Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nội Tình Của Ngoại Tình

Nội tình của ngoại tình không hẳn là một quyển sách chỉ nói về sự phản bội trong tình cảm. Một mối quan hệ bất chính dạy chúng ta rất nhiều thứ về hôn nhân - những gì chúng ta kỳ vọng, những gì chúng ta mong muốn, những gì chúng cảm thấy mình xứng đáng phải có. Các mối quan hệ bất chính đưa ra một khung cửa độc nhất để nhìn vào thái độ cá nhân lẫn thái độ văn hóa mà chúng ta có về tình yêu, dục vọng và cam kết tình cảm. Thông qua việc xem xét và đánh giá tình yêu vụng trộm dưới nhiều góc độ khác nhau, tôi mong các bạn độc giả cùng tham gia khám phá về các mối quan hệ hiện đại trong rất nhiều biến thể khác nhau của nó với sự chân thành, sáng suốt và cả tranh cãi. Ngày nay một cuộc đối thoại về các mối quan hệ bất chính dễ mang tính chia cắt, phán xét, và có lối suy nghĩ thiển cận. Xét dưới góc một nền văn hóa, chúng ta chưa khi nào cởi mở về tình dục hơn ngày nay, nhưng sự bội bạc vẫn còn chìm khuất đằng sau một đám mây của sự hổ thẹn và giấu giếm. Tôi hy vọng quyển sách này sẽ giúp xua đi sự im lặng ấy và mở ra một lối suy nghĩ và diễn đạt mới mẻ cho một trong những điều xưa cổ nhất trong cuộc sống của con người. Rất nhiều người đã viết ra cách ngăn ngừa và chữa lành sau khi sự đã xảy ra; nhưng ít ai viết về ý nghĩa và động cơ của các mối quan hệ bất chính. Càng ít hơn nữa những người nói về những điều mà chúng ta có thể học được từ các mối quan hệ và làm thế nào để kiến thức ấy có thể biến đổi và hoàn thiện các mối quan hệ của chúng ta. Trong quá trình hành nghề tâm lý trị liệu của mình, suốt sáu năm qua tôi vẫn luôn tập trung vào những cặp đang giải quyết việc bị phản bội. Thông qua họ, tôi đã đo lường những tầng sâu của chủ đề này. Vì đã gặp mặt họ khi đi cùng với nhau hoặc khi đi một mình, tôi đã thu được một cái nhìn khác lạ về trải nghiệm của người lầm lạc, chứ không chỉ niềm đau của người bị phản bội. Các mối quan hệ ngoài luồng thì luôn bí mật, và quyển sách này chứa nhiều bí mật. - Esther Perel *** 1 Nếu bạn có chút hứng thú về tâm lý học thì bạn sẽ thấy những điều mà tác giả cực kỳ sâu sắc và đáng suy ngẫm. Cuốn sách khá khó đọc nhưng rất thú vị, mình cảm thấy nó hay hơn các cuốn sách “Học Yêu” khác. Tác giả không nói bạn phải làm gì để tránh ngoại tình hay có được tình yêu đáng mơ ước. Nhưng cuốn sách sẽ bóc lớp từng sự thật của hành động ngoại tình và những tác động của nó đến mối quan hệ. 2 Đây là cuốn sách thứ 2 của cô Esther Perel sau cuốn đầu nổi tiếng là hẹn hò giữa cùm gông.Cuốn trước cô chỉ có 1 chương dành cho ngoại tình.Nhưng sang cuốn này cô dành cả cuốn viết cho ngoại tình.Ngoại tình thường được xã hội đòi tẩy chay là vi phạm đạo đức hay thậm chí đôi khi nó cũng phải chịu chế tài của luật.Nhưng chúng ta nên có cái nhìn bao quát hơn về thực trạng này qua tình trạng kết hôn suốt mấy nghìn năm nay.Đôi khi ngoại tình chứa những câu chuyện ba vòng,bốn khúc mà khi nào chúng ta thực sự có cái nhìn khách quan chúng ta mới thấu hiểu được “Nội tình của ngoại tình” – tác phẩm “best-seller” của tác giả Esther Perel sẽ cho chị em cái nhìn khách quan và tích cực hơn về những chuyện ngoài luồng trong đời sống tình cảm. Câu trả là lời là: HOÀN TOÀN CÓ THỂ Điều tưởng chừng có vẻ phi thực tế này lại trở nên vô cùng thuyết phục dưới ngòi bút và những phân tích của Chuyên gia tâm lý Esther Perel – Tác giả cuốn sách “NỘI TÌNH CỦA NGOẠI TÌNH”. Thông thường, chúng ta đánh giá, mổ xẻ chuyện ngoại tình bằng những cảm xúc mang tính cá nhân. Sự thật này vô tình tạo ra một quan điểm phiến diện nhưng luôn được ủng hộ, rằng: “Người đi ngoại tình” và “người thứ 3” luôn là những nhân vật “đáng tội chết”. Trong khi đó, “người bị phản bội” luôn là nạn nhân đáng thương. Nhưng trong cuốn sách “NỘI TÌNH CỦA NGOẠI TÌNH”, tác giả Esther Perel lại chỉ ra rằng: Không có ai là “kẻ hoàn toàn có tội” và cũng không có ai là “kẻ hoàn toàn vô tội” trong một mối quan hệ tay ba. Nói cách khác, mọi chuyện xảy ra trong một mối quan hệ tình cảm đều có ngọn nguồn từ tất cả những đối tượng có liên kết trong mối quan hệ đó. Bằng những phân tích dựa trên cơ sở khoa học – tâm lý từ góc nhìn của: Người đi ngoại tình, Người thứ 3, và Người bị phản bội, Esther Perel đã thuyết phục người đọc từ bỏ những quan điểm cũ rích và phiến diện về vấn đề ngoại tình, để họ có cái nhìn đúng đắn, và tích cực hơn. Từ đó, biến “ngoại tình” trở thành đòn bẩy hoặc chất xúc tác giúp hâm nóng đời sống tình cảm đang nguội lạnh. Esther Perel viết: “Khi điều trị cho những cặp đôi gặp tổn thương vì ngoại tình, tôi thường cùng lúc quan tâm hai vấn đề: hậu quả của ngoại tình và ý nghĩa của ngoại tình. Nếu hậu quả là điều các cặp đôi luôn quan tâm khi chuyện ngoại tình xảy ra, thì ý nghĩa của việc ngoại tình lại là điều luôn bị lãng quên. Bạn biết đấy, chẳng điều gì trên đời này là vô nghĩa cả. Ngoại tình cũng vậy. Việc quá tập trung vào hậu quả chính là nguyên nhân chủ yếu khiến các cặp đôi tan vỡ, thay vì hàn gắn. Trong tâm lý học, có một hiệu ứng mang tên “hiệu ứng đèn đường”: Một người say rượu đánh rơi chiếc chìa khóa trong đêm. Anh ta không tìm cái chìa ở nơi đã đánh rơi, mà lại tìm ở nơi có ánh đèn. Con người có xu hướng tìm kiếm điều mình muốn ở những nơi dễ tìm thấy, hơn là ở những nơi có thể thực sự tìm thấy. Theo cách lý giải này, khi chuyện ngoại tình xảy ra, những người trong cuộc chỉ tập trung “tấn công” vào bề mặt mối quan hệ bằng sự tranh cãi và phủ nhận trách nhiệm, thay vì tìm hiểu về lỗ hỏng ẩn sâu bên trong nó. Đổ lỗi cho một cuộc hôn nhân thất bại luôn dễ dàng hơn là phải vật lộn, đối mặt với những tham vọng/khát khao/nỗi chán nản của bản thân hoặc của đối phương – đây mới chính là nguyên nhân sâu xa, hàm chứa ý nghĩa và cách xử lý khủng hoảng hậu ngoại tình.” Không chỉ phân tích hậu quả – ý nghĩa của việc ngoại tình, tác giả Esther Perel còn chỉ ra một thực tế rằng: Ở nước các nước phát triển, các cặp đôi hoặc các cặp vợ chồng có thể tìm đến dịch vụ Tham vấn Tâm lý cho Cặp đôi (Couple Therapy) như một sự trợ giúp trong lúc mối quan hệ của họ gặp sóng gió. Nhưng điều này hầu như còn chưa phổ biến ở các nước đang phát triển. Hiểu được điều này qua nhiều năm tham vấn/trị liệu đa quốc gia, tác giả Esther Perel cũng chỉ ra một vài “cách sơ cứu cảm xúc” và đối mặt với chuyện ngoại tình cho Người ngoại tình, và Người bị phản bội. “Nhiều người khi biết mình bị phản bội đã rất nôn nóng muốn biết tường tận vụ ngoại tình, không để sót một chi tiết nào. Họ liên tục hỏi đối phương những câu như: “Cô ta có gì hơn tôi?, Anh đã ngủ với cô ta bao nhiêu lần?, Anh có làm chuyên đó trên giường của chúng ta không?, Cô ta có hét lên khi lên đỉnh không? Những câu hỏi này chỉ khiến bạn tự khắc thêm sẹo vào vết thương lòng của mình. Điều đó là không cần thiết. Đúng là bạn cần biết họ có quan hệ tình dục an toàn hay không vì điều đó ảnh hưởng tới sức khỏe của chính bạn. Nhưng có lẽ bạn không cần biết cô nhân tình đó có tóc màu gì, có bơm ngực hoặc phẫu thuật thẩm mỹ hay không. Vậy nên, lời khuyên của tôi chính là hãy chỉ quan tâm và hỏi những điều liên quan tới bạn và đối phương, thay vì tập trung tâm trí vào chuyện của đối phương và nhân tình.” Đành rằng, ngoại tình là việc không ai mong muốn, và không phải cặp đôi nào cũng có thể phục hồi sau một cuộc ngoại tình. Nhưng ít nhất, những kiến thức về tâm lý trong “NỘI TÌNH CỦA NGOẠI TÌNH” cũng xứng đáng để các cặp đôi tham khảo và đón đọc. Bởi chẳng ai có thể nói trước rằng tương lai mình sẽ không ngoại tình, không bị phản bội, hoặc không trở thành “một người thứ 3”. *** Sẽ mất rất nhiều thời gian để có thể giải thích được mối liên hệ mật thiết giữa những mâu thuẫn trong bản chất con người - điêu khiến cho chính tình yêu đôi khi phải mang dáng hình khốn đốn của sự phản bội. Có lẽ sẽ chẳng có một lời giải thích nào khả dĩ. - Trích Some Reminicences1, Joseph Conrad 1. Tạm dịch: Đôi ba hồi ức, bài luận xuất bản năm 1912. (Tất cả các chú thích trong cuốn sách đều là của người dịch). Ngay lúc bạn đang đọc cuốn sách này, ở mọi nơi trên thế giới, có ai đó đang bị phản bội hoặc đang phản bội tình cảm của ai đó, có ai đó đang nghĩ đến chuyện ngoại tình hoặc đang khuyên nhủ ai đó đang vật vã đau khổ vì bị phản bội, có ai đó đang đóng vai người tình bí mật. Không có chủ đề nào trong đời sống đôi lứa lại khiến người ta vừa sợ hãi vừa thích thú vừa khoái bàn tán bằng chuyện ngoại tình. Ngoại tình hình thành từ khi có hôn nhân và những điều luật cấm ngoại tình. Ngoại tình đã bị đưa vào luật pháp, bị tranh biện, bị chính trị hóa và bị xem như quỷ dữ trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại. Ngoại tình chính là tội lỗi duy nhất nhận đến hai điều răn trong Kinh Thánh, một cấm ngăn trong hành động và một cấm ngăn trong suy nghĩ. Ấy vậy mà bất chấp sự phản đối rộng khắp đó, ngoại tình vẫn cứ “sống khỏe”, vẫn cứ phổ biến tràn lan đến mức hôn nhân phải ghen tị. Ngoại tình xảy ra mọi lúc, mọi nơi trên thế giới, bất chấp bao luật lệ, hình phạt. Hầu như ở tất cả những nơi hôn nhân được thừa nhận thì ngoại tình bị xem là hành động bất chính. Vậy chúng ta nên làm gì với hiện tượng bị cấm khắp toàn cầu nhưng vẫn cứ phổ biến khắp toàn cầu này? Tôi đã liên tục nghiên cứu, tư vấn, diễn thuyết, thảo luận,... về ngoại tình suốt sáu năm qua, không chỉ trong phòng tư vấn trị liệu của tôi mà trên cả máy bay, tại các dạ tiệc, hội thảo, tiệm làm móng, không chỉ với các đồng nghiệp mà còn với bất kỳ ai, không chỉ ngoài đời thực mà cả trên mạng xã hội, không chỉ tại Pittsburgh (Mỹ) mà còn ở Buenos Aires (Argentina), Delhi (Ấn Độ), Paris (Pháp).... Ở mọi nơi trên thế giới, mỗi khi hỏi mọi người quan điểm của họ về “ngoại tình”, tôi nhận được đủ kiểu trả lời, từ cay đắng kết tội, miễn cưỡng chấp nhận, bao dung một cách cẩn trọng đến hoàn toàn cảm thông. Tại Bulgary, một nhóm phụ nữ xem chuyện chồng trăng hoa là chuyện xui xẻo chẳng thể nào tránh khỏi. Ở Paris, chủ đề ngoại tình khiến nhiều người đang ăn tối tức khắc rùng mình, điều này giúp tôi có thể xác định được bao nhiêu người ủng hộ ngoại tình và bao nhiêu người phản đối. Tại Mexico, phụ nữ tự hào khi thấy ngày càng nhiều phụ nữ ngoại tình, và coi đó như một sự nổi loạn chống lại nền văn hóa trọng nam khinh nữ vốn vĩnh viễn tạo điều kiện cho nam giới có “hai mái nhà” - la casa grande y la casa chica (tạm dịch: nhà lớn và nhà nhỏ, tiếng Tây Ban Nha) - một dành cho vợ, một dành cho bổ nhí. Chuyện ngoại tình nhan nhản khắp nơi, thế nhưng cách chúng ta định nghĩa ngoại tình, chịu đựng nó, nói về nó - hoàn toàn liên quan đến thời điểm và nơi chốn xảy ra chuyện ngoại tình. Xin hỏi bạn: “Khi nghĩ đến ngoại tình, những từ ngữ, những liên tưởng và hình ảnh đầu tiên hiện ra trong đầu bạn là gì?”. Cái nhìn của bạn về ngoại tình liệu có thay đổi không khi tôi gọi ngoại tình là “cuộc phiêu lưu tình ái”, “chuyện tình lãng mạn”? Còn nếu tôi dùng những từ như “bổ nhí”, “người quen qua đường”, “hẹn hò”, “bạn tình” thì sao? Bạn sẽ thấu hiểu, cảm thông hay kịch liệt phản đối chuyện ngoại tình? Bạn sẽ cảm thông với ai, người bị phụ bạc, người ngoại tình, người thứ ba hay lũ trẻ? Và liệu các câu trả lời của bạn về ngoại tình có thay đổi không nếu chính bạn phải đối diện với cơn bão ngoại tình? Các cáo buộc về các mối quan hệ ngoài giá thú đã ăn sâu vào văn hóa của chúng ta. Tại Mỹ, những quan điểm về ngoại tình dường như thiên về bản năng, nặng nề và phân cực, ví dụ: “Ngoại tình à? Nó sẽ làm đi tong tất cả.” “Kẻ nào đã ngoại tình một lần thì thế nào cũng ngoại tình lần nữa.” “Chung thủy một vợ một chồng thì đúng là quý hiếm.” “Ngoại tình là chuyện hoàn toàn vó vấn! Chúng ta là người trưởng thành rồi chứ có phải lũ mèo động đực đâu. Làm ơn trưởng thành dùm!” Chúng ta không thể ngăn cản nạn ngoại tình dù có thể đều đồng tình rằng chuyện ấy hoàn toàn không nên làm. Khi biết đến những vụ ngoại tình đình đám, công chúng thường kêu gào “thủ phạm” phải xin lỗi công khai. Người nào ngoại tình, bất kể đang ở địa vị xã hội nào, cũng đều cho thấy sự ái kỷ, sự hai lòng, sự vô đạo đức và gian trá. Theo quan điểm này thì ngoại tình không bao giờ là một hành vi phạm pháp đơn giản, một mối quan hệ thoáng qua vô nghĩa hay là một tình yêu đích thực. Những tranh cãi hiện nay về ngoại tình có thể tóm tắt như sau: Ngoại tình hẳn là triệu chứng của một mối quan hệ thất bại, nếu ta đã có tất cả mọi thứ mình cần ngay tại nhà thì không có lý do gì để ra ngoài tìm “món lạ”. Đàn ông ngoại tình vì chán ngán và sợ gần gũi vợ, đàn bà ngoại tình vì cô đơn và khát khao gần gũi ai đó. Người bạn đời chung thủy là người trưởng thành, có cam kết và thực tế; người sa ngã là kẻ ích kỷ, kém trưởng thành và thiếu kiểm soát bản thân. Mọi quan hệ bất chính đều nguy hại, không bao giờ mang lại ích lợi gì cho hôn nhân, và cũng không bao giờ được người ta chấp nhận. Mời các bạn đón đọc Nội Tình Của Ngoại Tình của tác giả Esther Perel.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trang
Trang, một bé gái mồ côi người Trung Hoa được một gia đình người Do Thái mua về để bầu bạn học hành với David, cậu con trai của chủ nhà. Tình yêu trong sáng đã nảy sinh và phát triển cùng với tuổi ấu thơ và thời hoa niên của họ. Do trở ngại bởi tôn giáo, bởi đẳng cấp và thành kiến dân tộc, mối tình giữa Trang và David trở thành vô vọng. Nàng bèn tìm mọi cách để bảo vệ tình yêu ban đầu của mình, quyết đấu tranh để được sống chung dưới một mái nhà với chàng, dù chỉ với tư cách là một tì nữ. *** Sau khi được trao tặng giải thưởng Nobel năm 1938, tên tuổi nữ văn hào Mỹ Pearl S. Buck đã trở nên quen thuộc và thân thiết với bạn đọc trên khắp thế giới. Pearl S. Buck (1892 – 1973) là một nhà nhân văn lớn. Bà sống và gắn bó với đất nước Trung Hoa nói riêng và phương Đông nói chung gần như suốt cuộc đời. Với trí tuệ sắc sảo và trái tim nhạy cảm, bà đã miêu tả xã hội Trung Quốc ở nhiều thời đại và bình diện khác nhau qua các tiểu thuyết nổi tiếng, trong đó có Bà Vua – hay còn gọi là Người cung nữ (Imperial Woman) và Trang (Peony)… Nhân vật chính trong tiểu thuyết không phải là một bà hoàng đầy quyền uy và tham vọng như Từ Hi Thái hậu; cũng không phải là một tiểu thư khuê các, diễm kiều chốn Hoàng cung mà chỉ là một nữ tì Trung Hoa trong gia đình thương gia Do Thái giàu có. Tình yêu trong sáng giữa Trang và Đavít (con trai ông chủ) nảy sinh và phát triển cùng với tuổi thơ ấu và hoa niên của họ. Song mộng mơ của tuổi trẻ đã vấp phải những trở lực vô hình mà vô cùng nghiệt ngã của tôn giáo, đẳng cấp và thành kiến dân tộc. Bao đau đớn, dằt vặt đã vò xé cõi lòng người thiếu nữ tài sắc vẹn toàn. Nàng tìm mọi cách để bảo vệ tình yêu ban đầu và duy nhất của mình. Nàng luôn phải đối phó với những hoàn cảnh éo le, ngang trái, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để được sống chung với chàng dưới một mái nhà - dù chỉ với tư cách là một nữ tì. Suốt đời, Trang âm thầm hy sinh cho quyền lợi của mọi người. Còn nàng, nàng đã tìm cho mình một nơi ẩn thân yên tĩnh, thâm nghiêm: nhà chùa, để gìn giữ trọn vẹn những kỷ niệm sâu sắc về mối tình đầu thiêng liêng - kho báu vô giá của nàng. Mối tình âm thầm mà thiết tha, cháy bỏng và thanh khiết tuyệt vời giữa Trang và Đavít là bài học bổ ích cho mỗi chúng ta. Qua mỗi trang viết, tác giả dẫn dắt người đọc đi sâu vào thế giới phong phú, đa dạng đầy hương vị ngọt ngào cùng cay đắng của tình yêu. Tác giả khiến chúng ta rung động thực sự trước tâm hồn cao quí của Trang. Qua nhân vật này, bà khẳng định chắc chắn rằng: nhân cách con người không phải do địa vị xã hội và tiền tài quyết định. Với những cống hiến to lớn trong lãnh vực văn chương, Pearl S. Buck đã góp phần giúp nhân loại ngày càng hiểu và xích lại gần nhau trong tinh thần Hòa Bình và Nhân Bản. Thành phố Hồ Chí Minh, Xuân Kỷ Tỵ Giáo sư Lê Trí Viễn *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 15 tuổi, bà được gửi trọ học tại một trường dạy Anh văn ở Thượng Hải. Năm 17 tuổi, cha mẹ cho Pearl Buck về Mỹ, học tại Trường Đại học Randolph Macon (tiểu bang Virginia). Năm 1917 bà kết hôn với một mục sư và theo chồng đi truyền giáo tại miền Bắc Trung Hoa. Từ năm 1922, bà dạy ở Đại học Nam Kinh và Kim Lăng. Năm 1925, Pearl Buck bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên Gió Đông, Gió Tây (do chạy loạn Quốc dân đảng, năm 1930 mới xuất bản được). Sau đó hàng loạt tiểu thuyết nổi tiếng khác về đề tài Trung Quốc ra đời, như Đất Lành, Những Người Con Trai, Một Nhà Chia Rẽ, Người Mẹ, Những Đứa Trẻ Chậm Lớn… trong đó tiểu thuyết Đất Lành được nhận giải Pulitzer năm 1931. Năm 1933, bà được Đại học Yale tặng bằng Cử nhân Văn chương Danh dự. Năm 1938, bà được Đại học West Virginia và Đại học St. Lawrence trao tặng bằng Tiến sĩ Văn chương Danh dự. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Trong Thế chiến II, Pearl Buck viết nhiều sách báo chính luận chống chủ nghĩa phát xít. Những năm 50, bà xuất bản một số tác phẩm về đề tài gia đình và xã hội Mỹ, kí bút danh I. Sedge. Năm 1951, Pearl Buck được bầu làm thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn học Hoa Kỳ. Năm 1955, bà li dị chồng và tục huyền với giám đốc một hãng quảng cáo. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ già; Những mảnh hồn sầu xứ.” *** Như vậy, ông Era đã chết. Người ta chôn cất ông bên cạnh mộ phần thân phụ ông và bên dưới là nơi mà thân xác bà Era đã hòa lẫn cùng đất cát Trung Hoa. Đavít xúc động nghĩ đến điều đó khi chàng đứng trên miệng huyệt cha chàng. Chàng nghĩ đến mẹ chàng, một người đàn bà có cá tính đặc biệt, đã tạo nhiều ảnh hưởng trong đời chàng và đến nay những ảnh hưởng ấy vẫn còn tồn tại. Cuộc chiến đấu mà bà theo đuổi suốt đời để tách rời chính mình và gia đình mình sống riêng rẽ như những người Do Thái chân chính, bây giờ đã chấm dứt. Sự chết đã thắng bà. Chiều nay trên đồi, không khí mát dịu, Đavít không thể dửng dưng với đoàn người đông đảo đã đưa cha chàng ra đến mộ phần. Đavít thầm tiếc không có mặt mẹ chàng để bà nhìn thấy lòng tốt của đám bạn hữu cha chàng, họ đi đưa đông đến nỗi đám tang chẳng khác nào đám tang của một vị thượng quan người Trung Hoa; thật không có chút gì có vẻ là Do Thái cả. Chỉ có một mình Đavít là còn giữ nguyên trong lòng những ý niệm về nguồn gốc, dòng giống. Lần đầu tiên trong đời chàng, Đavít hiểu tại sao mẹ chàng đã ao ước đến cuồng nhiệt được trở về cố quốc và được chôn cất ở đấy. Chắc chắn bà đã biết rõ, như bà đã biết rõ nhiều điều mà không nói ra, rằng nếu bà chết ở đây, tro bụi của thân xác bà sẽ trộn lẫn cùng đất cát của xứ ngoại quốc này. Năm thành phố chồng chất lên nhau dưới lòng đất nơi Đavít đang đứng. Nhiều thế hệ kế tiếp, đã xây dựng các thành phố ấy, cái này chồng lên cái kia; tại miền đất cổ xưa này, người ta không thể đào quá sâu mà không gặp các người xưa đã chết. Cha mẹ chàng hẳn đã bị buộc chặt vào mảnh đất này cùng với các người khác, và không bao giờ họ còn có thể thuộc về một dân tộc riêng biệt. Tiếng tụng niệm ê a của các sư sãi đã làm cho Đavít đau nhói trong lòng. Quả thật Đavít muốn từ chối khi vị sư già chùa Kim Phật đến nghiêng mình trước vong linh người chết; chàng đã hết lòng giải thích rằng Phật giáo không phải là tôn giáo của cha chàng. Với tất cả sự nhã nhặn, chàng cố nói cho sư cụ hiểu rằng, không nên tụng kinh Phật trước mộ huyệt của cha chàng. Mời các bạn đón đọc Trang của tác giả Pearl S. Buck.
Thần Tượng
William, tên thường gọi là Will, trốn học, băng qua cả thành phố đi coi phim, cốt để không bị người quen bắt gặp. Nhưng cậu lại chạm trán cha mình - Sonny -  ở ngay phòng đợi của rạp xi-nê ấy. Ông đang đi cùng với một người đàn bà da trắng, tóc vàng. Đó là một rủi ro rất bình thường. Song cha cậu không phải là một người bình thường, và gia đình cậu, bị biết bao sự việc đang xảy ra đe dọa cuộc sống của họ, cũng không phải là một gia đình bình thường.  Thần tượng là một câu truyện rất cảm động, viết về tình yêu của một người đàn ông với hai người phụ nữ, của người cha với con trai và ngay cả cái tình yêu trừu tượng hơn - tình yêu tự do - cũng được nhắc tới trong tác phẩm. Trong Thần tượng, những mâu thuẫn cá nhân và cuộc đấu tranh của cả cộng đồng chống lại chủ nghĩa Apartheid được đẩy lên kịch tính rất cao. Đó cũng chính là cái giá mà những con người như Sonny và gia đình ông phải trả để tạo nên những chuyển biến trong xã hội Nam Phi. *** Nadine Gordimer (sinh 20 tháng 11 năm 1923) là nữ nhà văn Nam Phi đoạt giải Nobel Văn học năm 1991. Nadine Gordimer sinh ở Springs, Gauteng, ngoại ô thành phố Johannesburg, Nam Phi, trong gia đình thợ kim hoàn gốc Do Thái di cư. Bố người Litva, mẹ là người Anh. Sau khi học xong trường dòng, bà vào học trường Đại học Witwatersrand ở Johannesburg. Gordimer đã đi du lịch khắp châu Phi, châu Âu và Bắc Mỹ, nhưng vẫn sống chủ yếu ở Johannesburg. Năm 1954, bà kết hôn với một thương gia tên là Reinhold Cassirer. Mỗi người có một con gái riêng từ cuộc hôn nhân trước và họ có với nhau một đứa con trai chung. Nadine Gordimer bắt đầu viết lúc lên chín và truyện ngắn đầu tiên được đăng trên một tạp chí của Nam Phi khi bà mười lăm tuổi. Tập truyện đầu tiên Face to face (Mặt đối mặt) xuất bản năm 1949. Một năm sau đó tập truyện The soft voice of the serpent (Lời dịu dàng của rắn) ra mắt và bà bắt đầu nổi tiếng. Tiểu thuyết đầu tiên The lying days (Những ngày gian dối, 1953) kể về cô gái Helen đã trải qua những biến cố chính trị, xã hội phức tạp ở Nam Phi giống như chính tác giả. Các tiểu thuyết Occasion for loving (Cơ hội tình yêu, 1963), The late bourgeois world (Thế giới tư bản đã mất, 1966) trong một thời gian dài bị cấm xuất bản ở Nam Phi. Năm 1974 tác phẩm The conservationist (Người bảo thủ) được trao giải Booker. Bà nổi tiếng thế giới với tiểu thuyết July's people (Những người tháng bảy, 1981) kể về gia đình một kiến trúc sư bỏ thành phố Johannesburg chạy về làng quê. Trong tiểu thuyết này, bà phân tích mối quan hệ của những người nông dân với một gia đình người da trắng, chỉ ra sự thiếu hiểu biết lẫn nhau giữa những tầng lớp xã hội khác nhau. Những năm 1940-1950, khi ở Nam Phi thi hành chính sách phân biệt chủng tộc, đề cao chủ nghĩa Apartheid, cấm hôn nhân giữa người da trắng và da đen, Nadine Gordimer đã dùng ngòi bút của mình để phản kháng. Là một người da trắng sống tại Nam Phi, một nhà hoạt động xã hội xuất chúng, các tác phẩm của bà có ảnh hưởng rất lớn trong dư luận xã hội ở Nam Phi, đặc biệt là tập tiểu luận Living in hope and history: Notes from our century (Sống trong hi vọng và trong lịch sử: Những ghi chép về thế kỉ chúng ta) được xuất bản năm 1999. Gordimer còn đề xuất một dự án từ thiện: tổ chức một tuyển tập của các tác giả truyện ngắn xuất sắc nhất thế giới (trong đó có 5 nhà văn đoạt giải Nobel), xuất bản và bán lấy tiền ủng hộ các nạn nhân bị nhiễm HIV trên khắp thế giới. Nadine Gordimer luôn mong muốn được sống cuộc sống bình thường, thoát khỏi sự chú ý của công chúng, nhưng sự nổi tiếng của bà cùng nhiều giải thưởng, các bằng tiến sĩ danh dự ở nước ngoài (bà đã từ chối một bằng tiến sĩ danh dự ở Nam Phi), việc bà giữ nhiều vị trí (bà là phó chủ tịch Hội Văn bút Quốc tế) và việc bà liên tục viết, phát biểu tự do trong một đất nước cảnh sát nơi mà sự kiểm duyệt, sự khủng bố các tác phẩm và người dân vẫn còn tồn tại đã khiến bà trở thành "nhà văn Nam Phi kì cựu nhất". Gordimer đã nhiều lần được đề nghị tặng giải Nobel và năm 1991 bà trở thành nhà văn Nam Phi đầu tiên giành được vinh dự này. Sách của Nadine Gordimer được dịch ra gần 30 thứ tiếng trên thế giới, trong đó có tiếng Việt. Tác phẩm: Face to face (Mặt đối mặt, 1949), tập truyện. The soft voice of the serpent (Lời dịu dàng của rắn, 1952), tập truyện. The lying days (Những ngày gian dối, 1953), tiểu thuyết. Six feet of the country (Sáu thước đất, 1956), tập truyện. A world of strangers (Thế giới những kẻ lạ mặt, 1958), tiểu thuyết. Friday's footprint (Dấu chân ngày thứ sáu, 1960), tập truyện. Occasion for loving (Cơ hội tình yêu, 1963), tiểu thuyết. Not for publication (Không phải để công bố, 1965), tập truyện. The late bourgeois world (Thế giới tư sản đã mất, 1966), tiểu thuyết. A guest of honour (Khách danh dự, 1970), tiểu thuyết. Livingstone's companions (Những người bạn của Livingstone, 1971) tập truyện. The conservationist (Người bảo thủ, 1974), tiểu thuyết. Selected stones (Những viên đá chọn lựa, 1975), tập truyện. Some monday for sure (Ngày thứ hai nào đó, 1976), tập truyện. Burger's daughter (Con gái của Burger, 1979), tiểu thuyết. A soldier's embrace (Vòng tay người lính, 1980), tập truyện. July's people (Những người tháng bảy, 1981), tiểu thuyết. Something out there (Điều gì ở ngoài nơi đó, 1984), tập truyện. A sport of nature (Môn thể thao tự nhiên, 1987), tiểu thuyết. My son's story (Thần tượng, 1990), tiểu thuyết. Jump and other stories (Cú nhảy và các truyện khác, 1991), tập truyện. Crimes of conscience (Tội phạm lương tâm, 1991), tập truyện. Why haven't you written (Tại sao anh chưa viết, 1992), tập truyện. None to accompany me (Không ai cùng tôi, 1994), tiểu thuyết. The house gun (Súng trong nhà, 1998), tiểu thuyết. Living in hope and history: Notes from our century (Sống trong hi vọng và trong lịch sử: Những ghi chép về thế kỉ chúng ta, 1999), tiểu luận. The pick up (Lượm nhặt, 2001), tiểu thuyết. Loot and other stories (Chiến lợi phẩm và các truyện khác, 2003), tập truyện. *** Will, hãy thắt cà vạt vào. Cầu chúa phù hộ châu Phì. Tôi yêu Kausre Chiefs. Tôi nhìn vào phía sau đầu của ông trong chuyến trở về bằng xe hơi và thấy như cõi lòng tôi khép lại. Tôi không nghĩ đến gì hết. Tôi không nghĩ đến bà. Tôi chỉ ý thức những gì ở bên ngoài. Những hình dáng trên những xe chở khách "combi" mà luật sự cao bồi chạy đuổi theo và qua mặt. Nhạc của Sting và The Genuises đang phát ra từ băng nhạc. Lớp len dầy ở nệm bọc da cừu dưới bàn tay của tôi. Đủ mọi thứ xung quanh một chỗ trống rỗng, muốn lúc nào có lúc đó. Khi tôi thấy người đàn ông ôm đầu hai khuỷu tay trong khi bị một cảnh sát viên đánh, và ruột gan tôi lộn tùng phèo – lo sợ cho mẹ tôi! cho bản thân tôi, lo sợ cuộc sống - cha tôi đã áp bàn tay ông lên vai tôi. Ông đã biết. Một bàn tay đặt lên vai tôi. Ðể đòi hỏi ở tôi một điều gì hòa nhập với ông. Và sau khi bà đến gần tôi, để dành tôi là người sau chót như trước kia bà thường làm vậy - một bí mật giữa chúng tôi – khi vào hôn Baby và tôi trước khi đi ngủ. Tôi đã thấy bà để ý, phải đã ghi nhận: trọng lượng của tôi, da hai bên cằm nhão ra và dây nịt tụt xuống ở bụng. Trong gia đình tôi ai cũng gầy xẹp đi. Chẳng phải bà muốn tôi như vậy. Nhưng mặt khác, Baby đã làm cho bà trở nên như chị tôi muốn. Tôi không biết nói gì với bà. Tôi biết mọi thứ ông đã chuẩn bị để nhìn thấy là sai. Tệ hơn thế nữa, bà không cần thế. Tôi đã có thể bảo ông như vậy. Tôi đã có thể bảo ông nhiều điều ông không để ý, luôn luôn bận tâm vì những chuyện đâu đâu nên không để ý, những điều ấy bây giờ tôi hiểu. Những cuộc đi thăm “bạn đồng nghiệp” ông đã bằng lòng chấp nhận, vì đỡ cho ông khỏi phải chịu trách nhiệm về sự lơ là của ông, các chuyến đi thường có của bà qua biên giới - ồ, ông đã ý thức các chuyến đi ấy không phải hoàn toàn để thăm cháu ngoại, nhưng ông đã sai lầm khi cho rằng bà đã bị Baby và chồng nó lợi dụng (điển hình! dĩ nhiên chỉ người đàn bà tóc vàng của ông có sự thông minh và lòng gan dạ để làm chiến hữu của ông). Ắt hẳn ông đã thấy bà không “vô tội”, một tính từ có nghĩa là từ chối chịu trách nhiệm với nhân dân, như tôi đã nghe ông dùng trong các bài diễn văn. ... Mời các bạn đón đọc Thần Tượng của tác giả Nadine Gordimer.
Tuổi Sắt Đá
Ở thành phố Captown, Nam Phi, một bà cụ bị ung thư sắp chết. Bà tên là Curren, một giáo sư văn chương cổ điển. Suốt đời bà phải chống lại sự dối trá tàn ác của chê độ phân biệt chủng tộc, tránh xa những chuyện khủng khiếp. Nhưng đến một lúc bà đành phải cam chịu và chấp nhận cơn điên khùng đã mất hết tính người của chế độ ấy.  Trong một bức thư gởi cho con gái đã bỏ chạy sang Mỹ, bà kể lại những chuyện quái đản xảy ra trong những ngày bà sắp qua đời. Bà đã chứng kiến một vụ đốt cháy thị trấn của người da đen gần nơi bà ở, trong đó bà thấy xác chết đã bị bắn nát của đứa con trai người giúp việc bà trước đây. Một thiếu niên da đen đi hoạt động phải trốn chạy trong nhà bà cũng bị các lực lượng an ninh bắt giết. Những ngày cuối cùng của đời mình, bà chỉ còn biết sống cùng một anh chàng vô gia cư nhưng nát rượu đã tìm đến chỗ bà trú ngụ và bà chỉ còn biết chia xẻ với anh ta những điều uất ức và nỗi thất vọng trong cuộc sống con người. *** John Maxwell Coetzee (sinh ngày 9/2/1940) sinh trong gia đình gốc Đức tại miền Tây Nam Phi, từ nhỏ đã giỏi cả tiếng Anh và tiếng Đức; học các trường đại học tổng hợp Cape Town và Texas; dậy tiếng Anh và văn học; bắt đầu viết văn từ năm 1969 và ngay lập tức được dư luận chú ý từ cuốc sách đầu tiên, nổi tiếng thế giới với tiểu thuyết Giữa miền đất ấy (In the heart of the country, 1977) viết về tính bạo lực và thói ghẻ lạnh là bản chất của chính sách thuộc địa của người da trắng. “Ruồng bỏ” (Disgrace) của John Maxwell Coetzee – Một nhà văn hai lần đoạt giải Booker: Cuộc sống và thời đạicủa Michael K. (1983) và Ruồng bỏ (1999) – và đoạt giải Nobel Văn học năm 2003. Những tác phẩm của Coetzee được viết bằng giọng văn điềm đạm, ngắn gọn, ít phô diễn kĩ thuật, người mới đọc dễ nắm bắt được mạch tác phẩm của ông và hiểu được cốt truyện. Tất nhiên, để hiểu toàn bộ kĩ thuật hay dụng ý của Coetzee lại không đơn giản lắm. Các tác phẩm của ông thường đi sâu vào cuộc sống và suy nghĩ riêng của một người nào đó đặt trong một bối cảnh có biến động, phức tạp vì chính trị hoặc bị xô đẩy bởi chiến tranh, như trong Cuộc sống và thời đại của Michael K. thì là hành trình của K. Ruồng bỏ là hành trình của David Lurie, hay Tuổi sắt đá là về bà Curren, một giáo sư sống và chết dần vì bệnh ung thư. *** Tôi mơ thấy Florence, một giấc mơ hay ảo mộng. Trong mơ, tôi thấy cô ta lại đi xuống đại lộ Chính phủ, tay dắt Hope và cõng Beauty trên lưng. Cả ba mẹ con đều đeo mặt nạ. Tôi cũng có đấy cùng đám đông đủ loại người và tầng lớp tập hợp chung quanh. Không khí như ngày hội. Tôi có nhiệm vụ trình diễn một vở. Nhưng Florence không dừng lại xem. Cô ta nhìn thẳng và cứ đi như qua một đám hồn ma. Mắt trên mặt nạ như mắt trong những tranh cổ Địa Trung Hải, to, hình bầu dục, con ngươi ở giữa trông như hạnh nhân của một nữ thần. Tôi đứng giữa đại lộ đối diện với toà nhà Nghị viện, những người đứng chung quanh xem tôi làm ảo thuật với lửa. Trên cao là những cây chò rất to. Nhưng tôi không nghĩ đến trò mình đang làm. Tôi chăm chú nhìn Florence. Chiếc áo choàng đen buồn thảm của cô ta đã rơi đâu mất. Gió thổi nhàu chiếc quần trắng, cô ta đi chân đất, đầu để trần, ngực bên phải cũng để trần, cô ta đi qua thật nhanh, đứa bé đeo mặt nạ, trần truồng, lon ton chạy bên cạnh, đứa kia giơ tay chỉ trỏ. Nữ thần này là ai mà đến trong ảo mộng, ngực để trần rồi vụt đi thế nhỉ? Đó là Aphrodite, nhưng không phải Aphrodite  với nụ cười đáng yêu, người đỡ đầu của những khoái lạc, mà chỉ là hình dáng xưa cũ, khẩn trương, chỉ như tiếng khóc dồn dập trong đêm tối, tiếng khóc của máu và đất, xuất hiện trong chốc lát cho mọi người thấy rồi đi luôn. Nữ thần không để lại dấu hiệu hay tiếng gọi nào. Mắt mở trắng dã. Nữ thần thấy mà không thấy gì. Tôi trình diễn với lửa nhưng vẫn đứng đó, sững sờ. Ngọn lửa từ người tôi phát ra xanh như màu băng tuyết. Tôi không cảm thấy đau đớn gì hết. Đó là ảo mộng trong giấc mơ đêm qua, nhưng nó đến từ thời gian bên ngoài. Nữ thần đi qua, qua mãi, vẻ ngạc nhiên và tiếc thương, tôi không thể nhìn theo được. Tuy tôi vẫn nhìn ngắm cơn lốc đến từ ảo mộng, nhưng nữ thần và các con cô ta đều trống rỗng, người đàn bà theo sau cũng không có mặt, người đàn bà thường mang những vòng lửa ngoằn ngoèo như rắn trên đầu ấy, vẫn đập tay, vừa khóc vừa nhảy múa. ... Mời các bạn đón đọc Tuổi Sắt Đá của tác giả John Maxwell Coetzee.
Cô Gái Chơi Dương Cầm
Cô gái chơi dương cầm (nguyên bản tiếng Đức: Die Klavierspielerin) là tiểu thuyết nổi tiếng nhất của của nữ văn sĩ người Áo Elfiede Jelinek. Tác phẩm xuất bản năm 1983 và được đông đảo người đọc đón nhận. Trong cuốn tiểu thuyết này, Jelinek bóc trần những gì được coi là cấm kỵ trong cuộc sống gia đình người Áo. Cuốn tiểu thuyết bày ra một liên hệ rất không bình thường giữa cô giáo và bà mẹ già độc đoán. Erika là cô giáo dương cầm tài giỏi bậc nhất tại nhạc viện Vienna. Nhưng sự nghiêm trang và đứng đắn của Erika có thể chỉ là vẻ giả tạo bên ngoài. Một khi đã bước ra khỏi căn phòng dạy nhạc, người phụ nữ này lại lén lút đến xem phim tại một cửa hàng phim khiêu dâm, rình mò những đôi trai gái làm tình và luôn giấu sẵn một lưỡi dao cạo trong người để cắt xẻo da thịt của chính mình. Mối quan hệ của Erika và những người xung quanh lại càng bất thường hơn. Người phụ nữ ngoài 30 này vẫn bị bà mẹ độc đoán kiểm soát mọi lúc mọi nơi. Đối với học trò, Erika lại tỏ ra rất lạnh nhạt và nghiêm khắc. Cô sợ mất đi vị trí độc tôn của mình nên tìm cách trù dập những sinh viên tài năng nhất. Nhưng có một chàng sinh viên đã lọt vào mắt xanh của Erika. Cậu là Walter, một sinh viên chuyên ngành kỹ sư rất điển trai với ngón đàn điêu luyện. Thấy Erika lạnh nhạt, Walter lại càng muốn chiếm lấy tình cảm của cô. Cậu học trò Klemmer cũng là một con người có cuộc sống bị kìm hãm. Họ đến với nhau theo cách tự hành hạ, tự làm đau đớn bản thân và làm cho người khác đau. *** Elfriede Jelinek sinh ngày 20/10/1946 tại Mürzzuschlag thuộc Miền Hạ Áo. Từ 1966 đến nay, địa chỉ chỗ ở của bà tại thủ đô Vienna không thay đổi. Chính vì thế, bà luôn coi mình là dân Vienna "chính hiệu". Cha bà là người Do Thái gốc Czech, mẹ bà lại là một tín đồ rất ngoan đạo của Thiên Chúa giáo. Thuở nhỏ bà học ba-lê. Từ năm 6 tuổi, bà học dương cầm theo yêu cầu của mẹ. Đạo diễn người Áo Michael Haneke đã chuyển thể tiểu thuyết này thành phim cùng tên rất nổi tiếng và đã đoạt 3 giải thưởng trong Liên hoan phim Cannes năm 2001. Năm 2004, Elfriede Jelinek được trao giải Nobel Văn học. *** Tác phẩm: Ngoài ba tiểu thuyết lớn (Die Liebhaberinnen, Die Klavierspielerin, Lust) với những chủ đề: nước Áo với quá khứ phát xít, tuổi thơ bị đè nén, số phận phụ nữ trong chế độ nam quyền, văn hoá porno..., Jelinek còn là tác giả của một tập thơ, nhiều vở kịch, một số kịch bản phim và nhiều tiểu luận phê bình. Ngoài ra, bà còn là dịch giả với những bản dịch tác phẩm của Thomas Pynchon, Georg Feydeau, Eugène Labiche, Christopher Marlowe và Oscar Wilde.   Giải thưởng: Jelinek đã nhận được rất nhiều giải thưởng văn học uy tín của các nước nói tiếng Đức cho các tiểu thuyết và các vở kịch của bà (Trong đó có Georg-Büchner-Preis năm 1988, giải thưởng văn học lớn nhất của Đức). Năm 2004, bà được trao giải Nobel văn chương.   - 1969: Giải nhất cuộc thi Thơ sinh viên Áo   - 1969: Giải của Tuần văn hóa thanh niên ở Innsbruck cho Aus einem Iiustriertenriman (Trích từ một tiểu thuyết tranh) và bản thảo chưa xuất bản của wirsind lockvÖgel baby! (chúng ta là chim mồi, các em ạ!)   - 1972/1973: Học bổng quốc gia dành cho văn học.   - 1978: Giải Roswitha của thành phố Bad Gandersheim.   - 1979: Giải khuyến khích dự án Kịch bản phim Die Ausgensperrten (Những kẻ bên lề).   - 1983: Giải văn chương của Bộ giáo dục và nghệ thuật Áo.   - 1986: Giải Heinrich BÖll của thành phố Köin.   - 1987: Giải văn chương của bang Steiermark.   - 1989: Giải văn chương của thành phố Wien.   - 1994: Giải Walter Hansenclever của thành phố Aachen.   - 1994: Giải Peter Weiss của thành phố Bochum.   - 1996: Giải văn chương của thành phố Bremen cho tiểu thuyết Die Kinder Toten (Con cái người chết).   - 1998: Giải Georg Büchner.   - 2000: Giải manuskripte của bang Steiermark.   - 2002: Giải sân khấu Berlin của Quỹ Preuβische Seehandlung.   - 2002: Giải của thành phố Mülheim cho kịch bản Macht Nichts (không sao cả).   - 2002: Giải Heinrich Heine của thành phố Düsseldorf.   - 2003: Giải Else Lasker-Schüler của Nhà hát Pfalztheater ở Kaiserslautern cho sự nghiệp nhà viết kịch.   - 2004: Giải Lessing cho công tác phê bình.   - 2004: Giải của thành phố Mülheim cho kịch bản Das Werk (Nhà máy).   - 2004: Giải Stig Dagerman của Hội Stig Dagerman (Thụy Điển).   - 2004: Giải kịch truyền thanh viết cho người mù trong chiến tranh.   - 2004: Giải văn chương Franz Kafka (Séc).   - 2004: Giải Nobel (Thụy Điển).   Mời các bạn đón đọc Cô Gái Chơi Dương Cầm của tác giả Elfriede Jelinek.