Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bão

Trong Bão, có một hòn đảo, biển và gió, cơ thể những người đàn bà, một đứa trẻ cô đơn không bố, một người đàn ông bị quá khứ gặm nhấm và cơn bão rửa sạch tất cả. Trong Bão, còn có cả Phi châu, Paris và một đứa trẻ lạc lối khác đi tìm danh tính của mình. Hai câu chuyện đầy chất thơ ấy được thổi đến bằng cơn bão của thế giới của tâm hồn. Trong Bão, những số phận kì lạ gặp đầy trắc trở của Le Clezio vẫn tìm thấy phép màu, tim thấy điều níu giữ họ lại với cuộc sống, bởi "kí ức không quan trọng,không hậu quả, duy có hiện tại mới là đáng kể". Trong Bão, độc giả vẫn tìm thấy chất thơ lãng mạn từ những câu văn giản dị nhưng đầy sức nặng của tác giả từng được nhận giải Nobel Văn chương 2008. Cuốn sách kể chuyện bằng cách đưa ra các hình ảnh, những gợi mở, niềm hy vọng ở phép màu và những điều hão huyển, và phải nhìn nó qua một tấm màn thi vị hóa. Từ đầu tới cuối, tính nhạc trong từng câu chữ giữ chân người đọc. *** Bão là tập truyện mới nhất của Le Clézio - nhà văn đoạt giải Nobel năm 2008. Tác phẩm được xuất bản tại Pháp năm 2014, vừa phát hành ở Việt Nam. Có thể ví hai truyện vừa Bão và Người đàn bà không danh tính trong cuốn sách như một file nén. Với dung lượng trang sách, số con chữ không lớn nhưng nén trong đó những câu chuyện đầy sức nặng và nhiều tầng cảm xúc, triết lý. Và bởi thế, mỗi độc giả có "mã giải nén" của riêng mình. Là hai câu chuyện độc lập song bằng những chủ đề chung, tác giả đã tạo cho nó một mạch ngầm kết nối: từ cô gái June sống ở một hòn đảo hẻo lánh của Nhật Bản đến Rachel của một vùng đất thuộc địa cũ của châu Phi, từ vùng trời nước hoang sơ đến những thành thị ngột ngạt, và từ một bé gái không cha đến một thiếu nữ không mẹ đi tìm nguồn cội của mình.  Câu chuyện của Bão đưa người đọc đến những vùng đất xa xôi, những xã hội như nằm bên kia nền văn minh, nơi con người đắm mình vào thiên nhiên hoang dã, sống trong nó và chết trong nó. Ở đó, những con người còn rất trẻ đang bước qua lằn ranh mỏng manh giữa ấu thơ và trưởng thành, tâm hồn còn trong sáng vô ngần, nhạy cảm vô ngần, hồ như căng mình ra trước mọi sóng gió cuộc đời, không có khả năng tự bảo vệ khỏi những nỗi đau. Thậm chí họ dấn mình vào nỗi đau: đi tìm nguồn cội, đi tìm danh tính. Trên hết, những cô gái luôn vươn mình tới một thứ tình yêu nguyên sơ, thánh thiện, bất chấp sự già cỗi của những thứ ranh giới, khoảng cách thường tình. Đó là thứ tình yêu từ cội nguồn sự sống có trong mỗi con người mà cô bé June cảm nhận được. Tình yêu ấy đôi khi làm thương tổn chính các cô gái. Bởi nó mạnh mẽ như bão, hủy diệt như bão, và cũng tái sinh sau bão. Hai cô gái trẻ của Bão mang trong mình một tâm hồn có thể bật lên, tự tái tạo, tự giải thoát mình khỏi nỗi đau và nỗi tuyệt vọng. Cũng nhờ sức sống tươi mới tiềm tàng ấy, Kyo - người đàn ông toan đến hòn đảo hoang vắng để kết thúc cuộc đời - được giải thoát khỏi "nhà tù" của quá khứ, khỏi sự ám ảnh của ký ức và những vết thương. Bão đã rửa sạch tất cả - "ký ức không quan trọng, không hậu quả, duy có hiện tại mới là đáng kể". Bão tiếp tục những chủ đề ưa thích của Le Clézio: những thế giới, vùng đất, con người bị bỏ quên, dường như sống bên lề thế giới và nền văn minh. Ông luôn dành một sự ưu ái, trìu mến cho người trẻ và phụ nữ. Có thể thấy trong câu chuyện của ông, họ là những đối tượng dễ dàng bị thế giới nuốt chửng hay làm tổn thương. Nhưng đó cũng chính là những tâm hồn tiềm tàng khả năng tái sinh mạnh mẽ, khơi dậy niềm thiết tha sống ở những con người khác. Bên cạnh đó, chủ đề đi tìm danh tính dường như chưa bao giờ là câu chuyện cũ trong sáng tác của Clézio, nhất là khi con người đang ngày càng đánh mất mình giữa sắt thép, bê tông, phương tiện hiện đại và những thành phố xa hoa, đồ sộ. Những câu chuyện không có những tình huống gay cấn, tình tiết hấp dẫn hay chi tiết mùi mẫn của Clézio dường như thách thức sự kiên nhẫn của độc giả. Thay vào đó, ông theo sát và xoáy sâu vào những biến động tâm lý bất ngờ của nhân vật: June (Bão) đã mạnh mẽ và quyết liệt ra sao trong niềm tin của riêng mình; Rachel (Người đàn bà không danh tính) đã để mình trôi dạt, lạc lối thế nào trong nỗi cô đơn của mình, trong những ngóc ngách thành phố. Mỗi câu chuyện đều mang đến một niềm xúc động sâu xa bằng lối văn phong giản dị, trong trẻo mà đa thanh. Những câu ngắn đầy chất thơ, chất nhạc. Và những mệnh đề, câu chữ, hình ảnh trở đi trở lại như một giai điệu ám ảnh. Song, giống như hành trình tự nhiên của một cơn bão, cấu tứ câu chuyện của Clézio nương theo đó đi về phía chân trời hừng sáng sau cơn biến động của đất trời. Ở phía đó, có sự đổi thay, sự tái sinh và có niềm tin không bao giờ lụi tắt. Đó cũng là chất thơ lãng mạn chảy len lách giữa khoảng trắng của những con chữ - là chất thơ của thiên nhiên vĩnh hằng và của từng khoảnh khắc sống. Clézio được ví như một "nhà văn đi bộ" với lối bút pháp "lãng du". Mỗi câu chuyện ông kể giống như cất lên một bản du ca u buồn, sâu lắng nhưng đẹp đẽ dành cho những nơi ông từng đi qua, những con người từng gặp gỡ. Đó còn là những lời an ủi dịu dàng, thiết tha dành cho bao tâm hồn cô độc và lạc lõng. *** Đêm buông trên đảo. Đêm lấp đầy những chỗ trũng, len lỏi giữa ruộng đồng, một đợt thủy triều bóng tối dần bao phủ vạn vật. Cũng vào thời khắc đó, đảo vắng bóng người. Sáng nào du khách cũng tới trên chuyến phà lúc tám giờ, họ làm đông đúc những không gian trống, họ lấp đầy những bãi biển, họ trôi như một thứ nước bẩn dọc theo cả những con lộ lớn lẫn những nẻo đường đất. Rồi khi đêm tới, họ lại rời khỏi những vũng vịnh, họ lùi ra xa, họ mất tăm. Những con tàu mang họ đi. Và đêm tới. Tôi tới đảo lần đầu cách đây đã ba mươi năm. Thời gian đã biến đổi mọi thứ. Tôi chỉ loáng thoáng nhận ra những nơi chốn, những ngọn đồi, những bãi biển, và dáng hình của miệng núi lửa sạt lở phía Đông. Tôi quay lại vì lẽ gì nhỉ? Phải chăng không còn nơi nào khác cho một nhà văn đang kiếm tìm lối viết? Một chốn nương náu khác, xa sự ồn ào của thế gian, đỡ om sòm hơn, đỡ ngạo ngược hơn, một chốn khác để ngồi vào bàn làm việc và gõ lên máy những dòng chữ, đối diện với bức tường chăng? Tôi đã muốn thăm lại hòn đảo này, nơi tận cùng thế giới này, nơi không lịch sử, không ký ức này, một mỏm đá bị dập vùi bởi sóng gió đại dương, rã rời vì du khách. Ba mươi năm, tuổi đời của một con bò. Tôi từng đến vì gió, vì biển, vì lũ ngựa bán hoang dã lang thang kéo theo dây buộc, vì lũ bò cái ban đêm giữa những nẻo đường, tiếng rống thê thiết của chúng nghe như tiếng tù và báo sương mù, vì những tiếng sủa ăng ẳng của lũ chó bị xích. Cách đây ba mươi năm trên đảo không có khách sạn, chỉ có các phòng ngủ cho thuê theo tuần gần đê chắn sóng, và những lán gỗ bán đồ ăn bên bờ biển. Chúng tôi đã thuê một ngôi nhà gỗ nhỏ trên đồi, không tiện nghi, ẩm ướt và lạnh giá, nhưng vậy là lý tưởng rồi. Mary Song hơn tôi một giáp, mái tóc tuyệt đẹp đen nhánh gần như ngả biếc, đôi mắt màu lá thu, nàng hát những tình khúc buồn trong một khách sạn dành cho du khách giàu có tại Bangkok. Cớ gì nàng lại muốn cùng tôi tới hòn đảo hoang vu này? Tôi chắc đây không phải ý tưởng của mình, chính nàng đã bàn đến chuyện này trước. Hoặc nàng đã nghe ai đó nhắc đến một đảo đá hoang sơ, mỗi khi có bão là hết đường tới. “Em cần tĩnh lặng.” Hoặc giả đó là ý của tôi, chính tôi đã nghĩ tới sự tĩnh lặng. Để viết, để lại bắt đầu viết sau nhiều năm uổng phí. Sự tĩnh lặng, khoảng cách. Sự tĩnh lặng, trong gió và biển. Những đêm lạnh, những đám sao. Giờ thì toàn bộ chuyện này chỉ còn là một kỷ niệm. Ký ức không quan trọng, không hậu quả. Duy có hiện tại là đáng kể. Tôi đã học được điều ấy qua những kinh nghiệm xương máu của mình. Gió là bạn tôi. Gió thổi không ngừng trên các mỏm đá, gió đến từ chân trời phía Đông rồi vấp phải bức vách gãy vỡ của núi lửa, ập xuống những ngọn đồi rồi luồn lách giữa những bức tường nham thạch thấp, lướt trên cát san hô và vỏ sò vỏ ốc vỡ. Ban đêm, trong phòng khách sạn nơi tôi ở (Happy Day*, làm cách nào cái tên này tới được tận đây, một cái tên không trọn vẹn trên chiếc thùng gỗ mắc cạn), gió lùa qua khe cửa sổ và cửa ra vào, xuyên qua căn phòng trống nơi chiếc giường sắt han gỉ cũng y hệt một mảnh tàu đắm. Không có lý do nào khác cho chuyến biệt xứ của tôi, cho nỗi cô đơn của tôi, duy có sắc xám của trời và biển, và tiếng gọi ám ảnh của những người đàn bà mò bào ngư, tiếng kêu của họ, tiếng huýt của họ, một dạng ngôn ngữ cổ, xa lạ, ngôn ngữ của những động vật biển đã từng lui tới thế giới rất lâu trước con người... Aouah, iya, ahi, ahi!... Những thiếu nữ làng chài đã ở đó khi Mary dẫn tôi đi thăm đảo. Bấy giờ mọi chuyện khác hẳn. Những thiếu nữ mò ốc tuổi chừng đôi mươi, họ lặn không trang phục, thắt lưng buộc đá, đeo những mặt nạ dưỡng khí lấy từ xác lính Nhật. Các cô không có bao tay cũng chẳng có giày. Giờ đây họ đã già đi, họ mặc bộ đồ lặn liền thân bằng cao su đen, họ đeo bao tay dệt bằng sợi hóa học, đi giày nhựa màu sắc sặc sỡ. Kết thúc ngày làm việc, họ bước đi dọc con đường ven biển, đẩy xe nôi chở những thứ thu hoạch được. Đôi khi họ có xe máy điện, xe ba bánh chạy xăng. Họ có dao inox giắt ở thắt lưng. Họ cởi bộ đồ lặn giữa những mỏm đá, gần một túp lều gạch nén xây riêng cho họ, họ giội rửa ở vòi nước lộ thiên rồi trở về nhà bước thấp bước cao, tiều tụy vì chứng thấp khớp. Gió đã cuốn theo những năm tháng của họ, những năm tháng của tôi cũng vậy. Bầu trời xám xịt, màu của hối hận. Biển động, nổi sóng lừng, biển xô vào đá ngầm, vào những chỏm nham thạch, biển quay cuồng và vỗ bập bềnh trong những vũng lớn, nơi lối vào những vịnh hẹp. Không có những phụ nữ ngày ngày mò hải sản này, biển có lẽ sẽ thù địch, khó gần. Mỗi sáng tôi lắng nghe tiếng kêu của những người đàn bà của biển, âm thanh rè rè từ hơi thở của họ khi họ ngoi đầu khỏi mặt nước, ahouiii, iya,tôi hình dung khoảng thời gian đã qua, tôi hình dung ra Mary, đã mất tích, tôi nghĩ đến giọng hát tình ca của nàng, đến tuổi thanh xuân của nàng, đến thời trai trẻ của tôi. Chiến tranh đã xóa đi tất cả, chiến tranh đã phá tan tất cả. Thời đó tôi thấy chiến tranh đẹp, tôi muốn viết về nó, trải nghiệm nó và rồi viết về nó. Chiến tranh là một cô gái đẹp với thân hình trong mộng, mái tóc dài đen nhánh, đôi mắt sáng, giọng nói mê hoặc, rồi nàng biến thành mụ già tóc tai bù xù và nanh nọc, thành ác phụ báo oán, bất nhân, tàn nhẫn. Đây là những hình ảnh trở lại trong tâm trí tôi, chúng dâng lên từ nơi sâu thẳm nhất. Những thân thể trật trẹo, những cái đầu bị cắt rời, rải khắp các đường phố bẩn thỉu, những vũng xăng, những vũng máu. Một vị hắc trong miệng, một thứ mồ hôi nặng mùi. Trong một căn nhà không cửa sổ, chỉ có một bóng đèn điện không chao duy nhất, bốn gã đàn ông giữ chặt một người đàn bà. Hai gã ngồi lên chân cô, một gã đã trói hai cổ tay cô bằng một dây đai, gã thứ tư mải miết với một vụ cưỡng hiếp bất tận. Không có tiếng động, như trong những cơn mơ. Ngoại trừ tiếng thở khàn khàn, tiếng thở của kẻ cưỡng hiếp, và một hơi thở khác, nhanh, dữ dội, của người phụ nữ, nghẹt lại vì sợ, có lẽ thoạt đầu cô đã kêu bởi dấu vết một cú đánh vẫn còn lưu trên môi dưới của cô, nó đã rách toạc, và máu chảy tạo thành một vết loang hình sao trên cằm. Hơi thở của kẻ cưỡng hiếp dần gấp gáp, một dạng thở khò khè sâu, nghẹt lại, một âm thanh trầm và giật cục của máy móc, một âm thanh gấp gáp và dường như sẽ không bao giờ ngưng. Mary là lâu sau đó, Mary uống rượu nhiều quá mức, và biển đã mang nàng đi. “Em có thể làm điều đó,” nàng đã nói khi chúng tôi băng qua eo biển ngăn cách đảo với đất liền. Nàng đi vào lòng biển lúc hoàng hôn. Thủy triều đã làm láng mượt những con sóng, những vòng tròn chậm rãi tiến lên, màu rượu vang. Những người đã nhìn thấy nàng đi vào lòng biển đều nói rằng nàng điềm tĩnh, rằng nàng mỉm cười. Nàng đã mặc đồ bơi, một bộ liền màu lam không tay, rồi nàng luồn lách giữa những mỏm đá đen, nàng bắt đầu bơi cho đến khi những con sóng, hoặc ánh mặt trời lặn che khuất nàng khỏi tầm mắt những người chứng kiến. Tôi đã không biết gì, không thấy gì, không dự đoán gì. Trong phòng ngủ ở căn lều của chúng tôi, quần áo của nàng được gấp và xếp sắp như thể nàng đi du lịch, thế thôi. Những chai rượu gạo rỗng không, những bao thuốc lá bóc dở. Một túi xách đựng vài vật dụng thân thuộc, lược và bàn chải tóc, nhíp, gương, phấn, son môi, khăn mùi soa, chìa khóa, ít tiền Mỹ và tiền Nhật, mọi thứ như thể hai tiếng nữa nàng sẽ quay lại. Viên cảnh sát duy nhất trên đảo này - một người đàn ông trẻ tuổi, tóc húi cua, trông như một thiếu niên - đã kiểm kê. Nhưng anh ta đã để lại cho tôi mọi thứ, như thể tôi là một người họ hàng, một người bạn. Tôi là người được yêu cầu tùy tâm xử lý những di vật, nếu họ tìm thấy, hỏa thiêu chúng, quăng chúng xuống biển. Nhưng không bao giờ có gì khác ngoài những đồ dùng không quan trọng kia. Bà chủ nhà trọ đã chọn trong đám quần áo, bà ta giữ lại đôi giày màu lam xinh xắn, chiếc mũ rơm, đôi tất dài, cặp kính râm, chiếc túi xách. Tôi đã mang các giấy tờ ra sân đốt. Những chiếc chìa khóa, những đồ vật riêng tư, tôi đã quăng chúng xuống biển, từ boong con tàu đưa tôi trở lại đất liền. Một ánh vàng rực lấp lánh giữa hai làn nước, tôi nghĩ một chú cá phàm ăn, một chú cá tráp hồng, một chú cá đối đã nuốt chửng chúng. Thi thể chưa bao giờ được tìm thấy. Mary, với làn da mềm mại, óng vàng sắc hổ phách, đôi chân chắc lẳn của vũ nữ, của vận động viên bơi lội, mái tóc đen dài. “Nhưng vì lý do gì?” viên cảnh sát đã hỏi. Đó là tất cả những gì anh ta đã nói. Như thể một ngày nào đó tôi có thể có câu trả lời. Như thể tôi có chìa khóa giải mã ẩn ngữ. Giờ đây khi bão nổi, khi gió thổi liên hồi từ chân trời phía Đông, Mary trở lại. Không phải tôi gặp ảo giác, cũng không phải chớm điên (nhưng tay bác sĩ của nhà tù, khi thảo báo cáo, hắn đã viết lên đầu hồ sơ của tôi chữ Y nguy hại), ngược lại là khác, mọi giác quan của tôi thành sắc bén, cảnh giác, nhạy cảm đến cực độ để thu nhận thứ mà biển và gió mang lại. Chẳng có gì rõ rệt, tuy nhiên đó là một cảm giác sống chứ không phải chết, nó tỏa vầng hào quang quanh da tôi, điều này đánh thức ký ức về những trò yêu đương của chúng tôi, của Mary và tôi, những mơn trớn dài từ dưới lên trên, trong bóng tối phòng ngủ, hơi thở, vị đôi môi, những nụ hôn sâu khiến tôi rùng mình, cho đến tận con sóng tình chậm rãi, cơ thể hai chúng tôi hòa quyện, bụng áp bụng, toàn bộ những chuyện này tôi đã bị cấm đoán từ lâu, là tôi tự cấm đoán, bởi tôi đang ở chốn ngục tù cho phần đời còn lại. Trong bão tôi nghe thấy giọng nàng, tôi cảm thấy trái tim nàng, tôi cảm thấy hơi thở nàng. Gió rít qua các khe của vách kính lớn, lùa vào qua phía mặt hẹp han gỉ, xuyên qua căn phòng và khiến cánh cửa đập đập. Bấy giờ trên đảo mọi thứ ngưng lại. Những con phà không băng qua lạch nữa, những chiếc xe máy và ô tô ngừng vũ điệu của chúng, ngày giống như đêm, âm u, có những tia chớp không kèm tiếng sấm xuyên qua. Mary đã ra đi vào một buổi chiều tĩnh mịch, trong mặt biển phẳng lặng như một tấm gương. Nàng trở về trong cơn bão, từng mảnh nhỏ li ti bị biển thẳm tống xuất. Ban đầu, tôi không muốn tin vào điều đó. Tôi từng ghê sợ, từng ép chặt thái dương giữa hai bàn tay để dập tắt những hình ảnh này. Giờ đây tôi nhớ đến một người chết đuối. Không phải một phụ nữ mà là một đứa trẻ lên bảy, một tối nọ thằng bé mất tích, Mary và tôi đã cùng dân làng tìm bé nhiều giờ trong đêm. Chúng tôi men dọc bờ biển, tay cầm đèn pin, chúng tôi gọi bé nhưng không biết tên nó, Mary hét gọi: “Này cưng ơi!” Nàng thảng thốt, nước mắt giàn giụa trên má. Bấy giờ có chính cơn gió này, những đợt sóng này, thứ mùi đáng nguyền rủa này của vực biển sâu thẳm. Rạng sáng có tin báo đã tìm thấy xác thằng bé. Trên một bãi cát lẫn sỏi giữa các mỏm đá, chúng tôi lại gần, nhờ một tiếng thở than giống như tiếng gió dẫn đường, nhưng đó là mẹ thằng bé. Chị ngồi trên cát đen, thằng bé đặt trong lòng. Thằng bé trần truồng, áo quần biển đã lột sạch, trừ chiếc áo phông bẩn tạo thành một chuỗi vòng xoắn vặn quanh thân trên. Gương mặt bé trắng bệch, nhưng điều tôi tức khắc nhìn thấy, đó là lũ cua và cá đã bắt đầu rỉa xác bé, gặm chớp mũi và cu của bé. Mary không muốn lại gần, nàng run lên vì sợ và vì lạnh, và tôi đã ôm nàng sát gần mình, chúng tôi ở lại trong phòng, nằm quấn lấy nhau trên giường, không vuốt ve nhau, chỉ miệng kề miệng thở. Giờ đây hình ảnh ấy ám ảnh tôi, thân thể người đàn bà ấy nằm dang chữ thập trong khi tụi lính hành sự, và dưới khuôn miệng bầm giập máu đã khô thành hình ngôi sao đen. Và đôi mắt cô đang nhìn tôi, trong khi tôi lùi lại gần cửa, đôi mắt cô nhìn thấy xuyên qua tôi, nhìn thấy cái chết. Tôi chưa bao giờ nói gì với Mary, vậy mà chính vì cảnh tượng tàn bạo ấy nàng đã ngụp xuống biển để không bao giờ trở lại. Biển rửa cái chết, biển gặm nhấm, phá hủy và không trả lại gì, hoặc trả một cái xác trẻ em đã bị róc rỉa. Thoạt đầu, tôi đã nghĩ rằng cả mình cũng trở lại hòn đảo này để chết. Tìm lại được dấu vết của Mary, đi vào lòng biển một tối rồi biến mất. Giờ đây trong cơn bão, nàng tới phòng tôi. Đó là một giấc mơ tỉnh thức. Tôi bị mùi thân thể nàng quyện với mùi biển thẳm đánh thức. Một mùi hương nồng và hắc, chua, gắt, u uất, xộc lên. Tôi ngửi thấy mùi rêu tảo trong tóc nàng. Tôi cảm thấy làn da nàng hết sức mịn màng, nhẵn mượt nhờ sóng bào mòn, lóng lánh ánh xà cừ vì muối. Thân hình nàng bồng bềnh trong ánh sáng lờ mờ buổi hoàng hôn, luồn vào trong chăn, và bộ phận sinh dục cương cứng của tôi đi vào nàng, tới rùng mình, quấn siết tôi trong niềm mê đắm lạnh băng của nàng, thân nàng trườn sát thân tôi, môi nàng kề trên dương vật tôi, tôi hoàn toàn quyện vào nàng, nàng quyện vào tôi, cho tới cơn cực khoái. Mary, chết từ ba mươi năm nay, chưa bao giờ tìm thấy xác. Mary trở về từ đáy đại dương, đang nói vào tai tôi bằng chất giọng hơi khàn, trở về để hát cho tôi nghe những ca khúc bị lãng quên, những ca khúc về những ngôi sao trời, mà nàng đã hát tôi nghe ở quán bar khách sạn Phương Đông, lần đầu tôi gặp nàng. Không hẳn là quán bar dành cho lính tráng, và nàng không hẳn là ca sĩ quán bar. Khi nhìn thấy nàng tôi đã không hình dung ra nàng là ai, con một lính Mỹ được một gia đình nhà quê vùng Arkansas nhận nuôi, sinh ra từ một vụ cưỡng hiếp, bị bỏ rơi và trở về để chiến thắng kẻ thù truyền kiếp của mình, để hoàn thành một cuộc báo oán, hay đơn giản chỉ do sự lại giống vốn hay xua loài người đi theo vết cũ cội nguồn một cách tất yếu. Nhưng tôi, tôi đâu phải một tên lính, nàng hiểu vậy, và chắc hẳn đó là lý do nàng chọn tôi, cái gã mặc đồ lao động và mái tóc húi cua, bám theo đám lính trong những cuộc hành quân, tay cầm máy ảnh để tường thuật mọi cuộc chiến tranh. Tôi còn nhớ lần đầu chúng tôi trò chuyện, sau lượt trình diễn của nàng, vào lúc đêm muộn, hoặc sáng sớm, trên khoảnh sân hiên nhô ra trên dòng Menam Chao Phraya, nàng đã cúi xuống để nhìn thứ gì đó trên mặt đất, một con bướm đêm màu đen đang đập cánh hấp hối, và qua phần cổ khoét của chiếc váy đỏ nàng mặc, tôi đã nhìn thấy bầu ngực nàng buông lơi, hết sức mịn màng, khêu gợi. Nàng không biết gì về tôi và tôi cũng không biết gì về nàng. Bấy giờ tôi đã mang vết thương nham nhở của tội ác, tôi cứ ngỡ chuyện đó sẽ qua đi. Tôi từng quên đi quá khứ, việc xử vụ khiếu kiện bốn tên lính đã cưỡng hiếp một phụ nữ ở Huế. Cái gã giữ tay cô gái quặt ra sau đã thụi vào môi cô để bắt cô im miệng, còn gã kia xâm nhập cô chẳng ngại ngần, thậm chí không cởi quần, và tôi nhìn, không nói gì, không làm gì hoặc gần như thế, chỉ chớm cương cứng, nhưng nhìn và làm thinh, đó là hành động. Có lẽ tôi sẽ đánh đổi bất cứ thứ gì để khi ấy đã ở nơi nào khác, để không từng chứng kiến. Trước tòa, tôi đã không tự biện hộ. Thiếu phụ có mặt tại đó, ngồi hàng ghế đầu. Tôi đã liếc trộm và không nhận ra cô. Cô có vẻ trẻ hơn, gần như một đứa trẻ. Cô ngồi trên ghế băng, bất động, gương mặt được ống đèn nê ông của phòng xử án chiếu sáng. Khuôn miệng nhỏ, mím chặt, da mặt kéo căng ra vì búi tóc đen. Ai đó đã đọc lời chứng của cô bằng tiếng Anh, còn cô vẫn không nhúc nhích. Bốn gã nhà binh ngồi trên một ghế băng khác, cách cô vài mét, và chúng cũng không nhúc nhích. Chúng không nhìn ai, chỉ nhìn bức tường đối diện, cái bục nơi thẩm phán ngồi. Chúng thì ngược lại, tôi thấy chúng già hơn, đã phị ra vì mỡ, với nước da nhợt nhạt của những kẻ tù phạm. Tôi chưa từng kể chuyện này với Mary. Khi tôi gặp nàng tại khách sạn Phương Đông ấy, nàng hỏi tôi đã làm gì lúc rời quân ngũ. Tôi trả lời: “Không làm gì hết... Anh đi đây đi đó, vậy thôi.” Nàng không căn vặn, vả chăng tôi có lẽ chẳng bao giờ đủ can đảm để nói với nàng sự thật: “Anh đã bị kết án tù vì đã chứng kiến một tội ác, và đã không làm gì để ngăn cản tội ác đó.” Tôi muốn sống cùng Mary, đi đây đi đó cùng nàng, nghe nàng hát, san sẻ tấm thân nàng và cuộc đời nàng. Nếu tôi kể với nàng toàn bộ chuyện kia, hẳn là nàng sẽ xua đuổi tôi. Tôi đã sống cùng nàng một năm, cho tới khi đến hòn đảo này. Rồi một ngày nọ nàng đã quyết định đi vào lòng biển. Tôi chưa bao giờ hiểu được. Chúng tôi ẩn mình. Không ai quen biết chúng tôi, không ai có thể kể cho nàng nghe. Có lẽ nàng điên, chỉ vậy thôi, có lẽ chẳng có lời giải thích nào cho hành động của nàng. Nàng đã tự để sóng cuốn đi. Nàng vốn là tay bơi giỏi khác thường. Ngày còn ở Mỹ, năm mười sáu tuổi, nàng được chọn đi dự Olympic Melbourne. Nàng mang họ Farrell, Mary Song Farrell. Song bởi nàng được bố mẹ nuôi nhận về dưới cái tên này. Mẹ đẻ nàng tên là Song cũng nên. Hoặc giả bà ấy hay hát*, tôi không biết nữa. Có lẽ chính tôi về sau này đã suy diễn ra toàn bộ câu chuyện đó. Tôi không suy diễn cho những người khác, họ không khiến tôi bận tâm. Tôi không phải kiểu người kể chuyện đời mình trong những quán bar. Tôi không quen những người gốc Arkansas này, những người nhà Farrell này. Những chủ trang trại. Mary học cách chăm sóc gia súc, cách sửa xe máy, cách lái máy kéo tại nhà họ. Rồi một ngày nọ, năm mười tám tuổi, nàng bay đi để tới nơi khác sống, để hát. Đó là thiên hướng của nàng. Nàng đã có một cuộc sống khác, nàng chưa bao giờ trở lại trang trại. Khi nàng mất tích trên biển, tôi đã cố gắng liên lạc với bố mẹ nàng, tôi đã viết vài lá thư gửi đến quận, để biết địa chỉ của họ. Tuyệt không thấy hồi âm. Khi tôi quen Mary, nàng gần bốn mươi, nhưng có vẻ trẻ hơn tuổi nhiều. Bấy giờ tôi hai mươi tám. Tôi vừa mãn hạn tù. Bão truyền sang tôi cơn thịnh nộ. Tôi cần những tiếng ó biển của bão, những ống bễ lò rèn của bão. Chính vì bão mà tôi quay trở lại hòn đảo này. Bấy giờ, mọi thứ khép kín, mọi người mất hút trong nhà của họ, họ đóng cửa chớp và chặn cửa ra vào, họ thu lu trong vỏ ốc, trong lớp mai của mình. Họ cũng đã biến mất, những du khách mặt bự phấn, những kiểu tạo dáng, những điệu bộ, những trò õng ẹo của họ. Những cô gái mặc quần soóc cực ngắn đạp xe, những cậu trai cưỡi mô tô địa hình, những cặp kính Polaroid, những ba lô, máy ảnh, họ đã quay về thành phố, về những tòa chung cư, về xứ sở không bao giờ có bão của họ. Người dân đảo này đã tự chôn mình. Họ chơi bài, họ ngồi bệt trong những căn hầm với cửa kính mờ hơi nước mà uống bia. Ánh điện chập chờn, chẳng mấy chốc sẽ cắt điện trên diện rộng. Tủ cấp đông của các cửa hàng sẽ rỉ thứ nước vàng như nước tiểu, những con cá ướp muối sẽ chảy nước và long mắt, những thanh sô cô la đông lạnh sẽ mềm nhũn trong bao bì. Chính vì bão mà tôi quay trở lại. Tôi lại cảm thấy mình đang trong thời chiến, trong rủi may, theo cuộc bỏ chạy tán loạn của các đoàn quân, nghe những chiếc loa thét lác những mệnh lệnh khó hiểu. Tôi ngược dòng thời gian, dựng lại đời mình. Tôi những muốn quay trở lại ngưỡng cửa ngôi nhà ở Huế, nhìn, và cái nhìn của tôi sẽ ngưng thời gian lại, sẽ gieo mơ hồ lẫn lộn, sẽ giải thoát người đàn bà khỏi những kẻ hành hạ cô. Nhưng trong những điều tôi biết sẽ không có điều gì nhạt nhòa đi. Hòn đảo là sự đoan chắc về nỗi vô phương cứu chuộc. Bằng chứng của sự bất lực. Hòn đảo là ụ nổi cuối cùng, bến đỗ cuối cùng trước hư không. Chính vì điều này mà tôi trở lại. Không phải để tìm lại quá khứ, không phải để đánh hơi tìm lối như một con chó. Mà để chắc chắn rằng mình sẽ không nhận ra điều gì. Để bão xóa đi tất cả, vĩnh viễn, bởi biển là chân lý duy nhất. Mời các bạn đón đọc Bão của tác giả J. M. G. Le Clézio.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cô Gái và Hoa Cẩm Chướng - Archibald Joseph Cronin
"Cô gái và hoa cẩm chướng" là một câu chuyện tình yêu, các sự kiện diễn ra xoay quanh ba nhân vật Catơrin, Năngxi, Mêđơn. Catơrin là một cô gái có cặp mắt đẹp, buồn và rất yêu hoa cẩm chướng. Xuất thân từ một gia đình thị dân nghèo ở Luân Đôn, vào đời từ năm 17 tuổi với chân thư ký tầm thường của một hãng buôn. Cô đã phấn đấu trở thành một chủ hãng kinh doanh đồ nghệ thuật và trang trí mỹ thuật, có đại diện các nước Mỹ và Pháp. Cô đã từ bỏ hôn nhân để theo đuổi sự nghiệp và nuôi mẹ với đứa cháu gái mồ côi khi mới hơn hai mươi tuổi. Năngxi được đi học trường sân khấu và trở thành diễn viên. Năngxi gặp và đính hôn với Mêđơn, một người Mỹ hơn cô hàng chục tuổi và mời anh về London. Cũng tại đây Mêđơn đã làm quen với Catơrin. Sau một thời gian tiếp xúc, trải qua nhiều sự kiện, hai người đã phát hiện một điều làm họ hoảng sợ: Họ yêu nhau, vì tính tình, vì sự đồng cảm...Cả hai rất đau khổ về mối tình này...Trước đêm công diễn lần đầu vở kịch mới ở New York, Năngxi ngẫu nhiên phát hiện được tình cảm giữa hai người họ. Cô đau đớn vô cùng, nhưng tối hôm ấy cô đã diễn xuất sắc vai của mình và trở nên nổi tiếng... *** Buổi trưa ẩm ướt tháng Mười Một đó là ngày bức hoa. của Holbein thu hút giới mộ điệu tới Vernon, nơi có một cuộc đấu giá không tiền khoáng hậu về giá trị cũng như về mức độ quan trọng của nó. Bức họa được gửi đến không hẹn trước từ Tu Viện Wroxon bởi gia đình Kneller, là bức hoa. nổi danh mang tên Qúy Cô với hoa cẩm chướng, một tuyệt tác với sự pha trộn giữa nét thanh tú và phi thường trong cách thể hiện, bức họa là một chân dung nhỏ của Cô de Quercy, con gái của ngài đại sứ trong triều vua Henry Thứ Tám - được ra mắt năm 1532, không bao lâu sau sự tái xuất hiện của Holbein ở London từ Basel – phong cách độc đáo nhất và thời gian huy hoàng nhất của vị bậc thầy này. Phòng hành lang đấu giá dài bị chật cứng người đúng bốn giờ rưỡi khi bức họa được kêu giá. Cuộc đấu giá bắt đầu với giá khiêm nhượng là hai ngàn guineas (guinea = đồng vàng Anh = 21 shillings, 1 shilling [hào] = 12 pence [xu]), tăng nhanh thành năm ngàn, ngưng một hồi lại tăng lên bảy ngàn, rồi ngưng và tăng với nhịp điệu thay đổi để loại trừ các kẻ cạnh tranh, rốt cuộc chỉ còn hai vị sừng sỏ, và giá cuối cùng lên tới chín ngàn bốn trăm guineas. Giá này đến đây ngừng lại. "Chín ngàn bốn trăm guineas." Người điều khiển đấu giá, ẩn trong lốt y phục diều hâu đỏ may cắt khéo léo, tóc được chải ngôi cẩn thận, chiếc kim đính hạt trai viền nổi bật trên nền cà vạt đen, làm tôn thêm dáng vẻ của ông trong lúc mắt không rời khuôn mặt điềm tĩnh ngoảnh đi ngoảnh lại của Bernard Rubin. Rubin dường như ghét trả cao hơn mặc dù cuộc đấu giá đang gây bất lợi cho ông. Cuối cùng, ánh mắt sùm sụp khó nhận thấy dưới cái nón rộng vành chợt sáng lên với một nét ngoan cố, và ngay tức khắc giọng người điều khiển vang lên: "Chín ngàn năm trăm guineas." Ngay lập tức, một cử chỉ ra dấu gần như không thể cảm nhận phát ra từ phía đối diện của căn phòng. "Chín ngàn sáu trăm," giọng người điều khiển lễ phép vang lên. "Chín ngàn bảy trăm," Rubin tăng giá một cách giận dữ nhưng lần nữa lại có kẻ đấu giá khác ra hiệu, có vẻ thách thức với ông. "Chín ngàn tám trăm," người điều khiển tuyên bố và dướn người về phía Rubin. Nhưng lần này Rubin chịu thua, giới hạn của ông chỉ có nhiêu đó, vẻ kiên cường không còn nữa từ lúc tiến hành đấu giá. Nếu có một thứ khiến già Bernard Rubin đứng đầu trong kỹ nghệ đồ cổ, đó chính là tài dừng lại đúng lúc. "Chín ngàn tám trăm guineas," người điều khiển lặp lại, đảo mắt khắp căn phòng chật cứng. Một sự im lặng. "Lần chót, chín ngàn tám trăm guineas." Một tràng im lặng nữa, kỳ lạ, và cuối cùng được chấm dứt bằng một tiếng búa gõ mạnh." Bán với giá chín ngàn tám trăm guineas... cho Cô Lorimer." Katharine Lorimer đứng dậy nhẹ nhàng từ chiếc bàn dài nơi nàng ngồi, tiến tới cánh cửa đôi phía cuối căn phòng rộng lớn. Nhiều vị đấu thầu lịch sự lùi lại khi nàng bước ngang, thì thầm lời chúc tụng, ngoài một nụ cười nhẹ nàng dường như không chú ý tới họ lắm. Có lẽ nàng nhận thấy khó trả lời lúc đó vì sự kiện táo bạo mới xảy ra, nàng cảm thấy nhịp đập rộn lên vì sự căng thẳng vô tận của vài giây cuối. Nàng đã đặt trọn trái tim vào bức hoạ, và một sự đặt giá nữa từ Rubin có lẽ sẽ đánh bại nàng. Từ bậc thang đi xuống, già Bernard hội nhập với nàng, bước đi lộp cộp nặng nề bên cạnh nàng trong sự im lặng khó hiểu. Chiếc xe hơi của ông ta, màu đen và bạc kiểu Continental, thiệt là bự và đắt tiền mà ông ta không bỏ lỡ cơ hội nào khoe với mọi người giá mua nó, đang đậu cạnh lề đường bên ngoài. Tới ngưỡng cửa, Katharine và Rubin ngừng lại, ngạc nhiên vì tiếng động và mật độ giao thông, vì sự chói lòa và sự càu nhàu chói tai của London, làm cho phòng đấu giá dường như xa vời và có vẻ không thực. "Cô đi cùng đường với tôi?" Rubin hỏi, một cử chỉ như muốn đưa nàng về. ... Mời các bạn đón đọc Cô Gái và Hoa Cẩm Chướng của tác giả Archibald Joseph Cronin.
Thời Thơ Ấu - Macxim Gorki
Macxim Gorki (1868 -1936) là nhà văn lớn của nước Nga, mở đầu trào lưu văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ông còn là nhà hoạt động văn hoá- xã hội nổi tiếng thế giới. Hy vọng THỜI THƠ ẤU sẽ làm hài lòng bạn đọc không chỉ các bạn nhìn thấy chính mình trong đó, quan trong hơn chính là bút pháp nghệ thuật điêu luyện của tác giả cuốn hút người đọc đến từng con chữ cuối cùng của tác phẩm. *** Nhận định "Đọc Thời thơ ấu các em sẽ thấy rằng tôi hoàn toàn là một con người nhỏ bé như các em, chỉ khác ở chỗ: ngay từ bé tôi đã duy trì được lòng ham muốn học tập và không sợ bất cứ thứ lao động nào.” (M.Gocki) "Chưa bao giờ chúng tôi đọc trong văn học Nga một tác phẩm nào hay hơn cuốn THỜI THƠ ẤU của anh...Chưa bao giờ anh khéo sử dụng nghệ thuật của mình một cách thành thạo như thế” (R.Rolăng - nhà văn Pháp) *** Gần cửa sổ, trong một gian phòng chật hẹp tranh tối tranh sáng, bố tôi mặc quần áo trắng toát nằm trên sàn. Thân hình bố tôi dài lạ thường, ngón chân xòe ra nom rất kỳ quái; hai bàn tay dịu dàng đặt yên trên ngực, nhưng ngón tay thì co quắp. Hai đồng xu đen tròn bằng đồng che kín cặp mắt tươi vui của bố tôi: khuôn mặt vẫn hiền từ nay tối sầm lại. Hai hàm răng nhe ra làm tôi sợ hãi. Mẹ tôi mặc chiếc váy đỏ, chiếc áo hở ngực, quỳ bên cạnh và lấy chiếc lược đen, mà tôi vẫn thích dùng để cứa vỏ dưa hấu, chải mái tóc dài và mềm mại của bố tôi từ phía trán ra sau gáy. Mẹ tôi nói liên tục, giọng trầm trầm khàn khàn. Cặp mắt xám của mẹ tôi sưng húp và như tan ra thành những giọt nước mắt lớn chảy ròng ròng. Bà tôi giữ lấy tay tôi. Bà tôi người béo tròn có cái đầu lớn, cặp mắt rất to và chiếc mũi xôm xốp nom rất buồn cười; bà tôi mặc toàn đồ đen trông mềm dịu đến hay. Bà tôi cũng khóc, tiếng khóc nức nở lạ lùng, trầm bổng hình như hòa theo những lời than vãn của mẹ tôi. Toàn thân run run, bà tôi kéo tôi và đẩy lại gần chỗ bố tôi. Nhưng tôi cưỡng lại và nấp sau lưng bà; tôi vừa sợ hãi vừa lúng túng. Chưa bao giờ tôi trông thấy người lớn khóc và tôi không sao hiểu được những lời bà tôi nhắc đi nhắc lại: -Cháu từ biệt bố cháu đi, không bao giờ cháu được thấy bố cháu nữa đâu, tội nghiệp, bố cháu chết sớm quá, chưa phải lúc... Tôi bị ốm nặng, vừa mới dậy. Trong lúc tôi ốm -tôi còn nhớ rất rõ -bố tôi nô đùa với tôi rất vui vẻ, sau đó bỗng nhiên bố tôi biến đâu mất, và bà ngoại tôi, con người kỳ lạ ấy, đã thay thế bố tôi. -Bà đi từ đâu đến thế? -Tôi hỏi bà tôi. Bà đáp: -Từ phía trên, từ Nijni đến. Bà không đi bộ, mà đi tàu thủy đến! Người ta không thể đi bộ trên mặt nước được, ông mãnh ạ! Câu trả lời đó thật là buồn cười và khó hiểu. ở trên nhà này chỉ có mấy người Ba-tư rậm râu và tóc nhuộm; còn ở dưới hầm nhà thì có một ông lão da vàng người Kanmưc làm nghề bán da cừu. Từ trên có thể cưỡi tay vịn cầu thang trượt xuống, hoặc nếu có ngã thì lộn nhào ở cầu thang, -điều đó tôi biết rất rõ. Nhưng sao lại có chuyện đi trên mặt nước kia chứ? Tất cả câu chuyện của bà tôi đều vô lý, đều lầm lẫn một cách ngộ nghĩnh. -Thế tại sao cháu lại là ông mãnh? -Tại cháu hay làm ồn lắm, -bà tôi vừa nói vừa cười. Tiếng bà tôi nói rất dịu dàng, vui vẻ và trầm bổng. Ngay từ ngày đầu tiên tôi đã thân với bà tôi, và ngay lúc này tôi cũng muốn bà tôi mau mau đưa tôi rời khỏi căn phòng này. Tiếng khóc than và kêu gào của mẹ tôi làm tôi nôn nao và gây cho tôi một cảm giác lo âu mới. Lần đầu tiên tôi trông thấy mẹ tôi như thế. Mẹ tôi vốn rất nghiêm nghị, ít nói, người sạch sẽ, gọn gàng và to lớn như một con ngựa, mẹ tôi có thân hình rắn chắc và đôi cánh tay rất khỏe. Thế mà bây giờ không hiểu sao khắp người mẹ tôi đều sưng phồng lên nom đến khó coi, đầu tóc rối bù, áo quần tơi tả. Mớ tóc thường vẫn vấn gọn trên đầu như một cái mũ lớn vàng óng thì nay xổ xuống một bên vai trần, xõa xuống mặt, còn nửa kia tết thành bím thì cứ lúc la lúc lắc chạm vào khuôn mặt ngủ say của bố tôi. Tôi đứng trong phòng đã lâu, nhưng mẹ tôi không hề nhìn tôi; và vẫn vừa chải đầu cho bố tôi vừa rên rỉ nức nở. Mấy người mujich mặc toàn đồ đen và một tên cảnh sát ló đầu vào cửa phòng. Tên cảnh sát quát tháo, giọng giận dữ: -Thu dọn nhanh lên! Chiếc khăn san màu đen che cửa sổ phồng lên như một cánh buồm. Tôi bỗng nhớ tới một hôm bố tôi dẫn tôi đi bơi thuyền buồm. Chợt một tiếng sấm nổ vang. Bố tôi cười, kẹp chặt tôi vào hai đầu gối và kêu: -Không sao cả, đừng sợ, Luc ạ! Đột nhiên mẹ tôi nặng nề đứng lên, rồi lại khuỵu xuống, ngã vật ra; tóc xõa tung ra cả sàn. Khuôn mặt trắng trẻo, mờ lệ tái xanh đi và cũng nhe răng ra như bố tôi, mẹ tôi nói, giọng khiếp sợ: -Đóng cửa lại... Dẫn thằng Alêcxây ra ngay! Bà tôi đẩy tôi ra rồi nhảy bổ ra cửa, mồm kêu to: -Bà con thân mến, đừng sợ, cứ để mặc chúng tôi, bà con hãy đi đi, Lạy Chúa tôi! Không phải dịch tả đâu, cháu nó sắp ở cữ đấy. Xin bà con hãy làm phúc làm đức cho! Tôi nấp sau một góc tối, sau cái hòm và nhìn mẹ tôi lăn lộn trên sàn rên siết và nghiến răng ken két. Bà tôi lê vòng quanh, cất giọng dịu dàng và vui vẻ nói: -Nhân danh Cha và Con! Variusa con hãy cố chịu khó một tí!... Lạy Đức Mẹ Rất Thánh che chở chúng con... Tôi sợ quá. Mẹ tôi và bà tôi bò lê trên sàn ngay bên cạnh bố tôi, đụng cả vào người bố tôi và rên rỉ, gào thét, còn bố tôi vẫn nằm im không động đậy và dường như đang cười gằn. Cảnh lồng lộn trên sàn ấy Tức Alêcxây, cách gọi tắt thân mật. Tức Vacvara, cách gọi thân mật. kéo dài khá lâu. Mấy lần mẹ tôi gượng đứng dậy, nhưng lại ngã quỵ xuống. Bà tôi lăn ra khỏi phòng giống như một quả bóng lớn màu đen và mềm nhũn. Sau đó đột nhiên trong bóng tối có tiếng trẻ con khóc thét lên. -Sáng danh Chúa! -Bà tôi nói. -Con trai rồi! Và bà châm một ngọn nến. Sau đó chắc tôi ngủ thiếp đi ở góc nhà nên không nhớ gì nữa. ấn tượng thứ hai còn ghi lại trong trí nhớ tôi là một ngày mưa, tại một góc nghĩa địa hoang vắng. Tôi đứng ở một gò đất trơn, nhớp nháp và nhìn xuống cái huyệt trong đó người ta vừa hạ quan tài bố tôi xuống. Dưới đáy huyệt có nhiều nước và có cả ếch nhái nữa; hai con đã leo lên được chiếc nắp quan tài màu vàng. Đứng bên cạnh huyệt có tôi, bà tôi, tên cảnh sát quần áo ướt sũng và hai người mujich vẻ mặt bực tức, tay cầm xẻng. Những hạt mưa ấm và li ti như những hạt thủy tinh nhỏ rắc lên tất cả mọi người. Mời các bạn đón đọc Thời Thơ Ấu của tác giả Macxim Gorki.
Mối Tình Đầu của Turgenev
Mối Tình Đầu viết dưới dạng tự sự. đó là những mối tình dang dở, những người phụ nữ yêu chân thành và say đắm, luôn luôn vươn tới cái mới, cái thiện nhưng không bao giờ thực hiện được ước mơ vì bản tính của họ mâu thuẫn với thực tại xã hội. Đó là những số phận cay nghiệt ở nước Nga dưới chế độ nông nô và Sa hoàng. Đó là những người đàn ông yếu đuối, nhu nhược và ích kỷ... đại diện cho tầng lớp qúy tộc đang suy tàn. Trong sáng tác của Turgenev phụ nữ chiếm một vị trí đặc biệt. tác giả dành cho những nhân vật nữ quyền phán xét nam giới vì bản tính của nữ giới là mãnh liệt, không khoan nhượng, toàn vẹn, nhạy bén và mơ mộng. nhưng theo Turgenev, tình yêu không những là niềm hạnh phúc lón lao mà còn là tấn bi kịch của đời người. *** Ivan Sergeyevich Turgenev (9 tháng 11 năm 1818 - 3 tháng 9 năm 1883) là một nhà văn và nhà soạn kịch nổi tiếng của Nga thế kỉ 19. Tiểu thuyết Cha và con của ông được coi là một trong những tác phẩm lớn nhất thế kỉ 19. Ivan Turgenev sinh ra trong một gia đình quý tộc ở Oryol thuộc Đế quốc Nga. Cha ông, Sergei Nikolaevich Turgenev, là một đại tá kỵ binh trong quân đội Nga Hoàng, ông mất năm Ivan 16 tuổi, mẹ của Turgenev là bà Varvara Petrovna Lutovinova, một phụ nữ có học, thông minh, chăm lo đến việc học hành của con cái nhưng đối xử tàn nhẫn, khắc nghiệt với nông nô. Hình ảnh bà mẹ khó tính ấy đã khắc sâu trong tâm khảm ông và được ông thể hiện trong nhiều tác phẩm sau này.   Tiểu thuyết 1857 - Rudin 1859 - Tổ quý tộc 1860 - Đêm trước 1862 - Cha và con 1867 - Khói 1877 - Đất hoang 1882 - Thơ văn xuôi Truyện ngắn 1850 - Dnevnik Lishnego Cheloveka 1851 - Provintsialka 1852 - Bút ký người đi săn 1855 - Yakov Pasynkov 1855 - Faust 1858 - Asya 1860 - Mối tình đầu 1870 - Cánh đồng hoang của vua Lear 1872 - Những dòng nước mùa xuân 1881 - Pesn' Torzhestvuyushey Lyubvi 1883 - Klara Milich *** Tiệc đã tan từ lâu. Đồng hồ gỏ mười hai giờ ba mươi phút.. Trong phòng chỉ còn lại vị chủ nhà, Sergei Nilolaevitch và Vladimir Petrovitch. Chủ nhà rung chuông, ra lệnh dọn đi phần còn lại của bửa cơm tối. "Và chúng ta đã đồng ý," ông nhìn quanh, ngồi thoải mái trong lòng chiếc ghế bành, châm một điếu xì gà." mỗi người sẽ nói về mối tình đầu của mình. Tới phiên anh, Sergei Nikolaevich." Sergei Nikolaevich, một người đàn ông thấp bé mập mạp với gương mặt bầu bỉnh, trắng trẻo, đầu tiên nhìn vị chủ nhà, sau đó hướng ánh mắt lên trần. "Tôi không có mối tình đầu," sau cùng ông nói; "Tôi bắt đầu bằng mối tình thứ hai." "Sao lại có thể như thế được?" "Rất đơn giản. Năm mười tám tuổi lần đầu tiên tôi tán tỉnh một cô gái trẻ và duyên dáng, nhưng tôi đeo đuổi nàng như thể không có chi là mới lạ; về sau này với các cô gái khác cũng thế. Nói cho chính xác, lần đầu và cũng là lần cuối, tôi yêu nhũ mẫu của mình khi tôi lên sáu; nhưng đó là chuyện ngày xưa. Tôi không tài nào nhớ được những chi tiết, và ngay cả khi tôi nhớ được, có ai thích nghe chăng? "Vậy về phần tôi thì sao?" ông chủ nhà bắt đầu nói. "Mối tình đầu của tôi cũng chẳng có gì hấp dẫn; tôi chưa từng yêu ai cho đến khi gặp Anna Nikolaeva, nhà tôi hiện nay, -- và tất cả mọi chuyện đều xảy ra hết sức êm đẹp; cha mẹ chúng tôi xếp đặt cuộc gặp gỡ, chúng tôi yêu nhau ngay, và cưới nhau liền sau đó. Chuyện của tôi có thể kể lại vỏn vẹn trong vài ba chữ. Thú thật với các bạn, khi nêu lên chủ đề là mối tình đầu, tôi đã đặt hy vọng nơi các bạn, tôi không nói là đã già, nhưng không còn trẻ trung gì nữa. Vladimir Petrovich, anh có thể làm cho không khí sôi động hơn không ?" "Mối tình đầu của tôi, chắn chắn không bình thường," Vladimir Petrovitch, một người trạc tứ tuần, tóc đen ngã sang màu muối tiêu, hơi ngập ngừng, trả lời. "Ah!" ông chủ nhà và Sergei Nikolaevitch cùng nói một lúc: "Càng tốt...Kể cho chúng tôi nghe đi." "Nếu các bạn muốn...nhưng không; tôi không kể đâu; tôi không biết cách kể chuyện; tôi sẽ làm cho nó khô khan và cộc lốc, hay thêm thắt quá đà. Nếu các bạn đồng ý, tôi sẽ viết tất cả những gì tôi còn nhớ và đọc cho các bạn nghe." Các ông bạn lúc đầu không bằng lòng, nhưng Vladimir Petrovitch nhất định làm theo ý mình. Hai tuần sau, họ gặp lại, và Vladimir Petrovitch giữ lời hứa. Bản thảo của ông chính là câu chuyện sau đây: -- ************* Tôi lên mười sáu. Chuyện xảy ra vào mùa hè năm 1833. Tôi sống tại Moscow với cha mẹ tôi. Họ sở hữu một ngồi nhà nghỉ mát ở gấn cổng Kalouga, đối diện vườn hoa Neskutchny.Tôi đang chuẩn bị vào đại học, nhưng không chăm học và không sốt sắng. Tôi hoàn toàn tự do tự tại, không ai để ý đến tôi. Tôi muốn làm gì tùy thích, nhất là sau khi chia tay với người thầy sau chót, người Pháp, ông này không bao giờ chấp nhận rằng ông đã rơi tỏm vào nước Nga "comme une bombe" (như một quả bom), và nằm bẹp dí trên giường ngày này sang ngày khác với vẻ mặt phẩn uất. Cha tôi tử tế, dễ dãi với tôi, còn mẹ tôi gần như chẳng ngó ngàng gì đến, mặc dù tôi là đứa con độc nhất ; nhiều việc khác chiếm trọn tâm trí của bà. Cha tôi, vẫn còn trẻ và rất đẹp trai, đã kết hôn với mẹ tôi chỉ vì tiền; mẹ tôi lớn hơn cha tôi đến mười tuổi. Mẹ tôi sống một cuộc đời buồn bả; lúc nào cũng bực dọc, ghen tuông và cáu kỉnh, nhưng chỉ khi vắng mặt cha tôi; mẹ tôi rất e sợ ông, và ông luôn luôn nghiêm khắc, lạnh lùng và xa cách... Tôi chưa bao giờ gặp ai trầm tỉnh, tự tin và uy quyền như ông. Tôi không bao giờ quên những tuần lễ đầu tiên sống ở quê. Thời tiết tuyệt diệu; chúng tôi rời thành phố vào ngày 9 tháng Năm, ngày lễ thánh Nicholas. Tôi thường lang thang trong vườn nhà mình, trong vườn hoa Neskutchny, và đi xa khỏi cổng thành; tôi hay mang theo vài quyển sách -- sách giáo khoa của Keidanov, thí dụ vậy -- nhưng hiếm khi đọc, và thường hay ngâm nga những vần thơ; tôi thuộc lòng nhiều bài ; với bầu máu nóng sôi sục, với trái tim đau thương ngọt ngào; lòng tôi tràn đầy niềm tin và hy vọng, tôi hơi sợ sệt một điều gì đó, và thích thú về mọi thứ; trí tưởng tượng của tôi mãnh liệt như lũ chim nhạn lượn lờ quanh tháp chuông lúc rạng đông; tôi mơ mộng, tôi buồn rầu, đôi khi khóc than; nhưng qua những giọt lệ và nỗi buồn gợi ra bởi một vần thơ du dương hay bởi vẽ đẹp của một buổi chiều tà, hượng vị ngọt ngào của tuổi trẻ và cuộc sống sôi động vẫn vươn cao như ngọn cỏ mùa xuân. Tôi có một con ngựa, tôi thường tự thắng lấy yên cương và một mình cởi ngựa rất lâu, phóng nước đại và tưởng tượng như mình là một hiệp sĩ trong trận đấu thương. Gió thổi mơn man tươi vui làm sao! hoặc ngẩng mặt lên, tôi đón lấy vẽ lộng lẫy và xanh mát của bầu trời vào linh hồn tôi rộng mở. Tôi nhớ lúc đó hình ảnh của người đàn bà, gương mặt của tình yêu, hiếm khi hình thành rõ nét trong đầu óc tôi; nhưng tôi có nghĩ đến và cảm thây chung chung ở một cõi mơ hồ kín đáo nào đó, một linh cảm ngượng ngùng về một điều gì đó, mới lạ, vô cùng ngọt ngào, yểu điệu... Mối linh cảm này, niềm hy vọng này, thấm đẫm vào tôi; tôi hít thở trong nó, nó chảy trong huyết quản, trong từng giọt máu...nó là định mênh sẽ sớm được hoàn thành. Địa điểm, nơi chúng tôi sẽ sống trong mùa hè, gồm một dinh thự bằng gỗ và hai căn nhà nhỏ; trong ngôi nhà phía trái là một cơ sở sản xuất giấy dán tường loại rẻ tiền...Đã hơn một lần tôi đi dạo về hướng đó, nhìn thấy khoảng một chục đứa bé gầy còm và luộm thuộm, quần áo dính đầy dầu mở, gương mặt mỏi mệt, thường xuyên nhảy lên những chiếc cần gổ để ép những ô vuông của cái máy in, và do đó, bằng sức nặng mong manh của chúng, tạo nên những mẫu mã khác nhau của giấy dán tường. Căn nhà bên tay mặt không có ai cư ngụ. Một ngày nọ -- ba tuần sau ngày 9 tháng Năm -- màn cửa sổ của ngôi nhá này cuốn lên, những gương mặt phụ nữ xuất hiện -- có một gia đình nào đó dọn tới. Tôi nhớ trong cùng ngày đó, vào bửa ăn tối, mẹ tôi hỏi thăm ông quản gia về người láng giềng mới, và khi mẹ tôi nghe nói tới danh hiệu Công chúa Zasyekin, mẹ tôi ra vẻ tôn kính, " Ah! một công chúa!" ...và thêm vào, " tôi nghĩ là, một công chúa nghèo, phải không?" "Họ đi xe thuê, " ông quản gia kính cẩn nói, đưa cho mẹ tôi một cái dĩa: " họ không có xe riêng, và bàn ghế tồi tàn." "Ah," mẹ trả lời, " vậy càng tốt." Cha tôi đưa ánh mắt băng giá nhìn qua; bà im bặt. Chắc chắn Công chúa Zasyekin không thể là một người giàu có; căn nhà bà dọn vào quá tiêu điều, nhỏ bé và mái dốc thoai thoải, không có ai, ngay cả những người tương đối khá giả trong thế gian này lại bằng lòng vào ở. Tuy thế vào lúc ấy, những gì được nói ra đã chóng bị quên lãng. Tước vị vương giả không tạo ra ấn tượng nào cho tôi.Tôi đang đọc Robbers của Schiller. ... Mời các bạn đón đọc Mối Tình Đầu của Turgenev của tác giả Ivan Turgenev.
Đêm Trước - Cha và Con - Ivan Turgenev
Hai tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Nga Ivan Turgenev có chung đề tài về cuộc sống của thanh niên Nga trong giai đoạn khủng hoảng về tư tưởng xã hội. Tác phẩm Đêm trước viết về tình yêu giữa Elena - người thiếu nữ Nga và Inxarov - một chàng trai Bungari. Họ có chung lí tưởng và cá tính mạnh mẽ, mong muốn thay đổi tình trạng trì trệ, tối tăm của xã hội. Nhưng, Inxarov đã chết trước khi anh kịp làm một điều gì đó cụ thể cho đất nước Bungari của anh và số phận Elena vẫn còn bỏ ngỏ. Cũng tương tự như vậy Bazarov trong Cha và con là một thanh niên thông minh, nhiệt tình và phủ nhận mọi đức tin cũng như những hành động đạo đức nửa vời. Với cá tính mãnh liệt, anh sẵn sàng tranh cãi và thậm chí đấu súng với những người mà anh cho là trưởng giả và lạc hậu. Tuy nhiên, chàng thanh niên theo chủ nghĩa hư vô đó cũng sớm lìa khỏi cuộc sống vì lây bệnh khi anh khám chữa cho những người nông dân. *** Lời của tác giả   “Đêm trước […] bắt đầu một thời đại mới ở nước Nga và những nhân vật như Elena, Inxarov là những người tiên phong của những gì xảy ra sau đó”.  *** Nhận định của văn giới và báo chíHai tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Nga Ivan Turgenev có chung đề tài về cuộc sống của thanh niên Nga trong giai đoạn khủng hoảng về tư tưởng xã hội. Tác phẩm Đêm trước viết về tình yêu giữa Elena - người thiếu nữ Nga và Inxarov - một chàng trai Bungari. Họ có chung lí tưởng và cá tính mạnh mẽ, mong muốn thay đổi tình trạng trì trệ, tối tăm của xã hội. Nhưng, Inxarov đã chết trước khi anh kịp làm một điều gì đó cụ thể cho đất nước Bungari của anh và số phận Elena vẫn còn bỏ ngỏ. Cũng tương tự như vậy Bazarov trong Cha và con là một thanh niên thông minh, nhiệt tình và phủ nhận mọi đức tin cũng như những hành động đạo đức nửa vời. Với cá tính mãnh liệt, anh sẵn sàng tranh cãi và thậm chí đấu súng với những người mà anh cho là trưởng giả và lạc hậu. Tuy nhiên, chàng thanh niên theo chủ nghĩa hư vô đó cũng sớm lìa khỏi cuộc sống vì lây bệnh khi anh khám chữa cho những người nông dân. Lời của tác giả   “Đêm trước […] bắt đầu một thời đại mới ở nước Nga và những nhân vật như Elena, Inxarov là những người tiên phong của những gì xảy ra sau đó”.  *** Nhận định của văn giới và báo chí   “… Trong ông có tình yêu từ ánh sáng, từ mặt trời và chất thơ nhân bản, sống động như là sự khước từ tất yếu tất cả những gì xấu xa, thô thiển và phi lý, điều đó đã đưa ông thành nhà thơ của những gì tốt đẹp nhất trong phẩm chất tự nhiên của con người” - Book Description “Kiệt tác của Turgenev về sự xa cách giữa các thế hệ, với các nhân vật thân thuộc, không thể nào quên, nhất là chàng Bazarov có trái tim vàng, khiến chúng ta suy tư mãi mãi…” - Audio file “Trong Cha và con, nhãn quan của Turgenev về cái phi lý, châm biếm và cả sự bi ai thống thiết thật sự sáng rõ.” - Daily Telegraph “Chàng bác sĩ Bazarov, kẻ nổi loạn trong cuốn tiểu thuyết, là sáng tạo lớn lao nhất của Turgenev.” - The Merriam - Webster Encyclopedia of Literature “Ông đã bị quở trách ghê gớm vì chàng Bazarov, chàng Bazarov băn khoăn, chàng Bazarov buồn chán ấy (biểu hiện của một trái tim vĩ đại), bất chấp cả cái chủ nghĩa hư vô của chàng ta của chàng ta.” - Fedor Dostoevsky “Kì diệu thay vật báu Cha và con ấy… Sự kết thúc của Bazarov này, các cụ già này, và cả Kuscina nữa chứm có quỷ mới biết làm sao có thể viết nổi được những điều đó? Thật thiên tài lắm thay!” *** Khi nhận xét về đặc điểm của nền văn hóa dân tộc Nga A.M. Gorki, người đặt nền móng cho nền văn học Xô Viết đã viết: "Mỗi nhà văn ở nước Nga đều thực sự là một cá tính nổi bật nhưng họ cùng được thống nhất lại bởi một ước vọng bền bỉ, đó là ước vọng muốn hiểu, muốn cảm nhận và muốn thấy trước tương lai của đất nước mình, số phận và vai trò của dân tộc mình trên hoàn cầu". Nhận xét này thật đúng với Turgenev, một nhà văn nổi bật trong các nhà nghệ sĩ ngôn từ về sự cảm nhận những cái mới, sự hưởng ứng nhanh chóng mọi tư tưởng cao quý, mọi nhiệt tình cao cả và trung thực.Ivan Xergeevich Turgenev sinh ngày 28 tháng Mười (9 tháng Mười một theo lịch Nga cũ) năm 1818 tại thành phố Oriol. Nhà văn sống những năm thơ ấu và thời thanh niên tại điền trang của thân mẫu, làng Xpaxxkoie, vùng trung tâm Nga. Tại đây ông đã cảm thụ sâu sắc và yêu quý thiên nhiên thân thuộc mà sau này được lưu truyền lại muôn thuở trong các tác phẩm của ông.Đồng thời tại Xpaxxkoie cậu bé Turgenev thường phải chứng kiến cảnh những người nông nô bị trừng phạt nghiệt ngã theo lệnh của mẹ cậu. Tâm hồn nhạy cảm, xa lạ với đau khổ và bất công của Turgenev nguyện thề đấu tranh đến cùng chống lại chế độ nông nô và ông mãi mãi trung thành với lời nguyền. Tập ký Bút ký người đi săn (1847 - 1852) của ông bằng bút pháp thi vị là "bản cáo trạng buộc tội chế độ nông nô" (Gerxen). Chủ đề chính của Bút ký người đi săn là mối quan hệ tương hỗ giữa địa chủ và nông dân. Turgenev đã vạch trần thói ích kỷ, tàn nhẫn của địa chủ, đồng thời mở ra trước mắt bạn đọc hình ảnh người nông dân với trí thông minh, tấm lòng vị tha, hào hiệp, tài năng bẩm sinh và khả năng cảm thụ sâu xa. Năm 1827 gia đình Turgenev chuyển về Maxcơva, tại đây Turgenev theo học nhiều trường nội trú tư và đến năm 1833 ông thi đậu vào khoa ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Maxcơva. Ít lâu sau, vì gia đình về sống ở Peterburg nên Turgenev chuyển về học tại trường Đại học Tổng hợp Peterburg. Năm tháng sinh viên đã đánh dấu những thử nghiệm văn học đầu tiên của nhà văn trẻ Turgenev đồng thời ghi lại sự quen biết của ông với nhiều văn sĩ xuất chúng của thời kỳ đó.Năm 1838, sau khi tốt nghiệp trường đại học tổng hợp, Turgenev khởi hành một chuyến du lịch dài sang Thụy Sĩ, Đức và sau đó là Italia. Năm 1841 ông trở về Nga và theo ý muốn của thân mẫu, ông vào làm việc ở văn phòng Bộ Nội vụ. Đây cũng là thời kỳ ông thực sự bước vào sự nghiệp văn chương một cách nghiêm túc và có chiều sâu. Phạm vi sáng tác của Turgenev rất rộng. Ông làm thơ, viết kịch, truyện, tiểu thuyết về đời sống của mọi tầng lớp trong xã hội Nga. Trong những năm 40 - 50 của thế kỷ XX, nhà văn đi vào tìm tòi những nhân vật tích cực của thời đại trong tầng lớp trí thức quý tộc. Ở hàng loạt truyện và các tiểu thuyết Rudin, Một tổ quý tộc ông miêu tả mối xung đột tồn tại giữa những nhân cách anh tài xuất chúng với điều kiện xã hội lúc bấy giờ. Khi đó ở nước Nga xuất hiện "những con người thừa". Đó là những đại diện ưu tú nhất của tầng lớp quý tộc trẻ mang trong mình những tư tưởng tiên tiến. Nhưng lòng nhiệt tình cao cả của họ vấp phải sự cổ hủ, trì trệ đang ngự trị khắp đất nước.Song vào cuối những năm 50 - đầu những năm 60, trong xã hội Nga xuất hiện một lực lượng xã hội mới - đó là các nhà trí thức dân chủ bình dân. Dù rằng về mặt tư tưởng Turgenev ngày càng xa rời họ nhưng với tư cách một nhà văn ông không thể bỏ qua tính cách mới được hình thành từ phía dân chủ này. Vậy nên ra đời các tiểu thuyết Đêm trước, Cha và con . Đến những năm 70, khi trên vũ đài xã hội xuất hiện phái dân túy, Turgenev đã viết cuốn tiểu thuyết Đất hoang, trong đó ông làm sáng tỏ tư tưởng của những người dân túy.Từ giữa những năm 40, Turgenev chủ yếu sống ở nước ngoài và luôn tuyên truyền không mệt mỏi những tư tưởng của nền văn học Nga. Khi các nhà văn Nga như Mikhail Xantưcov-Sedrin, Gleb Uxpenxki, Alekxei Pixemxki đến Paris thăm ông, Turgenev thường tổ chức nhiều buổi nói chuyện văn học, đã giới thiệu Xantưcov-Sedrin với Zola và Flaubert. Năm 1877 Turgenev cũng không vắng mặt trong việc thành lập Hội bảo trợ các họa sĩ Nga. Hoạt động của ông trong các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học đã được đánh giá xứng đáng ở Pháp và Anh: năm 1878 ông được bầu là phó chủ tịch Hội nghị văn học quốc tế tại Paris, còn năm 1879 ông được Trường Đại học tổng hợp Oxford phong học vị tiến sĩ luật học. Và công lao của ông cũng được ghi nhận tại Nga: năm 1859 ông được bầu là hội viên chính thức của Hội yêu văn học Nga, đồng thời ông cũng là thành viên của Quỹ bảo trợ văn học. Những năm cuối cùng sống ở Nga Turgenev tích cực đẩy mạnh mọi hoạt động xã hội, văn hóa - giáo dục.Mùa hè năm 1881 là mùa hè cuối cùng của Turgenev ở làng Xpaxxkoie thân yêu. Mùa thu năm ấy ông ra nước ngoài, đến mùa xuân năm 1882 thì sức khỏe của ông giảm sút mau chóng. Ngày 22 tháng Tám (ngày 3 tháng Chín theo lịch Nga cũ) năm 1883 Turgenev mất tại Bougival (gần thủ đô Paris). Ông được đưa về mai táng tại nghĩa trang Volkov, Saint-Peterburg.Các tác phẩm của Turgenev đã trở thành di sản quý báu của nền văn học thế giới và tên tuổi của ông đã được mãi mãi ghi vào lịch sử tư tưởng của xã hội. Bằng những hình tượng nghệ thuật tuyệt đỉnh, Turgenev đã biết cách kể với toàn nhân loại sự thật về nước Nga, về thế hệ trẻ Nga anh hùng tràn đầy khí thế cách mạng, tinh thần hy sinh quên mình vì lợi ích nhân dân, về những tình cảm tuyệt vời như tình yêu, tình bạn, về sự tươi đẹp của thiên nhiên nước Nga. ... Mời các bạn đón đọc Đêm Trước - Cha và Con của tác giả Ivan Turgenev.