Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Công Chúa Của Thế Giới Đêm - Kanade Minamino

Nó: Nguyễn Thị Thùy Trâm (Wendy) Cháu gái vàng bạc châu báu của tập đoàn Đại Phong lớn nhất thế giới về mọi mặt. Cực kì xinh đẹp nhưng cũng rất lạnh lùng ngầm (một con người đa zi năng đó, lí do thì chỉ có người trong nhà và bốn đứa bạn chí cốt biết). Cao 1m75. Thích màu hồng. Sinh nhật: 2.5.1998 (Ngưu Chan ấy nhở).Cực kì ghét những tên lăng nhăng. Đai đen tất cả các ngón võ. Đã tốt nghiệp ba trường đại học hàng đầu của Mỹ về thời trang (loại xuất sắc) năm 16 tuổi. Chủ tịch tập đoàn Sanding - tập đoàn thời trang đứng đầu thế giới. Bang chủ bang A&D đứng đầu thế giới đêm (đã rớt xuống hạng 2 trong lúc tụi nó đi du học vì bị bang K&W chiếm ngôi). IQ: 300/300. Phan Anh Thảo Vân (Ji) Con gái độc nhất của tập đoàn The Rose lớn nhì thế giới về mọi mặt. Rất xinh đẹp. Biết quan tâm đến người khác nhưng cũng rất lạnh lùng khi gặp chuyện. Cao 1m74. Thích màu xanh nước biển. Sinh nhật: 22.7.2998 (Em là bé Cua). Giỏi võ giống nó. Cũng đã tốt nghiệp đại học giống nó. Phó chủ tịch Sanding. Phó bang chủ A&D. IQ: 300/300. Bạn thân của nó. Trần Ngọc Lan Như (Yun) Cháu gái út tập đoàn Trần Ngọc - tập đoàn lớn thứ năm trên thế giới. Cũng rất xinh đẹp. Ham ăn, ham ngủ, ham chơi, hồn nhiên, dễ thương nhưng khi gặp chuyện thì trở nên lanh lùng. Cao 1m76. Thích màu vàng. Sinh nhật: 17.12.1998. (Nửa người nửa ngựa). Giỏi võ giống nó, cũng đã tốt nghiệp đại học giống nó.Giám đốc Sanding và bang phó bang A&D. IQ: 300/300. Cũng là bạn thân của nó. Đặng Thị Ngọc Hân (Kull) Cháu gái duy nhất của tập đoàn Đặng Thị - Tập đoàn lớn thứ bảy trên thế giới về mọi mặt. Hiều lành, đảm đang, dịu dàng nhất trong bốn đứa tụi nó. Xinh đẹp, giỏi võ không kém gì ba tụi nó. Cũng đã tốt nghiệp đại học giống ba tụi nó. Cao 1m73. Thích màu trắng. Sinh nhật:13.9.1998 (Xử Nữ dịu dàng). Còn lại giống nó. Phó giám đốc Sanding và bang phó thứ 2 bang A&D. Hắn: Hoàng Văn Minh Tuấn (Windy) Cháu trai độc nhất của chủ tịch tập đoàn Thành Công - tập đoàn lớn nhất thế giới về mọi mặt. (ngang tầm với nhà nó). Cực kì đẹp trai nhưng cũng rất lạnh lùng. Cũng đai đen tất cả các ngón võ. Sinh nhật: 9.1.1998. Cao 1m85. Bang chủ bang A&D đứng đầu thế giới đêm (chiếm vị trí số 1 của bang K&W). Hội phó hội học sinh Star School. IQ: 300/300. Phạm Duy Hùng (Jin) Cháu trai trưởng tập đoàn Phạm Hùng - tập đoàn đứng thứ ba thế giới về mọi mặt. Lanh lùng, không thích con gái vây xung quanh. Trong tim chỉ có hình bóng của một người - cô bạn thời thơ ấu (ai thì từ từ sẽ biết - chung thủy quá!). Giỏi võ không kém gì tụi nó (cùng một lò ra mà). Sinh nhật: 3.3.1998. Cao 1m84. Hotboy no.2 của học viện Star School (tự hiểu xem Jin có đẹp trai hay không đi nha). Là bạn từ nhỏ của tụi nó và tụi hắn. Phó bang chủ bang bang K.W. là bạn thân của cả hắn và tụi nó. Đội phó đội bảo vệ học sinh Star School. IQ: 300/300. Đoàn Quang Minh (Yin) Cháu trai trưởng tập đoàn Hải Âu - tập đoàn đứng thứ tư trên thế giới về mọi mặt. Handsome nhưng không lăng nhăng. Giỏi võ giống hắn. Cao 1m86. Sinh nhật: 15.8.1998 (vua của trăm thú). Bang phó bang K&W. IQ: 300/300. Hottboy no.3 học viện Star School. Đội trưởng đội quản lý học sinh Star School. Cũng là bạn thân của hắn. Huỳnh Võ Minh Quân (Ken) Cháu trai thứ tập đoàn Huỳnh Võ - tập đoàn đứng thứ tư sáu trên thế giới. Còn lại giống hắn. Cao 1m83. Sinh nhật: 12.4.1998 (Cừu trắng đây nè). Hotboy no.4 học viện Star School. Bang phó thứ hai bang K&W. IQ: 300/300. Thành viên còn lại của 'Tứ hoàng tử' học viện Star School. Đội phó đội quản lý học sinh Star School. *** Su và SumiPhòng phục hồi chức năng bệnh viện - Từ từ thôi anh.... - Sumi dìu Su đi từng bước nhẹ - Anh phải cố gắng để đi được...... - Su cắn răng nói, mồ hôi lấm tấm trên trán - Vì sao? - Vì khi nào anh đi được, anh mới có đủ can đảm để cùng em đi trên con đường tiến vào lễ đường. - Su nắm lấy bàn tay của Sumi - Anh không muốn trở thành gánh nặng cho em với đôi chân tật nguyền này..... - Anh đừng nói vậy chứ.... - Sumi nhăn mặt giận dỗi - Anh không có tật nguyền..... Đừng nói như vậy...... Anh đã không màng đến mạng sống để cứu chị Wendy, thế đối với em là tất cả rồi...... Anh lúc nào cũng thế...... Năm xưa, hai chúng ta không hề quen biết mà khi thấy em và anh Minh cãi nhau anh liền nhảy vào cứu em dù không biết chuyện gì..... - Thì vì thế anh mới quen được một cô gái tốt như em chứ..... - Su véo nhẹ Sumi - Anh này..... - Sumi đỏ mặt mỉm cười - Cảm ơn em, vì đã ở bên anh..... - Su cúi xuống hôn Sumi - Làm vợ anh nhé..... - Em đồng ý..... - Sumi khẽ gật đầu - Dù có chuyện gì xảy ra thì em cũng mãi yêu anh..... - Anh quyết tâm rồi..... Khi nào anh đi lại được, anh sẽ mang nhẫn kim cương đến cầu hôn em..... - Su cười - Tập luyện tiếp nào..... Tiếng cười giòn tan vang vọng khắp căn phòng ... Mời các bạn đón đọc Công Chúa Của Thế Giới Đêm của tác giả Kanade Minamino.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Miền Đất Ấy - Antônio Torres
Antônio Torres sinh năm 1940 tại Junco, trong khu heo hút của vùng rừng gần như nguyên sinh của miền Bahia. Chúng ta có thể hiểu là: ông thuộc về thế hệ các nhà văn mới đã bén rễ trong vùng Nordeste[1] của quốc gia Brésil. Độc giả của Graciliano Ramos, của Jorge Amado hay Rachel de Queiroz, những bậc thầy của “tiểu thuyết xã hội xứ Nordeste” trong những năm ba mươi, sẽ nhận ra rằng miền đất dữ dội ấy không ngừng nuôi dưỡng sự tưởng tượng và sáng tạo nghệ thuật. Và những ai đã từng tin rằng dòng máu mang tính địa phương chủ nghĩa đã bị cạn kiệt cùng với sự thâm nhập tài tình của João Guimarães Rosa mà tác phẩm của ông đã biến hóa sự phong phú về chủ đề và ngôn ngữ địa phương bằng một tác phẩm cách tân mang tầm toàn cầu, sẽ nghe thấy những tiếng kêu với các trọng âm cấp thiết hơn của miền đất này mà hiện giờ đang trong cơn biến động. Junco không vang lên bên tai chúng ta như những cái tên khiến ta mê hoặc như Salvador, như Recife, Porto Seguro. Junco chẳng có gì khác biệt, không có gì đặc sắc, nó cũng tựa như hàng ngàn những ngôi làng bị hủy diệt bởi sự hoang tàn ù lì của sự đói nghèo và thi thoảng lại bị nạn hạn hán hoành hành. Và trên hết, Junco ngày nay là một vùng đất bị chính những đứa con mình bỏ rơi, những đứa con đó đã ra đi hoặc mơ mộng sẽ ra đi tới những thành phố của “phép mầu công nghiệp”, như Rio de Janeiro, Sao Paulo… Phải chăng sự phản bội ấy là nguyên nhân của tai họa mà nó hình như đè nặng lên những đứa con của vùng đất đã hy sinh vì sự tiến bộ? Mời các bạn đón đọc Miền Đất Ấy của tác giả Antônio Torres.
Mặt Trăng và Đồng Sáu Xu - William Somerset Maugham
MẶT TRĂNG VÀ ĐỒNG SÁU XU mượn một phần tiểu sử của danh họa người Pháp Paul Gauguin, một trong những họa sĩ tiên phong, một tên tuổi rất lớn và đầy sáng tạo của hội họa hiện đại, xuất hiện gần như đồng thời với sự ra đời lừng lẫy của các họa sĩ trường phái Ấn tượng. S. Maugham đã mượn câu chuyện nửa thực nửa hư về cuộc đời của nhà danh họa để trình bày những ý nghĩ của mình về Nghệ thuật, Tình yêu và Con người. Chắc hẳn ông có dựa vào quyển hồi ký của chính nhà danh họa, nhưng ở nhiều chỗ ông đã hư cấu với thủ pháp quen thuộc của mình. Ở đây chúng ta gặp lại Maugham với những chủ đề ta đã từng gặp trong hai tác phẩm kia: con người, dục vọng, nghệ thuật… Có thể nói trong cả ba tác phẩm nổi bật nhất này của mình, Maugham đều viết về sự ràng buộc mà cái bản năng lớn nhất của con người là Dục vọng (và dĩ nhiên theo nó là Tình Yêu) tác động lên nhân vật chính của tác phẩm, là những người đàn ông. Ở Of Human Bondage đó là sự ràng buộc, của dục vọng - tình yêu, trên một người bình thường. Ở The Radzor’s Edge là ràng buộc trên một người đi tìm sự giải thoát và ở The Moon and Sixpence là ràng buộc trên một nghệ sĩ thiên tài. Câu chuyện của 3 tác phẩm nói chung là mô tả cách những người đàn ông đó đã phản ứng lại sự ràng buộc kia… Khoảng năm 1972 - 1973 ở Sài gòn xuất hiện bản dịch The Moon and Sixpence dưới cái tên “Đời nghệ sĩ” (nxb Ca dao). Một nhà phê bình khó tính đã than trời về bản dịch này. Tôi tình cờ kiếm được nguyên tác ở chợ sách son trên hè phố Sài Gòn và đã kiểm chứng được lời than phiền này. Quả là một bản dịch quá tệ, tôi thử so vài trang để sửa và kết quả là mỗi trang của bản dịch được tôi sửa chi chít đen kịt, đó chỉ là với khả năng của một người có vỏn vẹn ít năm học tiếng Anh ở trường trung học. Tình cờ ít năm sau đó cũng trên hè phố bán son, tôi lại “vớ” được quyển nhật ký của Paul Gauguin dịch ra tiếng Anh với cái nhan đề The Intimate Journal. Kể cũng là duyên phận. Sách in lại nhiều bức tranh của Gauguin để minh họa. *** William Somerset Maugham là nhà văn Anh, sinh năm 1874 và sống ở Pháp cho đến khi lên mười. Học xong đại học ở Anh, ông làm thầy thuốc tại bệnh viện. Có khiếu văn chương, ông sớm bắt đầu viết tiểu thuyết và thành công với vài tác phẩm đầu tay, rồi chuyển hẳn sang sáng tác văn học. Ông nổi tiếng với hai truyện dài Kiếp người (Of Human Bondage) (1914) và Mặt trăng và đồng sáu xu(The Moon and sixpence) (1919). Trong số sách được xuất bản sau đó có: (Bức Bình phong (The Painted Veil) (1925),Quý Ngài trong phòng khách (The Gentleman in the Parlour) (1930), Don Fernando (1935), Lưỡi dao cạo (The Razor’s Edge) (1944), Sổ tay nhà văn (A Writer’s Notebook)(1949), Cách nhìn thiên vị (Points of View) (1958),… W.S. Maugham đồng thời còn là một nhà soạn kịch trứ danh với những sáng tác như: Phu nhân Frederick (Lady Frederick) (1907), Smith (1909), Đất hứa (The Land of Promise) (1913). Ông cũng là tác giả nhiều truyện ngắn rất được hoan nghênh. Toàn tập truyện ngắn của ông được tái bản nhiều lần với số lượng mấy trăm nghìn bản, ví dụ như Mưa. Trong Mặt trăng và đồng sáu xu, tác giả kể lại cuộc đời một nhà buôn cổ phần chứng khoán trở thanh họa sĩ thiên tài mà người đương thời chưa đánh giá đúng giá trị tác phẩm cho tới khi ông qua đời một cách thê thảm ở nơi đất khách quê người. Kinh doanh thành đạt, sống sung túc, được vợ con hết lòng yêu mến, Charles Strickland bất thình lình bỏ gia đình ra đi, không còn quan hệ với cái xã hội ông đã từng sống, quyết tâm hiến cả đời mình cho hội họa. Ông sống gian khổ trong nhiều năm phấn đấu không thành công ở Paris. Hoàn cảnh xui khiến, ông đi tìm môi trường sáng tác mới ở một nơi xa xôi ở cái tuổi gần năm mươi. Trên đảo Tahiti, trong một gian nhà nhỏ ở một vùng hẻo lánh, được chăm sóc bởi người vợ trẻ, ông miệt mài vẽ cho đến ngày chết vì bệnh hủi, mù cả hai mắt. Tác phẩm cuối cùng của ông là những bức tranh vẽ trên vách và trần nhà mà người được may mắn nhìn thấy đánh giá là kiệt xuất. Với tính khí khác thường vốn có, ông yêu cầu vợ đốt căn nhà, nhưng những bức tranh vẽ trên vải không đóng khung vứt lung tung trong nhà đủ cho những ai hiểu biết hội họa coi ông là một thiên tài. Mời các bạn đón đọc Mặt Trăng và Đồng Sáu Xu của tác giả William Somerset Maugham.
Gánh Hàng Hoa
Tác phẩm miêu tả cuộc sống của tầng lớp trí thức nghèo tại Hà Nội trong những năm 30 của thế kỷ 19. Chàng thư sinh tên Minh có vợ là một cô gái xinh đẹp, duyên dáng, người làng Ngọc Hà, làm nghề trồng hoa và bán hoa. Cuộc sống vợ chồng tuy vất vả nhưng vui vẻ và hạnh phúc. Vợ Minh, Liên, là bạn của anh từ thuở nhỏ, vô cùng yêu chồng, hết lòng kiếm tiền nuôi chồng ăn học để mong chồng đỗ đạt. Nhưng rồi Minh vì tính đa nghi ghen tuông lại nghĩ sai về tình cảm tốt đẹp của người bạn học với mình, anh Văn và Liên. Từ sau cuộc nhậu ở nhà Văn, Minh ngã bị thương vào mắt và tạm thời không thấy ánh sáng trong một khoảng thời gian, anh sinh ra tiêu cực, chán nản, càng đa nghi. Tuy vậy, chính Minh sau khi khỏi mắt cũng bị sắc đẹp của người con gái khác làm cho xao lòng, bỏ nhà ra đi.. *** Gánh Hàng Hoa gồm có: Hy Vọng Hạnh Phúc Sau Ngày Vui Hương Và Sắc Sáng Và Tối Hy Sinh Viết Báo Trong Vườn Bách Thảo Ánh Sáng Khủng Hoảng Hai Cảnh Mộng Con Đường Cũ Đời Vẫn Vui, Vẫn Đẹp Mời các bạn đón đọc Gánh Hàng Hoa của hai tác giả Khái Hưng & Nhất Linh.
Bông Huệ Đỏ - Anatole France
“Một trong những tác phẩm viết về tình yêu hay nhất của nền văn học Pháp”. Sự đánh giá ấy đối với cuốn tiểu thuyết Bông huệ đỏ đã có từ lâu, và gần như được công nhận hoàn toàn trong đông đảo người đọc, cũng như trong giới phê bình Pháp.   Hay nhất, không phải vì nội dung tác phẩm, số phận nhân vật và tình yêu của họ đã vượt ra ngoài tầm cỡ con người bình thường, mà trái lại, là một bước dấn sâu hơn vào thế giới nội tâm phong phú phức tạp của những con người bình thường. Ba người ấy, nàng Thérèse diễm lệ và đa tình, chàng Le Ménil, rồi chàng Decharre, hoàn toàn không phải là những “siêu nhân”. Họ trần tục như hết thảy những người trần tục nhất. Họ đến với nhau, hòa quyện vào nhau, thiêu đốt nhau trong ngọn lửa đắm say cực kỳ mãnh liệt, để rồi cùng chính lúc ấy, họ gieo mầm khổ ải cho nhau bởi sự ham hố bất tận, tính ích kỷ và sự ghen tuông. Tình yêu là hạnh phúc, nhưng tình yêu cũng là khổ đau? Hạnh phúc trong khổ đau? Hay khổ đau trong hạnh phúc? Con người không phải không luôn luôn tự đặt ra những câu hỏi như vậy. Nhưng kết cục con người vẫn không thoát khỏi nỗi đam mê mà tấm lưới tình yêu đã giăng sẵn để đón chờ họ.   Bông huệ đỏ được viết sau hàng loạt các tác phẩm lừng danh của Anatole France, ghi nhận một bước chuyển khá quan trọng trong sự nghiệp sáng tạo của ông. Nếu như trong các tiểu thuyết Ðảo chim cụt, Thiên thần nổi loạn, Thais, v. v.., nhân vật của ông là những trí thức khép kín, mang nỗi đau khổ âm thầm của thời đại, thì trái lại, trong Bông huệ đỏ, Thérèse, Le Ménil, Decharre… đều bình thường, gần gũi. Có người cho rằng đó là sự phản ánh một phần tâm trạng thực của tác giả qua mối tình “hạnh phúc và đau khổ” của ông với bà Caillavel, người phụ nữ trí thức nổi tiếng thời bấy giờ.   NHÀ XUẤT BẢN PHỤ NỮ  ***   Anatole France (tên thật là François-Anatole Thibault, 16 tháng 4 năm 1844 – 13 tháng 10 năm 1924) sinh ở Paris, là con của một chủ cửa hàng sách, từ nhỏ đã ham mê văn học, nghệ thuật. Học ở trường Collège Stanislas. Trong thập niên 1860, France tiếp xúc với nhóm Parnasse và xuất bản tập thơ đầu tiên (1873). Sau đó ông chuyển sang viết văn xuôi và thật sự có tiếng tăm khi cuốn tiểu thuyết Le crime de Sylvestre Bonnard (Tội ác của Sylvestre Bonnard, 1881) ra đời và được nhận giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp. Trong thập niên 1890, ông viết nhiều bài phê bình văn học cho Le Temps (Thời báo) và in thành 4 tập sách với tên La vie littéraire (Đời sống văn học).   Những năm cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, tư tưởng và sáng tác của Anatole France đã có những thay đổi. Ông từ bỏ lập trường người quan sát để trở thành chiến sĩ đấu tranh cho nền dân chủ. Cụ thể là trước kia ông thường miêu tả cuộc sống và con người thời kỳ Trung cổ hoặc thời kỳ suy vong của chế độ phong kiến, thì nay ông viết về các sự kiện lịch sử và xã hội đương đại, đồng thời tiếp tục truyền thống nhân văn chủ nghĩa của Rabelais và Voltaire, phê phán nền cộng hòa thứ ba của Pháp, chế giễu không thương xót những kẻ gây chiến tranh xâm lược tàn khốc. Năm 1921 ông được trao giải Nobel Văn học vì “những tác phẩm xuất sắc mang phong cách tinh tế, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và khí chất Gô-loa đích thực”…   A. France là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Pháp thời cận đại, trải qua một con đường khó khăn và phức tạp từ chủ nghĩa nhân đạo ảo tưởng đến chủ nghĩa hiện thực cách mạng. Ông mất ở Tours, Indre-et-Loire. *** Tác phẩm chính:   - Những câu thơ vàng (Poèmes dorés, 1873), thơ.  - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, 1881), tiểu thuyết.  - Sách của bạn tôi (Le Livre de mon ami, 1885), hồi ký.  - Bông huệ đỏ (Le lys rouge, 1894), tiểu thuyết.  - Vườn Epicure (Le jardin d'Epicure, 1894), tập cách ngôn.  - Lịch sử hiện đại (L'histoire contemporaine), gồm 4 tiểu thuyết:   + Cây du trên đường dạo chơi (L'orme du mail, 1897)  + Hình người bằng cây liễu (Le mannquin d'osier, 1897)  + Chiếc nhẫn tử thạch anh (L'anneau d'amethyste, 1899)  + Ông Bergeret ở Paris (Monsieur Bergeret à Paris, 1901)  - Hung thần lên cơn khát (Les dieux ont soif, 1912), tiểu thuyết  - Thiên thần nổi loạn (La révolte des anges, 1914), tiểu thuyết.    Những tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:   - Quyển truyện của bạn tôi (La livre de mon ami, hồi kí), Vũ Thị Hay và Lê Ngọc Trụ dịch, Trung tâm Học liệu xuất bản, 1962, tái bản 1972  - Sách của bạn tôi (La livre de mon ami, hồi kí), Hướng Minh dịch và giới thiệu, NXB Văn Học, 1988, tái bản 2009.  - Đảo Panhgoanh (L'Île des Pingouins tiểu thuyết), Nguyễn Văn Thường dịch, NXB Văn Học, 1982.  - Thiên thần nổi loạn (La révolte des anges, tiểu thuyết), Đoàn Phú Tứ dịch, NXB Văn Học, 1987.  - Bông huệ đỏ (Le lys rouge, tiểu thuyết), Nguyễn Trọng Định dịch, NXB Phụ Nữ, 1989.  - Các hung thần lên cơn khát (Les dieux ont soif, tiểu thuyết), Trần Mai Châu dịch, NXB Văn Nghệ TP.HCM, 1990.  - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, tiểu thuyết), Nguyễn Xuân Phương dịch, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1996.  - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, tiểu thuyết), Nguyễn Xuân Phương dịch, NXB Văn Nghệ TP. HCM, 2001.  - Thais- Vũ nữ thoát tục, (Thaïs, tiểu thuyết), Hoàng Minh Thức dịch, NXB Tổng hợp Tiền Giang, 1989.  - Mối tình người thợ gốm, (tập truyện ngắn), Nxb Văn học, Hà Nội 1987.   Mời các bạn đón đọc Bông Huệ Đỏ của tác giả Anatole France.