Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bi Kịch Cuối Cùng - Ellery Queen

Như nhà ẩm thực mới tìm lại được vị giác, sau một thời gian dài gắng gượng nhai nuốt những món ăn tồi tệ, tôi bỗng được hưởng một hương vị độc đáo và thơm ngon vô cùng - mà tôi ghi lại dưới đây: Vụ án cuối cùng mà quý ông vĩ đại của sân khấu kịch Shakespeare, ngài Drury Lane đã cống hiến tất cả nỗ lực phi thường của mình. Đây là vinh hạnh dành cho tôi dưới danh nghĩa người ghi chép thầm lặng những khám phá của ngài Lane; và chắc chắn không ai có thể nghi ngờ - trừ khi có mâu thuẫn với cá nhân Lane - sự linh hoạt đáng ngưỡng mộ trong tư duy mà ông thể hiện trong những vụ điều tra mà tôi đặt tên là Tấn Bi Kịch X, Tấn Bi Kịch Y và Tấn Bi Kịch Z. Không chỉ là vinh dự mà đây cũng là trọng trách của tôi - ghi lại lại cuộc điều tra cuối cùng của con người phi thường này, trong cuốn sách mà tôi đã đặt tên là Bi Kịch 1599, bởi một lí do sẽ được làm sáng tỏ ngay sau đây. Tôi nói đây là một ‘trọng trách’, vì Lane không chỉ làm công chúng ở thời đại mình ngưỡng mộ nhờ sự cao ngạo trong cách tư duy suốt ba vụ án đã khám phá trước đó mà còn làm họ bất ngờ và thích thú bởi những khám phá đã khẳng định tên tuổi ông như một người bảo vệ công lý xuất sắc. Bởi vậy, nếu tôi ngăn cản độc giả - những người đã kiên nhẫn, hào hứng, đầy nhiệt huyết theo sát tất cả những cuộc phiêu lưu khác của Lane - tiếp cận với vụ án đỉnh cao này, đó sẽ là một tội lỗi không thể tha thứ. Đây chỉ là ý kiến của riêng tôi về một sự vụ kì lạ và đặc biệt bậc nhất không hề có tiền lệ trong lịch sử tội phạm học, sẽ xảy ra trong cuốn truyện này. ELLERY QUEEN   Bộ Râu Của Joseph Đó là một bộ râu kì cục, khác người, nhìn khá khôi hài. Được tạo hình giống một chiếc khiên cách điệu, nó được uốn cong phình ra từ phần cằm đã bị che phủ hoàn toàn xuống và phủ lên luôn cả phần cổ áo. Có nét gì đó vừa mềm mại vừa cao quý trong những lọn râu hoàn hảo đó, giống như chòm râu uy nghiêm của thần Zeus. Nhưng, vẻ đẹp thu hút mọi ánh nhìn lại không nằm ở cái phần cong phình ra hai bên ấy; mà điều kì diệu thực sự nằm ở màu sắc của bộ râu. Đó thực sự là bộ râu của Joseph*, được nhuộm sắc đen, xanh da trời và xanh lá cây theo từng vệt cũng giống chiếc áo của Joseph mà ta thường thấy trong tranh vẽ. Phải chăng nó đã phai màu dưới ánh mặt trời rực rỡ? Hay nó nhạt màu vì những lí do bí hiểm, giả như ông đã dành hàng giờ bên bàn thí nghiệm, chải chuốt bộ râu của mình trong một chậu hóa chất? Một bộ râu như của một vị thần như thế không thể có một xuất thân tầm thường. Bộ râu đó phải được ghi vào lịch sử; dứt khoát phải cho vào viện bảo tàng để gìn giữ đến muôn đời sau. Bây giờ thì thám tử Thumm, từng làm việc ở Sở cảnh sát New York, đã nghỉ hưu, nhưng vốn quen bận rộn, đang đắm chìm trong công việc tại phòng thám tử tư, sau bốn mươi năm quá quen thuộc với những điều bất ngờ trong xã hội loài người. Nhưng kể cả như vậy thì ông cũng phát hoảng lên, sau đó thực tâm thích thú với bộ râu phi thường trên cằm của vị khách đến vào một buổi sáng thứ Hai dịu nhẹ đầu tháng Năm. Ông chưa bao giờ nhìn thấy một bộ sưu tập gồm những sợi tơ sặc sỡ đến vậy. Thumm nhìn chằm chằm, rồi nhìn chằm chằm, như thể dù nhìn bao nhiêu lâu vẫn thấy không đủ. Cuối cùng ngài cũng nói: “Mời ngồi,” bằng giọng nhỏ nhẹ, liếc mắt qua lịch để bàn, hi vọng nhờ một điều kì diệu nào đó, hôm nay trở thành ngày Cá tháng Tư, để ngài có thể ngồi tụt sâu vào ghế, cào nhẹ lên bộ hàm rộng của mình và nhìn vị khách kia một cách sững sờ sửng sốt. Râu Cầu Vồng bình thản ngồi xuống, hoàn toàn thư thái. Ông ấy là một người cao gầy, thám tử Thumm quan sát - ngài không thu được thông tin gì khá khẩm hơn, bởi phần còn lại của ông ta, hệt như cái cằm, cũng được gói kỹ trong bộ trang phục cũng bí ẩn và kì quái. Ông ta vận rất nhiều lớp áo, cả cơ thể được phủ lên vài lớp vải dày cộp; nên đôi mắt tinh anh của vị thám tử chỉ phát hiện được đôi cổ tay mảnh dẻ dưới đôi tay mang găng và đôi chân lòng khòng - những dấu hiệu không che giấu được. Đôi kính mắt màu xanh biển che đi cặp mắt ông ta. Chiếc mũ phớt có vẻ bình thường, nhưng lại toát lên nét thờ ơ quyến rũ không giấu giếm khi ông bước chân vào văn phòng thám tử, che kín phần đầu và màu tóc của ông. Và ông ta ngồi đó, giống thần Zeus, im lặng hoàn toàn. Thumm húng hắng. “Vâng?” ông cố khích lệ. Bộ râu hơi lay động, như thể đang cười. “Vâng? Tôi có thể giúp gì ông?” Đột nhiên vị khách vắt chéo đôi chân mảnh khảnh, đặt bàn tay đeo găng lên đầu gối. “Hẳn ngài thực sự là thám tử Thumm, tôi đoán vậy?” một giọng nói nhừa nhựa vang lên. Thumm giật mình, như thể ông vừa nghe một bức tượng phát ra tiếng nói. “Là tôi đây.” Thumm uể oải nói. “Còn ông là…?” Ông ta phẩy tay. “Chuyện này không quan trọng, ngài thám tử à. vấn đề là… tôi phải nói sao nhỉ? Tôi muốn yêu cầu ngài một điều hết sức đặc biệt.” Hẳn đó là một yêu cầu đặc biệt, vị thám tử nghĩ thầm, nếu như ông không mang bộ dạng kì quặc kia! Thumm nhanh trí giấu đi ánh mắt kinh ngạc. Bàn tay ông nhẹ nhàng gạt một chốt nhỏ dưới ngăn bàn, có tiếng vo vo khe khẽ, mà chắc chắn quý ông với bộ râu sặc sỡ kia không thể nhận ra. “Những người ngồi trên chiếc ghế đó thường có các yêu cầu như vậy.” Thumm vui vẻ nói. Một mẩu đầu lưỡi của ông ta nhô ra nơi cánh rừng rậm rạp trên bờ môi, rồi như thể sợ hãi bởi màu sắc kì lạ nơi đó, đã vội vàng rụt lại. “Tôi có thể nói với ngài, ngài thám tử ạ. Rằng tôi đang tìm kiếm ngài. Điều làm tôi thấy lí thú là ngài có vẻ không… à, giống một thám tử tư bình thường.” “Chúng tôi đều cố làm khách hàng hài lòng.” “Thực vậy. Thực vậy… À, ngài thực sự giữ mọi chuyện riêng tư chứ? Ý tôi là, bây giờ ngài không còn liên quan đến cảnh sát, phải không ngài thám tử?” Thumm đăm đăm nhìn ông ta. “Ngài thấy đó, tôi cần phải chắc chắn. Chuyện tôi nhờ ngài cần được giữ bí mật tuyệt đối.” “Tôi cực kì kín tiếng,” Thumm làu bàu, “tôi sẽ không nói với ai, kể cả với bạn thân nhất của tôi. Nếu đó là điều khiến ông lo lắng. Trừ phi đó là một chuyện bẩn thỉu. Tôi căm ghét lũ chuột bọ, thưa ngài. Văn phòng của Thumm không chơi đùa với lũ lừa lọc.” “Ồ, không, không đâu,” Râu Cầu Vồng nói nhanh, “không phải những chuyện đó, tôi cam đoan. Chỉ là một chuyện nhỏ thôi… chỉ có điều hơi đặc biệt một chút, ngài thám tử ạ.” “Nếu về chuyện vợ ông và anh bạn giai,” vị thám tử quan sát khách hàng của mình, “thì thôi nhé. Văn phòng tôi cũng không nhận mấy vụ kiểu đó.” “Không, không đâu, ông bạn thám tử, không phải mấy vụ rắc rối gia đình đâu. Không phải mấy chuyện kiểu đó. Mọi chuyện, thực ra thì, gói gọn trong một từ thôi,” Râu Cầu Vồng nói, hơi thở nhè nhẹ lay động bụi cây nho nhỏ trên cằm mình, “tôi muốn ngài giữ một vật cho tôi.” ... Mời các bạn đón đọc Bi Kịch Cuối Cùng của tác giả Ellery Queen.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kế Hoạch Tự Sát
“Kẻ giết bố tôi… chính là mẹ! Cầu mong một ngày nào đó ông trời sẽ giáng sự trừng phạt xuống đầu cô ta.” Watanabe Ruri ---- Ruri vốn là một cô bé có cuộc sống bình dị, hạnh phúc như bao đứa trẻ cùng trang lứa khác. Thế nhưng đến một ngày… hiện thực tươi đẹp ấy bỗng vụt tắt. Mẹ cô qua đời. Căn nhà ấm áp, luôn tràn ngập tiếng cười bỗng trở nên trống trải đến đáng sợ, hai cha con cô phải nương tựa vào nhau, cùng vượt qua mất mát quá lớn kia. Những tưởng đau thương đã dần rời xa ngôi nhà nhỏ của Ruri, cho đến một ngày người phụ nữ tên Reiko xuất hiện, trở thành mẹ kế của cô và làm cuộc sống của cô hoàn toàn xáo trộn. Hai cha con Ruri dần trở nên xa cách, xích mích ngày một nhiều lên, cho đến khi… Vào một sáng thức dậy, Ruri định chụp lén cha mình một bức ảnh dùng để làm lành với ông, nhưng không ngờ… thứ cô chụp lại được chỉ là nỗi ám ảnh kinh hoàng. Cha của Ruri đã chết… Bức hình cuối cùng cô chụp được xuất hiện quá nhiều điểm đáng ngờ: Người mẹ kế bên cạnh cha? Lọ thuốc màu xanh kỳ lạ? Và cả cách sống của mẹ kế Reiko sau khi chồng mình qua đời… Thế nhưng tất cả những chi tiết đó không đủ để buộc tội cô ta. Cảnh sát cũng không thể tìm ra bất kỳ manh mối nào… Vậy chỉ còn cách… chính Ruri sẽ tự tử rồi để lại di thư, khiến cảnh sát có thể điều tra lại cái chết của cha mình. Và từ đây, kế hoạch Tự sát của cô chính thức bắt đầu. Số phận của Ruri rồi sẽ ra sao? Liệu Ruri có làm sáng tỏ được cái chết của cha mình? Sự thật kinh hoàng nào sẽ được vén rèm bí mật? Tất cả những ẩn số đó đều được giải đáp trong “Kế hoạch tự sát” - tác phẩm trinh thám gây được tiếng vang lớn năm 2016 của nhà văn tài năng Akiyoshi Rikako. Với cốt truyện gay cấn đến ngạt thở cùng những tình tiết đầy bất ngờ nhưng cũng không kém phần cảm động, cuốn sách đã tạo nên cơn sốt không nhỏ tại xứ sở hoa anh đào! *** uri đặt trên bàn một bức thư như vậy và toàn bộ tài sản của cô. Tuy rằng ngần ấy tiền để trả cho một đêm trọ là quá nhiều, nhưng cứ nghĩ đến những chuyện phiền lòng về sau, cô lại cảm thấy chừng đó vẫn không đủ. Vì thế, không chỉ tiền, cô còn để lại cả thẻ học sinh và điện thoại di động để cảnh sát địa phương và người của quán trọ không gặp khó khăn gì khi muốn tìm kiếm thân thế và người giám hộ hiện tại của cô. Sau khi đã đọc đi đọc lại bức di thư nhiều lần, cô rời khỏi phòng. Lúc nhận ra mình vô tình đi luôn đôi dép đi trong phòng của quán trọ, cô bối rối xỏ chân vào đôi giày của mình. 9 giờ 30 phút tối. Ngoài sảnh tĩnh mịch đến đáng sợ. Máy bán hàng tự động kêu lên một tiếng “bíp” nhỏ. Điện tắt, các kệ hàng bị phủ kín vải, quầy bán đặc sản và quà lưu niệm này tồn tại được đều nhờ vào lương tâm của khách trọ. Ghế sô-pha và bàn. Máy mát xa chạy bằng đồng xu. Cô đi qua những thứ đó, đặt chìa khóa lên bàn tiếp tân ở sảnh chính rồi nhẹ nhàng tiến ra ngoài. Vừa bước ra khỏi cửa, cô lập tức bị bao trùm bởi không khí ẩm thấp của mùa hè và tiếng kêu inh tai của lũ ếch. Ngay trước quán trọ là một con đường nhựa, chiều rộng chỉ vừa đủ cho một chiếc xe, hai bên đường cây cối xanh mướt um tùm. Ánh đèn đường le lói yếu ớt, bầu trời đầy sao còn sáng hơn thứ ánh sáng nhân tạo này. Hòa cùng với dàn hợp xướng của tiếng ếch, tiếng cú kêu vọng lại rõ ràng từ màn đêm đen phía trước. Đi được một đoạn, ngã ba hiện ra trước mắt Ruri. Cô lấy tấm bản đồ từ trong túi quần jeans ra. Gọi là bản đồ nhưng thực chất nó chỉ là bản in từ trên mạng. Trên đó có vẽ một đường màu đỏ bắt đầu từ quán trọ, đến chỗ ngã rẽ thì đường màu đỏ kéo dài tiếp về phía bên phải. Ruri chỉnh lại mắt kính rồi bắt đầu tiến vào đường nhánh bên phải. Con đường trải nhựa dần thu hẹp lại, cuối cùng thành con dốc toàn đất đá. Ánh đèn đường hoàn toàn biến mất, cô dùng chiếc đèn pin đã chuẩn bị từ trước soi rọi con đường đêm. Mật độ cây cối càng lúc càng dày, những lùm cây um tùm cản trở lối đi của Ruri. Dù vậy, cô vẫn cố gạt những cành cây ngáng đường mình và chăm chăm tiến về phía trước. Khoảng hai mươi phút sau, hơi thở của cô đã trở nên đứt quãng. Mái tóc dài đến eo như một chiếc áo măng tô bao phủ tấm lưng cô, khiến chiếc áo phông cô đang mặc thấm ướt mồ hôi. Vừa lau mồ hôi trên trán, Ruri vừa tiếp tục leo lên con dốc nhấp nhô đầy rễ cây lan ra. Lúc này, một quang cảnh hùng vĩ chợt hiện ra trước mắt. Chính là đây. Ruri lấy vạt áo lau lại mắt kính phủ đầy hơi nước rồi đeo lên mặt. Trông cô như một kẻ lữ hành mệt mỏi vừa phải trải qua một hành trình đằng đẵng không ngơi nghỉ. Giữa con dốc, một vùng đất bằng phẳng được ánh trăng chiếu rọi hiện ra. Trong không gian rộng lớn ấy, khoảng mười thân cây sừng sững vươn lên. Màu xanh của rêu bám đầy trên nền đất. Mùi đất ẩm phảng phất quanh mũi. Đứng từ đây có thể trông thấy ánh sao lấp ló giữa những ngọn cây cao vút và tán lá dày. Một khung cảnh huyền ảo biết bao. Ruri hít một hơi thật sâu, cắt đứt mạch suy nghĩ trong đầu. Cô cảm nhận rõ hơi thở ấm áp tĩnh mịch của thiên nhiên đang bao bọc quanh mình. Thật là một nơi tuyệt đẹp. Trái tim Ruri rung động. Được ở một nơi như thế này thật tuyệt. Tốt quá, trước khi chết còn có cơ hội nhìn thấy cảnh đẹp đến thế. Ý nghĩ sau cùng, quyết tâm bùng cháy trong đôi mắt cô. Hít một hơi thật sâu, Ruri đi về phía một cây đại thụ lớn nhất rồi đặt balo xuống. Mở khóa kéo balo, cô lôi ra một sợi dây thừng. Dùng miệng ngậm đèn pin để soi sáng, cô vòng sợi dây thừng, thắt lại. Độ rộng của vòng dây vừa đúng bằng đầu Ruri. Cô đã tìm hiểu cách thắt nút trên mạng và luyện tập nhiều lần. Sau khi thắt dây xong, Ruri tháo kính cất vào balo. Đoạn, cô đứng dậy, trèo lên cái ghế gấp đã mang theo ở cửa ra vào nhà trọ. Cô treo sợi dây lên cành cây rồi kéo thử. Tốt rồi, chắc sẽ không tuột được đâu. Hít sâu một lần nữa, Ruri liếm môi. Bố, mẹ, hãy chờ con. Ba người chúng ta sẽ lại hạnh phúc bên nhau ở thiên đường. Cô ngước lên ngắm vầng trăng lần cuối. Trăng tròn đẹp thật đấy... Ruri chầm chậm tròng sợi dây vào cổ, rồi cô đưa chân đá chiếc ghế gấp. ° ° ° Cửa đóng “cạch” một tiếng. Âm thanh giày cao gót vang lên chát chúa trên nền đá hoa, Ruri có thể nghe thấy tiếng bước chân tiến từ phía cửa đến hành lang. Cô Reiko đã về. Đang ngồi trước laptop trong phòng riêng trên tầng hai, Ruri gập màn hình lại rồi đứng lên. Cô đi xuống tầng, Reiko đang ở trong bếp cầm bình nước uống ừng ực. “A, Ruri đấy à. Cô về rồi đây.” Reiko vừa lau khóe miệng vừa mỉm cười. Khuôn mặt cô ta hơi đỏ, hơi thở phảng phất mùi ngòn ngọt đặc trưng của rượu. Reiko đặt cái bình lên bàn rồi đi ra ngoài phòng khách, cô ta ngã nhào xuống ghế sô-pha. Cái váy ngắn đỏ rực kéo lên làm lộ ra cả cặp đùi. Phòng kiểu Nhật bên cạnh phòng khách là nơi đặt bàn thờ, Ruri liếc mắt qua đó. Không biết người bố mỉm cười trong tấm ảnh trên bàn thờ kia đang nghĩ gì. Vẫn chưa đến 5 giờ chiều. Vì là mùa hè nên hiện tại bên ngoài trời vẫn sáng. Giờ này mà cô ta đã về nhà với bộ dạng say khướt như vậy. “Không sao. Cô đã nhờ người lái xe về...” Reiko nói với Ruri đang đứng đằng xa, “Cô có mang đồ ăn về đây, vừa hay đúng giờ ăn tối.” “Cháu không ăn đâu. Bây giờ cháu đi ra ngoài một chút... đi với bạn.” “Thế à...” “Chắc cháu sẽ ngủ nhà bạn luôn.” “À, cháu đang nghỉ hè mà nhỉ.” Ôm cái gối bông mềm mại trong lòng, Reiko nói với giọng điệu có chút ngờ vực. Nếu cô ta nhìn về phía Ruri, chắc cô ta sẽ nhận ra thực chất cô chẳng có bạn bè nào ở đây cả. “Nhưng mà... cháu không có tiền.” Dù Reiko đang say xỉn nhưng việc cô ta trở về vào giờ này đúng là may mắn với Ruri, cô không có đủ tiền. “Hả?” Tiếng Reiko chậm chạp vang lên. “Tuần trước cô chưa đưa cháu tiền tiêu vặt à?” “Cháu mua sách nấu ăn nên hết mất rồi.” “Ừm, ra thế.” Reiko không nghĩ ngợi với tay lấy túi xách đặt trên bàn. “Năm nghìn yên đủ không?” “Hai mươi nghìn... À, năm mươi nghìn đi ạ.” Nếu chỉ tính phí đi lại và tiền nhà trọ thì chắc hai mươi nghìn yên là đủ. Nhưng còn phải đề phòng những sự cố bất ngờ phát sinh như tàu chậm hoặc bị mất cắp hay đánh rơi đồ. Dù sao đi nữa, nhất định cô phải đến được nơi đó trong ngày Đại An, nên cần mang theo nhiều tiền hơn mới yên tâm được. “Cháu cần ngần ấy tiền làm gì vậy?” Đôi mắt đang mơ màng của cô ta đột nhiên mở lớn. “Cháu muốn đến USJ* ở Osaka.” “Ừ, được rồi.” Reiko chậm rãi rút ra năm tờ tiền mười nghìn yên đưa cho Ruri. “Của cháu đây.” Tiền vừa chạm vào đầu ngón tay, Ruri đã giật phắt lấy. Reiko cũng từ từ nhắm mắt lại, tay đặt trở lại sô-pha. “Còn gì nữa không?” Reiko hỏi bằng giọng ngái ngủ. Số tiền bảo hiểm ba trăm triệu yên của bố tôi đi đâu cả rồi? Tài sản của bố tôi thì sao? Tại sao bố tôi vừa mất mà mỗi ngày cô đều sống vui vẻ như thế? “Hết rồi ạ. Cháu đi đây.” Ruri quay trở lại căn phòng trên tầng hai. Cô ngồi trước máy tính, mở lại trang web vừa xem. Tusattoantap.com Trong danh sách những địa điểm tự sát, cô kích vào làng Sagamino rồi in bản đồ ra. Ruri kiểm tra những đồ vật cần mang đi lần cuối. Hôm nay cô đã đến cửa hàng DIY* mua dây thừng, đèn pin, ghế gấp, và cả một cái balo leo núi chuyên dụng cỡ lớn. Để chuẩn bị những thứ này, cô đã tiêu hết tiền tiêu vặt, không biết cô Reiko có nghi ngờ gì không. Ruri khoác chiếc balo to nặng lên vai và tắt máy tính. Cô đi xuống tầng dưới, liếc mắt về phía Reiko đang hoàn toàn ngủ say trên sô-pha rồi nhẹ nhàng tiến về phía hành lang. Hôm nay là ngày Chủ nhật đầu tiên của kỳ nghỉ hè nên ga Oshiage rất đông đúc, toàn những cặp bố mẹ đưa đón con. Ruri mua một vé đến làng Sagamino. Sau khi đến ga Tatebayashi, cô đổi sang tuyến tàu địa phương, đi khoảng hai tiếng nữa là đến nơi. Đứng cạnh Ruri là một nhóm học sinh tầm tuổi cô, bạn nữ nắm tay bạn nam chuyện trò rất vui vẻ. Ruri không có bạn gái, cũng không có bạn trai. Ruri mới mười sáu tuổi, là một nữ sinh bình thường... Không, còn tệ hơn cả bình thường. Trong không gian chật hẹp này, cô chợt hiểu ra. Dáng người cô cao gầy, ngực nhỏ, do cận nặng nên lúc nào cũng phải đeo đôi kính màu hồng nhạt, khuôn mặt ngoài làn da trắng thì chẳng có ưu điểm gì. Đúng là thật khó để kết bạn. Hơn nữa, bố mẹ ruột đều đã mất, họ hàng cũng không còn ai, đích thị là một kẻ cô độc giữa đất trời. Không, nói đúng ra thì vẫn còn một bà mẹ kế. Mẹ của cô, Nanami đã mất từ bốn năm trước, khi ấy Ruri vẫn còn là một cô bé lớp Sáu tiểu học*. Bà mắc bệnh xuất huyết dưới màng nhện. Trước đó bà vẫn rất khỏe mạnh, rồi một ngày đột nhiên bà ngã xuống, không bao giờ tỉnh lại nữa. Bà là một người rất dễ mến. Vì làm nghề tổ chức tiệc nên lúc nào bà cũng đem lại cảm giác ngọt ngào, dễ chịu như một chiếc bánh chiffon vậy, nơi đâu có bà nơi đó sẽ trở nên ấm áp. Nhà hàng chỗ bố làm đầu bếp và tiệm bánh ngọt nơi mẹ làm việc rất gần nhau, bố đã yêu mẹ ngay từ cái nhìn đầu tiên. Ông yêu vóc dáng nhỏ bé xinh đẹp khi bà đội chiếc mũ trắng, yêu vẻ nghiêm túc khi bà ngắm nhìn những chiếc bánh, tất cả đều rất đẹp. Bố đã kể, khoảnh khắc gặp mẹ, cảm giác giống như “có chú bướm nhỏ đậu vào trong ngực, rồi lưu lại mãi chẳng hề bay đi”. Đối với người có máu nghệ sĩ, nắm vững nghệ thuật nấu ăn truyền thống Nhật Bản, hiểu sâu sắc về nghệ thuật cắm hoa, trà đạo và thơ ca như bố, đây quả là một cách diễn tả độc đáo. Mời bạn đón đọc Kế Hoạch Tự Sát của tác giả Rikako Akiyoshi & Nguyễn Thu Hà (dịch).
Chiếc Tất Nhuộm Bùn - Phạm Cao Củng
Thám tử Kỳ Phát là bộ truyện đã làm nên danh tiếng của “Vua truyện trinh thám Việt Nam” - Phạm Cao Củng. Giống như Sherlock Holmes, Kỳ Phát luôn đề cao lý trí, lấy suy luận làm phương cách phá án. Series Thám tử Kỳ Phát gồm 5 cuốn: Đám cưới Kỳ Phát; Nhà sư thọt; Chiếc tất nhuộm bùn; Vết tay trên trần; Kỳ Phát giết người. Mặc dù học tập và ảnh hưởng từ truyện trinh thám phương Tây, nhưng Phạm Cao Củng đã sáng tạo nên những câu chuyện thấm đẫm đời sống Việt Nam, tính cách Việt Nam. Phá án theo phương pháp suy luận diễn dịch kiểu Sherlock Holmes, song nhân vật của Phạm Cao Củng mang đậm những phẩm chất được ưa chuộng ở phương Đông: trọng nghĩa khí, coi thường tiền bạc, không hành động vì thù lao, luôn tôn trọng tình cảm, đạo đức. Chiếc tất nhuộm bùn: Ngay từ nhỏ, Kỳ Phát đã chứng tỏ được óc trinh thám và khả năng suy luận tài ba. Từ một chiếc tất nhuộm bùn, chàng đã khám phá ra việc mẹ kế tư thông với nhân tình, gói ghém nữ trang toan bỏ trốn. Song không ngờ, bà ta lại vu cho chàng tội ăn cắp, khiến chàng phải chịu tủi nhục, bị mọi người khinh ghét. Tuổi thơ xa mẹ, nếm chịu nhiều đắng cay, Kỳ Phát luôn mong muốn được biết tung tích của mẹ. Nhưng đau đớn thay, chàng lại gặp mẹ trong hoàn cảnh vô cùng trớ trêu. Và câu chuyện hai mươi năm về trước dần được hé lộ… *** Chúng tôi đều ngồi im lặng… Cảnh bến tầu Nam Định vốn đã buồn, tối hôm ấy lại buồn hơn nữa. Gió lạnh, hạt mưa lất phất bay. Con đê nhỏ bằng xi măng lượn theo dọc sông trông xa như một con rắn dài nằm phơi chiếc bụng da trắng hếu. Một vài chiếc thuyền nan lơ lửng, leo lắt ngọn đèn. Đằng xa, áp bờ sông bên kia, chiếc lò vôi nung đỏ, tỏa ra trong bóng tối một ánh lửa hồng làm cho người ta nghĩ đến chiếc vạc dầu khổng lồ ở dưới âm ty. Ngồi trên đê, Kỳ Phát đưa mắt trông ra xa. Hắn lấy ngón tay sẽ đập rơi tàn thuốc lá, rồi mơ màng nhìn theo làn khói tỏa bay. Giữa cảnh êm đềm yên tĩnh, mọi vật hình như đều say sưa trong giấc mộng, Kỳ Phát lúc đó có dáng điệu một nhà thi sĩ đương trầm ngâm trước một cảnh nên thơ hơn là dáng điệu một tay thiếu niên trinh thám kỳ tài. Có lẽ ít ai ngờ rằng chính chàng trẻ tuổi ấy đã khám phá ra những vết tay trên trần mà tìm ra thủ phạm vụ án mạng bí mật trong Thanh dạo trước* và do một bài thơ kỳ dị đã lấy được cái kho tàng* khi xưa. Tôi ngoảnh nhìn Kỳ Phát không thấy một cái gì là thay đổi: vẫn bộ mặt xương xương với cặp lưỡng quyền cao, vẫn mái tóc lòa xòa vuốt ngược lốm đốm hoa râm. Bỗng chúng tôi cùng quay đầu trông lại. Trong một căn nhà lụp xụp ngoảnh mặt ra sông, một mụ đàn bà đương một tay nắm tóc, một tay cầm roi, vụt lấy vụt để một thằng bé con độ mười hai, mười ba tuổi. Thằng bé khóc lóc kêu van mà mụ đàn bà cứ thẳng tay vụt mạnh. Mụ vừa đánh vừa nghiến răng rít lên rằng: - Con cái đâu lại có con cái như thế này bao giờ? Mới nứt mắt ra mà đã ăn cắp tiền, tiêu bậy! Tôi quay bảo Kỳ Phát: - Anh nghĩ thế nào? Cứ ý tôi thì đánh đập thế này tuy hơi quá nhưng mà cần. Bằng tí tuổi đầu mà đã gian tham, bé ăn trộm gà, lớn ăn trộm trâu, nếu không thẳng tay trừng trị thì từ đồn điền trí cụ đến nhà pha Hỏa Lò cũng không xa là mấy. Tôi bỗng thấy cặp mắt Kỳ Phát sáng quắc. Hắn vất điếu thuốc lá đương hút dở, nhìn trừng trừng vào mặt tôi rồi dằn từng tiếng mà bảo rằng: - Câu này thì anh nên ghi nhớ để nghiệm về sau: khi anh thấy một người đàn bà đánh trẻ về tội ăn cắp - cứ cho rằng người đàn bà ấy là mẹ đứa trẻ - anh cũng chớ tin ngay rằng thằng bé quả là một thằng ăn cắp! Tôi không lạ gì Kỳ Phát. Muốn biết rõ Kỳ Phát, tôi đã từng chia hắn ra làm hai: Kỳ Phát lúc tĩnh và Kỳ Phát lúc động. Kỳ Phát lúc tĩnh thì yếu ớt, nhu nhược, hay nghĩ vơ vẩn và ít nói, những khi ấy thì đừng ai mong hỏi hắn gì, nhất là điều hắn đã muốn giấu thì cậy răng hắn cũng không nói nửa lời. Kỳ Phát lúc động thì lại khác hẳn: hai mắt sáng quắc, chân tay luôn luôn cử động, hắn đã biện thuyết về một vấn đề gì thì nói mãi kỳ cho người ta nghe phải phục thì mới thôi. Tôi biết Kỳ Phát lúc này vừa mới ở trạng thái tĩnh sang trạng thái động. Nhớ tới hôm nào, khi Kỳ Phát khám phá ra cái kho tàng kể chuyện lại cho tôi nghe xong có nói tiếp: - Đời tôi có lẽ toàn là những cái phiêu lưu bí mật, ngay từ lúc tuổi thơ, tôi đã bị nhiều nỗi khổ lạ lùng… Lúc đó tôi có hỏi ngay về cái đời thuở nhỏ của Kỳ Phát song hắn nhất định không nói, tôi bèn nhân lúc này mà gợi chuyện ra. Làm ra bộ ngớ ngẩn, tôi hỏi Kỳ Phát: - Anh nói thế là thế nào, tôi không hiểu đấy! ... Mời các bạn đón đọc Chiếc Tất Nhuộm Bùn của tác giả Phạm Cao Củng.
Nhà Sư Thọt - Phạm Cao Củng
Thám tử Kỳ Phát là bộ truyện đã làm nên danh tiếng của “Vua truyện trinh thám Việt Nam” - Phạm Cao Củng. Giống như Sherlock Holmes, Kỳ Phát luôn đề cao lý trí, lấy suy luận làm phương cách phá án. Series Thám tử Kỳ Phát gồm 5 cuốn: Đám cưới Kỳ Phát; Nhà sư thọt; Chiếc tất nhuộm bùn; Vết tay trên trần; Kỳ Phát giết người. Mặc dù học tập và ảnh hưởng từ truyện trinh thám phương Tây, nhưng Phạm Cao Củng đã sáng tạo nên những câu chuyện thấm đẫm đời sống Việt Nam, tính cách Việt Nam. Phá án theo phương pháp suy luận diễn dịch kiểu Sherlock Holmes, song nhân vật của Phạm Cao Củng mang đậm những phẩm chất được ưa chuộng ở phương Đông: trọng nghĩa khí, coi thường tiền bạc, không hành động vì thù lao, luôn tôn trọng tình cảm, đạo đức. Nhà sư thọt: Một ông già dở người bị đẩy xuống giếng, tuy giàu có ức vạn nhưng chỉ để lại chiếc két rỗng không. Một nhà sư thọt lẻn đến hiện trường đào bới lúc nửa đêm. Liệu ông ta có liên quan đến cái chết của nạn nhân và số của cải bị giấu? Kỳ Phát phải làm thế nào để tìm ra hung phạm và những uẩn khúc được giấu kín suốt nhiều năm? ***   Kỳ Phát vặn khóa, mở cửa vào trong buồng. Chàng nhìn quanh quẩn, đến bên chiếc giường chăn ga còn phẳng nguyên, mở tủ thấy tầng dưới không còn chiếc va ly nữa thì càu nhàu, lẩm bẩm: - Cóc khô, cóc khô! Thằng cha lại đi vắng rồi, mà chẳng biết mấy ngày nữa mới về đây! Nhưng Kỳ Phát cũng cởi bỏ áo ngoài, vắt vào lưng ghế, cắm quạt điện, rồi phàn nàn một mình: - Được ngày về thăm bạn thì bố lại đi vắng, chán quá! Nhưng Kỳ Phát bỗng với tay lấy mẩu giấy đè dưới chiếc gạt tàn thuốc lá, để trên bàn: - Anh chàng để di chúc gì lại đây! À… “Anh Kỳ Phát, tôi đi có việc cho nhà báo, sáng mai mới về. Anh cứ ở lại chơi tự nhiên, trong tủ còn nhiều cà phê, anh đun nước đèn cồn mà pha. Ngăn tủ bên trái còn chai Rhum đấy!” Kỳ Phát gật gù: - Dưới chỗ đề ngày tháng, anh chàng đã chữa đi ba bận, tỏ ra rằng trong tháng này, anh đã đi xa ba lần rồi, và lần nào cũng cẩn thận để giấy lại cho mình. Và chắc bây giờ giấy cao, chàng hà tiện giấy: viết giấy để lại mà mình không về thì để lần khác dùng chỉ chữa có ngày tháng đi thôi! Kỳ Phát liếc nhìn lên ảnh bạn trên tường, mỉm cười, có lẽ đã thầm cảm ơn một người bạn tốt, lúc nào cũng nhớ và săn sóc đến mình mặc dầu sau khi đau đớn vì Cúc chết, đã ra đi và chẳng hẹn ngày về…* Xem Kỳ Phát giết người. Đổ chai nước lạnh vào ấm, tráng đi rồi lại đổ đầy, đánh diêm châm chiếc đèn cồn lên, Kỳ Phát thong thả sửa soạn đun nước. Chàng tháo giầy, cởi quần ngoài vì hôm nay đã đi đường nhiều hơi mệt, chàng cũng không muốn đi chơi đâu nữa. Lấy chai rượu mạnh ra, Kỳ Phát rót một cốc nhỏ, đánh diêm châm điếu thuốc lá thơm, rồi gác chân lên bàn mà uống nhấm nháp. Tiếng nước trong ấm reo đều đều, hòa nhịp với ngọn lửa đèn cồn xanh lè, xì mạnh. Kỳ Phát đứng dậy, lấy cà phê ra, bỏ vào bình lọc, lấy cái đĩa ấn cà phê xuống cho chặt, rồi thong thả pha nước sôi vào. Ghé đầu nhìn giọt nước vàng thánh thót rơi xuống Kỳ Phát xoa tay sung sướng. - Kể sống một đời văn sĩ, tự lập và chẳng bận bịu vợ con như anh chàng này cũng sướng, mình tính dù đã quen hoạt động mà đôi khi hưởng thú nhàn tình này cũng thấy hay hay! Kỳ Phát đợi cho nước trong bình chảy xuống hết, vừa lúc chàng cũng uống cạn cốc rượu mạnh. Bộ mặt xương xương của chàng trinh thám trẻ tuổi và có tài của chúng ta, nhất là chỗ hai lưỡng quyền cao, đã ửng đỏ. Mặc dầu, chàng cũng với tay lấy chai rượu, rót ra gần đầy cốc để sau khi khuấy đường trong cốc cà phê tan hẳn, nhẹ tay mà chế rượu vào. Đưa cốc cà phê lên ngang mũi hít một hơi dài, Kỳ Phát tắc lưỡi một cái ra ý vừa lòng lắm. Chàng lẩm bẩm: - Có say cũng không sao, mình đi ngủ chứ có làm gì đâu mà sợ! Quả vậy, sau khi Kỳ Phát uống cạn cốc cà phê, tráng miệng bằng một chén nước lạnh rồi thì chàng sửa soạn đi ngủ. Trên bàn giấy bấy giờ chỉ còn một ngọn đèn đêm, Kỳ Phát vươn vai, ngáp dài một cái. Một lát sau, trong phòng chỉ còn tiếng chàng thở đều đều. Có lẽ nỗi nhọc mệt khi đi đường, hơi men của cốc rượu mạnh đã làm cho Kỳ Phát vào giấc ngủ một cách dễ dàng mê mệt. Trên chiếc bàn con để ở cạnh giường, chiếc đồng hồ vẫn tí tách đều đều. Đôi kim dạ quang xanh biếc lừ lừ đuổi nhau, rồi vượt qua, đã được mấy vòng. Nhưng ngoài tiếng tí tách của đồng hồ, còn tiếng lạch xạch ở ngoài ổ khóa. Vốn quen ngủ một cách tỉnh táo, có lẽ vào lúc khác thì Kỳ Phát đã sực tỉnh rồi, nhưng lần này thì Kỳ Phát vẫn ngáy đều, không hay biết gì cả. Cho đến khi có tiếng chìa khóa nhè nhẹ xoay hết một vòng. Rồi im lặng. Rồi cánh cửa từ từ hé mở không một tiếng kẹt nhỏ đủ tỏ người đẩy quả đã quen tính không bao giờ làm bận rộn đến chủ nhân đang yên giấc. Một bóng đen rón rén tiến vào, rồi chỉ hai phút sau, ngọn đèn đêm đã vụt tắt. Trên giường Kỳ Phát vẫn ngáy đều. Cái bóng đen như nép yên một chỗ mà nghe ngóng, mãi một lát sau mới bấm ngọn đèn pin, chiếu ra một vệt sáng nhỏ dài như một tia nắng chiếu qua khe cửa vậy. Vệt sáng ấy vụt cháy, rồi vụt tắt, qua hết góc này đến góc nọ trong phòng. Rồi cuối cùng thì tắt hẳn. Một tiếng sột soạt nho nhỏ. Trong bóng tối, mấy chiếc ghế hình như có người nhẹ nhàng khiêng dịch ra chỗ khác. Mấy phút yên lặng vừa qua, rồi ánh sáng trong phòng bỗng chói lòa. Bị chói mắt, Kỳ Phát càu nhàu, giơ tay dụi, chưa kịp nhìn rõ cái gì thì đã có tiếng quát khẽ: - Nằm im, không có chết mất mạng! ... Mời các bạn đón đọc Nhà Sư Thọt của tác giả Phạm Cao Củng.
Đám Cưới Kỳ Phát - Phạm Cao Củng
Thám tử Kỳ Phát là bộ truyện đã làm nên danh tiếng của “Vua truyện trinh thám Việt Nam” - Phạm Cao Củng. Giống như Sherlock Holmes, Kỳ Phát luôn đề cao lý trí, lấy suy luận làm phương cách phá án. Series Thám tử Kỳ Phát gồm 5 cuốn: Đám cưới Kỳ Phát; Nhà sư thọt; Chiếc tất nhuộm bùn; Vết tay trên trần; Kỳ Phát giết người. Mặc dù học tập và ảnh hưởng từ truyện trinh thám phương Tây, nhưng Phạm Cao Củng đã sáng tạo nên những câu chuyện thấm đẫm đời sống Việt Nam, tính cách Việt Nam. Phá án theo phương pháp suy luận diễn dịch kiểu Sherlock Holmes, song nhân vật của Phạm Cao Củng mang đậm những phẩm chất được ưa chuộng ở phương Đông: trọng nghĩa khí, coi thường tiền bạc, không hành động vì thù lao, luôn tôn trọng tình cảm, đạo đức. Đám cưới Kỳ Phát: Một buổi sáng, Kỳ Phát tình cờ nhìn thấy Thanh Ngọc trên sân ga và bị hút hồn ngay bởi đôi mắt huyền của giai nhân. Theo chân nàng lên chuyến tàu định mệnh, rồi nhận lấy chiếc va ly duyên nợ, Kỳ Phát bị cuốn vào một vụ án ly kỳ và rắc rối. Liệu cuộc gặp gỡ có phải mối lương duyên tốt đẹp? Kỳ Phát sẽ có một đám cưới hạnh phúc, hay ẩn tàng sau đó là âm mưu thâm độc cùng những cạm bẫy chết người? *** Lúc ấy mới 4 giờ sáng. Trên sân ga Hà Nội, ngoài mấy người bán hàng bánh tây và cà phê, chỉ mới có lác đác dăm ba hành khách. Họ phần nhiều đều có đồ đạc kềnh càng cho nên mới phải ra tầu sớm, hòng kiếm một chỗ rộng rãi. Trong phòng đợi hạng ba chưa có một người nào cả. Có lẽ vì quá 5 giờ rưỡi, chuyến tầu Bắc mới chạy và những bọn khách sang này ít khi bị chen chúc nên không cần ra ga sớm. Trời lại lất phất mưa. Những ánh đèn thắp theo lối phòng thủ không đủ soi sáng suốt sân ga nên qua từng khoảng tối, người ta mới lại trông thấy rõ những hạt mưa nhỏ, lấp loáng, trắng bóng, như những hạt bụi bay trong một vệt ánh nắng vậy. Đằng xa, thỉnh thoảng một tiếng còi tầu rúc ngắn làm cho mấy hành khách đứng đợi nghển cổ nhìn… Nhưng không, đó chỉ là những chiếc đầu tầu người ta dồn đường hoặc đến lấy than, nước. Trời rạng dần. Những hành khách ra đợi tầu cũng mỗi lúc một đông thêm. Sau một tiếng còi rúc dài, một nhân viên Sở hỏa xa từ trong phòng giấy bước ra, tay xách chiếc đèn bão. Đứng cạnh đường tầu, người ấy cầm đèn đưa qua đưa lại để ra hiệu cho đoàn tầu Bắc từ phía xa dồn lại. Các hành khách đã nháo nhào sửa soạn lên tầu. Và khi đoàn tầu vừa dừng bánh họ đã tíu tít chen nhau lên và chỉ thong thả dọn dẹp chỗ ngồi khi thấy số hành khách ra sớm ấy ngồi chưa chật hết được một bên dãy ghế trong hai toa… Họ vội vàng hấp tấp như vậy cũng không có gì là lạ cả, vì họ đã từng gặp nhiều chuyến tầu chật chội quá, người đứng nêm nhau không còn có một chỗ nào mà lách chân trong khi ở dưới sân ga hãy còn bao nhiêu là hành khách nữa đương ngong ngóng chen lên. Họ đâu có được như chúng tôi là những kẻ “vô công rồi nghề” lấy vé ke ra ngoài sân ga chỉ là một công việc làm khi không còn biết làm công việc gì khác nữa. Sáng sớm hôm ấy, tôi đương ngủ, bỗng có tiếng động, mở mắt ra đã thấy Kỳ Phát dậy từ bao giờ, đương lúi húi đun đèn cồn. Tôi ngáp dài, hỏi: - Hôm nay anh làm gì mà dậy sớm thế? Kỳ Phát cười: - Tôi chẳng định làm gì cả nhưng vì chợt tỉnh giấc, sực nhớ có ông bạn biếu gói chè tầu bảo rằng ngon lắm nên trở dậy, đun nước uống chơi! Rồi Kỳ Phát lại tiếp: - Nước đã sôi rồi đây, anh nằm ngủ lại hay dậy uống nước với tôi, tùy thích! Tôi tung chiếc chăn đơn, ngồi dậy, cười mà bảo Kỳ Phát rằng: - Ngủ lại cũng chẳng được nữa, dậy uống nước còn hơn. Tôi lại sực nhớ đến thuở nhỏ ở Nam Định, bao giờ mở mắt thì đã thấy thầy tôi uống tàn ấm nước sáng rồi! Kỳ Phát gật đầu: - Uống trà vào những lúc ấy mới hưởng được hết cái hương vị của ấm trà ngon, chứ đến chơi nhà ai, thì nước cũng pha một cách cẩu thả, uống bằng một cách vội vàng, chẳng qua là cái lối “ngưu ẩm” mà thôi! Ngừng lại một lát để tráng cẩn thận chiếc ấm và đôi chén, rồi Kỳ Phát mới tiếp: - Cổ nhân xưa chỉ thường uống trà vào hai buổi: sáng sớm tính sương và buổi trưa. Theo như chỗ tôi nhận thấy thì uống trà buổi trưa dễ thấy trà ngon nhất, vì lúc đó, sau những giờ làm việc buổi sáng, người mình thấy hơi nhọc mệt nhưng tâm thần thư sướng. Thong thả nhấp chén trà, ta tự nhiên cảm thấy khoan khoái, dễ chịu, người khỏi mệt, cổ khỏi ráo. Uống trà vào buổi sớm thì tinh thần mình vẫn còn bị hôn quyện do giấc ngủ vừa qua. Nhưng trà là một món giải khát “thanh tâm, minh mục”, nhờ đó mà người ta thành tỉnh táo một cách dễ dàng, mặc dầu hương vị của trà, ta không thể thưởng thức hết được. ... Mời các bạn đón đọc Đám Cưới Kỳ Phát của tác giả Phạm Cao Củng.