Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ký Sự Phục Dịch Ở An Nam

Vào giữa thế kỷ XVII, sau khi người Mãn Thanh lên nắm quyền ở Trung Quốc, nhiều trung thần của nhà Minh không chịu thần phục nhà Thanh bỏ trốn sang Nhật Bản, Việt Nam cùng các nước Đông Nam Á khác nhằm mưu tìm cơ hội khôi phục nhà Minh. Trong số những Minh thần này, có một trưng sĩ tên là Chu Thuấn Thủy rất đáng được chú ý. I. Đôi nét về thân thế của Chu Thuấn Thủy Chu người Dư Diêu (cùng quê với Vương Dương Minh) tỉnh Chiết Giang, sinh năm 1600, vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Tên thật của Chu là Chi Du, hiệu là Thuấn Thủy, tổ tiên hình như có liên hệ với Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương. Trong 5 lần đến Đàng Trong, thời gian Chu lưu trú lâu nhất là khoảng 4 năm từ năm 1654 cho đến năm 1658. An Nam cung dịch kỷ sự là “hồi ký” của Chu viết về những sự việc xảy ra vào năm 1657 trong khoảng thời gian hai tháng rưỡi kể từ khi Chu bị quản thúc ở Hội cho đến khi được cho về lại Hội An. Vị “Quốc vương” mà Chu thường nhắc đến trong An Nam cung dịch kỷ sự là chúa Nguyễn, hay nói rõ hơn là chúa Nguyễn Phúc Tần (Chúa Hiền), người cai quản Đàng Trong từ năm 1648 đến năm 1687. Về học vấn và tư tưởng, Chu đặc biệt chú trọng lối học thực hành (thực học) theo truyền thống Nho học của miền Giang-Chiết (Giang Tô và Chiết Giang). Chu xem những lối học không mang lại lợi ích cho đời, cho dầu hào nhoáng đến đâu chăng nữa, cũng không khác gì đồ bỏ. Trong bức thư trả lời câu hỏi của Andô Shuyaku về “phương pháp đọc sách và viết văn”, Chu đáp: “Điều đáng quý trong học vấn là thực hành. Nhan Hồi tuy học một biết mười, nhưng điều quan trọng là ông đứng đầu về đức hạnh”. Cái thực học của Chu so với cái học để thi cử rỗng tuếch ở Trung Quốc và Việt Nam lúc bấy giờ thì phải nói là cách xa nhau một trời một vực. 2. Nội dung An Nam cung dịch kỷ sự Chu nhận được hịch chiêu mộ người “biết chữ” của “Quốc vương” và ra trình diện ngày 3 tháng 2 năm 1657, Chu bị tống giam và bị đối đãi như “tù giặc nước ngoài bị bắt sống” (khấu lỗ). Sau đó, khi được dẫn đến nha môn, quan ra lệnh cho Chu làm một bài thơ khẩu hứng rồi viết lên giấy. Chu khăng khăng không chịu làm thơ, dùng bút giải thích là vì “cảnh nước mất nhà tan” và “không cam bím tóc” theo nhà Thanh nên Chu mới trốn sang Nước ta, “ruột gan nóng như lửa đốt, làm thơ sao đặng”. Khi biết Chu là “cống sĩ” (giống như “trưng sĩ”, nhưng trưng sĩ là cách gọi tổng quát), quan có ý xem thường, cho học lực của Chu không thể nào đọ được các vị khoa bảng nhà mình. Lúc ở Hội An, Chu thuê nhà chung với ba người Nhật. Chủ nhà là Gombê (Quyền binh vệ), cũng là người Nhật. Sáng sớm trước khi bị dẫn ra Dinh Cát, Chu tắm gội sạch sẽ, rồi căn dặn cặn kẽ người nhà phải làm gì khi trong trường hợp bị giết mà không về lại Hội An. Khi từ Dinh Cát về lại Hội An thì đồ đạc trong phòng Chu bị kẻ trộm vào lấy sạch, không còn gì cả. Trong khi hàng xóm láng giềng ai cũng đinh ninh chủ nhà là thủ phạm, Chu vẫn một mực không chút tỏ ý nghi kỵ Gombê. Sau khi điều tra biết Gombê là người vô tội, lúc bấy giờ hàng xóm mới khen Chu không phải là người tầm thường. Sau đó đến ngày 19 tháng 2, Chu được thư của Chúa mời Chu ra giúp, Nhưng đối với Chu, lúc này thì đã cạn tàu ráo máng nên Chu đã từ chối lời mời của chúa Nguyễn. An Nam cung dịch kỷ sự là một sử liệu độc đáo trên nhiều mặt. Thêm vào đó, Chu đã từng cư ngụ ở đất Thuận-Quảng nhiều lần trong khoảng 12 năm từ năm 1646 cho đến năm 1658. Bởi thế, lối quan sát và nhận định của Chu về tình hình học thuật, xã hội và chính trị của Đàng Trong, cũng như những điều Chu nhận xét về một số nhân vật mà Chu đã từng tiếp xúc trong thời gian bị câu lưu mang nét sống động của một người có óc quan sát chứ không phải là những lời bình phẩm chung chung của một khách bàng quan. Người đọc không nhất thiết sẽ đồng ý với tất cả những nhận xét của Chu. Thậm chí, một vài nhận xét của Chu có thể làm độc giả người Việt không mấy hài lòng. Chu là một nhà trí thức tuy khá am tường về Việt Nam nhưng ưu tiên của Chu là “bài Thanh phục Minh”, khác với hoài bão với những người Việt trên bước đường Nam tiến. Tuy nhiên, ý nghĩa của An Nam cung dịch kỷ sự là tập ký sự này cho ta một bức tranh về tình hình Đàng Trong vào thế kỷ XVII với một số nét chấm phá mới mẻ. Chính vì thế, việc phân tích và đánh giá An Nam cung dịch kỷ sự không phải đơn giản, đòi hỏi người đọc có thái độ muốn bình tâm tìm hiểu một cách khách quan về những nhận xét của Chu trong thời gian bị quản thúc ở Hội An và Thuận Hóa. Ngoài ra, qua tập ký sự của Chu Thuấn Thủy, chúng ta có thể tìm thấy những thông tin bổ ích khác về tình hình Đàng Trong giữa thế kỷ XVII. Chẳng hạn về ngôn ngữ, về cộng đồng người Hoa và người Nhật ở Hội An, tình hình học thuật, thư mục những sách chữ Hán ở Đàng Trong lúc bấy giờ, tình trạng thích bói toán, khuynh hướng chuộng bằng cấp hư danh, đánh giá người theo khả năng làm thơ phú chứ không chú trọng đến thực học. Nhìn trên quan điểm về nghi thức ngoại giao, những khác biệt về nhãn quan và ngộ nhận về lập trường giữa Chu và các quan sai trong phủ chúa Nguyễn là một trường hợp độc đáo cần được nghiên cứu và thảo luận kỹ càng hơn. Về điểm này, trong phần kết luận của bài giới thiệu về Chu Thuấn Thủy khoảng hơn nửa thế kỷ trước, học giả Quán Chi Đào Trinh Nhất đã đưa ra nhận xét chí lý như sau: “[... Người nước ta] tiếc một ông thầy chân nho đến ở nhà mình 12 năm ròng rã, mà nhà nho mình thuở ấy không ai biết lợi dụng khải phát được điều gì, để cho ông thầy đâm chán, đem theo cái đạo học cao xa đi xứ khác mất. Cứ xem bọn nhà nho nước Nhật ở thế kỷ XVII tôn sùng họ Chu rồi sau mới biết Khổng học một cách khác hơn”. Khuynh hướng kỳ thị trong việc sử dụng nhân tài nước ngoài - không những của chúa Nguyễn mà của các triều đại Việt Nam nói chung - đều biểu hiện một thái độ đa nghi co mình lại. Bài học lịch sử này vẫn còn đáng được cho chúng ta ngày nay suy ngẫm. Người dịch đã được xem 3 ấn bản An Nam cung dịch kỷ sự. (1) ấn bản trong Chu Thuấn Thủy toàn tập (tập Thượng) do Chu Khiêm Chi chỉnh lý (Trung Hoa Thư cục, Bắc Kinh, 1981); (2) ấn bản trong Chu Thuấn Thủy toàn tập (quyển 1) do Dương Gia Lạc chủ biên (Thế giới Thư cục, Đài Bắc, 1956); (3) ấn bản do Trần Kinh Hòa hiệu đính và in lại trong bài “Chu Thuấn Thủy ‘An Nam cung dịch kỷ sự’ tiên chú” đăng trong tập san Hương Cảng Trung văn Đại học Trung Quốc Văn hóa Nghiên cứu sở Học báo (1968). An Nam cung dịch kỷ sự khi dịch đã chủ yếu dựa trên ấn bản (1), đồng thời tham khảo các ấn bản (2) và (3). Khoảng hơn 90% những chú thích trong bản dịch quốc ngữ là do sự tra khảo của người dịch. *** Sử liệu Trung Quốc và Nhật Bản cho biết trước khi sang Nhật định cư vào năm 1658, Chu Thuấn Thủy đã nhiều lần theo tàu buôn đến Việt Nam. Trong khoảng thời gian ở nước ta, không những sở học của Chu chẳng có ai nhận chân được giá trị, thậm chí có lúc Chu còn bị quản thúc và suýt mất mạng. Chắc hắn vì thế nên Chu đã từ giã Việt Nam để sang định cư ở Nhật với tư cách là một học giả về Nho học. Trước khi rời Việt Nam, Chu có viết một ký sự về khoảng thời gian bị câu lưu và phục dịch cho phủ chúa Nguyễn ở đất Thuận Quảng (Thuận Hóa - Quảng Nam). Tập ký sự này được viết vào năm 1657 và mang tên An Nam cung dịch kỷ sự (Ký sự phục dịch ở An Nam). Sau khi sang Nhật, Chu được nhiều người mến mộ tài năng nên đã có dịp thi thổ sở học của mình và đóng góp lớn vào việc nghiên cứu, phát triển Nho học trong nước Nhật lúc bấy giờ. Cho đến ngày nay, ở Trung Quốc và Nhật Bản, tên tuổi của Chu còn được nhắc nhở đến khá nhiều, trong lúc đó ở Việt Nam không mấy ai biết đến. Trên thực tế, cùng với tập Hải ngoại kỷ sự của nhà sư Trung Quốc Thích Đại Sán và cuốn Xứ Đàng Trong năm 1621 của Christoforo Borri, An Nam cung dịch kỷ sự là một sử liệu độc đáo cung cấp cho ta nhiều thông tin bổ ích về tình hình ở đất Thuận Quảng nói riêng cũng như Đàng Trong nói chung vào thế kỷ XVII. dtBOOKS CÔNG TY TNHH SÁCH DÂN TRÍ ĐC: 11C Nguyễn Kiệm, P.3, Q. Gò Vấp, TP. HCM VPGD: 65 Hồ Văn Huê. P. 9, Q. Phú Nhuận, TP. HCM ĐT: (028) 62751674-62784851 Ký sự phục dịch ở An Nam ISBN: 978-604-956-373-7 9786049 563737 8 935207 001449 Giá: 74.000₫ www.dtbooks.com.vn *** Vài nhận xét về An Nam cung dịch kỷ sự An Nam cung dịch kỷ sự là một sử liệu độc đáo trên nhiều mặt. Tác giả Chu Thuấn Thủy là một học giả có tầm cỡ, lại có nhãn quan của một người có chí kinh luân hằng ấp ủ mộng “bài Thanh phục Minh”. Thêm vào đó, Chu đã từng cư ngụ ở đất Thuận - Quảng nhiều lần trong khoảng 12 năm từ năm 1646 cho đến năm 1658. Bởi thế, lối quan sát và nhận định của Chu về tình hình học thuật, xã hội và chính trị của Đàng Trong, cũng như những điều Chu nhận xét về một số nhân vật mà Chu đã từng tiếp xúc trong thời gian bị câu lưu mang nét sống động của một người có óc quan sát chứ không phải là những lời bình phẩm chung chung của một khách bàng quan. Người đọc không nhất thiết sẽ đồng ý với tất cả những nhận xét của Chu. Thậm chí, một vài nhận xét của Chu có thể làm độc giả người Việt không mấy hài lòng. Chu là một nhà trí thức tuy khá am tường về Việt Nam nhưng ưu tiên của Chu là “bài Thanh phục Minh”, khác với hoài bão với những người Việt trên bước đường Nam tiến. Tuy nhiên, ý nghĩa của An Nam cung dịch kỷ sự là tập ký sự này cho ta một bức tranh về tình hình Đàng Trong vào thế kỷ XVII với một số nét chấm phá mới mẻ. Chính vì thế, việc phân tích và đánh giá An Nam cung dịch kỷ sự không phải đơn giản, đòi hỏi người đọc có thái độ muốn bình tâm tìm hiểu một cách khách quan về những nhận xét của Chu trong thời gian bị quản thúc ở Hội An và Thuận Hóa. Với tư cách là “trưng sĩ”, Chu trên thực tế là một trí thức hàng đầu của nhà Minh. Tuy sang Việt Nam lánh nạn, Chu không những là một di thần của nhà Minh mà còn là một trí thức tiêu biểu trong vận động “bài Thanh phục Minh” ở Trung Quốc, Việt Nam và Nhật Bản. Theo trật tự Đông Á trước thời cận đại với Trung Quốc là trung tâm, chỉ có người trị vì ở Trung Quốc mới được xưng là “hoàng đế”, còn vua của các nước trên vòng ngoại vi của Trung Quốc như Việt Nam, Triều Tiên chỉ được xưng hay gọi là “vương” (trên nguyên tắc phải được hoàng đế Trung Quốc sắc phong) trong các quan hệ chính thức với Trung Quốc. Chu xem mình nếu đã là “trưng sĩ”, là “tôi” của “hoàng đế” Trung Quốc, thì không thể lạy vua An Nam - một nước mà theo “trật tự thế giới của Trung Quốc” chỉ là một phiên quốc. Chu cho rằng việc bắt Chu lạy là trái với “lễ nghi” trong quan hệ sắc phong và triều cống giữa Trung Quốc với các nước “phên giậu” láng giềng. Trong tập ký sự, Chu nhắc đi nhắc lại chữ “lễ” nhiều lần chính vì Chu muốn nhấn mạnh điểm này. Trong khi đó, các quan sai của phủ chúa Nguyễn khi thấy Chu không chịu lạy vị chúa của mình đã cho rằng Chu đã “cậy thế Trung Quốc là nước lớn” nên không chịu lạy. Ngày trước, khi những sứ thần của Trung Quốc chính thức sang thăm viếng Việt Nam, vì các nghi lễ tiếp đón đã quy định sẵn nên có lẽ không mấy khi xảy ra những trường hợp phức tạp như thế này. Tuy nhiên, khi Chu trình diện với chúa Nguyễn, vấn đề nghi lễ trở nên gay cấn đến cực độ, bởi lẽ trong khi phủ chúa Nguyễn chỉ xem Chu như một người “biết chữ” (thức tự) có thể tuyển mộ để giúp về việc thảo văn thư chữ Hán, Chu lại tự coi mình như là một trí thức đại diện của phong trào phục Minh. Vì đứng trên lập trường đó nên Chu đã xem nhiệm vụ hàng đầu của chúa Nguyễn là phải giúp Chu trong nỗ lực khôi phục nhà Minh, trong khi mối quan tâm trước mắt của chúa Nguyễn - như chúng ta đã biết - là một mặt tiếp tục cuộc tranh hùng dai dẳng với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, một mặt mở mang bờ cõi ở phương Nam. Nhìn trên quan điểm về nghi thức ngoại giao, những khác biệt về nhãn quan và ngộ nhận về lập trường giữa Chu và các quan sai trong phủ chúa Nguyễn là một trường hợp độc đáo cần được nghiên cứu và thảo luận kỹ càng hơn. Có điều khá rõ ràng là khi sang Nhật, không những Chu đã không bị bắt lạy mà còn được trọng vọng, Mitsukuni đã tiếp Chu như một quốc sư. Trong một bức thư gửi về Trung Quốc, Chu đã viết về Mitsukuni như sau: “Ông đầy đức độ và lòng dũng cảm, thông minh, và có văn hóa cao. Ông không ngần ngại theo lời khuyên của kẻ dưới… Giá có một vị chúa như vậy ở Trung Quốc, với sự giúp đỡ của những người có tài năng, ông ta có thể xây dựng một xã hội hòa hợp và thanh bình không mấy khó khăn”[13]. Tìm được đất dụng võ, Chu quyết định ở lại Nhật suốt hơn hai mươi năm cho đến lúc tạ thế để truyền bá Nho học. Về điểm này, trong phần kết luận của bài giới thiệu về Chu Thuấn Thủy khoảng hơn nửa thế kỷ trước, học giả Quán Chi Đào Trinh Nhất đã đưa ra nhận xét chí lý như sau: “[… Người nước ta] tiếc một ông thầy chân nho đến ở nhà mình 12 năm ròng rã, mà nhà nho mình thuở ấy không ai biết lợi dụng khải phát được điều gì, để cho ông thầy đâm chán, đem theo cái đạo học cao xa đi xứ khác mất. Cứ xem bọn nhà nho nước Nhật ở thế kỷ XVII tôn sùng họ Chu rồi sau mới biết Khổng học một cách khác hơn”[14]. Ngoài ra, qua tập ký sự của Chu Thuấn Thủy, chúng ta có thể tìm thấy những thông tin bổ ích khác về tình hình Đàng Trong giữa thế kỷ XVII. Chẳng hạn về ngôn ngữ, Chu cho biết một số cách xưng hô trong phủ Chúa mà từ trước đến nay không thấy ghi lại trong các tư liệu Việt Nam. Dựa theo các chú thích về cả hai mặt nghĩa và âm của tác giả, ta biết chúa Nguyễn tự xưng là tau (tức là tao) khi nói chuyện với quần thần; hoặc giả chữ mi (tức là mày) cũng là cách gọi phổ biến của người trên với người dưới, không những trong dân gian mà cả trong phủ Chúa. Chu còn cho chúng ta thấy đôi nét về cộng đồng người Hoa và người Nhật ở Hội An, tình hình học thuật, thư mục những sách chữ Hán ở Đàng Trong lúc bấy giờ. Tập ký sự của Chu còn đề cập đến tình trạng thích bói toán, khuynh hướng chuộng bằng cấp hư danh, đánh giá người theo khả năng làm thơ phú chứ không chú trọng đến thực học trong phủ Chúa lúc bấy giờ[15]. Điều này khác hẳn thái độ của chúa Sãi khi thu dụng Đào Duy Từ chỉ mới cách đấy có hai đời chúa. Khuynh hướng kỳ thị trong việc sử dụng nhân tài nước ngoài - không những của chúa Nguyễn mà của các triều đại Việt Nam nói chung - đều biểu hiện một thái độ đa nghi co mình lại. Chính vì thiếu ý thức tuyển dụng và nung đúc nhân tài nhằm xây dựng một nền thịnh trị lâu dài cho đất nước, nên một nhân vật có tầm cỡ như Chu Thuấn Thủy vẫn không tìm được đất dụng võ ở Việt Nam, phải đợi cho đến khi họ Chu sang Nhật mới có thể phát huy được sở học và tài năng của mình. Bài học lịch sử này vẫn còn đáng được cho chúng ta ngày nay suy ngẫm. Mời các bạn đón đọc Ký Sự Phục Dịch Ở An Nam của tác giả Chu Thuấn Thủy & Vĩnh Sính (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

999 Lá Thư Gửi Cho Chính Mình
“999 lá thư gửi cho chính mình” là một tác phẩm đặc biệt đầy cảm hứng đến từ tác giả văn học mạng nổi tiếng Miêu Công Tử, mang một màu sắc riêng biệt qua những lời thư nhỏ nhắn nhủ đến người đọc về giá trị cuộc sống, tình yêu, tuổi trẻ, tương lai… đã làm lay động trái tim của hàng vạn độc giả trẻ. Cầm trên tay cuốn sách “999 lá thư gửi cho chính mình” – bạn sẽ hiểu rằng: tuổi trẻ của chúng ta dù có mong manh đến đâu thì cũng sẽ thành công vượt qua mọi khó khăn một cách mạnh mẽ ngoài sức tưởng tượng. Một ngày nào đó, bạn sẽ cảm nhận được hạnh phúc, tự tin của chính bản thân và học được cách mỉm cười trước những nỗi đau của quá khứ. Bạn sẽ biết cách nói lời cảm ơn với những ai đã rời bỏ bạn, hiểu ra rằng họ không phải người thích hợp để cùng đồng hành với bạn trên đoạn đường chông gai đi tới tương lai. Đôi lúc bạn có thể yếu đuối mỏi mệt rơi nước mắt, thế nhưng khi bất chợt nhìn lại, bạn sẽ thấy thì ra mình đã rất mạnh mẽ, dũng cảm đi hết cả một quãng đường dài. “999 lá thư gửi cho chính mình” – Mong bạn trở thành phiên bản hoàn hảo nhất. Cái gọi là vẻ đẹp nội tâm luôn luôn tốt hơn vẻ bề ngoài hào nhoáng, hy vọng bạn sẽ mãi luôn kiên cường, dũng cảm đứng ở nơi ánh sáng chiếu rọi, sống tốt một cuộc sống mà mình hằng mong ước. *** Review Linh Naby: Có rất nhiều bạn trẻ hiện nay cảm thấy thất vọng với con người hiện tại của chính mình. Điều đáng sợ chính là, đám đông ấy không hề bé tẹo nào. Họ giắt trên mình đôi ba điều đẹp đẽ ngủ im trong quá khứ, để rồi chấp nhận cuộc sống tù túng, nhợt nhạt, vô vị, thậm chí hoang đường đến mức không tưởng tượng được. Thuở bé ai cũng nghĩ mình sẽ thực hiện nghĩ việc lớn lao, vĩ đại nhưng càng lớn lên chúng ta càng thu bé khả năng, tự thôi miên ngủ yên trong lớp vỏ bọc lớn xác, vô dụng. Chúng ta không biết rằng mình sẽ trở thành một người vô cùng tuyệt vời nếu chấp nhận thay đổi. Thưởng thức 999 Lá thư gửi cho chính mình của nhà văn học mạng Miêu Công Tử chính là cách để ta vạch ra lộ trình trở thành phiên bản tốt đẹp nhất của bản thân ngay từ hôm nay. Với lối văn tản mạn giản dị nhưng cực kì sâu sắc qua từng lá thư nhỏ bé đó, bạn có thể tìm thấy cho mình những quotes “chất như nước cất” mà lạ lùng thay lại thấm đẫm chất nhân văn vô cùng. Mỗi người sẽ chiêm nghiệm ra một giá trị sống, nhân sinh quan khác nhau nhưng tựu chung đều hướng đến một mục đích cuối cùng: đọc để tìm về chính mình ngày xưa, dũng cảm đối diện với nó và khám phá phiên bản tốt nhất của chính mình. Có nhiều người đánh giá, đây là một cuốn sách tản văn nhuốm màu self-help đáng đọc. Cũng có người phê phán nó có quá nhiều câu hoa mỹ, tựa như đứa bé tưởng mình đã lớn nhưng sâu thẳm tâm hồn vẫn ngây ngô về thế giới. Dù thế nào đi nữa, 999 Lá thư gửi cho chính mình thực sự là một cuốn sách gieo vào lòng tôi những cảm xúc rất lạ. Mỗi con chữ của từng bức thư đều khiến tôi nhớ rõ, thậm chí là tự động khắc ghi và học thuộc lòng. Cuốn sách 999 Lá thư gửi cho chính mình có hai tập. Tập 1 gồm 561 lá thư. Những lá thư còn lại ở bản kế tiếp. Điều đầu tiên tôi thắc mắc, đó chính là, vì sao lại là số 999 mà không phải 1000? Con số ấy nó đại diện cho điều gì? Khi người ta đọc, thường sẽ ít ai để tâm đến tựa đề tác phẩm. Nhưng điều kì lạ là đó mới là nơi tác giả cất chứa, gạn lọc tinh túy của tác phẩm. Khi nhắc đến con số 999 xin bạn hãy nhớ rằng “tam cửu” ấy chính là điềm lành. Không phải ngẫu nhiên mà vua Hùng đặt ra cho Sơn Tinh và Thủy Tinh lễ vật thách cưới là “voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao”. Mọi sự sắp đặt đều có ý nghĩa riêng của nó. Số 9 là con số may mắn nhất bởi nó tượng trưng cho sự tròn đầy, vẹn toàn của trời và đất. Nó gắn liền với sự trường cửu, quyền lực, sức mạnh của tự nhiên và sự cân bằng. Từ đó, ta có thể hiểu được dụng ý của Miêu Công Tử tức là truyền gửi một thông điệp rằng, hãy sống là chính mình hoàn hảo nhất, tốt đẹp nhất để mỗi  một trang đời mà bạn sống không phải là “bản nháp” nhàu nhĩ, đen xì với những vết đen của ân hận, tức tưởi do số phận tác động vào. Ngày nay, mỗi chúng ta đã quen với sự hiện diện của những tin nhắn công nghiệp nhanh chóng và mau lẹ. Chúng ta quên mất giá trị của những bức thư tay. Những bức thư luôn đong đầy cảm xúc và tràn đầy sự lãng mạn, ấm áp. Đừng cười cợt khi bất cứ ai làm một điều gì đó lãng mạn giữa cuộc sống khô khan, tẻ nhạt, lạnh lẽo này. Nếu bạn thấy điều ấy nực cười thì bạn phải, bạn nên, bạn cần đọc cuốn sách này lập tức và ngay bây giờ. Xin đừng chậm trễ việc gửi đến bản thân mình một phiên bản xinh đẹp hơn, sáng suốt hơn, trầm tĩnh, tốt đẹp hơn giữa thế gian này nếu có thể. Hãy xứng đáng với ước mơ của chính bản thân mình. Hãy nhớ “thay đổi chẳng bao giờ dễ dàng, nhưng điều đó luôn luôn khả thi”(Barack Obama). Lời nhắc nhở từ Những bức thư gửi chính mình – Mỗi ngày đều phải sống nghiêm cẩn Cuộc sống của ta như thế nào, đều do chính chúng ta quyết định mà nên. Hãy nghiêm cẩn sống cho xứng đáng với tuổi trẻ của mình. Hãy nhớ 999 lá thư và lắng nghe chút thơ ca lãng mạn nho nhỏ giữa cuộc đời chật chội:  Ta hay chê rằng cuộc đời méo mó Sao ta không tròn ngay tự trong tâm   (Nguyễn Quang Hưng) *** Cuốn sách 999 lá thư gửi cho chính mình của Miêu Công Tử mang đến cho người đọc những bài học ý nghĩa. Trong lúc bạn bi quan, lạc hướng thì cuốn sách này sẽ tạo cho bạn động lực để vượt qua phong ba tuổi trẻ. Cuộc đời này luôn luôn tồn tại rất nhiều khó khăn, chông gai và thử thách. Lắm khi chúng sẽ làm cho bạn đau khổ, khiến bạn bất lực, khiến bạn nản lòng muốn buông xuôi mọi thứ. Nhưng hãy luôn nhớ rằng những đau khổ của bạn cũng chỉ như chiếc lá nhỏ giữa rừng thu đầy lá. Bạn nghĩ mình đau khổ nhưng người khác càng bất hạnh hơn. Đừng chỉ vì một thất bại nhỏ mà bi quan. Ngày tháng còn dài, tương lai vẫn còn ngay trước mắt, tuyệt nhiên không cần phải bi quan. Còn trẻ còn cơ hội, cần gì phải lãng phí tuổi trẻ cho những thất bại không thể vãn hồi? Hãy mỉm cười, lạc quan lên và luôn tin rằng mình làm được. Bắt đầu từ hôm nay, mỗi ngày hãy luôn nở nụ cười trên môi, trên đời này ngoài sinh tử ra mọi sự đều là chuyện nhỏ. Cho dù gặp phải chuyện phiền lòng cũng đừng tự làm khó mình, bất luận hôm nay xảy ra bao nhiêu chuyện đen đủi, đều không nên cảm thấy bi thương. Hôm nay là ngày bạn trẻ nhất trong những ngày tháng sau này, vì còn có ngày mai, hôm nay mãi chỉ là bước khởi đầu của con đường tương lai. Mỉm cười luôn là cánh cửa đầu tiên dẫn lối cho hạnh phúc. Hãy luôn mỉm cười và cho bản thân mình một cơ hội để sống tốt hơn, ý nghĩa hơn. Tác giả của cuốn 999 lá thư gửi cho chính mình Miêu Công Tử là một người luôn sống với nụ cười luôn ở trên môi. Miêu Công Tử quan niệm rằng bất luận bạn gặp phải nghịch cảnh ra sao thì cũng hãy luôn là một người lạc quan, vui vẻ. Mình sinh ra đâu phải để buồn, để đau vì những điều không đáng, những người không đáng. Sao phải khóc vì họ, buồn vì họ? Cho dù cuộc sống có hàng nghìn lý do khiến bạn khóc, bạn cũng phải tìm cho mình một lý do để cười, bởi lẽ đó chính là cuộc đời, những gì chúng ta có thể làm chỉ là khiến bản thân mạnh mẽ hơn mà thôi. Mất mát và nước mắt là một phần của cuộc đời, bạn không thể tránh khỏi nó được. Chúng ta chỉ có thể mỉm cười lạc quan để mạnh mẽ vượt qua đớn đau. Quá trình bạn trải qua đớn đau chính là quá trình khiến bạn mạnh mẽ hơn. Lạc quan để mạnh mẽ, vui cười để hạnh phúc, đó là bí kíp lớn để tuổi trẻ của chúng ta không trôi qua vô nghĩa. Đừng mãi "mua dây buộc mình" vào những đau khổ, thất bại vì "phiền muộn không giữ qua đêm mới là hạnh phúc".  Không cần phải cố lấy lòng tất cả mọi người Cho dù bản thân bạn tốt đến như thế nào đối xử tốt với họ ra sao thì họ cũng sẽ sẽ không bao giờ hoàn toàn hài lòng với bạn. Có những người bạn không tốt thì họ khinh mà bạn tốt thì họ ghét. Họ luôn nói xấu sau lưng bàn tán ra vào, cứ phán xét về mình theo cảm nhận chủ quan của họ một cách quá đáng. Cuốn sách "999 lá thư gửi cho chính mình" luôn khuyên chúng ta rằng không cần phải giữ phiền muộn trong lòng, càng không cần quan tâm thiên hạ phán xét mình ra sao, bình luận thế nào. Nói là quyền của họ, còn buồn hay vui khi nghe những lời ấy là chuyện của mình. Không cần để ý người khác để ý gì chỉ cần làm tốt việc của mình. Suy nghĩ quá nhiều về những lời nói ác ý, oán hận quá nhiều về những người không hiểu mình chỉ làm bản thân thêm mệt mỏi mà thôi. Đến tầm này rồi, chẳng còn muốn lấy lòng ai nữa. Dù là người yêu hay bạn bè, ai khiến mình thấy thoải mái thì mình ở bên người đó, mệt rồi thì tránh xa người đó. Lấy lòng người khác vĩnh viễn không thể sánh với tự tạo niềm vui cho mình. Thà cô đơn chứ không dối lòng, thà hối tiếc chứ không tạm bợ. Người có thể bước vào trái tim tôi, đối đãi như quân vương, còn không thì tôi chẳng cần nhắc đến. Cuộc đời này là của bạn, không cần phải cố hết sức lấy lòng cả thiên hạ, được lòng tất cả mọi. Sống cốt là để vui vẻ, để thoải mái chứ không phải để nhọc lòng khiến mọi người đều thích mình còn bản thân thì vô cùng mệt mỏi. Lấy lòng người khác để khiến họ thích mình vĩnh viễn không thể vui vẻ bằng việc tự tạo ra niềm vui cho chính mình. Vì thế nên bạn hãy biết yêu thương bản thân một chút, biết phấn đấu cho bản thân một chút. Chỉ cần mình tốt thì sẽ có người thích bạn mà không cần phải cố lấy lòng họ: "Nếu bạn nở hoa bươm bướm tự bay đến, nếu bạn xuất sắc trời tự an bài.". Còn người không thích bạn khi bạn thật sự tốt thì đó thật sự không phải là một người hợp với bạn, đã không hợp thì cũng không cần phải luyến tiếc.    Mời các bạn đón đọc 999 Lá Thư Gửi Cho Chính Mình của tác giả Miêu Công Tử.
Chuyện cũ Hà Nội Tập 2
Năm vừa qua, Chuyện cũ Hà Nội đã được Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội tặng giải thưởng Thăng Long 1997-1998. Thật xứng đáng, vì trong khoảng chục năm trở lại đây, Chuyện cũ Hà Nội là một tập ký sự thật đặc sắc về đề tài Hà Nội. Có thể coi đó là một thứ Vũ Trung tùy bút thời hiện đại, vì với những mẩu chuyện không dài, Tô Hoài với tư cách một chứng nhân đã ghi lại “muôn mặt đời thường” của cái Hà Nội thời thuộc Tây. Tuy mới qua sáu, bảy chục năm mà dường như không mấy ai nhớ nữa, thậm chí đã trở thành chuyện đời xưa. Chuyện cũ Hà Nội ở lần xuất bản đầu tiên vào năm 1986 mới chỉ có bốn chục truyện. Tới lần tái bản này sách gồm 114 chuyện. Không gian được mở rộng, thời gian được dãn dài, chuyện đời, chuyện người phong phú lên nhiều. Điều đáng nói trước hết là ở lần in đầu, có lẽ nặng lòng với vùng quê ven đô sâu nặng ân tình nên các câu chuyện cũng nghiêng về những miền đất ngoại ô. Nay thì cả một nội thị Hà Nội dàn trải trong tập sách: Băm sáu phố phường, Cái tàu điện, Phố Mới, Phố Hàng Đào, Phố Hàng Ngang, Phố Nghề, Hội Tây, Bà Ba (Bé) Tý, Tiếng rao đêm, Cơm đầu ghế, Chiếc áo dài, Ông Hai Tây, Cây Hồ Gươm v.v. Chỉ nêu vài tên bài như thế cũng thấy sự hiện diện đa dạng của cái nội thành đa đoan lắm chuyện. Phố Hàng Đào với những “mợ Hai” khinh khỉnh, vàng ngọc đầy cổ đầy tay, phố Hàng Ngang với những chú tây đen thờ lợn, chủ hiệu vải, sinh hoạt bí hiểm song cũng đa tình, Phố Mới có nhà cầm đồ Vạn Bảo “lột da” dân nghèo, có cả chợ đưa người, một thứ chợ môi giới thuê mướn – cả mua bán – những vú em, thằng nhỏ, con sen… những thân phận nghèo hèn đem thân làm nô bộc cho thiên hạ. Rồi cái tầu điện leng keng, những ngày Hội Tây bên bờ Hồ Gươm, những tà áo dài từ thuở thay vai và nhuộm nâu Đồng Lầm đến áo Lơ Muya sặc sỡ mốt thời trang một thời… Cái hay ở Tô Hoài là những cái lăng nhăng sự đời ấy (chữ của Tản Đà) đã có ít nhiều người ghi lại. Chuyện ông Hai Tây làm xiếc, Bà Bé Tý lên đồng… sách báo đã từng đề cập. Nhưng lần này Tô Hoài lại nhìn ra những nét hoạt kê mới; hay cũng đã nhiều người viết về quà Hà Nội nhưng các bài Chả cá, Bánh cuốn, Phở của Tô Hoài có những thông tin hay, mới mẻ, ngay như Nguyễn Tuân cũng chưa phát hiện hết. Cũng như các loại tiếng rao hàng ban đêm thì Thạch Lam đã ghi chép vậy mà ở Tiếng rao đêm của Tô Hoài vẫn có nhiều ý tứ mới. Như vậy đó, với vài nét ký họa, Tô Hoài đã vẽ được cái thần thái của một thành phố nghìn tuổi đang đô thị hóa gấp gáp trở thành nửa Tây nửa ta, nửa cũ nửa mới, nửa sang nửa quê… Có một Hà Nội nhố nhăng như thế thì cũng có một Hà Nội lầm than. Cảnh lầm than ấy càng rõ nét hơn ở các làng quê ven nội. Thợ cửi, thợ giấy làm quần quật ngày đêm mà vẫn đói khổ, rồi nạn Tây đoan sục bắt rượu lậu và những người dân lành đói khổ phải nhận đi “tù rượu thay” để vợ con ở nhà có người chu cấp. Sự bần cùng ấy hằn sâu nhất trong chuyện Chết đói. Nạn đói năm 1945 đã làm vợi đi của làng Nghĩa Đô bao người. Ngay cả tác giả và bạn văn Nam Cao nếu không có một người quen ý tứ trả công dạy học lũ con ông ta bằng gạo thì “không biết chúng tôi có mắt xanh lè giống thằng Vinh hay dì Tư không, hay còn thế nào nữa”. Những câu chuyện “tang thương ngẫu lục” ấy đủ giúp bạn đọc trẻ nhận thấy thời nay hơn hẳn thời cũ, cuộc sống khá giả hơn trước nhiều lắm. Cho nên nói chuyện cũ mà tư tưởng sách không hề cũ. Trong sách còn một mảng kể về phong tục. Nhiều cái nay không còn. Như các đám múa sư tử thì đêm Rằm Trung Thu ở những phố Hàng Ngang, Hàng Đường và đánh nhau chí tử, quang cảnh những ngày áp tết dường như cả nước kéo về Hà Nội… Ở ven đô thì hội hè đình đám, khao vọng, đám ma… Các bài Làm ma khô, Thẻ thuế thân, Khổng Văn Cu vừa bi vừa hài. Có một bài tuyệt hay, đó là bài mô tả đám rước Thánh Tăng. Đích thị là một lễ hội phồn thực có từ đời nảo đời nao mà tới tận thời Pháp thuộc vẫn còn tồn tại, lại ở ngay sát nách kinh kỳ. Bấy nhiêu hình ảnh không bao giờ xuất hiện nữa nhưng tôi cứ nghĩ rằng ngày nay, ít ra thì những nhà làm phim lịch sử, viết truyện lịch sử, dựng kịch lịch sử rất cần đến. Chuyện cũ Hà Nội chính là một tập ký sự về lịch sử. Thể này đòi hỏi ở nhà văn ngoài tài văn chương còn phải có vốn liếng kiến thức về cuộc đời, có năng lực quan sát và kỹ thuật phân tích, để trên cơ sở đó trình bày được những điều cần nói từ những sự vật, sự việc, con người. Tô Hoài đã làm được như vậy. Sự hiểu biết của ông về Hà Nội thời thuộc Pháp thật phong phú, thêm sự quan sát tinh, phân tích sắc, văn lại đậm đà và hóm, các mẩu chuyện dù là chân dung một nhân vật, ký họa về một cảnh, hay giãi bày một tâm sự, đều hấp dẫn, vì đó là những điều mới lạ (dù là chuyện thời cũ) và rung động lòng người vì những tình cảm chân thành nhân hậu. Chuyện cũ Hà Nội còn có thể coi là một tập điều tra xã hội học về Hà Nội thời nửa đầu thế kỷ XX bằng văn chương. Bất luận bạn đọc ở giới nào cũng có thể tìm được những điều mình cần biết mà chưa biết. Chuyện cũ Hà Nội được giải thưởng Thăng Long có lẽ còn vì lẽ đó. NGUYỄN VINH PHÚC 10.1999 *** Tô Hoài (tên khai sinh: Nguyễn Sen; 27 tháng 9 năm 1920 – 6 tháng 7 năm 2014) là một nhà văn Việt Nam. Một số tác phẩm đề tài thiếu nhi của ông được dịch ra ngoại ngữ. Ông được nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật Đợt 1 (1996) cho các tác phẩm: Xóm giếng, Nhà nghèo, O chuột, Dế mèn phiêu lưu ký, Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Mười năm, Xuống làng, Vỡ tỉnh, Tào lường, Họ Giàng ở Phìn Sa, Miền Tây, Vợ chồng A Phủ, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ.    Tô Hoài sinh ra tại quê nội ở thôn Cát Động, Thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ trong một gia đình thợ thủ công. Tuy nhiên, ông lớn lên ở quê ngoại là làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam. Bút danh Tô Hoài gắn với hai địa danh: sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức. Bước vào tuổi thanh niên, ông đã phải làm nhiều công việc để kiếm sống như dạy trẻ, bán hàng, kế toán hiệu buôn,… nhưng có những lúc thất nghiệp. Khi đến với văn chương, ông nhanh chóng được người đọc chú ý, nhất là qua truyện Dế Mèn phiêu lưu ký. Năm 1943, Tô Hoài gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc. Trong chiến tranh Đông Dương, ông chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực báo chí, nhưng vẫn có một số thành tựu quan trọng như Truyện Tây Bắc. Từ năm 1954 trở đi, ông có điều kiện tập trung vào sáng tác. Tính đến nay, sau hơn sáu mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, truyện dài kỳ, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác. Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 2014 tại Hà Nội, hưởng thọ 94 tuổi. *** đầu, nhọn đầu và con tôm khác con tép thế nào. Chỉ có thể thỏa thuận với nhau rằng thịt chó là một món ăn chơi, ăn chơi thì có kẻ yêu người ghét và khách ăn chơi thì vốn xưa nay không ai chịu ai. Chó có nhiều biệt hiệu. Gọi là con mộc tồn. Mộc là cây, tồn là còn, cây còn nói lái là con cầy. Vùng Hải Phòng, các quán thịt chó đều lịch sự kẻ bảng: Thịt cầy. Có nơi gọi chó là con hươu thềm, hươu nuôi trong nhà ở trước thềm hè. Ở Sài Gòn có hiệu thịt chó đề là: quán hạ cờ Tây (cờ tây là cầy tơ). Lắm biệt hiệu thế, hẳn phải nổi danh và nhiều tai tiếng rồi. Bởi vì thịt chó không giống thịt lợn, thịt gà hiền lành ai ăn cũng được. Cũng như, một người đẹp, một tác phẩm hay bao giờ cũng có kẻ say đắm thích thú đến mê tơi, lại có người chê bai đủ điều. Ấy là không kể người đồng bóng, người thương con chó có nghĩa, người chỉ ngửi mùi thịt đã nhăn mũi. Người yêu thịt chó nhưng dị đoan kiêng chó đen, không đụng đến chó đầu tháng cuối tháng và ra đường tránh gặp chó đón ngõ. Ở đâu cũng vỗ ngực chỉ có vùng mình, làng mình và phải tay mình làm thịt chó mới đáng ăn. Chưa thấy nơi nào, người nào chịu tài làm thịt chó của vùng ấy, người ấy hơn ta. Bên Triều Tiên và các tỉnh Hoa Nam (Trung Quốc) cũng ăn thịt chó. Ông Sinh chủ quán hàng Lược đã được mời mấy tháng đi Triều Tiên làm chuyên gia dạy nấu thịt chó. Tôi chưa được thưởng thức thịt chó ở các nơi trên, nhưng đã có dự một tiệc thịt chó ở Bắc Kinh. Dạo ấy, Hoàng Văn Hoan đương chơi dài ở Bắc Kinh. Ông ngồi công kích truyện Kiều của Nguyễn Du bắt chước Trung Quốc. Ông mời tôi một bữa ăn để có thì giờ nói cho hả. Đặc sản thịt chó Hoa Bắc món nấu, món xào sực nức thảo quả. Người Nga ăn thịt chó, ăn hẳn hoi. Bữa ấy Mixen phóng viên báo Tin Tức của Liên Xô ở Hà Nội chén thịt chó ở nhà tôi. Không phải nói trệch là sốt vang, là thịt cừu nướng, thịt cừu nấu súp. Các bạn thực tình ăn ngon và ăn nhiều. Nhưng cũng có điều không bình thường, họ chỉ chén chả chó, rựa mận và “giả cầy”, chấm cả mắm tôm chanh ớt mà không đụng thìa dĩa vào đĩa thịt chó và lòng gan luộc. Trên thế giới, ít nơi ăn thịt luộc như ta. Không phải chó nào cũng đem mổ thịt được. Chó becgiê cao cẳng, chó Nhật, chó cảnh bé bỏng như nắm bông, thịt tanh. Chỉ có giống chó đâu cũng có ở nước ta, những con vàng, con vện, con đốm, con khoang, con mực thấp cun cún, chân trước chân sau không dài, không ngắn ngủn hoẳn mà tỏi chân sau vè chân nổi bắp tròn trành trạnh. Thịt chó ấy mới đậm, nói tiếng Mường nó là con chó chứ không phải con má. Thịt chó là món khó tính, không chịu chơi. Trong mâm và bữa ăn thịt chó không ưa chung đụng với món khác. Và khi nấu nướng, người ta thường ganh nhau “sáng tạo”. Ở Sài Gòn bây giờ, các hiệu thịt chó quảng cáo: cầy tơ bảy món, thịt chó 24 món, chả chó đặc biệt… nhưng dù cho các nhà sáng tác có khuếch khoác hươu vượn tới đâu, có bày vẽ bao nhiêu món, thì món nào cũng từa tựa ở cái gốc năm chiêu cổ điển mà ra: 1- Thịt và lòng gan luộc. 2- Chả. 3- Rựa mận. 4- Giả cầy. 5- Sáo chó.   Mời các bạn đón đọc Chuyện cũ Hà Nội Tập 2 của tác giả Tô Hoài.
Chuyện cũ Hà Nội Tập 1
Năm vừa qua, Chuyện cũ Hà Nội đã được Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội tặng giải thưởng Thăng Long 1997-1998. Thật xứng đáng, vì trong khoảng chục năm trở lại đây, Chuyện cũ Hà Nội là một tập ký sự thật đặc sắc về đề tài Hà Nội. Có thể coi đó là một thứ Vũ Trung tùy bút thời hiện đại, vì với những mẩu chuyện không dài, Tô Hoài với tư cách một chứng nhân đã ghi lại “muôn mặt đời thường” của cái Hà Nội thời thuộc Tây. Tuy mới qua sáu, bảy chục năm mà dường như không mấy ai nhớ nữa, thậm chí đã trở thành chuyện đời xưa. Chuyện cũ Hà Nội ở lần xuất bản đầu tiên vào năm 1986 mới chỉ có bốn chục truyện. Tới lần tái bản này sách gồm 114 chuyện. Không gian được mở rộng, thời gian được dãn dài, chuyện đời, chuyện người phong phú lên nhiều. Điều đáng nói trước hết là ở lần in đầu, có lẽ nặng lòng với vùng quê ven đô sâu nặng ân tình nên các câu chuyện cũng nghiêng về những miền đất ngoại ô. Nay thì cả một nội thị Hà Nội dàn trải trong tập sách: Băm sáu phố phường, Cái tàu điện, Phố Mới, Phố Hàng Đào, Phố Hàng Ngang, Phố Nghề, Hội Tây, Bà Ba (Bé) Tý, Tiếng rao đêm, Cơm đầu ghế, Chiếc áo dài, Ông Hai Tây, Cây Hồ Gươm v.v. Chỉ nêu vài tên bài như thế cũng thấy sự hiện diện đa dạng của cái nội thành đa đoan lắm chuyện. Phố Hàng Đào với những “mợ Hai” khinh khỉnh, vàng ngọc đầy cổ đầy tay, phố Hàng Ngang với những chú tây đen thờ lợn, chủ hiệu vải, sinh hoạt bí hiểm song cũng đa tình, Phố Mới có nhà cầm đồ Vạn Bảo “lột da” dân nghèo, có cả chợ đưa người, một thứ chợ môi giới thuê mướn – cả mua bán – những vú em, thằng nhỏ, con sen… những thân phận nghèo hèn đem thân làm nô bộc cho thiên hạ. Rồi cái tầu điện leng keng, những ngày Hội Tây bên bờ Hồ Gươm, những tà áo dài từ thuở thay vai và nhuộm nâu Đồng Lầm đến áo Lơ Muya sặc sỡ mốt thời trang một thời… Cái hay ở Tô Hoài là những cái lăng nhăng sự đời ấy (chữ của Tản Đà) đã có ít nhiều người ghi lại. Chuyện ông Hai Tây làm xiếc, Bà Bé Tý lên đồng… sách báo đã từng đề cập. Nhưng lần này Tô Hoài lại nhìn ra những nét hoạt kê mới; hay cũng đã nhiều người viết về quà Hà Nội nhưng các bài Chả cá, Bánh cuốn, Phở của Tô Hoài có những thông tin hay, mới mẻ, ngay như Nguyễn Tuân cũng chưa phát hiện hết. Cũng như các loại tiếng rao hàng ban đêm thì Thạch Lam đã ghi chép vậy mà ở Tiếng rao đêm của Tô Hoài vẫn có nhiều ý tứ mới. Như vậy đó, với vài nét ký họa, Tô Hoài đã vẽ được cái thần thái của một thành phố nghìn tuổi đang đô thị hóa gấp gáp trở thành nửa Tây nửa ta, nửa cũ nửa mới, nửa sang nửa quê… Có một Hà Nội nhố nhăng như thế thì cũng có một Hà Nội lầm than. Cảnh lầm than ấy càng rõ nét hơn ở các làng quê ven nội. Thợ cửi, thợ giấy làm quần quật ngày đêm mà vẫn đói khổ, rồi nạn Tây đoan sục bắt rượu lậu và những người dân lành đói khổ phải nhận đi “tù rượu thay” để vợ con ở nhà có người chu cấp. Sự bần cùng ấy hằn sâu nhất trong chuyện Chết đói. Nạn đói năm 1945 đã làm vợi đi của làng Nghĩa Đô bao người. Ngay cả tác giả và bạn văn Nam Cao nếu không có một người quen ý tứ trả công dạy học lũ con ông ta bằng gạo thì “không biết chúng tôi có mắt xanh lè giống thằng Vinh hay dì Tư không, hay còn thế nào nữa”. Những câu chuyện “tang thương ngẫu lục” ấy đủ giúp bạn đọc trẻ nhận thấy thời nay hơn hẳn thời cũ, cuộc sống khá giả hơn trước nhiều lắm. Cho nên nói chuyện cũ mà tư tưởng sách không hề cũ. Trong sách còn một mảng kể về phong tục. Nhiều cái nay không còn. Như các đám múa sư tử thì đêm Rằm Trung Thu ở những phố Hàng Ngang, Hàng Đường và đánh nhau chí tử, quang cảnh những ngày áp tết dường như cả nước kéo về Hà Nội… Ở ven đô thì hội hè đình đám, khao vọng, đám ma… Các bài Làm ma khô, Thẻ thuế thân, Khổng Văn Cu vừa bi vừa hài. Có một bài tuyệt hay, đó là bài mô tả đám rước Thánh Tăng. Đích thị là một lễ hội phồn thực có từ đời nảo đời nao mà tới tận thời Pháp thuộc vẫn còn tồn tại, lại ở ngay sát nách kinh kỳ. Bấy nhiêu hình ảnh không bao giờ xuất hiện nữa nhưng tôi cứ nghĩ rằng ngày nay, ít ra thì những nhà làm phim lịch sử, viết truyện lịch sử, dựng kịch lịch sử rất cần đến. Chuyện cũ Hà Nội chính là một tập ký sự về lịch sử. Thể này đòi hỏi ở nhà văn ngoài tài văn chương còn phải có vốn liếng kiến thức về cuộc đời, có năng lực quan sát và kỹ thuật phân tích, để trên cơ sở đó trình bày được những điều cần nói từ những sự vật, sự việc, con người. Tô Hoài đã làm được như vậy. Sự hiểu biết của ông về Hà Nội thời thuộc Pháp thật phong phú, thêm sự quan sát tinh, phân tích sắc, văn lại đậm đà và hóm, các mẩu chuyện dù là chân dung một nhân vật, ký họa về một cảnh, hay giãi bày một tâm sự, đều hấp dẫn, vì đó là những điều mới lạ (dù là chuyện thời cũ) và rung động lòng người vì những tình cảm chân thành nhân hậu. Chuyện cũ Hà Nội còn có thể coi là một tập điều tra xã hội học về Hà Nội thời nửa đầu thế kỷ XX bằng văn chương. Bất luận bạn đọc ở giới nào cũng có thể tìm được những điều mình cần biết mà chưa biết. Chuyện cũ Hà Nội được giải thưởng Thăng Long có lẽ còn vì lẽ đó. NGUYỄN VINH PHÚC 10.1999 *** Tô Hoài (tên khai sinh: Nguyễn Sen; 27 tháng 9 năm 1920 – 6 tháng 7 năm 2014) là một nhà văn Việt Nam. Một số tác phẩm đề tài thiếu nhi của ông được dịch ra ngoại ngữ. Ông được nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật Đợt 1 (1996) cho các tác phẩm: Xóm giếng, Nhà nghèo, O chuột, Dế mèn phiêu lưu ký, Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Mười năm, Xuống làng, Vỡ tỉnh, Tào lường, Họ Giàng ở Phìn Sa, Miền Tây, Vợ chồng A Phủ, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ.    Tô Hoài sinh ra tại quê nội ở thôn Cát Động, Thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ trong một gia đình thợ thủ công. Tuy nhiên, ông lớn lên ở quê ngoại là làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam. Bút danh Tô Hoài gắn với hai địa danh: sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức. Bước vào tuổi thanh niên, ông đã phải làm nhiều công việc để kiếm sống như dạy trẻ, bán hàng, kế toán hiệu buôn,… nhưng có những lúc thất nghiệp. Khi đến với văn chương, ông nhanh chóng được người đọc chú ý, nhất là qua truyện Dế Mèn phiêu lưu ký. Năm 1943, Tô Hoài gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc. Trong chiến tranh Đông Dương, ông chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực báo chí, nhưng vẫn có một số thành tựu quan trọng như Truyện Tây Bắc. Từ năm 1954 trở đi, ông có điều kiện tập trung vào sáng tác. Tính đến nay, sau hơn sáu mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, truyện dài kỳ, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác. Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 2014 tại Hà Nội, hưởng thọ 94 tuổi. Mời các bạn đón đọc Chuyện cũ Hà Nội Tập 1 của tác giả Tô Hoài.