Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phúc Lạc Hội

Bàn Mạt chược bốn cạnh. Bốn người phụ nữ Trung Hoa di cư trên đất Mỹ. Bốn cô con gái Trung Hoa thế hệ Hai. Mười sáu câu chuyện chồng chéo. Quá khứ là thế giới huyền ảo của Trung Hoa cổ kính, là chế độ đa thê, là chiến tranh Trung Nhật. Hiện tại là những rắc rối đời thường, những khỏang cách thế hệ, những phiền phức của cuộc sống thực dụng kiểu Mỹ. Để bớt nỗi nhớ quê hương và sự lạc lõng ở xứ người, bốn người phụ nữ Trung Hoa đã mượn bàn Mạt chược để lập Joy Luck Club. Trong những ván mạt chược và những bữa ăn họp mặt, họ đã kể cho nhau nghe về quá khứ và hiện tại trong cuộc sống gia đình. Và như bao cô gái thế hệ Hai trên nước Mỹ, các cô luôn va chạm với Mẹ, nhưng rồi nhờ kinh nghiệm sống của Mẹ, các cô đã vượt qua khó khăn của cuộc sống.. Amy Tan đã diễn tả tài tình cuộc sống và tâm tình của 2 thế hệ người Trung Hoa di cư thông qua 16 câu chuyện của từng người, từ cuộc sống đại gia đình của người Trung Hoa xưa, nỗi sợ hãi của chiến tranh, sự lạc lõng ở xứ người… *** AMY TAN sinh ở OAKLAND, CALIFORNIA vào năm 1952, hai năm rưỡi sau khi cha mẹ có nhập cư vào nước Mỹ. Mặc dù cha mẹ cô mong mỏi cô sẽ theo nghề bác sĩ giải phẫu thần kinh kiêm nghệ sĩ dương cầm nghiệp dư, cô lại trở nên bác sĩ tư vấn cho trẻ em tàn tật, và đồng thời là nhà văn tự do. Cô viếng quê hương Trung Hoa lần đầu tiên năm 1987 và thấy đúng như mẹ cô đã nói: “Ngay khi chân tôi chạm đất Trung Hoa, tôi lập tức trở thành người Trung Hoa”.   AMY TAN hiện sống cùng chồng tại San Francisco.   PHÚC LẠC HỘI là tác phẩm đầu tay của cô. Amy Tan (Tần Ái Mỹ) thuộc thế hệ nhà văn gốc Hoa đầu tiên thành công trên văn đàn Mỹ. Bà sinh năm 1952 tại California và thường viết về những gian nan mà phụ nữ người Hoa đã gặp ở quê nhà cũng như cuộc sống khó khăn mà con gái của họ gặp trên đất Mỹ. Bà thành công ngay với những tác phẩm đầu tiên, như The Joy Luck Club ('Phúc Lạc Hội', 1989; dựng thành phim năm 1991; bản dịch Việt ngữ đăng dưới đây), và The Kitchen God’s Wife ('Phu nhân Táo quân', 1991;), cả hai đều mang tính tự truyện. Sau đó bà còn viết The Hundred Secret Senses ('Trăm niềm ẩn thức', 1995) và The Bonesetter’s Daughter ('Con gái thầy lang ', 2000) và hai truyện thiếu nhi: The Moon Lady ('Chị Hằng', 1992) và The Chinese Siamese Cat ('Mèo xiêm Trung Quốc', 1994). Tác phẩm của bà đã được dịch nhiều ở Việt Nam.  *** Bà lão nhớ lại chuyện con thiên nga mà bà mua hồi xa xưa ở Thượng Hải bằng một số tiền điên rồ. Con chim này, theo lời khoe của người bán ở chợ, trước kia là một chú vịt đã cố rướn cổ dài ra, hy vọng trở thành thiên nga, và bây giờ, nhìn kìa - nó đẹp đẽ quá, làm sao mà mà nỡ ăn thịt nó!   Rồi bà và con thiên nga đã vượt qua hàng dặm biển, cố vươn về phía nước Mỹ. Trên cuộc hành trình, bà thủ thỉ với con thiên nga “Ở Mỹ, ta sẽ có một đứa con gái giống như mi. Nhưng ở đó sẽ không ai cho rằng giá trị của con ta được tính bằng mức ăn to nói lớn của chồng nó. Ở đó sẽ không ai khinh dễ nó, bởi vì ta sẽ bắt nó nói tiếng Anh đặc giọng Mỹ. Và ở đó nó sẽ quá no đủ không còn nuốt được một nỗi buồn nào! Nó sẽ biết ta muốn nói gì, bởi vì ra sẽ cho nó con thiên nga này - một tạo vật; tốt hơn hẳn những điều người ta mong mỏi.”   Nhưng khi bà đến đất nước mới, các nhân viên nhập cư đã giật con thiên nga ra khỏi tay bà, để lại trên đôi tay chới với của bà độc nhất một chiếc lông chim làm kỷ niệm. Và rồi bà phải điền vào quá nhiều biểu mẫu đơn từ đến nỗi bà quên mất vì sao bà đến đây và những gì bà để lại phía sau.   Giờ thì bà đã già. Và bà có một cô con gái lớn lên chỉ nói toàn tiếng Anh và uống Coca-Cola nhiều hơn là nuốt đi nỗi buồn. Từ lâu, bà muốn trao cho cô ta chiếc lông chim duy nhất đó và bảo cô “Chiếc lông chim này trông có vẻ vô giá trị, nhưng nó đã từ xa đến đây và chất chứa tất cả thiện ý của mẹ”. Bà đã chờ đợi, năm này qua năm khác, chờ đến ngày bà có thể kể cho con gái nghe điều này bằng tiếng Anh, đặc giọng Mỹ.  *** Ba tôi bảo tôi giữ chân thứ tư trong PHÚC LẠC HỘI. Tôi sẽ thế chỗ mẹ tôi. Từ khi bà chết, chỗ của bà ở bàn mạt chược bỏ trống đã hai tháng nay. Ba tôi cho rằng chính những suy nghĩ của mẹ tôi đã giết chết bà.   Ông nói:   “Mẹ con có một ý mới trong đầu. Trước khi mẹ con có thể nói ra, ý nghĩ đó đã phát triển quá lớn và vỡ tung, chắc hẳn đó là một ý nghĩ chẳng hay ho tí nào.”   Bác sĩ nói mẹ tôi chết bởi chứng phình mạch não. Và những người bạn của mẹ tôi ở PHÚC LẠC HỘI nói bà chết y như một con thỏ: chết một cách nhanh chóng và để lại công việc còn đang dở. Kỳ họp mặt tới của PHÚC LẠC HỘI là tới phiên mẹ tôi đãi đằng.   Trước khi chết một tuần, bà gọi tôi, đầy tự hào và sức sống, bà nói: “Dì Linh nấu chè đậu đỏ. Mẹ sẽ nấu chè chế mè phủ”.   “Thôi đừng phô trương, mẹ ơi”.   “Không phải là phô trương” - bà nói, hai loại chè gần giống nhau, chabudwo. Hoặc là bà có thể nói butong, chẳng giống nhau tí nào hết. Ðây là một trong những cách nói của người Hoa có nghĩa là phần tốt hơn của những ý nghĩ lẫn lộn. Tôi không thể nào nhớ được những gì mà từ thoạt đâu tôi đã không hiểu.   Mẹ tôi bắt đầu có ý tưởng lập PHÚC LẠC HỘI ở San Francisco vào năm 1949, trước khi sinh tôi hai năm. Ðó là năm cha mẹ tôi chạy khỏi Trung Quốc chỉ mang theo một chiếc giỏ bằng da cứng chứa đầy những áo dài lụa lạ kỳ. “Không có thời giờ xếp những thứ khác”, mẹ tôi đã giải thích như thế với cha tôi. Sau khi hai người lên tàu. Tuy nhiên, cha tôi vẫn điên cuồng bới tay giữa những tấm lụa trơn để tìm những chiếc áo vải và quần len của mình.   Khi đến San Francisco, cha tôi bắt mẹ tôi giấu mớ quần áo bóng bẩy này. Mẹ tôi mặc mỗi chiếc áo xẩm carô nâu đến khi Hội Cứu Tế Người Tị Nạn bố thí cho bà hai chiếc áo cũ, cả hai đều lớn quá cỡ ngay cả cho phụ nữ Mỹ. Hội Cứu Tế bao gồm một nhóm nữ truyền giáo đã lớn tuổi ở nhà thờ rửa tội cho người Trung Hoa đầu tiên. Và vì đã nhận quà, cha mẹ tôi không thể từ chối mời lời gia nhập giáo phái của họ. Hơn nữa, cha mẹ tôi không thể bỏ qua lời khuyên rất thiết thực của những phụ nữ lớn tuổi này. Cha mẹ tôi có thể học thêm tiếng Anh ở lớp học kinh thánh vào tối thứ tư hàng tuần và sau này, hát hợp xướng mỗi sáng thứ Bảy hàng tuần. Ðó là lý do mẹ tôi gặp gia đình họ Tô, họ Chung và họ St. Clair. Mẹ tôi có cảm giác là những người đàn bà trong những gia đình này cũng đã trải qua những nỗi khổ không tả xiết bên Trung Hoa và có những hy vọng họ không thể nào diễn tả được bằng tiếng Anh ít ỏi của mình. Hay ít nhất, mẹ tôi nhận ra được vẻ chết lặng trên khuôn mặt những người đàn bà này. Và bà thấy họ mừng rỡ thế nào khi bà đề xuất ý kiến lập PHÚC LẠC HỘI.   PHÚC LẠC là ý nghĩ mẹ tôi nhớ được từ thời bà mới lấy chồng lần đầu ở Quế Lâm, trước khi bọn Nhật tới. Do đó, tôi nghĩ tới PHÚC LẠC như câu chuyện Quế Lâm của bà. Đó là câu chuyện bà thường kể cho tôi nghe mỗi khi bà buồn, mỗi khi không có chuyện gì làm, mỗi khi rửa chén và lau bàn xong, mỗi khi cha tôi đọc báo, hút hết điếu Pall Mall này tới điếu Pall Mall khác, đó là dấu hiệu không được quấy rầy ông. Những lúc đó, mẹ tôi lấy ra cái hộp đựng áo len trượt tuyết cũ do họ hàng chẳng bao giờ gặp bên Vancouver gởi qua. Bà thường cất lại một chiếc áo len, kéo ra một sợi chỉ quăn và đặt sợi chỉ lên một miếng bìa cứng. Và khi bà bắt đầu quấn chỉ nhanh nhẹn, nhịp nhàng, bà bắt đầu kể chuyện. Mười mấy năm ròng rã, bà chỉ kể cho tôi nghe một câu chuyện duy nhất, trừ phần kết thúc câu chuyện ngày càng đen tối hơn, ám ảnh đời bà dai dẳng và cuối cùng, ám ảnh cả đời tôi.   “Ta mơ thấy Quế Lâm ngay cả trước khi ta thấy tận mắt”, mẹ tôi bắt đầu kể bằng tiếng Hoa - “Ta mơ thấy những đỉnh núi lởm chởm chạy dài theo một con sông uốn khúc, hai bên bờ phủ rêu xanh rờn. Sương mù trắng lơ lững trên những đỉnh núi. Và nếu như ta thả mình theo dòng nước và lấy rêu làm thức ăn, ta sẽ có đủ sức leo lên tới đỉnh núi. Nếu như không may ta trượt té, ta chỉ ngã vào một thảm rêu êm như nhung và cười lớn. Nhưng một khi ta lên được tới đỉnh, ta có thể nhìn khắp xung quanh và cảm thấy một niềm hạnh phúc vô biên để cả đời không bao giờ cảm thấy lo lắng nữa.”   Bên Trung Quốc, mọi người đều mơ về Quế Lâm. Khi ta tới đó, ta mới nhận thấy giấc mơ của ta mới tồi tàn và ý nghĩ của ta mới nghèo nàn làm sao. Khi ta thấy những ngọn đồi, ta vừa cười vừa rùng mình. Những đỉnh núi trông như những đầu cá chiên khổng lồ cố nhảy ra khỏi thùng dầu. Phía sau mỗi ngọn đồi, ta có thể nhìn thấy bóng của một con cá khác, rồi một con khác nữa. Và khi những đám mây chỉ lay động một chút thôi thì bỗng nhiên những ngọn đồi biến thành một đàn voi kỳ quái đang chậm rãi tiến về phía ta. Con có thể tưởng tượng được không? Và ở chân đồi là những hang động bí mật. Bên trong có những tảng đá treo có hình dáng và màu sắc như cải bắp, dưa tây, củ cải, củ hành. Con sẽ chẳng bao giờ có thể tưởng tượng được những tảng đá này kỳ lạ và đẹp đẽ đến dường nào.   Nhưng ta không đến Quế Lâm để ngắm cảnh đẹp.   Người đàn ông đã từng là chồng ta mang ta và hai con đến QUẾ LÂM vì ông nghĩ rằng chúng ta sẽ an toàn ở đó. Ông là một sĩ quan trong quân đội Quốc Dân Ðảng, và sau khi ông an vị chúng ta trong một căn phòng nhỏ ở một căn nhà hai tầng, ông lại ra đi về hướng Tây - Bắc, đến Trùng Khánh.   Chúng ta biết là bọn Nhật đang thắng thế, ngay cả khi báo chí nói không phải vậy. Mỗi ngày, mỗi giờ, hàng ngàn người đổ về thành phố, chen chúc trên vỉa hè, cố tìm chỗ sinh sống. Nghèo có, giàu có, người Thượng Hải có, người Quảng Ðông có, người từ phía Bắc có, và không chỉ người Hoa, mà có cả người ngoại quốc và những vị truyền giáo của đủ thứ tôn giáo. Và dĩ nhiên là có cả Quốc Dân Đảng và những sĩ quan trong quân đội, những người này nghĩ là họ phải hơn hẳn những người khác.   Chúng ta là một đám người ô hợp bị bỏ lại phía sau. Giả sử không có bọn Nhật, chắc hẳn sẽ có rất nhiều lý do để những người này đánh nhau. Con có hiểu không? Người Thượng Hải với nông dân vùng biển phía Bắc, thợ rẫy với thợ hớt tóc, phu kéo xe với người tị nạn từ Miến Ðiện. Người này khinh người kia. Chẳng ai để ý là mọi người đều ở chung trên một vỉa hè để khạc nhổ, đều cùng bị dịch tả hoành hành. Ai cũng hôi hám, nhưng người này cứ than phiền người kia hôi nhất. Còn ta? Ta chúa ghét bọn sĩ quan không quân Mỹ cứ suốt ngày bô bô habba - habba, làm ta phải đỏ mặt. Nhưng tệ nhất là bọn nông dân miền Bắc hỉ mũi vào tay, chen lấn với người khác và cuối cùng lây bệnh cho người khác.   Do đó, Quế Lâm mất hết vẻ thơ mộng đối với ta. Ta không còn leo lên đỉnh núi để thốt lên rằng những ngọn đồi này mới đáng yêu làm sao! Ta chỉ tự hỏi, bọn Nhật đã đến được những ngọn đồi nào. Ta thường ngồi chờ trong bóng tối của căn nhà, hai tay ẵm hai con, sẵn sàng chạy. Khi còi báo động có máy bay rít lên ta và mấy người bên cạnh đứng bật dậy và hối hả chạy về phía hàng sau để trốn như thú rừng. Nhưng con không thể ở lâu trong bóng tối. Cái gì đó trong con mờ dần và con như trở thành một người chết đói, thèm khát ánh sáng đến điên cuồng. Bên ngoài, ta có thể nghe thấy tiếng bom. Bùm! Bùm! Và rồi tiếng đá rơi như mưa. Và bên trong, ta chẳng còn thèm khát những tảng đá có hình bắp cải hay củ cải. Ta chỉ có thể thấy lòng một ngọn đồi cổ xưa nhỏ nước, lúc nào cũng có thể đổ sập lên đầu ta. Con có thể tưởng tượng được như thế này không, không muốn ở bên trong, cũng không muốn ở bên ngoài, không muốn ở đâu cả, chỉ muốn biến đi.   Khi tiếng ném bom chỉ còn ở xa xe, chúng ta lại chui ra như những con mèo con tìm đường về thành phố. Và lúc nào cũng vậy, ta rất ngạc nhiên khi thấy những ngọn đồi trên nền trời nóng bỏng đã không bị xé toạc ra.   Ta đã nghĩ ra PHÚC LẠC HỘI vào một tối mùa hè nóng đến nỗi muỗi cũng rơi xuống đất, cái nóng ẩm ướt làm cho cánh chúng quá nặng. Khắp nơi đều đông đúc đến nỗi không thể hít thở không khí trong lành. Mùi cống rãnh không chịu nổi dâng lên cửa sổ lầu hai của ta, và không biết đi đâu, chúng bèn chui vào mũi ta. Suốt cả ngày đêm, ta luôn nghe những tiếng hét la. Ta không biết có phải đó là tiếng một người nông dân gào rát cổ tìm heo đi lạc hay tiếng người sĩ quan đánh đập một người nông dân gần chết vì nằm giữa đường đi của hắn trên vỉa hè. Ta không đi đến cửa sổ để tìm xe. Ích gì? Và đó là lúc ta nghĩ mình đâu phải có người giúp đỡ mới di chuyển nổi.   Ta có ý định tụ tập một nhóm bốn phụ nữ, mỗi người giữ một tay ở bàn mạt chược của ta. Ta biết mình muốn mời những người nào. Họ đều còn trẻ như ta, gương mặt đầy khát vọng. Một người là vợ sĩ quan quân đội, giống như ta. Một người là một cô gái dáng điệu rất thanh lịch, xuất thân từ một gia đình giàu có ở Thượng Hải. Cô đã trốn đi, mang theo chỉ một ít tiền bạc. Còn một cô nữa, từ Nam Kinh tới, có mái tóc đen nhánh, ta chưa từng thấy bao giờ. Cô này xuất thân từ một gia đình cấp thấp, nhưng xinh đẹp và vui vẻ. Cô lấy một ông chồng già, sau ông chết để cô ở lại với một cuộc sống khá hơn.   Cứ mỗi tuần, một người trong nhóm của ta mời bạn bè họp lại để có dịp phát tài và cũng để phấn chấn tinh thần. Người chủ nhà phải đãi thức ăn đặc biệt, ngõ hầu mang lại may mắn khắp mọi mặt: Bánh bao mang hình nén bạc, bún gạo cọng dài chúc sống lâu, đậu phộng nấu mong sinh con trai, và dĩ nhiên còn có thêm nhiều cam để cuộc sống được đầy đủ, ngọt ngào.   Với khả năng đạm bạc mà bọn ta đãi đằng nhau tươm tất đến thế đấy! Bọn ta không để ý rằng bánh bao được nhồi nhân bí, xắt dày, và cam thì lốm đốm đầy những lỗ có sâu. Bọn ta ăn dè xẻn, không phải vì dường như không có đủ thức ăn, nhưng để có thể phân trần vì sao không cắn thêm được miếng nữa, bọn ta phải tự nhồi đầy bụng từ sáng sớm. Bọn ta biết mình có được những thứ xa xỉ mà ít người đạt tới. Bọn ta là những người may mắn.   Mời các bạn đón đọc Phúc Lạc Hội của tác giả Amy Tan.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đi Tìm Bà Ngoại & Chuyện Kể Của Chú Ngựa Đen - Walter Macken
Các bạn nhỏ thân mến! "Đi tìm bà ngoại" là một câu chuyện hấp dẫn về hai người bạn nhỏ ở nước Ai-len, người bạn trai tên là Fin và em gái cậu ấy là Đơ-vơn. Hai bạn nhỏ ấy bố mẹ qua đời, phải sống với bố dượng là ông Tâu-bi. Ông thường ngược đãi hai bạn và hay đánh đập Fin. Hai bạn sống với ông ta rất khổ. Một hôm, Fin và Đơ-vơn trốn khỏi nhà, vì muốn tìm đến bà ngoại đang sống ở một nơi nào đó trên đất Ai-len. Fin và Đơ-vơn đi khắp cả Ai-len từ Tây sang Đông. Chúng gặp nhiều người tốt giúp chúng rất tận tình. Fin là một cậu bé rất dũng cảm, đã vượt qua mọi khó khăn, vất vả mà cậu gặp trên đường đi, để cuối cùng tìm được bà ngoại. Cuộc hành trình của Fin và Đơ - vơn trong cuốn tiểu thuyết “Đi tìm bà ngoại” là cuộc hành trình đong đầy tình yêu thương, sự cảm thông và bao dung của một cậu bé mới mười hai tuổi, đặc biệt hơn nữa là tình cảm dành cho em gái mình.  Với cốt truyện đơn giản nhưng không kém phần hấp dẫn, thú vị, nêu bật tình cảm gia đình, tình anh em, “Đi tìm bà ngoại” của Walter Macken được nhiều người dành tặng cho các em thiếu nhi vào dịp hè và là cuốn sách bạn nhất định không thể bỏ qua. Mời các bạn đón đọc Đi Tìm Bà Ngoại & Chuyện Kể Của Chú Ngựa Đen của tác giả Walter Macken.
Ngàn Mặt Trời Rực Rỡ - Khaled Hosseini
Bốn thập kỷ biến động và ly tán ở Afghanistan, một lối dẫn dắt chân thực bậc thầy, câu chuyện về những số phận bị vùi dập nhưng đầy ám ảnh. Với Ngàn mặt trời rực rỡ, Khaled Hossini đã chứng minh thành công của Người đua diều không phải điều ngẫu nhiên. Mariam và Laila, hai người phụ nữ, hai tuổi thơ trái ngược nhau, những biến cố khốc liệt khiến họ phải gặp nhau. Một là cô bé con rơi mà cha mình không thể công nhận, một là cô gái thượng lưu sống trong nhung lụa, cả hai cùng trở thành vợ một người đàn ông, cố gắng sinh con cho anh ta, cùng bị đánh đập tàn nhẫn. Một người vợ đã giết chết người chồng chung đó. Còn một người phải rời đất nước ra đi với người yêu và những đứa con. Số phận họ đã hòa quyện vào nhau trong thân phận đau thương, bền bỉ của người phụ nữ Afganistan trước nền chính trị hỗn loạn và tôn giáo hà khắc, làm nên một trường ca tiểu thuyết vô cùng cảm động. Tạp chí Times xếp Ngàn mặt trời rực rỡ ở vị trí thứ 3 trong 10 tiểu thuyết xuất sắc nhất thế giới năm 2007. Khaled Hosseini sinh năm 1965 ở Kabul, Afghanistan. Gia đình ông chuyển đến Paris, Pháp năm1976, sau đó định cư ở California, Hoa Kỳ. Tại đây, ông lấy bằng cử nhân Sinh học năm 1988 và bằng Bác sĩ Y khoa năm 1993. Năm 2003, Hosseini giới thiệu tiểu thuyết đầu tay Người đua diều - tác phẩm bán chạy nhất thế giới và được xuất bản ở 48 quốc gia. Năm 2007, nhà văn ra mắt cuốn tiểu thuyết thứ hai với tựa đề Ngàn mặt trời rực rỡ, cho đến nay nó đã được xuất bản ở 40 nước. Hiện Hosseini đang sống ở miền Bắc California và tiến hành các hoạt động trợ giúp nhân đạo choAfghanistan thông qua Quỹ Khaled Hosseini. *** Khaled Hosseini, là một tiểu thuyết gia và dược sĩ người Hoa Kỳ.[2][3] Tên tuổi ông trở nên nổi tiếng nhờ hai cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình, Người đua diều (2003) và Ngàn mặt trời rực rỡ (2007) bán được 38 triệu bản trên toàn thế giới. Ngoài ra, Người đua diều đã được chuyển thể thành bộ phim cùng tên năm 2007. Năm 2003, Hosseini cho ra mắt cuốn tiểu thuyết đầu tay tên The Kite Runner (nghĩa là: Người đua diều). Cuốn sách là câu chuyện về cậu bé Amir vật lộn để có hàn gắn quan hệ với cha mình và vượt qua nỗi ám ảnh về một sự việc thời thơ ấu. Bối cảnh truyện đặt ở Afghanistan, từ lúc chính quyền Taliban rệu rã đến khi sụp đổ hoàn toàn, và khu vực vịnh San Francisco mà cụ thể là Fremont, California. Trong các chủ đề được nói tới, bao gồm căng thẳng sắc tộc giữa người Hazara và người Pashtun ở Afghanistan, và những trải nghiệm di cư của hai cha con Amir đến Mỹ. Theo thông tin của Nielsen Bookscan, Người đua diều xếp thứ ba trong số những cuốn sách bán chạy nhất tại Mỹ năm 2005. Phiên bản sách nói của cuốn sách được đọc bởi chính tác giả. Tháng 12 năm 2007, bộ phim cùng tên dựa trên cuốn tiểu thuyết được công chiếu. Hosseini có một vai nhỏ khúc gần cuối phim - một người lạ đứng ngoài nhìn Amir mua con diều để sau đó thả với Sohrab. Năm 2008, cuốn sách được chuyển ngữ tiếng Việt và được tái bản năm 2013 xuất bản bởi Nhã Nam và nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Tiểu thuyết thứ hai của ông A Thousand Spendid Suns (tạm dịch: Ngàn mặt trời rực rỡ) được phát hành vào năm 2007, cũng lấy bối cảnh tại Afghanistan. Truyện theo dõi sự giao thoa giữa hai số phận của hai người phụ nữ cách nhau một thế hệ, Mariam và Laila. Thời gian trong tiểu thuyết từ lúc Afghanistan chịu sự chiếm đóng của Xô Viết, đến những năm dưới ách Taliban và hậu Taliban. Nhà sản xuất Scott Rudin và hãng Columbia Pictures đã mua quyền chuyển thể cuốn sách thành phim.[8] Năm 2010, tiểu thuyết được dịch sang tiếng Việt và xuất bản bởi Nhã Nam và nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Các tác phẩm được dịch, xuất bản tại Việt Nam: Người Đua Diều Ngàn Mặt Trời Rực Rỡ Và Rồi Núi Vọng ... Mời các bạn đón đọc Ngàn Mặt Trời Rực Rỡ của tác giả Khaled Hosseini.
Chuyện của Ju và Ki - Kio
“ Chuyện của Ju và Ki” xoay quanh hai nhân vật Ju và Ki. Có thể bạn sẽ gặp một chàng trai tên Ju đa tài, mạnh mẽ và giàu tình cảm. Cũng có thể bạn sẽ gặp Ju – một chàng trai lạnh lùng với trái tim ấm áp. Một Ju bất cần. Một Ju trầm lặng. Bạn cũng sẽ gặp một cô gái tên Ki, cá tính và mạnh mẽ. Cũng có thể là một Ki từng tổn thương và không muốn mở cửa trái tim thêm lần não nữa. Hay là Ki – một cô gái hay cười và tràn đầy năng lượng. Mỗi trang truyện dần hé mở những trải nghiệm và những cá tính khác nhau của Ju và Ki. Nhưng có điều chắc chắn rằng, bạn sẽ yêu họ. và khi đến trang sách cuối cùng, bạn có một chút tiếc nuối, mong gặp họ thêm lần nữa. Mời các bạn đón đọc Chuyện của Ju và Ki của tác giả Kio.
Dưới Bóng Những Cô Gái Tuổi Hoa - Marcel Proust
Dưới bóng những cô gái đương hoa (À l'ombre des jeunes filles en fleurs) dày gần 600 trang do Dương Tường dịch. Đây là một cố gắng lớn, vì Đi tìm thời gian đã mất nổi tiếng là một bộ sách khó chuyển ngữ. Năm 2013, tập một của bộ sách - Bên phía nhà Swann - xuất bản tiếng Việt. Nhân đây, đơn vị thực hiện công bố dự án dịch tác phẩm. Do tính chất phức tạp, đồ sộ trong tác phẩm của Proust, nên các dịch giả tiếng Pháp được tập hợp trong một dự án chuyển ngữ bộ Đi tìm thời gian đã mất. Nhóm dịch giả này bao gồm những cây đa cây đề trong lĩnh vực văn học Pháp như Đặng Thị Hạnh, Lê Hồng Sâm, Dương Tường, Đặng Anh Đào, cùng các dịch giả trẻ khác. Nếu như Bên phía nhà Swann cần sự chung tay của bốn dịch giả để chuyển ngữ, thì Dưới bóng những cô gái đương hoa là sự làm việc miệt mài của riêng dịch giả Dương Tường. Trước đây, từng có một bản dịch tập 2 bộ Đi tìm thời gian đã mất được xuất bản (với tên Dưới bóng những cô gái tuổi hoa) của Nguyễn Trọng Định. Nhưng khi thực hiện dịch trọn vẹn bộ tiểu thuyết, đơn vị phát hành đã chọn bản dịch mới của Dương Tường.  Dưới bóng những cô gái đương hoa vốn là một phần không thể tách rời của Bên phía nhà Swann. Khi mới ra đời, tập sách từng bị nhà xuất bản Grasset từ chối để cùng tập Bên phía nhà Swann. Ba năm sau đó, nhà xuất bản Gallimard cho in riêng tác phẩm. Ngay lập tức, tác phẩm dành giải Goncourt năm 1919, đưa Marcel Proust lên hàng những nhà văn nổi tiếng nhất nước Pháp.  Với những suy ngẫm miên man giàu chất thơ về triết học, nghệ thuật, những phân tích nhạy cảm, tinh tế về tâm lý, hay những suy tư mới mẻ về thời gian cùng một nghệ thuật kể chuyện bậc thầy, sau hơn 100 năm, Dưới bóng những cô gái đương hoa là niềm ngưỡng mộ, niềm kiêu hãnh của văn chương Pháp. Đi tìm thời gian đã mất là bộ tiểu thuyết gồm bảy tập của nhà văn Pháp Marcel Proust, được viết từ 1908-1909 đến 1922 và xuất bản từ 1913 đến 1927, trong đó ba tập cuối chỉ được xuất bản sau khi tác giả qua đời. Tiểu thuyết được xếp là một trong 10 cuốn tiểu thuyết được thanh niên Pháp ưa thích nhất trong thế kỷ 20. Tạp chí Time cũng bình chọn Đi tìm thời gian đã mất thuộc top mười cuốn sách vỹ đại nhất mọi thời đại. Nội dung tiểu thuyết Đi tìm thời gian đã mất có dấu ấn tự truyện với nhân vật chính là người kể chuyện ở ngôi thứ nhất xưng "tôi". Nhân vật "tôi" kể chuyện mình từ ngày còn nhỏ, với những ước mơ, dằn vặt, mối tình với Gilberte - con gái nhà Swann; với Albertine - một trong "những cô gái tuổi hoa", mối tình thơ mộng và đau xót làm cho nhân vật quằn quại. Tác phẩm cũng dựng nên những thiên đường tuổi ấu thơ; một xã hội thượng lưu giả dối... Cuối cùng "thời gian lại tìm thấy", người kể chuyện tìm ra lẽ sống của mình là cống hiến cuộc đời cho nghệ thuật. Tất cả những hoạt động xã hội chỉ là "thời gian đã mất" và người kể chuyện biến cái thời gian đã mất ấy thành một hành động sáng tạo nghệ thuật. *** Có nhiều dấu hiệu làm người ta nhận biết mình đang yêu: chẳng hạn, lời tôi căn dặn khách sạn không đánh thức mình vì bất kỳ cuộc viếng thăm nào, trừ phi của một trong số các cô gái, hoặc nhịp đập con tim tôi trong lúc chờ đợi họ (bất luận là cô gái nào sẽ tới), hoặc nữa cơn giận dữ đến muốn phát điên lên nếu những hôm ấy không tìm được một bác thợ cạo để cạo râu và phải xuất hiện xấu xí trước mặt Albertine, Rosemonde hay Andrée; chắc hẳn trạng thái ấy - lần lượt xuất hiện khi vì cô gái này, lúc vì cô gái khác - khác với cái mà chúng ta mệnh danh là tình yêu, cũng như cuộc sống con người khác với đời sống loài động - thực vật mà sự tồn tại và tính cá thể - nếu có thể nói như vậy - được phân bố giữa các cơ quan khác nhau. Nhưng sinh vật học cho biết có thể quan sát một cơ cấu động vật như vậy; và cuộc sống của bản thân con người, miễn nó đã ít nhiều tiến triển, cũng khẳng định sự tồn tại những trạng thái trước kia chúng ta không ngờ nhưng chúng ta phải trải qua, dù sau đó loại trừ chúng: trạng thái tình yêu của tôi lần lượt được chia sẻ giữa các cô gái cũng như vậy. Chia sẻ hay nói đúng hơn là không thể phân chia, vì hy vọng và niềm vui say mê nhất trong lòng tôi lúc này chính là toàn thể nhóm nhỏ các cô gái trong những buổi chiều lộng gió trên thảm cỏ, với những gương mặt xiết bao khêu gợi của Albertine, của Rosemonde, của Andrée, trong lúc tôi không thể nói gương mặt nào khiến những nơi chốn này trở nên quý giá đối với mình hơn hết, gương mặt nào mình muốn yêu thương hơn hết. Vả lại, trước mặt họ, thói quen chưa đến nỗi làm tôi nhàm chán, nên tôi vẫn có khả năng “trông thấy” họ, tôi muốn nói là khả năng cảm thấy một sự ngạc nhiên sâu xa mỗi khi gặp lại họ…” Là tập hai của bộ tiểu thuyết Đi tìm thời gian đã mất - bộ tiểu thuyết kinh điển mở đầu cho nền tiểu thuyết hiện đại thế kỷ XX, đề cập đến những bàn luận sâu rộng không ngớt và đậm chất thơ về cảm xúc nhân vật, trăn trở tâm hồn, hồi ức tình cảm, những phân tích, những băn khoăn nghệ thuật và triết học và những khái niệm mới mẻ, sáng tạo về tời gian, Dưới bóng những cô gái tuổi hoa đã được trao giải Goncourt 1919 - và từ lâu đã được coi là danh tác văn học, niềm kiêu hãnh của văn chương Pháp. Trọn bộ Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust: - Bên phía nhà Swann - Dưới bóng những cô gái đương hoa - Về phía nhà Guermantes - Sodome và Gomorrhe - Cô gái bị cầm tù - Albertine biến mất - Thời gian tìm lại được *** Marcel Proust sinh ngày 10 tháng Bảy năm 1871 tại khu phố Auteuil, nay thuộc quận XVI, Paris. Cha ông là bác sĩ, người mẹ thông minh, có học thức, mà ông vô cùng yêu quý, thuộc một gia đình doanh nhân Do Thái giàu có. Một cơn hen nguy kịch khi Proust chín tuổi sẽ ảnh hưởng đến ông suốt đời. Với sức khỏe mong manh, Proust vẫn đạt những kết quả xuất sắc ở trường trung học và đỗ tú tài năm 1889, sau đó tình nguyện đăng lính một năm, nhưng không phải sống trong quân ngũ. Năm 1893, ông đỗ cử nhân Luật, năm 1895, đỗ cử nhân văn chương. Thời gian này, ông bắt đầu lui tới các thính phòng văn chương, tham gia cuộc sống thượng lưu, đi du lịch nhiều nơi. Ông cũng bắt đầu viết, dịch, cộng tác với một vài tời báo, tạp chí. Ngày 18 tháng Mười một năm 1922, Proust qua đời. Năm 1923, Cô gái bị cầm tù được xuất bản, năm 1925 là Albertine mất tích – thoạt tiên được Proust đặt nhan đề Cô gái chạy trốn – và tập cuối cùng, Thời gian tìm lại được, ra mắt năm 1927. Mời các bạn đón đọc Dưới Bóng Những Cô Gái Tuổi Hoa của tác giả Marcel Proust.