Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Từ Biệt Berlin

Nước Đức trước thềm Thế chiến Hai, qua con mắt tinh tường và giọng kể điềm nhiên của Christopher Isherwood, hiện lên thật sống động với những quán bar đêm, với nhạc jazz, chất cồn và tình ái. Nhưng chua chát thay, ẩn sau đời sống phóng túng thơ mộng ấy là dự cảm chẳng lành về cái kết kề cận, là mầm mống suy đồi và bạo lực chực chờ bùng nổ. Chân thực khắc họa sự chuyển mình khốc liệt của cả một dân tộc, Từ Biệt Berlin đúng như tên gọi của nó, là lời giã từ cay đắng, là khúc bi ca trầm mặc cho sự điêu tàn của cả một thời đại hào hoa. “Bức phác họa xuất sắc về một xã hội trên đà thối rữa.” - George Orwell “Đọc tiểu thuyết này giống như nghe trộm chuyện phiếm trong một quán bar đông người trong khi lịch sử sốt ruột đập ầm ầm ngoài cửa sổ.” - The Guardian *** Từ biệt Berlin: Sự mất mát bị lãng quên 26/04/2020 - Hiền Trang “Tôi vẫn luôn giữ một chiếc rương ở Berlin”, nàng ca sĩ Marlene Dietrich từng viết trong một nhạc khúc nổi tiếng của mình. Sống cùng thời với Dietrich, văn sĩ người Mỹ gốc Anh Christopher Isherwood – người mà Somerset Maugham từng nhận xét với Virginia Woolf rằng: “Chàng trai trẻ này sẽ nắm giữ tương lai của tiểu thuyết tiếng Anh trong tay mình” – chuyển đến Berlin vào thập niên 30 theo tiếng gọi của tự do, và kể từ những áng văn của ông về thành phố, một lớp văn sĩ viết về Berlin ra đời. Kế hoạch ban đầu của Isherwood là viết một cuốn tiểu thuyết công phu nhiều tập về thủ đô nước Đức. Cuốn tiểu thuyết này thậm chí đã được đặt trước một cái tên: The lost – tạm dịch là Điều đã mất, như ám chỉ một nước Đức đã mất, một nước Đức  bị xa lánh và cô lập bởi phần còn lại của Âu châu đầu thế kỷ 20, thế nhưng như trong cuốn tự truyện về sau này, Isherwood thú nhận rằng “Tôi bí quá. Tôi không thể nào viết xong The lost.” Và cuối cùng, cuốn đại tiểu thuyết ban đầu được thu gọn lại thành những mẩu chuyện rời rạc, bao gồm một cuốn tiểu thuyết nhỏ mang tên Mr Norris changes trains cùng sáu mẩu truyện vừa tập hợp lại thành Goodbye to Berlin (Từ biệt Berlin theo bản dịch tiếng Việt của Duy Đoàn, do Tao Đàn và NXB Hội Nhà Văn phát hành). Và có đôi khi, những chân dung loang lổ, những hình thù lốm đốm lởn vởn và những chuyện phiếm lan man dang dở lại nói nhiều hơn là cả một toàn tập hay một biên niên sử nào. Bởi chúng không có hoài bão bảo tồn quá khứ, tái hiện lịch sử, cũng không có ý định trở thành một bản điếu văn cho những hào hoa đã thất lạc, chúng chỉ tồn tại để chứng minh rằng, tất cả những điều đó đã từng ở đây, song đã ở lại mãi mãi cùng những năm tháng ấy. “Tôi là cái máy ảnh với màn trập mở, hết sức thụ động, ghi hình, chứ không suy tư. Ghi hình người đàn ông đang cạo râu ở cửa sổ đối diện và người đàn bà vận kimono đang gội đầu. Một ngày nọ, toàn bộ cảnh này sẽ phải được rửa, được in ra cẩn thận, được treo lên.”, Isherwood viết trong những đoạn mở đầu. Hitler không phải kẻ duy nhất đánh cắp mất Berlin và biến Berlin thành một nơi quái gở. Tự thân những con người từng trú chân ở đó, khi họ ra đi, họ cũng đã mang giữ theo mình một phần của Berlin, một phần không bao giờ còn quay trở lại. Đọc Từ biệt Berlin quả giống như lật một cuốn album ố vàng mà trong đó mỗi tấm ảnh là một khoảnh khắc đóng băng, lắng cặn và được phong kín bởi thời gian, là chuỗi những lần chớp sáng đứt đoạn và không liền mạch. Sáu câu truyện nối lỏng lẻo với nhau bằng một đường dây kéo dài là giọng kể của nhân vật “tôi” – một chàng trai nuôi mộng trở thành tiểu thuyết gia mang tên Christopher Isherwood – và mỗi câu truyện là một đoản khúc xoay quanh những con người đột nhập vào cuộc sống của anh, hay đúng hơn là anh đã đột nhập vào cuộc sống của họ. Nhưng chớ nhầm! Nhân vật “tôi” dù là Christopher Isherwood đó, nhưng đồng thời cũng lại chẳng phải là tác giả Christopher Isherwood, dù rất dễ dàng để ta chập hai thực thể đó vào làm một. “Christopher Isherwood chỉ là một con rối tiện lợi của nghệ sĩ nói tiếng bụng”, tác giả giải thích về cái tên trùng lặp. Và chính ở đây, từ sự nhập nhằng giữa danh tính ngoài đời và danh tính trên trang viết, Isherwood đã làm một cuộc khai sinh ra thứ tiểu thuyết phi hư cấu. Đa số độc giả văn chương vẫn lấy tiểu thuyết In cold blood (theo bản dịch tiếng Việt là Máu lạnh) của Truman Capote xoay quanh vụ giết người ở vùng nông thôn Kansas làm cột mốc ra đời của faction, dòng văn học phi hư cấu. Thế nhưng, từ trước khi Capote gần ba thập kỷ, Christopher Isherwood đã có những bước đi thử nghiệm thể loại này với Từ biệt Berlin. Capote có được gợi ý từ Isherwood hay không? Thật khó mà nói được. Nhưng hai người đúng là có quen nhau, thậm chí là những người bạn vong niên thân thiết, chơi chung một hội nhóm gồm những văn tài, cùng từng tán tỉnh một chàng điếm, cùng trao đổi qua lại nhiều thư từ, và nàng “Geisha nước Mỹ” Holly Golightly trong tiểu thuyết ngắn Bữa sáng ở Tiffany của Capote, nhân vật đã được bất tử hóa qua sự nhập vai của huyền thoại Audrey Hepburn, được lấy cảm hứng từ nàng diễn viên hạng xoàng phóng túng mà ngây thơ, yêu kiều mà đồng bóng Sally Bowles trong Từ biệt Berlin. Lách mình qua những ngõ ngách, náu ẩn nơi những quán rượu, những xóm ổ chuột, những nhà trọ và nhà thương khắp Berlin, Christopher Isherwood ký họa lại buổi tà dương của một thời đại trước sự trỗi dậy của Hitler và quân Phát xít mà không đem theo một chút phán xét, chỉ gợn lên những niềm luyến nhớ âm ỉ về những con người và những cuộc ly biệt liên miên. Không phải lúc nào ta cũng bắt gắp một nước Đức với nỗi buồn – nhưng là nỗi buồn khinh khoái và phớt tỉnh, một nước Đức không cừu hận, không hổ thẹn, không cắn rứt, không tội lỗi hay gồng gánh lương tâm, như ở đây. Hitler khi ấy vẫn chỉ là một ẩn số, và những dự cảm chẳng lành về cơn thủy triều tàn khốc đang dâng lên vẫn còn nằm mấp mé ngoài xa, đang trực sầm sập ập vào nhưng dẫu sao, hẵng còn đủ thời giờ để người ta làm mộ bia cho những con dơi, bầy chim và lũ thỏ, vẫn còn kịp để một người cố gắng cứu vãn mình khỏi niềm cô đơn cố hữu, để một cô diễn viên cho phép mình dây dưa với một tay lừa đảo non choẹt bị tâm thần, để một cậu choai choai đêm đêm đi khiêu vũ và đong đưa kiếm tiền mua áo khoác, để những đám người vầy mình trong những cuộc vui, những cuộc say, những cuộc ghen tuông, những cuộc khẩu chiến vô ý nghĩa. Nhân vật Isherwood ôn lại quá khứ không phải trong tư thế một kẻ cuồng tín muốn được mục ruỗng và tan rã cùng quá khứ (kiểu anh chàng biên kịch Gil Pender trong Midnight in Paris). Quá khứ không hẳn là chốn tươi đẹp nhất, vẫn có đó những giây lát mà anh muốn nhoài mình khỏi bối cảnh, những thoáng chốc trong buổi chạng vạng anh cảm thấy như sắp bị vồ lấy bởi những bóng người vô hại nhất, những ứ đọng chật chội khiến anh muốn tháo chạy thật nhanh. Và những con người rẽ ngang qua anh, họ rời Berlin mà không mơ ngày trở lại, họ đánh mất Berlin mà không đoái hoài đến sự mất mát, không vận một chút lực nào để trì níu, hoặc là những gì họ để mất ẩn hình và phi trọng lượng, khiến họ chuội đi vào những hiện tại tiếp nối mà không có lấy một ma sát nào để giữ họ chậm bước ngoái đầu nhìn lại. Berlin, sau rồi, chỉ là một nhà ga trung chuyển nơi mỗi lần gặp gỡ cũng là một lần rũ bỏ. Lách mình qua những ngõ ngách, náu ẩn nơi những quán rượu, những xóm ổ chuột, những nhà trọ và nhà thương khắp Berlin, Christopher Isherwood ký họa lại buổi tà dương của một thời đại trước sự trỗi dậy của Hitler và quân Phát xít mà không đem theo một chút phán xét, chỉ gợn lên những niềm luyến nhớ âm ỉ về những con người và những cuộc ly biệt liên miên. Ở phần cuối câu chuyện về Sally Bowles, cô diễn viên sau khi đáp xuống Rome đã gửi tấm bưu thiệp và hứa hẹn sẽ viết thư cho Isherwood vào một hay hai ngày nữa. Nhưng ngày đó không bao giờ đến. Không một lá thư nào theo sau, cho đến khi câu chuyện được ghi lại, đã là sáu năm hoàn toàn bặt vô âm tín. Liên lạc là mối nối kém bền chắc nhất trên đời. Đến lượt mình, Christopher Isherwood cũng nói lời chia biệt Berlin. Thời điểm đó, sĩ khí của quân Quốc xã đã lên cao và dù Mặt trời vẫn rạng rỡ như hôm qua và những thị dân vẫn chờ ở ga Nollendorfplatz như lẽ thường, thành phố đã thuộc về Hitler và không bao giờ còn là nó như đã từng được nữa. Nhưng Hitler không phải kẻ duy nhất đánh cắp mất Berlin và biến Berlin thành một nơi quái gở. Tự thân những con người từng trú chân ở đó, khi họ ra đi, họ cũng đã mang giữ theo mình một phần của Berlin, một phần không bao giờ còn quay trở lại. Muốn hay không, Berlin thuở đó đã suy tàn. Cuộc hội đã kết thúc. Những ký ức, nếu vẫn cố thủ hay rơi rớt, chỉ còn được đóng gói trong “một chiếc rương” nương náu ở Berlin. *** Bản trần thuật đầy mục ruỗng của Berlin trước thế chiến 2 Thứ hai, 6/5/2019  “Bóng ma” chủ nghĩa quốc xã lan rộng, những giá trị bị đảo lộn, những mối thân tình bị bỏ mặc hoặc lãng quên, rời bỏ Berlin là lối thoát duy nhất. Từ biệt Berlin của Christopher Isherwood nằm đâu đó giữa một cuốn nhật ký chân thực và một tiểu thuyết văn chương hư cấu, hé mở và phơi lộ một xã hội từng hào hoa nay đã biến mất. Cái tên ban đầu mà Isherwood lựa chọn cho cuốn sách không phải là Từ biệt Berlin (Goodbye to Berlin) mà là The Lost, để chỉ cái đã chết, đã mất đi, đã vĩnh viễn không còn nữa. Cái tên nghe có vẻ “khoa trương” (lời của tác giả) và chung chung đó cuối cùng đã được đổi lại thành Từ biệt Berlin; nó gắn với một địa danh (thậm chí là một mốc thời gian nhất định): Berlin - thủ đô nước Đức, và nó còn gắn với hành động cụ thể: một lời giã biệt. Bản trần thuật đầy thanh âm mục ruỗng Từ biệt Berlin bao gồm sáu truyện ngắn nối kế nhau ơ hờ, thoát thai từ những trang nhật ký cùng những bản phác thảo của Christopher Isherwood. Ở đó, tác giả tự nhận mình là "cái máy ảnh với màn trập mở, hết sức thụ động, ghi hình, chứ không suy tư"; và “chỉ là một con rối tiện lợi của nghệ sĩ nói tiếng bụng, chứ không phải một gì khác”. Tuy nhiên, sáu truyện ngắn này lại kết nối một cách liền mạch, mỗi truyện là một mảnh ghép tạo nên một chương rất quan trọng trong cuốn tiểu thuyết đầy suy tư, trước một thực tại đang dần tan biến không gì có thể vãn hồi. Từ biệt Berlin mở ra bằng “một bản nhật ký”, với những gì vui tươi và sinh động nhất của những con người đủ mọi quốc tịch, mọi ngành nghề với thiên hướng, sở thích, lối sống đa dạng tụ họp lại ở Berlin. Isherwood vào vai chính mình, gặp gỡ và kết thân với những con người xa lạ đó rồi trần thuật lại câu chuyện, với vai trò là chứng nhân. Chương đầu tiên là một thế giới vẫn còn tươi sáng, ở đó có bà chủ nhà trọ hiểu chuyện đời và dễ mến, có nhân viên quán bar tính tình dễ chịu; có giọng ca nhạc jazz xuất sắc và có cô gái điếm nhưng vẫn sống hết sức tử tế. Tuy nhiên, từ chương thứ 2 Sally Bowles trở về cuối cuốn sách, cái đẹp dần biến mất, màu sắc tươi sáng dần thay thế cho những thực tế phũ phàng, những nhân vật tốt đẹp dần biến chất, những nhân vật mới có nét bí ẩn, u uất riêng. Tiểu thuyết gia là một người kể chuyện trung thực, không đóng vai quan toà - phán xét hay bào chữa cho những nhân vật đại diện trong truyện. Anh chỉ đơn giản là kể lại, để từ đó dần lộ ra những thứ vốn phải hé lộ. Và cuối cùng cái gì đến cũng phải đến, “bóng ma” chủ nghĩa quốc xã lan rộng, những giá trị bị đảo lộn, những mối thân tình bị bỏ mặc hoặc lãng quên, rời bỏ Berlin là lối thoát duy nhất. Từ biệt Berlin vốn chân thực và hấp dẫn đến vậy là bởi vì Christopher Isherwood từng có 4 năm sống tại Berlin, Đức (1930 - 1933). Đó chính là chất liệu để anh tạo nên một bản trần thuật đầy thanh âm mục ruỗng, dù đã cố tình che đậy bằng giọng văn trung tính, lạnh nhạt và có phần dửng dưng trong suốt cuốn tiểu thuyết. Chủ nghĩa quốc xã và dấu ấn tha nhân Điều khiến người đọc say mê với Từ biệt Berlin không chỉ nằm ở bản thân câu chuyện hấp dẫn, văn phong điềm nhiên có phần lạnh lùng đầy chất anh hùng mà những “mã” nhận biết dẫn dụ: “Chủ nghĩa quốc xã” và “dấu ấn tha nhân”. Dòng tiểu thuyết về chủ nghĩa quốc xã vốn luôn khiến người đọc tò mò để rồi đau đớn trước thực cảnh bạo tàn và thống khổ. Từ biệt Berlin mang đến cho người xem một tầm nhìn trước cảnh thống khổ đó nhưng không kém phần đau đớn. Hai truyện ngắn và cũng là hai chương sách Nhà Nowak và Nhà Landauer đã xuất sắc lột tả được sự khốn cùng của những con người sống tại Berlin thời đó. Nếu như chương Nhà Nowak phơi bày sự khốn cùng của những con người cùng đáy xã hội, sống vật vờ, những giá trị đạo đức bị đảo lộn, mái ấm gia đình trở thành nơi bề bộn và tù ngục; thì chương Nhà Landauer là mở đầu cho chuỗi những ngày đau đớn của người Do thái, không chỉ tại Berlin, nước Đức mà còn trên toàn thể châu Âu sau này. Tình dục cũng là một trong những mối tò mò và quan tâm của độc giả về Isherwood nói chung, cuốn tiểu thuyết nói riêng. Christopher Isherwood thừa nhận một cách thẳng thắn là người đồng tính, nhưng đó là chuyện của sau này. Chính vì thế, mối tình dị tính tưởng tượng giữa “Isywoo” (cách nhân vật chủ nhà trọ Schroeder gọi Isherwood) và nhân vật Sally khiến không ít độc giả bất ngờ. Tuy nhiên, dù cố gắng thế nào, Christopher Isherwood vẫn để lộ “sơ hở” với thiên hướng tính dục của mình trong Từ biệt Berlin. Đó không chỉ là cách trò chuyện, sự gắn kết, mối thân tình của Isherwood đối với những nhân vật nam trong truyện thường mang những mối gắn kết lạ kỳ với giọng văn cảm mến và nhẹ nhõm hơn, mà còn ở mối quan hệ hiển rõ giữa Otto và Peter trong sách. Trên tất cả, Từ biệt Berlin còn mang dấu ấn dòng văn chương của những nhà văn là tha nhân. Dù hoà hợp với Berlin, dù kết giao thân thích với đủ hạng người tại đây, nhân vật "tôi" (chính là Isherwood) vẫn luôn cảm thấy xa lạ, khó hiểu, mâu thuẫn. Những dịch chuyển của nhân vật "tôi" dường như khá liên tục, và dường như không thuộc về vùng đất này. Christiopher Isherwood từng chia sẻ: “Với một nhà văn như tôi, vấn đề chưa bao giờ nằm ở việc ‘đồng tính’, mà là vấn đề của việc là một tha nhân, vấn đề nhìn nhận mọi thứ từ góc độ xiên lệch. Nếu đồng tính trở thành một điều bình thường thì nó không còn là đề tài gây hứng thú cho tôi". Christopher Isherwood là một tiểu thuyết gia, nhà viết kịch nổi tiểng. Ông cũng được biết đến là một người đồng tính nam với nhiều tác phẩm được viết trên chủ đề này. Isherwood sinh ra tại miền bắc nước Anh vào năm 1904 và trở thành công dân Mỹ kể từ năm 1946. Ông qua đời vào năm 1986 tại nhà của mình tại ở Santa Monica, California. Tạm biệt Berlin (1939) cùng Mr. Morris Changes Trains nằm trong bộ tiểu thuyết chung có tên The Berlin Stories ra mắt lần đầu vào năm 1945, lọt vào top 100 tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất thể kỷ 20 do Times bình chọn. Từ Biệt Berlin được chuyển thể thành vở kịch I Am A Camera bởi đạo diễn John Van Druten. 15 năm sau vở kịch được chuyển thể thành nhạc kịch nổi tiếng Cabaret. Trước khi Từ biệt Berlin xuất hiện tại Việt Nam, Christopher Isherwood ít nhiều được biết đến qua tiểu thuyết về đề tài đồng tính có tên A Single Man với 2 bản dịch Người cô độc (Youth Book, 2012) và Một con người (Tao Đàn, 2018). Nhà thiết kế thời trang nổi tiếng Tom Ford từng chuyển thể cuốn sách này thành bộ phim điện ảnh cùng tên vào năm 2009.   Mời các bạn đón đọc Từ Biệt Berlin của tác giả Christopher Isherwood & Duy Đoàn (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Khuôn Mặt Người Khác
Mặt, xét cho cùng, là vẻ biểu cảm của nó. Mà vẻ biểu cảm, đó là một loại phương trình biểu thị mối quan hệ với những người khác. Đấy là con đường mòn liên kết ta với người. Nếu con đường đó bị vùi lấp thì ngay cả những người gắng tìm cách đi trên con đường đó cũng sẽ đi ngang qua trước nhà ta như đi ngang qua một chốn hoang phế không người. Nếu không kịp thời dọn quang con đường mòn thì cuối cùng người ta sẽ quên rằng đã từng có con đường đó.  Tâm hồn con người được bọc trong một bộ da. Người ta bị mất tay mất chân, bị hỏng mắt là chuyện bình thường. Người bị thương bận tâm đến cái gì nhiều nhất? Không phải là tính mạng, không phải là sự phục hồi các chức năng của cơ thể, không. Điều làm họ băn khoăn trước hết là có giữ được cái hình dạng trước đây hay không. Nếu như trong Người đàn bà trong cồn cát (1962), cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình, Kobo Abe viết bằng giọng văn xuôi đơn giản; thì Khuôn mặt người khác (1964) giọng văn đã trở nên phức tạp hơn bởi nhiều câu hỏi được đặt ra. Nếu như nhân vật chính của Người đàn bà trong cồn cát chỉ đơn giản là cố gắng để trốn thoát; thì nhân vật chính của Khuôn mặt người khác là cố gắng để tìm thấy chính mình và để đánh mất mình, và cố gắng tìm mọi cách để sống trong một xã hội mà dường như đã từ chối anh ta! Với Khuôn mặt người khác, Kobo Abe đã cố gắng để đối phó với các vấn đề lớn của bản sắc và cá tính trên quy mô quốc gia, bằng cách tập trung vào miêu tả một người đàn ông không tên. Anh là chủ nhiệm một phòng nghiên cứu hóa chất cao phân tử tại một viện khoa học. Trong lúc thí nghiệm đã xảy ra vụ nổ oxy lỏng, khuôn mặt bị biến dạng với những sẹo lồi, rất may là không ảnh hưởng gì đến mắt vì anh đeo kiếng. Bề ngoài, anh cố giữ được vẻ bình thản với khuôn mặt bị hủy hoại, nhưng đó chỉ là sự giả tạo. Trong anh luôn bùng nổ những cơn bão của tâm trạng dằn vặt, suy tư dữ dội, luôn đau khổ và mặc cảm, hoài nghi ở thái độ mọi người đối với bộ mặt kỳ dị của mình. Anh nghi ngờ cả sự gần gũi chăm sóc của người vợ vẫn chung sống cùng anh sau khi anh bị tai nạn. Và, mối quan hệ của anh với người vợ cũng bị biến dạng! Âm thầm và kiên trì bền bỉ, anh đã nghiên cứu chế tạo thành công bộ mặt nạ hoàn toàn giống mặt người, có khả năng biểu cảm linh hoạt như gương mặt thật. Anh giữ bí mật sự việc và nuôi dưỡng ý định dùng bộ mặt nạ thử thách tình yêu của vợ mình. *** Trong khi Murakami và Yoshimoto là những nhà văn đang nổi lên trên văn đàn Nhật Bản và là hai nhân vật hết sức quen thuộc ở Việt Nam hiện nay, tôi muốn lưu ý bạn đọc về một xu thế mới có lẽ tồn tại như một dòng chảy ngầm. Khi nói về xu thế này, vào năm 1990 nhà văn danh tiếng Kenzaburo Oe ( 1935 - 2007), Giải thưởng Nobel Văn chương năm 1998 có viết: “Lớp nhà văn này đã tích luỹ trong mình  cảm nghĩ về thực trạng xã hội và sức mạnh của văn học. Trong số họ nổi lên hàng đầu là Kobo Abe, một trong những gương mặt quan trọng nhất, nổi bật nhất sau chiến tranh. Ông sáng tác với ý thức tách khỏi truyền thống Nhật Bản, tuy gắn bó với việc xây dựng thế giới ảo tưởng, nhưng vẫn in đậm một lối nhìn riêng tư mà nghiêm túc về đời sống hiện đại”. Kobo Abe sinh ngày 7.3.1924 tại Tokyo. Tên thực của ông là Kimifusa (“Kobo” là cách phát âm theo Hán tự của từ “Kimifusa”). Cha ông là bác sỹ tại một bệnh viện nằm trong trường Cao đẳng Y khoa Hoàng gia ở Manchuria. Khi còn trẻ, Abe rất hứng thú với môn toán học và sưu tập côn trùng. Cũng giống nhiều nhà văn Nhật Bản hiện đại nổi tiếng thế hệ trước như Mori Ogai, Natsume Soseki, Tanizaki Junichiro... ông tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các nhà tư tưởng bậc thầy của phương Tây, có lẽ do nhiều năm sống ở nước ngoài và đời sống văn hoá đương đại của nó đã thôi thúc ông, nghiên cứu các nhà triết học phương Tây như Heidegger, Jaspers và Nietzsche... Năm 1941 Abe trở về Nhật Bản, năm 1943 ông thi đỗ Đại học Tokyo rồi theo học y khoa tại đây. Luôn ốm yếu do mắc bệnh đường hô hấp nên Abe được miễn quân dịch. Trong chiến tranh, ông tới sống ở Manchuria. Sau khi khỏi bệnh Abe tiếp tục việc học hành và tốt nghiệp vào năm 1948, nhưng ông tự nhủ sẽ không bao giờ hành nghề y. Từ đấy Abe đã bước vào sự nghiệp văn học. Ông tham gia nhóm văn chương do Kiyoteru Hamada dẫn dắt. Khuynh hướng sáng tác là hợp nhất các kỹ thuật của Chủ nghĩa siêu thực với tư tưởng Marxist. Ngay từ năm 1943 Abe đã cho ra đời một tác phẩm đầu tay. Bạn đọc hẳn đã nhận thấy Haruki Murakami tác giả Rừng Na-uy viết với một phong cách bộc trực, giọng điệu trung tính, lạnh lùng, câu ngắn gọn, đôi khi cộc lốc. Ông tránh lối diễn đạt uyển chuyển mà người Nhật hay dùng để câu nói mềm mại hơn khiến ngôn từ trở nên mập mờ. Còn văn  phong của Abe lại cô đọng và chuẩn mực, nó cho thấy nỗi bận tâm của ông đối với tư tưởng của tác phẩm hơn là kỹ thuật viết cốt tạo ra phong cách . Những nhà văn chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển thẩm mỹ văn học của ông: Edgar Allan Poe, Samuel Beckett, Rainer Maria Rilke và Fyodor Dostoyevsky, và đặc biệt là Franz Kafka. Ảnh hưởng Kafka càng rõ rệt trong tác phẩm Kabe - Esu Karuma shino hanzai (Bức tường - tội lỗi của S.Karma, 1951). Tác phẩm này được Giải Akutagawa, giải thưởng văn học cao quý nhất ở Nhật, kể chuyện một người phát hiện ra rằng tấm danh thiếp của anh ta tự hoá thành người và giả dạng anh ta mà phạm tội khiến anh bị toà án lôi ra phán xử. Năm 1947 Abe cho ra mắt một tuyển tập thơ. Abe chỉ thực sự được coi là một nhà văn nổi tiếng với tiểu thuyết Owarishi michi no shirube ni (1948), kể về cuộc đời một kẻ nghiện thuốc phiện. Vào những năm 1950, Abe gia nhập Đảng Cộng sản Nhật Bản. Năm 1962 ông xin ra khỏi đảng bởi những bài báo phê phán chính sách của đảng này. Những tác phẩm mang tính cách trải nghiệm của Abe được thế hệ độc giả trẻ hết sức ngưỡng mộ. Abe đã nhận được giải thưởng cho ba truyện ngắn của ông, “Akai mayu” (1950, Cái kén đỏ), “Kabe” (1951) và “S.Karuma - Shi no hanzai” (1951). Như nhiều nghiên cứu đã đề cập tới, vấn đề chủ đề và phong cách viết thường là nỗi ám ảnh đối với nhà văn Kafka đến mức ông đã phải khai thác nhiều yếu tố qua các truyện khoa học viễn tưởng và trinh thám để xây dựng tác phẩm của mình. Còn các tiểu thuyết và vở kịch của Abe thì đặc trưng ở sự quan sát kín đáo và các kỹ thuật viết tiên phong (avant - garde techniques). Khi đã quen thuộc một số tác phẩm của Kobo Abe bạn đọc sẽ nhận thấy thông thường các cảnh ngộ hay hoàn cảnh mà các nhân vật của ông phải đối mặt, hay đương đầu, thường là kỳ quặc, không giống thực tế và thái độ cùng hành vi của họ được bộc lộ qua khái niệm tự do ý chí. Các tác phẩm sau của Abe là những minh chứng cụ thể cho nhận định này: Daiyon kampyoki  (1959), Moetsukita chizu (1967, Tấm bản đồ rách), Mikkai (1977) và Hako otoko (1974, Người đàn ông trong chiếc hộp). Ở phương Tây, Abe hết sức nổi tiếng với hai tiểu thuyết The Woman in the Dunes, (1962, Người đàn bà trong cồn cát) và The Face of Another (1964, Khuôn mặt người khác). Chủ đề trung tâm trong các tác phẩm này của Abe là nỗi lạc lõng về thân phận, mặc cảm bị xa lánh và ghét bỏ, nỗi cô đơn cá nhân giữa một thế giới kỳ quặc, và những con người gặp khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đồng. Hai kiệt tác này là các tác phẩm vượt khỏi mỹ quan truyền thống Nhật Bản, sáng tạo mới mẻ, dùng nhiều ẩn dụ, nhiều hình tượng cụ thể hay siêu thực để diễn tả nội tâm và tiềm thức con người bị tha hoá, vong ngã, trong xã hội đô thị. Các quan niệm giáo điều hay thành kiến đã được ông lật ngược lại. Thông thường con người được xem là trung tâm của vũ trụ, chúa tể của muôn loài, tác phẩm của ông lại chủ trương bình đẳng giữa các loài. không những thế còn có thể biến đổi từ loài này sang loài khác, và ngược lại, con người hoá thân thành sinh vật, sinh vật lại mang nhân cách như con người. Ông đề cao ý thức, lại chủ trương nhục thể chi phối tinh thần, hoàn cảnh xã hội quy định ý thức, và tự do chỉ có thật khi cá thể thoát ra khỏi mọi tập thể như quốc gia hay cộng đồng. Kobo Abe không ngừng thử nghiệm những thủ pháp và tư tưởng mới lạ, kể cả khoa học viễn tưởng, triết lý hiện sinh, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Với số lượng tác phẩm to lớn và những đóng góp đặc sắc của ông cho văn học Nhật Bản, Kobo Abe  được đánh giá là một trong những tác gia quan trọng nhất của nền văn chương nước này ở thế kỷ XX. Những tác phẩm chính: Người đàn bà trong cồn cát (1963), Khuôn mặt người khác (1964), Người hộp (1973) Cái Kén Đỏ Chiếc thuyền Nô-Ê Bọn Chiếm Đóng Và một số và kịch. Khuôn mặt người khác là cuốn tiểu thuyết tiêu biểu cho những đặc điểm các tác phẩm của Kōbō Abe. *** Thế là em đã vượt qua được cái mê cung rắc rối mà tìm đến. Tin ở cái kế hoạch mà anh ta gửi cho em, rốt cuộc em đã đến chỗ trú ẩn này. Chân bước rụt rè, em lên cái cầu thang cót két như bàn đạp cỗ đàn ooc-gơ. Căn phòng đây rồi. Nín thở, em gõ cửa, chẳng hiểu sao không có tiếng đáp. Thay cho tiếng đáp, một cô bé nhảy tâng tâng như con meo con chạy tới mở cửa cho em. Em gọi cô bé, toan hỏi xem người ta có nhắn gì cho em không, nhưng cô bé chẳng trả lời gì cả, chỉ mỉm cười và chạy đi. Em cần anh ta, thế là em ngó vào cửa. Nhưng em không thấy anh ta, không thấy một cái gì nhắc nhở đến anh ta, một căn phòng chết, trong đó tinh thần hoang phế đang lượn lờ. Cảnh tượng bức tường mờ đục khiến em giật mình. Em toan đi, tuy cảm thấy mình có lỗi, thì mắt em chợt bắt gặp ba quyển vở nằm trên bàn, bên cạnh là một bức thư. Đến đây em chợt hiểu ra rằng thế là em đã sa vào bẫy. Mặc dù lúc ấy những ý nghĩ hết sức cay đắng giày vò em, nhưng sự cám dỗ không thể nào cưỡng lại được. Hai tay run run, em xé phong bì và bắt đầu đọc thư... Chắc là em tức giận, chắc là em oán trách. Nhưng anh sẽ chịu đựng được cái nhìn của em, cái nhìn đàn hồi như chiếc lò xo kéo căng, và dù thế nào đi nữa anh vẫn cứ muốn em tiếp tục đọc. Anh không có hy vọng gì rằng em sẽ vượt qua được mấy phút đó một cách êm đẹp, và sẽ bước một bước về phía anh. Anh bị anh ta tiêu diệt hay anh ta bị anh tiêu diệt, cách nào chăng nữa thì màn của vở bi kịch những chiếc mặt nạ đã hạ xuống. Anh đã giết anh ta, đồng thời tự nhận mình là kẻ phạm tội và anh muốn thú nhận hết, thú nhận triệt để. Có thể vì em rộng lượng hay ngược lại, anh cũng vẫn cứ muốn em đọc tiếp. Người có quyền xử tử thì có trách nhiệm phải nghe cho hết lời khai của bị cáo. Còn nếu chỉ quay lưng lại với anh, kẻ đang quỳ gối trước em đây, thì liệu em có khỏi bị nghi oan là tòng phạm không? Thôi được, hãy ngồi xuống, cứ coi như em đang ngồi nhà. Nếu không khí trong phòng tù hãm thì mở cửa sổ ra. Ấm chén uống trà, nếu cần em lấy ở bếp. Hễ khi nào em bình tĩnh ngồi xuống thì nơi trú ẩn giấu kín ở cuối mê lộ này sẽ biến thành tòa án. Trong lúc em xem lời khai, để cho phần cuối tấn bi kịch của những chiếc mặt nạ càng có vẻ xác thực hơn, anh sẵn lòng chờ lâu thế nào cũng được, trong lúc chờ đợi, anh vá những chỗ thủng trên tấm màn sân khấu, vả lại, chỉ riêng việc hồi tưởng lại những chuyện đó cũng khiến anh không cảm thấy chán ngán. Vậy thì ta sẽ trở lại sự việc vừa mới xảy ra với anh, ba ngày trước cái thời điểm mà đối với em là “lúc này”: Đêm ấy, gió lẫn với trận mưa dường như có hòa tan mật ong làm cửa sổ rung lên thảm thiết. Suốt ngày anh đổ mồ hôi, thế mà khi mặt trời lặn, anh bỗng muốn sưởi ấm bên ngọn lửa. Các báo viết rằng trời sẽ lạnh trở lại, nhưng ngày đã trở nên dài hơn, chẳng làm sao lẩn tránh được thực tại đó và cứ một cơn mưa tạnh là đã cảm thấy ngay sự hiện diện của mùa hè. Chỉ cần nghĩ đến điều đó là tim anh bắt đầu phập phồng lo lắng. Ở tình trạng hiện nay, anh giống như một vật bằng sáp bất lực trước cái nóng nực. Chỉ cần nghĩ đến mặt trời chói lòa là da anh phồng rộp cả lên. ... Mời các bạn đón đọc Khuôn Mặt Người Khác của tác giả Kobo Abe.
Chết Đi Cho Rồi, Leonard Peacock - Matthew Quick
Trong cuốn tiểu thuyết Chết đi cho rồi, Leonard Peacock, tác giả của Về phía mặt trời kể về một cậu bé tài giỏi, nhưng gặp nhiều vấn đề ở trường và phải sống với một bà mẹ vô tâm chỉ quan tâm tới thời trang. Cậu đi đến quyết định tự sát, và trước khi tự sát, cậu đã tặng những người cậu yêu quý một món quà. Sử dụng biện pháp flashback (kể về những người bạn thân của cậu bé, về người bạn người Iran chơi violon thần sầu, về cô giáo dạy Anh văn và thầy giáo dạy lịch sử) xen lẫn những bức thư gửi từ tương lai (của bản thân cậu bé, của người vợ và con gái tưởng tượng), câu chuyện dần hé lộ về cuộc sống và các mối quan hệ cá nhân của Leonard, qua đó đặt ra những câu hỏi thực tế, mang tính thời sự cao về cả một thế hệ trẻ, về hệ thống giáo dục và về cách người lớn nhìn nhận trẻ con, cũng như những ước mơ vô cùng bình dị. Một cuốn sách khiến người ta nhớ đến Catcher in the Rye, The Perks of Being a Wall Flower và Mysterious Skin. *** Khẩu súng lục P-38 của phát xít Đức từ thời Chiến tranh thế giới thứ hai trông thật kỳ cục gần cái tô ngũ cốc trên bàn. Một sự giao thoa đồ dùng công nghệ nhìn hết sức trật chìa. Nhưng nếu nhìn kỹ vào báng súng thì có thể thấy một cái dấu thập ngoặc nhỏ xíu và con đại bàng đậu trên đỉnh, trông thật vãi. Tôi lấy iPhone chụp một phát cho cái “cặp đôi hoàn hảo” đó, để lưu lại vật chứng kiêm tác phẩm nghệ thuật hiện đại. Đến khi ngó vào màn hình điện thoại, tôi bò lăn ra mà cười, bởi cái “cục” tác phẩm nghệ thuật ấy nhìn gớm không thể tả. Chứ gì nữa, cái tô ngũ cốc và một khẩu P-38 cứ như cái thìa nằm chình ình bên cạnh – một vụ “dàn cảnh” như thế lên khuôn hình trông có vẻ như nghệ thuật sắp đặt hiện đại đấy chứ? Nhảm vãi. Mà cũng nhí nhố ra phết. Hồi đi tham quan mấy bảo tàng nghệ thuật, tôi thấy lắm thứ còn kinh hơn, chẳng hạn như trên tấm toan trắng toát chỉ có mỗi một vạch đỏ bé tí quẹt qua. Có lần tôi đã đốp thẳng vào mặt Herr Silverman về cái bức tranh đó rằng vẽ vời kiểu thế thì tôi cũng làm được. Thế rồi bằng giọng điệu siêu tự tin, thầy vặc lại tôi thế này: “Nhưng mà em có làm đâu.” Phải thừa nhận là cái câu phản pháo đó hơi bị đúng. Biết vậy tôi ngậm quách miệng lại cho rồi. Đây, giờ thì tôi đang sáng tạo nghệ thuật hiện đại trước khi ngủm đây. Biết đâu sau này họ lại chả đặt cái iPhone này vào trong Viện bảo tàng nghệ thuật Philadelphia với bức hình khẩu súng phát xít và tô ngũ cốc vẫn còn trên đó ấy chứ. Họ có thể đặt cho nó một cái tên thật kêu như Bữa điểm tâm của sát thủ choai choai hay mấy cái tên vớ vẩn và gây sốc kiểu kiểu như vậy. Tôi cá là giới nghệ thuật và thông tấn sẽ khoái lắm đây. Họ sẽ khiến cho tác phẩm nghệ thuật hiện đại của tôi đùng một cái mà nổi như cồn. Nhất là sau khi tôi trừ khử xong thằng ôn con Asher Beal và tự khai tử tôi luôn. Giá trị các tác phẩm nghệ thuật lúc nào mà chả tăng vọt khi người ta phát hiện ra người nghệ sĩ đã làm vài việc dở hơi nào đó, chẳng hạn như ông họa sĩ Van Gogh cắt cụt cả tai mình, tác gia Poe thì cưới ngay cô em họ vị thành niên, ca sĩ Manson thì sai thuộc hạ đi ám sát người nổi tiếng, không thì cũng kiểu như ông nhà báo Dr. Thompson đòi người ta phải bỏ tro cốt của mình sau khi tự sát vào trong nòng pháo mà bắn, hoặc đòi mẹ mặc áo váy con gái như nhà văn Hemingway, hay diện nguyên cả bộ đồ làm bằng thịt sống như cô ca sĩ quái chiêu Lady Gaga, nói chung là lắm thứ khó nói xảy ra với một nghệ sĩ tới nỗi mà người này phải giết cả bạn cùng lớp rồi tương luôn một phát súng vào đầu mình như kiểu hôm nay tôi sẽ làm đây. Vụ việc ám sát lẫn tự sát của tôi sẽ khiến cho tác phẩm Bữa điểm tâm của sát thủ choai choai trở thành một kiệt tác vô giá bởi vì ai mà chả thích mấy kiểu nghệ sĩ điên điên lập dị. Anh mà cứ chán chán, xinh xinh, bình bình – giống tôi từng thế - thì anh rớt lớp nghệ thuật là cái chắc và suốt đời chỉ là một nghệ sĩ xoàng xĩnh mà thôi. ... Mời các bạn đón đọc Chết Đi Cho Rồi, Leonard Peacock của tác giả Matthew Quick.
Thanh Gươm Công Lý - Archibald Joseph Cronin
Beyond this place (THANH GƯƠM CÔNG LÝ) kể về hành trình đi tìm công lý của chàng thanh niên Paul Mathry nhằm rửa sạch nỗi oan khuất cho cha mình – Rees Mathry - một người vô tội đã bị kết án chung thân khổ sai tại nhà tù Stoneheath (Ái Nhĩ Lan) vì tội giết người mà ông không hề phạm phải. Trong THANH GƯƠM CÔNG LÝ cái khiến người ta phải ray rứt đó là liệu có nên đẩy một người vô tội - nhưng chẳng có cống hiến gì đặc biệt - vào tù để thế chỗ cho một con người đang tận tâm hiến mình cho việc săn sóc những người nghèo khổ, bệnh tật, dù chính con người tốt đẹp đó mới là kẻ phạm tội? Ray rứt hơn khi chứng kiến những kẻ là đại diện cho luật pháp lại tìm cách kiếm lợi trên những tội lỗi mà họ được giao trách nhiệm xét xử, và sẵn sàng hất bỏ những ai dám nói ngược, lật ngược lại những phán quyết và hành động được coi là đại diện cho công lý của họ. Cái đẹp nhất trong toàn bộ câu chuyện này chính là niềm tin vào công lý thực sự, lòng can đảm của tuổi trẻ và tình yêu của đứa con với người cha, đã khiến chàng trai trẻ Paul Mathry dấn thân vào công việc tưởng chừng như bất khả thi: tìm lại những nhân chứng, vật chứng của một vụ án đã được xếp lại từ 15 năm trước để cứu cha ra khỏi nhà tù. Thời nào cũng vậy, niềm tin và lòng can đảm luôn có sức mạnh lan tỏa kết nối mọi người để công lý thực sự được hiện diện. Câu chuyện khởi đầu từ thành phố Belfast (Ái Nhĩ Lan) nửa đầu thế kỷ 20 này cũng có một sức mạnh như thế. Tiểu thuyết Thanh gươm công lý xuất bản lần đầu tiên năm 1953 là một bản cáo trạng hùng hồn lên án guồng máy tư pháp của nước Anh vào thế kỷ XX. Đó là một bộ máy già nua lỗi thời, được dựng lên từ thời Trung cổ và tồn tại suốt bảy thế kỷ nay. Vì thế, tất nhiên nó mắc phải những sai lầm nghiêm trọng và không còn khả năng làm tròn chức năng đảm bảo công bằng tối thiểu về pháp lý theo kiểu tư sản cho mọi người dân.   Một nhược điểm cơ bản của nó là chế độ bồi thẩm đoàn, theo đó quyền biểu quyết có tội hay không có tội là thuộc về các bồi thẩm. (Đây cũng chính là cái dân chủ, công bằng giả hiệu của luật pháp tư sản). Vấn đề đặt ra là liệu các bồi thẩm có đủ khả năng và sáng suốt để làm nhiệm vụ của mình một cách vô tư và công bằng không? Thực tế cho thấy đa số các bồi thẩm thường thiếu kiến thức sâu sắc về tâm lý, thiếu trình độ hiểu biết về luật pháp, thậm chí thiếu cả khả năng suy luận vô tư. Do đó, phía có quyền buộc tội (công tố viện) dễ dàng gây ảnh hưởng với bồi thẩm đoàn bằng những lý luận thiên lệch hết sức tinh vi nhằm đạt mục đích ích kỷ cá nhân là thăng tiến trên đường công danh, bằng những ngôn từ hoa mỹ chủ tâm khích động nơi các bồi thẩm sự tức giận và lòng căm thù vô cùng bất lợi cho các bị cáo. Vốn coi nhẹ sinh mạng con người hơn quyền lợi riêng tư của mình, phía buộc tội vận dụng đủ mọi phương tiện và mánh khóe để áp đặt ý đồ của mình. Trong những điều kiện như thế, bồi thẩm đoán khó lòng biểu quyết trái ý phía buộc tội là một bản án tử hình cho bị cáo.   Vì thế, người ta không chút ngạc nhiên khi thấy tình trạng công lý bị vo tròn, bóp méo trong tay một số giới chức có thẩm quyền điều tra và buộc tội. Và cũng từ đó phát sinh biết bao bi kịch… *** Archibald Joseph Cronin (19/07/1896 – 06/01/1981) là một tiểu thuyết gia, nhà soạn kịch, tác giả truyện người thật việc thật, nhà văn người Scotland. Ông là một trong những người viết truyện nổi tiếng của thế kỷ XX. Các tác phẩm nổi tiếng của ông là: The Stars Look Down, The Citadel (Thành trì), The Keys of the Kingdom và The Green Years (Những năm ảo mộng). Tất cả các tác phẩm này đều đã được dựng thành phim. Ông cũng dựng nên nhân vật Dr. Finlay, người hùng của một bộ truyện dùng cho phim nhiều tập của đài phát thanh và truyền hình BBC dưới tên Dr. Finlay's Casebook. Trong một phần ba thế kỷ tiếp theo, ông đã sáng tác ngót 20 quyển sách văn học, mà riêng thể loại tiểu thuyết có những tác phẩm sau đây là giá trị hơn cả:  Hatter's Castle -1931 (Lâu Đài Người Bán Nón)  Three Loves - 1932 (Ba Mối Tình)  Grand Canary -1933 (Đảo Hoàng Yến)  The Stars Look Down - 1935 (Dưới ánh các vì sao)  The Citadel - 1937 (Thành trì )  The Keys of the Kingdom - 1942 (Chìa khóa Vương Quốc)  The Green Years - 1944 (Những ngày xanh).  Shannon's Ways -1948 (Số Phận Của Bác Sĩ Shannon)  Grand Canary (Đảo Hoàng Yến)  Beyond this Place -1953 (Thanh Gươm Công Lý)  The Northen Light - 1958 (Ánh sáng Phương Bắc)  Lady with Carnation - 1976 (Cô gái và hòa cẩm chướng) *** Mỗi chiều thứ tư, khi mãn giờ làm việc, mẹ của Paul đều rời Tòa thị sảnh dùng xe lửa điện đến nhà thờ Merrion để dự buổi lễ hàng tuần; đúng năm giờ, Paul đến rước bà sau buổi học triết. Nhưng hôm nay, Paul bận nói chuyện với giáo sư Slade, và khi thấy đã trễ giờ, anh bèn đi thẳng về nhà.   Trời tháng sáu. Chiều xuống rất đẹp trên thành phố Belfast, tô một vẻ hấp dẫn kỳ lạ lên những ngôi nhà u buồn, tường vách nám khói. Dưới khung trời màu hổ phách, đường nét thô kệch của những mái nhà và ống khói trong thành phố lớn Ái Nhĩ Lan biến mất, nhường chỗ cho một vẻ đẹp huyền bí, chỉ tìm thấy trong những giấc mộng huy hoàng.   Paul đi ngược lên đường Larne, một con đường nhỏ yên tĩnh, hai bên có những ngôi nhà gạch xây liền nhau từng đôi một. Nơi đây mẹ con Paul sống trong căn nhà số 29 gồm ba phòng. Paul cảm thấy tim mình rộn lên một niềm vui. Vẻ đẹp của hoàng hôn, niềm tin nơi cuộc sống đầy hứa hẹn làm tâm hồn Paul lâng lâng. Dừng lại trước thềm nhà, chàng tuổi trẻ với đầu trần và bộ y phục bằng nỉ cũ đã sờn, khoan khoái hít một hơi dài, rồi hăng hái mở cửa, nhanh nhẹn bước vào. Từ trong nhà bếp, con chim yến cất tiếng hót mừng. Paul huýt sáo đáp lại, cởi chiếc áo vét-tông ra mắc lên giá, bắc ấm nước lên bếp và chuẩn bị bữa ăn tối. Vài phút sau chiếc đồng hồ treo tường gõ bảy giờ và Paul nghe tiếng chân mẹ bước qua cổng ngoài. Chàng vui vẻ mừng mẹ khi bà vào nhà, dáng người gầy gò trong bộ y phục màu đen u buồn, hơi nghiêng về một bên dưới sức nặng của cái xắc “nhét đủ thứ” mà lúc nào bà cũng mang theo…   - Xin mẹ tha lỗi. Con không đến đón mẹ được. - Paul nở một nụ cười mơn trớn nói với bà. - Giáo sư Slade hứa cho con một chỗ làm. Con có thể tin tưởng nơi ông ta.   Bà Burgess nhướng đôi mắt cận thị nhìn con trai mình rất lâu. Dưới chiếc nón nhỏ đánh sáp bóng, mái tóc bạc lòa xòa làm hiện rõ nét mệt mỏi và nhẫn nại chịu đựng trên gương mặt đã hằn sâu nhiều vết nhăn. Nhưng, trước ánh mắt vui tươi của con, bao vẻ u sầu của bà bỗng tan biến hết. “Đó là một gương mặt trung hậu, có lẽ không được đẹp trai lắm, nhưng cởi mở và thẳng thắn”, bà thầm nghĩ, và cảm tạ Thượng Đế đã tránh cho con mình những tai họa thường đi chung với cái bên ngoài. Paul hơi gầy, hai xương gò má nhô lên quá cao, đôi mắt màu xám tinh anh dưới vầng trán rộng, tóc hớt ngắn. Thân hình liền lạc, vững chắc và có thể nói là khá cân đối nếu một tai nạn trong sân cỏ không làm cho đầu bàn chân phải của anh hơi nghiêng về phía trong một chút. ... Mời các bạn đón đọc Thanh Gươm Công Lý của tác giả Archibald Joseph Cronin.
Tiểu Thuyết Nguyễn Công Hoan - Nguyễn Công Hoan
Nguyễn Công Hoan sinh ngày 6 tháng 3 năm 1903, tại thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, nay là tỉnh Hải Hưng, trong một gia đình Nho học. Chính nơi sinh cũng là quê hương ông. Ông bắt đầu viết văn rất sớm, ngay từ khi còn đương học ở trường Bưởi. Tập truyện ngắn đầu tiên của ông là Kiếp hồng nhan xuất hiện năm 1923, khi ông tròn hai mươi tuổi. Từ đó ông viết nhiều truyện ngắn và truyện dài đăng trên các báo đương thời. Năm 1932 ông bắt đầu được bạn đọc chú ý khi cuốn truyện dài Những cảnh khốn nạn ra đời và nổi tiếng sau khi ra tập Kép Tư Bền (1935). Ông viết văn vừa dạy học cho đến Cách mạng tháng Tám. Do tham gia hoạt động trong phong trào Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học rồi Đảng xã hội Pháp, và bắt liên lạc được với những người cộng sản Đông Dương, ông luôn luôn bị Sở mật thám theo dõi. Hai lần ông bị bắt giữ rồi lại được thả vì không đủ chứng cớ kết tội. Lần cuối cùng, ông bị Nhật bắt giam cho đến ngày khởi nghĩa tháng Tám. *** Tiểu Thuyết Nguyễn Công Hoan gồm có:  Bước Đường Cùng Cô Giáo Minh Lá Ngọc Cành Vàng *** Bước đường cùng đánh dấu đỉnh cao về tư tưởng của nhà văn Nguyễn Công Hoan và là một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam trước Cách mạng. Bản thân Nguyễn Công Hoan từng cho biết: Thời gian ấy (1938), vì có mối quan hệ gần gũi với những anh em chính trị phạm cũ, trong đó có những người cộng sản (ông là công chức duy nhất của chính quyền thực dân dám có mặt trong đám cưới của Phan Đình Khải, tức đồng chí Lê Đức Thọ sau này), nên Nguyễn Công Hoan bị mật thám Pháp theo dõi gắt gao. Rốt cục, dù không hề mắc mớ gì trong quá trình dạy học, ông vẫn bị thuyên chuyển từ một trường ở Nam Định lên một trường ở Trà Cổ (Móng Cái, Quảng Ninh), việc bấy giờ bị coi như một sự "đày ải". Nguyễn Công Hoan rất bức xúc. Ông phản ứng: "Mày đã khỏe đổ cho ông là cộng sản, thì ông cộng sản cho mày xem". Vậy là ông viết tiểu thuyết "Bước đường cùng".   Viết "Bước đường cùng", tác giả đã lường trước hậu quả là sách sẽ bị cấm. Thậm chí, người viết còn bị truy tố. Nhưng ông không sợ. Ông nghĩ, nếu bị nặng lắm thì ông cũng chỉ lãnh án từ một tới năm năm tù. Khi trở về, ông sẽ lại viết văn.   Nguyễn Công Hoan đã viết cuốn sách trong tâm trạng "viết ngày viết đêm, viết cho chóng xong để còn đi chơi nhiều nơi, trước khi ra "an trí" tại Trà Cổ". Ông kể: "Vừa nghĩ, vừa viết, vừa sửa, tôi đã hoàn thành cuốn truyện trong 16 hôm (1/16 tháng 7 năm 1938). Vì đã ngồi trước cái bàn cao quá tầm tay liền trong nửa tháng để viết, nên phải dùng nhiều gân sức, tôi đã bị sái bả vai bên phải đến ba năm. Mấy năm nay, vì tuổi cao, sức yếu, đến mùa rét, hoặc gặp thời tiết ẩm thấp, bệnh ấy lại trở thành tật".   Mời các bạn đón đọc Tiểu Thuyết Nguyễn Công Hoan của tác giả Nguyễn Công Hoan.