cú xóc đến tận xương sống. “Mẹ!” Brady hét lên, gần như sát vào tai cô, và theo phản xạ, cô đưa tay lên ra hiệu cho con im lặng. Bên ghế khách, Lily, mười tuổi, đã gỡ tai nghe ra và nhoài về phía trước. Miệng con bé há hốc khi nó nhìn thấy nhà mình bị phá, nhưng nó không nói một lời. Mắt nó vẫn đang trố ra vì choáng. “Mẹ xin lỗi.” Gina nói, nhưng gần như không nhận thức được mình đang nói gì. “Có gì đó không ổn, con ạ. Lily? Có sao không con?” Mời các bạn mượn đọc sách Ác Mộng Ven Hồ của tác giả Rachel Caine & Ngụy Thanh Tuyên (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những vụ kỳ án của Sherlock Holmes - Arthur Conan Doyle (Bản Đinh Tị - Thái Hà dịch)
Sherlock Holmes là một nhân vật thám tử hư cấu vào cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, xuất hiện lần đầu trong tác phẩm của nhà văn Arthur Conan Doyle xuất bản năm 1887. Ông là một thám tử tư ở Luân Đôn nổi tiếng nhờ trí thông minh, khả năng suy diễn logic và quan sát tinh tường trong khi phá những vụ án mà cảnh sát phải bó tay. Nhiều người cho rằng Sherlock Holmes là nhân vật thám tử hư cấu nổi tiếng nhất trong lịch sử văn học và là một trong những nhân vật văn học được biết đến nhiều nhất trên toàn thế giới. Đã có rất nhiều vở kịch và bộ phim được sáng tác dựa trên những tác phẩm của Conan Doyle về Holmes, về mặt này có thể so sánh Holmes với những nhân vật hư cấu nổi tiếng khác như Hamlet hay Dracula. Sherlock Holmes được độc giả hâm mộ tới mức đã có rất nhiều hội những người hâm mộ ông được thành lập. Năm 1990 người ta đã mở Bảo tàng Sherlock Holmes ở phố Baker, đây là bảo tàng cho một nhân vật hư cấu đầu tiên được mở trên thế giới. Sherlock Holmes đã xuất hiện trong 4 tiểu thuyết và 56 truyện ngắn của nhà văn Conan Doyle. Hầu như tất cả các tác phẩm đều được viết dưới dạng ghi chép của bác sĩ John H. Watson, người bạn thân thiết và người ghi chép tiểu sử của Holmes, chỉ có 2 tác phẩm được viết dưới dạng ghi chép của chính Holmes và 2 tác phẩm khác dưới dạng ghi chép của người thứ ba. Hai tác phẩm đầu tiên trong số này, 2 tiểu thuyết ngắn, xuất hiện lần đầu tiên trên tờ Beeton's Christmas Annual năm 1887 và tờ Lippincott's Monthly Magazine năm 1890. Thám tử Holmes trở nên cực kì nổi tiếng khi loạt truyện ngắn của Doyle được xuất bản trên tạp chí The strand Magazine năm 1891. Các tác phẩm được viết xoay quanh thời gian từ năm 1878 đến năm 1903 với vụ án cuối cùng vào năm 1914. *** Một buổi sáng cuối năm 1896, tôi nhận được tờ giấy viết vội của Sherlock Holmes, mời tôi lập tức tới phố Baker ngay. Tới nơi, tôi thấy anh đang ngồi trong một căn phòng mù mịt khói thuốc, trên chiếc ghế đối diện là một phụ nữ đẫy đà đã luống tuổi và có dáng dấp một bà chủ nhà trọ. - Anh Watson, đây là bà Merrilow ở quận South Brixton. - Ông bạn tôi giơ tay giới thiệu - Bà đây không phản đối việc hút thuốc, nên anh cứ mặc sức tận hưởng thú vui của mình. Bà Merrilow muốn kể cho chúng ta nghe một câu chuyện vô cùng thú vị. Và có thể sự việc sẽ còn tiến triển, nên sự có mặt của anh ở đây là vô cùng hữu ích. - Nếu tôi có thể giúp được gì… - Bà Merrilow, chắc bà cũng hiểu rằng nếu tôi tới gặp bà Ronder thì tôi hy vọng có một người làm chứng. Xin bà hãy nói với bà ấy về điều này trước. - Chúa sẽ phù hộ cho ông, ông Holmes ạ! - Người khách nói - Bà ấy rất muốn gặp ông, nên ông có gọi tất cả mọi người trong khu này đến thì bà ấy cũng chả bận tâm gì đâu. - Vậy chiều nay chúng ta nên xuất phát sớm một chút. Trước khi đi, phải đảm bảo là chúng ta đã nắm rõ mọi việc. Bà hãy kể lại tất cả một lần nữa, giúp bác sĩ Watson có thể hiểu được tình hình. Ban nãy bà có nói, bà Ronder đã trọ ở nhà bà bảy năm rồi, nhưng bà mới nhìn rõ mặt bà ấy chỉ một lần duy nhất phải không? Bà Merrilow nói: - Thề có Chúa, tôi ước gì mình chưa bao giờ nhìn thấy mặt bà ấy thì hơn! - Mặt bà ấy bị thương tổn rất nặng nề, phải vậy chứ? - Thưa ông Holmes, không thể gọi đó là một cái mặt người được! Thật là vô cùng khủng khiếp. Một lần, người đưa sữa cho tôi nhác thấy bà ấy đang đứng ngắm cảnh ở cửa sổ tầng trên, anh ta kinh hoàng tới mức làm đổ cả thùng sữa! Lần nọ, bất ngờ tôi chợt nhìn thấy mặt bà ấy, bà ấy lập tức che mặt lại và nói: “Bà Merrilow, chắc bây giờ bà đã hiểu vì sao tôi luôn luôn che mặt bằng tấm mạng này rồi chứ?”. - Bà có biết tí gì về quá khứ của bà ấy không? - Tôi hoàn toàn không biết gì về bà ấy cả. - Khi bà ấy tới thuê nhà, có sự giới thiệu của ai không? - Không, nhưng bà ấy trả bằng tiền mặt và luôn trả trước rất nhiều. Tiền thuê nhà trả cả quý, hơn nữa cũng không hề cò kè mặc cả. Tôi ngần này tuổi rồi, lại bơ vơ một mình trong thời buổi khó khăn, ngài bảo làm sao có thể từ chối được một người khách giàu có và hào phóng như vậy được? - Lý do gì khiến bà ấy chọn thuê căn hộ của bà? - Căn hộ của tôi cách đường khá xa, yên tĩnh hơn so với các căn hộ cho thuê khác. Hơn nữa, tôi chỉ nhận mỗi một người khách trọ; bản thân tôi cũng không có người thân. Tôi đoán rằng bà ấy đã từng thuê nhiều nơi, nhưng bà ấy thích căn hộ của tôi nhất. Bà ấy cần yên tĩnh và không tiếc tiền. - Bà có nói rằng, kể từ khi tới ở, bà ấy chưa bao giờ để lộ khuôn mặt của mình, chỉ trừ một lần duy nhất kia thôi. Đây quả là một chuyện khá đặc biệt và vô cùng kỳ lạ. Do đó tôi hiểu vì sao bà muốn điều tra xác minh nó đến vậy. - Không phải tôi muốn thế, thưa ông Holmes. Với tôi mà nói, chỉ cần có tiền thuê nhà là tôi đã cảm thấy rất hài lòng rồi. Không có vị khách thuê nhà nào yên lặng hơn, ít chuyện hơn bà ấy. - Vậy thì tại sao bà lại tới đây? - Thưa ông Holmes, đó là vì sức khỏe của bà ấy. Bà ấy càng ngày càng yếu đi. Hơn nữa, trong lòng bà ấy có những bí mật rất hãi hùng nào đó. Có lúc bà ấy la to: “Giết người! Giết người!”. Lần khác lại nghe tiếng bà ấy hét toáng: “Đồ súc sinh tàn ác! Đồ yêu ma quỷ quái!”. Bà ấy kêu gào vào lúc nửa đêm, tiếng hét của bà ấy vang dội khắp nhà làm tôi sợ run lên. Sáng hôm sau, tôi lên thăm bà ấy. Tôi chân thành khuyên: “Bà Ronder này! Nếu trong lòng bà có điều gì u uất không thể nói ra, bà có thể tìm tới cha xứ hoặc cảnh sát, biết đâu họ có cách giúp bà”. “Ơn Chúa, tôi không cần tới cảnh sát!” - Bà ấy nói - “Cha xứ thì không thể làm gì để thay đổi được quá khứ. Nhưng trước khi tôi chết, nếu có một ai đó biết được toàn bộ câu chuyện này thì tôi có thể được an ủi phần nào”. Tôi mách cho bà ấy: “Ồ, nếu bà không muốn nhờ cảnh sát, thì bà hãy nhờ đến ông thám tử nổi tiếng mà mọi người đều biết là Sherlock Holmes ấy”. Thưa ngài, xin lỗi vì tôi đã nhanh mồm như vậy. Nhưng bà ấy vừa nghe liền đồng ý ngay: “Đúng rồi, tôi cần một người như thế”. Bà ấy nói: “Tại sao tôi lại không nghĩ ra nhỉ? Xin bà hãy mau chóng mời ông ta tới đây, bà Merrilow! Nếu ông ta không chịu tới, bà hãy nói với ông ta rằng tôi là vợ của Ronder, người dạy thú ở đoàn xiếc. Bà chỉ cần nói vậy thôi và cho ông ta cái tên “Abbas Parva””. Bà ấy viết chữ đó lên mảnh giấy đưa cho tôi rồi nói: “Cái tên này sẽ khiến ông ta tới ngay, nếu ông ta đúng là người như tôi nghĩ”. - Đúng là tôi phải đi thật, bà Merrilow ạ! - Holmes nói - Giờ tôi cần trao đổi với bác sĩ Watson một lúc và cuộc nói chuyện này phải kéo dài tới bữa trưa. Khoảng ba giờ chiều, chúng tôi mới có thể tới nhà bà được. Vị khách của chúng tôi vừa lạch bạch bước ra khỏi phòng, vì không còn từ nào có thể miêu tả đúng hơn dáng đi của bà ấy, thì Holmes liền đứng bật dậy, vùi đầu vào lật tìm đống tài liệu trong góc phòng. Vài phút sau, chỉ có tiếng lật giấy “soạt, soạt”, sau đó anh à lên một tiếng đầy thoả mãn. Nghe thế, tôi biết là Holmes đã tìm ra được điều gì đó. Anh ngồi bệt xuống sàn nhà, hai chân khoanh lại, một đống sách to đùng bao quanh, và trên đùi lại có một tập báo đang mở nữa. ... Mời các bạn đón đọc Những vụ kỳ án của Sherlock Holmes của tác giả Arthur Conan Doyle. Mời các bạn đón đọc Những vụ kỳ án của Sherlock Holmes của tác giả Arthur Conan Doyle.
Mười Người Da Đen Nhỏ - Agatha Christie
Mười người phát hiện rằng mình đã bị lừa ra đảo để "trả giá" cho "tội ác" đã gây ra, họ ứng với 10 bức tượng nhỏ đặt trên bàn ở phòng khách. Những ngày sau đó từng người lần lượt thiệt mạng tương tự cái cách bài đồng dao trong phòng mỗi người đã mô tả. Kỳ lạ hơn là sau khi một người qua đời, số tượng trong phòng khách bằng cách nào đó đều giảm đi một. Người đầu tiên thiệt mạng là Anthony Marston, anh ta chết vì ngộ độc với triệu chứng tương tự người bị nghẹn. Sau Marston là Ethel Rogers, bà quản gia chết được chồng phát hiện đã chết vì dùng thuốc ngủ quá liều. Vị tướng Macarthur dường như linh cảm được cái chết sẽ đến nên đã bỏ ăn mà ngồi nhìn ra biển và lảm nhảm một mình, bác sĩ Armstrong sau đó phát hiện ông đã chết vì bị một vật cứng đập vào sau đầu. Người thứ tư thiệt mạng là Thomas Rogers, trong lúc bổ củi chuẩn bị cho bữa sáng, dường như Thomas đã để trượt tay và làm lưỡi búa bay thẳng vào đầu. Là người luôn tin rằng mình không làm gì trái với Đức tin, rằng những người khác chết là do bị Chúa trừng phạt, tuy nhiên Emily Brent cũng không thể sống sót, bà bị tiêm thuốc độc vào cổ sau bữa ăn trưa, vết tiêm trên cổ bà tương tự như vết ong đốt. Buổi tối hôm đó đến lượt quan tòa Wargrave được bác sĩ Armstrong phát hiện đã thiệt mạng vì bị bắn vào đầu trong khi đang đội bộ tóc giả của quan tòa. Bản thân bác sĩ vào ngày hôm sau cũng được những người còn lại phát hiện đã chết đuối ở vách đá. Blore là người thứ tám thiệt mạng trên đảo, viên thám tử tư bị bức tượng trong phòng cô Vera Claythorne rơi trúng đầu trong lúc hai người còn lại đang ở ngoài bờ biển bên xác bác sĩ Armstrong. Rơi vào trạng thái hoảng loạn, Claythorne lừa cướp được súng của Lombard và giết chết tay cựu lính đánh thuê. Cuối cùng cô trở lại phòng và treo cổ tự tử với chiếc ghế và dây thòng lọng do một ai đó đã bày sẵn… Đây là một vụ án mà không hề có sự hiện diện hay dấu vết của thủ phạm. *** Mười người da đen nhỏ, nguyên bản tựa gốc tiếng Anh: Ten Little Niggers (10 gã mọi đen nhỏ) hoặc And Then There Were None (Và rồi chẳng còn ai) là một tiểu thuyết hình sự của nhà văn Agatha Christie được nhà xuất bản Collins Crime Club phát hành lần đầu ở Anh ngày 6 tháng 11 năm 1939[2]. Tác phẩm đôi khi còn được xuất bản (và chuyển thể thành phim) dưới tên Ten Little Indians (10 gã da đỏ nhỏ). Tiểu thuyết nói về vụ án bí ẩn trên hòn đảo Soldier Island với 10 người bằng cách này hay cách khác đã thiệt mạng mà không hề có sự hiện diện hay dấu vết của thủ phạm. Đây được coi là một trong những tiểu thuyết hình sự xuất sắc và nổi tiếng nhất của Agatha Christie, trên 100 triệu bản sách đã được bán ra khiến tác phẩm này trở thành tiểu thuyết hình sự bán chạy nhất trong lịch sử xuất bản thế giới. Mười người da đen nhỏ cũng là tác phẩm của Agatha Christie được chuyển thể nhiều lần nhất, cả trực tiếp và gián tiếp, dưới dạng phim điện ảnh, truyền hình và kịch sân khấu. Mời các bạn đón đọc Mười Người Da Đen Nhỏ của tác giả Agatha Christie.
Xác Chết - Carter Brown
Cô gái tóc vàng đã có thể. Cô gái tóc nâu đã sẵn sàng. Và Al Wheeler đã sẵn sàng ... vì tình yêu. Cho đến khi tìm thấy ba xác chết. Cảnh sát California bắt đầu cuộc chạy đua truy tìm hung thủ khi xác chết đầu tiên xuất hiện. Xác chết thứ hai xuất hiện trong một căn nhà phòng. Và rồi người thứ ba. Xác chết là một câu chuyện về những cô gái tóc vàng, và những kẻ tống tiền. Và viên cảnh sát tên là Al Wheeler xuất hiện với mục tiêu ngăn chặn tên sát nhân. *** Annabelle Jackson sôi nổi quảng cáo, “Đó là một nơi ăn chơi thật độc đáo, rồi anh sẽ thấy!” Tôi như một thằng ngố mặc cho Annabelle muốn dẫn đi đâu thì dẫn. Khi Annabelle dừng lại trước tấm bảng cũ kỹ có hai chữ ‘Guốc Vàng’ chạy đèn néon vàng óng, tôi ngước nhìn lên và thấy rõ hàng chữ cũng được chạy đèn néon nổi bật “Minuit - nửa đêm”. Tôi giơ tay gãi đầu, hỏi, “Ở đây à?” Không trả lời, Annabelle chộp tay tôi lôi tới trước một cánh cửa, nơi có cầu thang dẫn xuống nhà hầm. Khi đã chọn được chiếc bàn sát tường ưng ý, tôi kéo ghế ngồi và bắt đầu quan sát xung quanh. Nhà hầm rộng mênh mông nhưng nom nó có vẻ giống một cái hang nhiều hơn là một nhà hàng, chẳng có tới một cái máy điều hòa không khí dù là loại tồi tàn nhất. Không khí nóng bức trộn lẫn mùi nước hoa lan tỏa càng tạo cho tôi một cảm giác khó chịu. Thêm vào đó là thứ ánh sáng lờ mờ của nhà hầm khiến tôi phải cố gắng căng mắt lắm mới nhìn thấy được một mái đầu với mớ tóc vàng đang lắc lư bên cạnh. Tôi chồm tới ghé sát mặt để yên chí rằng mình không nhìn lầm. Một gã hầu phòng béo mỡ, thứ lề mề bất cần việc, cặp mắt láo liên tiến đến, gã chống hai bàn tay bẩn thỉu lên mặt bàn và hỏi một cách xấc xược, “Hai người ăn uống ra làm sao? Kể mau nghe!” Tôi ngáp dài, “Hai scotch có đá. Mà này, lần sau nên lịch sự một chút nhé. Nhớ tráng sạch ly trước khi mang ra cho chúng tôi!” Gã nhe răng cười nhăn nhở, “Tại sao vậy? Đêm nay anh không định thầu hết chỗ này chứ?” Gã trả đòn, rồi nhún vai biến nhanh như gió. Tôi nheo một bên mắt, nhìn cô bạn, “Trước đó anh luôn thắc mắc, không hiểu em sẽ tìm đâu ra thứ hang ổ hắc ám trong Pin City này. Bây giờ mới hiểu ra. Thánh thật!” Cô nàng đáp nhanh, “Nếu chịu khó nhìn chung quanh, anh sẽ nhìn thấy tín đồ ở đây đều có trán bóng lưỡng và những tròng kính dày cộm. Chúng ta đang trong hậu cung của các nhà học giả đấy!” “Quí vị đó chui vào hốc bò tó này làm gì?” “Họ đến vì… Jazz. Đó là bộ sậu gồm Clarence Nesbitt đàn bass, Cubn Carter trống và Wesley Stewart kèn đồng, ba tay này trước đây là những kẻ vô danh tiểu tốt, giờ thì mọi người đều ngưỡng mộ họ.” “Hừ, không có tôi trong số đó đâu nhé.” “Chưa hết, còn một nguyên nhân nữa.” “Nguyên nhân gì?” “Cái này dứt khoái là anh ngưỡng mộ: Nàng Minuit, như tấm biển đề ngoài cửa.” “Chà, hấp dẫn đấy. Nàng trốn đâu, sao không thấy? Biệt danh à?” “Không, nàng có tên Minuit O’Hara, chỉ xuất hiện vào.nửa đêm. Lý do như thế nào, hiện giờ chưa rõ. Còn ít phút nữa…” Tôi cắt ngang, lay nhẹ khuỷu tay Annabelle. “Các ca sĩ lớn đang chờ em, ở nhà anh, trong băng nhựa. Máy thu băng của anh thuộc loại thượng hảo hạng, một trong những…” “Anh khoan kể nốt,” cô chặn lại giọng lạnh tanh. “Annabelle là cô gái không dễ mắc câu!” Rượu Scotch được mang ra và gã hầu phòng béo mỡ đang ném cái nhìn chòng chọc vào Annabelle, trước khi đặt chiếc ly trước mặt nàng. “Ối dào, phù… phù! Xin cho biết.” Gã hít một hơi thật sâu. “Cái gì đây?” “Một cô gái,” tôi quát vẻn vẹn ba chữ tạo thành câu. “Tôi nhắc nhở anh! Có cần hiểu rộng thêm ý nghĩa tôi muốn nói không?” “Mẹ kiếp, đêm nay mình gặp hên..” Thốt xong, hắn phe phẩy chiếc khăn trên tay như chó vẫy đuôi, rồi lỉnh vào bếp. Annabelle đầy hưng phấn, nói với vẻ háo hức, “Anh nghe đấy, ta còn thưởng thức dài dài. Từ New Orleans thuần nhất có thể rút tỉa ra vài câu thơ theo cung cách Chicago. Qua thể điệu Wing anh sẽ túy lúy bằng những tiếng ‘hí… hê’ thoát ra từ…” Lạy chúa, giọng lưỡi của cô nữ tín đồ sùng bái được bộ tam sên trên bục diễn che lấp mất qua bản “Có một đứa ngu”. Tôi lơ đãng nhấm nháp Whisky, những điều nghi ngờ tệ hại nhất của tôi về Annabelle Jackson đã được xác nhận rồi. Khi bài hát vừa dứt, Annabelle quay sang tôi, đôi mắt lóng lánh, cuồng nhiệt. Cô hăm hở, “Anh cảm thấy thế nào?” Tôi nhăn mặt, ngáp dài, “Ồn ào quá,” tôi đáp. “Trong khi anh chỉ cần ấn nhẹ cái nút, âm thanh đã vừa đủ nghe và hàng loạt ca sĩ nổi danh đương thời lần lượt cất giọng…” Annabelle vờ ngơ ngác, “Chúa ơi, ở đâu có?” “Trong băng nhựa! Xin nói thêm, tủ rượu của anh có vô số rượu khai vị. Còn Whisky thì khỏi nói, toàn là thứ còn nguyên con dấu và nhãn hiệu đàng hoàng, chưa hết…” ... Mời các bạn đón đọc Al Wheeler [#6]: Xác Chết của tác giả Carter Brown.
Tiếng Chó Tru Trong Đêm - Erle Stanley Gardner
Truyện rất tuyệt, một trong những #Mason hay nhất tôi từng đọc. Tình tiết hấp dẫn, lôi cuốn, đoạn kết phải nói là: Hảo Hảo - Mỳ tép số 1 VN. *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) *** - Xin mời vào, thưa ngài Cartrait, - Della Street mở cửa. - Ông Mason đang đợi ngài ạ. Người đàn ông cao lớn vai rộng gật đầu và đi vào văn phòng. - Ngài là Perry Mason? - Ông ta hỏi. - Ngài là luật sư ạ? - Vâng, - Mason đáp. - Xin mời ngài ngồi. Người đàn ông ngả xuống ghế bành, rút thuốc lá nhét một điếu vào miệng và chìa bao thuốc cho Mason. Trầm ngâm ngó bàn tay run rẩy, Mason lắc đầu từ chối. - Cảm ơn ngài, tôi thích loại thuốc khác hơn. Người đàn ông hấp tấp nhét bao thuốc vào túi. Quẹt diêm, tựa khuỷu tay vào tay vịn của ghế và châm thuốc hút. - Thư kí của tôi báo với tôi rằng. - Mason thong thả nói. - ngài muốn trò chuyện cùng tôi về con chó và về bản di chúc. - Về con chó và di chúc, - người đàn ông lặp lại như tiếng vọng. - Được rồi. Đầu tiên chúng ta bàn về bản di chúc, bởi vì tôi hiểu biết về chó ít lắm! Mason kéo cuốn sổ tay lại gần mình và cầm lấy bút máy. - Tên ngài là gì? - Artur Cartrait. - Tuổi? - Ba mươi hai. - Địa chỉ thường trú? - 4893, Milpas Draiv. - Có vợ hay độc thân? - Lẽ nào điều đó lại có ý nghĩa gì chăng? - Vâng, - Mason nói, ngước nhìn khách hàng. - Điều đó không quan trọng đối với di chúc, - ông kia cự lại. - Mặc dù thế vẫn cần. - Nhưng tôi đã nói rồi, điều đó không liên quan gì với di chúc của tôi. - Vợ ngài tên là gì? - Paula Cartrait. - Bà ấy sống với ngài chứ? - Không. - Vậy thì ở đâu? - Tôi không rõ. Mason ngẩng đầu lên khỏi cuốn sổ tay. - Được rồi, - ông nói sau một khoảng im lặng ngắn, - trước khi chúng ta quay lại những chi tiết về cuộc sống gia đình ngài, chúng ta hãy nói về việc ngài định làm gì với tài sản của ngài. Ngài có con cái không? - Không. - Ngài muốn để tài sản của mình lại cho ai? - Trước hết hãy nói với tôi, bất kể việc người viết ra di chúc chết như thế nào, nó có còn hiệu lực hay không? Mason im lặng gật đầu. - Chúng ta cứ cho rằng, - Cartrait tiếp tục. - theo phán quyết của toà vì vụ án mạng con người gây ra, y sẽ chết trên giá treo cổ hoặc trên ghế điện. Chuyện gì sẽ xảy ra với di chúc của y? - Con người có từ giã cuộc đời bằng cách nào đi nữa thì cũng không ảnh hưởng đến hiệu lực di chúc về mặt pháp lí, - Mason đáp. - Cần bao nhiêu người làm chứng cho một bản di chúc? - Hai, với một loại tình huống và không cần một ai, với những tình huống khác. - Ngài có ý gì? - Nếu di chúc được đánh máy và ngài kí, thì chữ kí được khẳng định bởi hai nhân chứng. Nếu bản di chúc được viết tay toàn bộ, kể cả ngày tháng và chữ kí, và không có một chữ nào được đánh máy, thì theo luật pháp của bang này, không cần đến nhân chứng. Bản di chúc như thế có hiệu lực pháp lí và việc thi hành nó là một điều tất yếu. Artur Cartrait thở phào nhẹ nhõm. - Gì đi nữa, thì ít nhất với điều này mọi thứ cũng đã rõ. - Ngài muốn để tài sản lại cho ai? - Mason nhắc lại. - Bà Clinton Fouli, sống tại Milpas Draiv, 4889. Mason sửng sốt nhướng lông mày. - Cho bà hàng xóm ư? - Cho bà hàng xóm, - Cartrait khẳng định. - Rất tốt. Nhưng hãy lưu ý, ngài Cartrait, ngài đang nói với luật sư của mình. Ngài không nên có bí mật gì đối với tôi. Xin đừng lo, tất cả những điều nói ra tại đây, sẽ ở lại giữa hai chúng ta mà thôi. - Thì tôi có giấu giếm gì đâu! - Cartrait kêu lên nôn nóng. - Tôi không tin chắc vào điều đó, - Mason nhận xét trầm tĩnh. - Thế nhưng chúng ta quay lại với di chúc của ngài đã. - Tôi nói hết rồi. - Hết là thế nào? - Sở hữu riêng của tôi tôi di chúc lại cho bà Clinton Fouli. Perry Mason đặt bút xuống bàn. - Nếu thế thì chuyển sang chuyện con chó vậy. - Con chó tru. Mason gật đầu vẻ khuyến khích. - Cơ bản là nó tru vào ban đêm, nhưng đôi khi cả ban ngày. Tiếng tru này đẩy tôi đến chỗ phát điên. Thì ngài cũng biết, lũ chó tru khi có ai đó chết. - Con chó này sống ở đâu? - Trong ngôi nhà bên cạnh. - Tức là bà Clinton Fouli sống một phía nhà ngài, còn từ phía khác, con chó đã tru? - Không, con chó tru trong nhà của Clinton Fouli. - Hiểu rồi, - Mason gật đầu. - Hãy kể cho tôi nghe về mọi chuyện đi, thưa ngài Cartrait. Người khách dụi đầu mẩu thuốc lá vào cái gạt tàn, đứng lên, đi đi lại lại trong văn phòng và quay trở lại ghế bành. - Ngài nghe này, tôi rất muốn hỏi ngài thêm một câu về bản di chúc. - Tôi nghe đây. - Chúng ta cứ giả sử rằng, bà Clinton Fouli trong thực tế không phải là bà Clinton Fouli. - Ngài có ý nói gì? - Chúng ta cứ cho là bà ta sống với ông Clinton Fouli như một người vợ chính thức, nhưng đám cưới của họ không có đăng kí hợp pháp. - Điều đó không có ý nghĩa gì, - Mason chậm rãi đáp, - nếu trong bản di chúc của mình, ngài miêu tả bà ta như “bà Clinton Fouli, sống với ông Clinton Fouli, theo địa chỉ Milpas Draiv, 4889”. Nói đúng hơn, người làm di chúc có quyền để lại sở hữu của mình cho bất cứ ai, nếu bản di chúc xác định rõ ràng ý định của người đó. Ví dụ, người đàn ông để tài sản của mình cho vợ, nhưng sau đó hoá ra rằng họ đã không đăng kí một cách chính thức. Đôi khi gia tài được để lại cho các con trai, mà lại không phải là con trai họ... - Tôi không quan tâm điều đó, - Cartrait sốt ruột cắt lời ông. - Tôi muốn biết sự thế sẽ thế nào trong trường hợp cụ thể của tôi thôi. Bà Clinton Fouli có cần phải là vợ hợp pháp của Clinton Fouli hay không? - Điều đó không nhất thiết. - Thế nếu như, - cặp mắt Cartrait biến thành hai khe hẹp, - vẫn tồn tại bà Clinton Fouli đích thực? Nếu Clinton Fouli có vợ và chưa li dị với người vợ hợp pháp của mình, còn tôi di chúc lại sở hữu của mình cho bà Clinton Fouli đang sống với ông ta trong một ngôi nhà? - Tôi đã giải thích với ngài rồi, - Mason nhẫn nại đáp, - điều chủ yếu: Đó là dự định của người lập di chúc. Nếu ngài viết là ngài để lại sở hữu riêng của ngài cho người phụ nữ hiện đang sống theo địa chỉ được nêu như là vợ của Clinton Fouli là đủ. Nhưng như tôi hiểu, ông Fouli vẫn còn sống chứ? - Dĩ nhiên, ông ta vẫn sống. Ông ta là hàng xóm của tôi. - Hiểu rồi. Và ông Fouli có biết ngài sắp để lại tài sản cho vợ ông ấy không? - Tất nhiên không, - Cartrait cắt ngang. - Ông ta chẳng biết gì hết và sẽ không được biết gì cả. - Được rồi, với điều đó mọi sự đã rõ. Chúng ta chuyến sang chuyện con chó. - Ngài phải làm gì đó với con chó này. - Đề xuất của ngài? - Tôi muốn để người ta bắt Fouli vào tù. - Dựa trên cơ sở nào? - Trên cơ sở là tiếng chó tru làm tôi phát điên. Đó như là sự tra tấn. Lão dạy cho nó tru. Trước đây con chó không tru. Nó chỉ mới tru một, hai đêm vừa rồi thôi. Lão cố ý chọc tức tôi và vợ của lão. Vợ lão đang ốm, mà con chó cứ tru như trước cái chết của ai đó vậy, - Cartrait lặng đi, thở nặng nhọc. Mason lắc đầu. - Thật tiếc, thưa ngài Cartrait, tôi sẽ chẳng giúp gì được cho ngài. Trong lúc này tôi rất bận. Thêm nữa, lại vừa kết thúc một vụ tố tụng khó khăn và... - Tôi biết, tôi biết, - Cartrait cắt lời ông. - Và ngài nghĩ rằng tôi là một gã thần kinh. Ngài cho rằng tôi đề nghị ngài một thứ vặt vãnh gì đó. Đâu phải như thế. Tôi đề nghị ngài làm một việc cực kì quan trọng. Và tôi đến với ngài chính là bởi vì ngài đã thắng vụ tố tụng ấy. Tôi theo dõi tiến trình của nó, thậm chí đã đến phòng xử án để nghe ngài. Ngài là một trạng sư chân chính. Lần nào ngài cũng vượt lên trước biện lí tối thiểu là một nước đi. Mason mỉm cười yếu ớt. - Cảm ơn vì những lời tốt lành, ngài Cartrait ạ, nhưng xin ngài hiểu cho. Tôi là luật sư tư pháp. Việc lập các bản di chúc không phải là lĩnh vực của tôi, còn tất cả những gì dính líu đến con chó, thì chúng ta có thể điều chỉnh được mà không cần sự can thiệp của luật sư. - Không! - Cartrait kêu lên. - Ngài chưa biết Fouli đấy thôi. Ngài không tưởng tượng nổi đó là hạng người thế nào đâu. Có thể là ngài nghĩ rằng tôi không có tiền? Tôi có tiền, và tôi sẽ trả rất khá cho ngài, - ông ta lôi từ túi ra cái ví căng phồng, mở nó, bàn tay run rẩy rút ra ba tờ giấy bạc và đặt chúng lên bàn. - Ba trăm đôla. Đó là đặt cọc. Sau này ngài sẽ được nhận nhiều hơn. Các ngón tay của Mason đánh nhịp trên mặt bàn. - Thưa ngài Cartrait, - ông thốt ra dè dặt, - nếu ngài muốn để tôi làm luật sư cho ngài, tôi yêu cầu lưu ý tới điểm sau: Tôi sẽ chỉ làm điều gì mà theo niềm tin của tôi là đem lại lợi ích cho ngài. Chắc ngài hiểu? - Tôi mong được như thế. - Có nghĩa là tự tôi sẽ quyết nên làm gì để bảo vệ trọn vẹn nhất các quyền lợi của ngài. - Tốt, - Cartrait đáp. Mason cầm tiền ở bàn và bỏ chúng vào túi. - Đã thoả thuận xong. Tôi sẽ đại diện cho ngài trong vụ này. Nghĩa là ngài muốn Fouli bị bắt? - Vâng. - Đành thế, điều đó cũng không phức tạp gì lắm. Ngài cần đâm đơn kiện, và chánh án sẽ viết lệnh bắt giữ. Nhưng tại sao ngài lại nhờ cậy tôi? Ngài muốn để tôi giữ vai trò đại diện của nguyên cáo? - Ngài chưa biết Fouli, - Artur Cartrait nhắc lại. - Lão sẽ chẳng để cho yên thế đâu. Lão sẽ đâm đơn ra toà hặc tôi vì sự buộc tội giả trá. Có thể là lão bắt con chó tru, nhằm nhử tôi vào bẫy đấy. - Con chó giống gì? - Bécgiê cảnh sát to tướng. Perry Mason liếc nhìn Cartrait và mỉm cười. - Nếu người đưa đơn kiện đã sơ bộ nhờ đến luật sư, kể hết với ông ta tất cả không che giấu điều gì, và trong tương lai tuân thủ các lời khuyên của luật sư, thì trong khi xem xét tố tụng về sự buộc tội giả trá, điều đó sẽ có lợi cho người kiện. Còn bây giờ, tôi muốn làm để sao cho Clinton Fouli không có nguyên cớ đâm đơn kiện ngài lên toà. Tôi sẽ đưa ngài đến gặp trợ lí ngài biện lí khu, người phụ trách những vấn đề tương tự. Tôi muốn để ngài nhắc lại với ông ấy tất cả những gì liên quan đến con chó. Có thể không nhắc tới bản di chúc. Nếu ông ấy quyết rằng điều ngài nói là đủ để có lệnh bắt giam, thì lệnh sẽ được viết. Nhưng tôi cảnh báo trước, ngài không nên giấu giếm gì cả. Hãy đưa ra trước ông ấy tất cả các cứ liệu, và lúc ấy bất cứ đơn kiện nào của Fouli cũng không làm hại được ngài. Cartrait thở phào nhẹ nhõm. - Giờ ngài mới nói ra vấn đề. Chính tôi cần một lời khuyên như thế. Chúng ta tìm ông trợ lí ở đâu đây? - Bây giờ tôi sẽ gọi điện thoại cho ông ấy và thỏa thuận về cuộc gặp, - Mason đáp. - Xin thứ lỗi, tôi phải ra ngoài một lát. Xin ngài hãy cứ tự nhiên như ở nhà vậy. - Hãy cố thoả thuận với ông ấy vào ngay hôm nay. Tôi sẽ không chịu đựng thêm nổi một đêm nữa với con chó tru đâu. Khi Mason rời khỏi văn phòng, Cartrait lấy thuốc lá ra. Để châm thuốc, ông ta buộc phải lấy tay khác đỡ bàn tay cầm que diêm... Ở phòng tiếp khách Della Street ngẩng đầu lên. - Bị cắm sừng à? - Cô hỏi. - Tôi không biết, - Mason đáp, - nhưng tôi cố làm sáng tỏ điều đó. Hãy nối tôi với Pit Dorcas. Tôi dự định chuyển vụ này cho ông ta. Trong khi Della quay số, Mason đứng cạnh cửa sổ, ngó xuống cái giếng xi măng, từ đó vọng lại tiếng động của xe cộ. Dorcas ở đầu dây. Mason quay lại, đi đến chiếc bàn đặt trong góc phòng tiếp khách và nhấc ống nói. - Chào anh Pit. Perry Mason đây. Tôi sẽ đưa khách hàng của tôi tới chỗ anh, nhưng tôi muốn cho anh biết trước vấn đề nói về việc gì. - Ông ta cần gì? - Ông ta muốn đâm đơn kiện. - Về lí do gì? - Về con chó tru. - Về... - Phải, phải, con chó tru. Hình như trong khu chúng ta đã có một nghị định cấm giữ chó tru sủa trong vùng dân cư. - Đúng là có, nhưng có ai để ý đến nó đâu. Chí ít tôi cũng chưa vấp phải những lời than phiền như thế. - Đây là trường hợp đặc biệt. Khách hàng của tôi đang phát điên hoặc đã điên rồi vì tiếng tru này. - Chỉ vì tiếng chó tru ấy à? - Tôi muốn làm sáng tỏ chính cái điều đó. Nếu khách hàng của tôi cần đến sự giúp đỡ về y tế, hẳn tôi muốn để ông ta nhận được nó. Chính anh cũng hiểu, ở người này tiếng chó tru chỉ gây ra sự bực bội, với người khác có thể làm họ phát điên. - Điều đó là chính xác, - Dorcas đồng ý. - Anh đưa ông ta đến gặp tôi chứ? - Vâng. Và tôi muốn buổi trò chuyện của chúng ta diễn ra với sự có mặt của nhà tâm thần học. Không nên nói với ông ta đó là bác sĩ, anh cứ giới thiệu ông ấy như trợ lí của anh, và cứ để ông ấy đặt vài ba câu hỏi. Lúc đó, chắc chắn chúng ta sẽ rõ ngay trạng thái tâm lí khách hàng của tôi. - Tôi sẽ đợi các anh, - ngừng một chút, Dorcas nói. - Chúng tôi sẽ có mặt sau mười lăm phút. - Mason đặt ống nói xuống. ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #04: Tiếng Chó Tru Trong Đêm của tác giả Erle Stanley Gardner.