Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Côn Trùng

Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tay của tác giả Lê Thị Hiệu (Hiệu Constant). Côn Trùng - một lối viết độc đáo về nhân tình cuộc sống và những mảng đời thực ngoài xã hội. Truyện giãi bày một cách xót xa và nuối tiếc, một cách dũng cảm và day dứt về một mối tình không bao giờ tàn lụi. Vẻ đẹp của mối tình không bao giờ được xã hội công nhận này vừa như ánh sáng lung linh soi rọi, vừa như loài côn trùng rỉ rả gặm nhấm; vừa làm hồi sinh cõi sống tinh thần, vừa làm héo úa vẻ đẹp của hạnh phúc. Truyện được chia làm 2 mảng: kể chuyện và tự sự. Tuy là tác phẩm đầu tay, nhưng tác giả đã chứng tỏ bút lực của mình tương đối rộng và hấp dẫn người đọc. Có lẽ có được bút lực này một phần là nhờ tác giả đã là một dịch giả trẻ, môi trường sống xê dịch từ Việt Nam sang Pháp và từ Pháp theo đường bay thường xuyên về quê nhà Việt Nam. Gia tài dịch của Lê Thị Hiệu với bút danh Hiệu Constant là chị đã dịch được một số những tác phẩm thời thượng, được bạn đọc trong nước đón nhận. (Nhà văn Võ Thị Xuân Hà giới thiệu) *** Tôi phải kể ra đây với bà, bởi câu chuyện mà tôi sắp kể thì không thể không kể ra được bà ạ. Từ lâu rồi nó cứ gậm nhấm tâm hồn tôi, nó cứ rỉ rả suốt đêm ngày. Tôi day dứt. Tôi bối rối. Đôi lúc tôi còn cảm thấy cả sự ân hận, hối lỗi đối với những người xung quanh. Nhất là đối với mẹ tôi giờ đang ở cõi vĩnh hằng, nhưng tôi biết, đêm đêm, bà vẫn về bên tôi, vẫn chăm sóc tôi như ngày xưa. Vì tôi vốn là đứa con cưng nhất của- bà. Thưa bác sĩ, nhưng tôi không biết bắt đầu câu chuyện này từ đâu? Nhìn ánh mắt khuyến khích của bà, tôi thấy an tâm hơn. Tôi chắc bà sẽ hiểu tôi, vì đây là nghề của bà. Tôi đã đọc rất nhiều sách và nghe rất nhiều những câu chuyện nói về ngành nghề của bà. Ngày xưa đôi lúc tôi còn chế giễu những người phải tìm đến các bác sĩ tâm lý, là vì dạo ấy tôi không bao giờ có ý nghĩ rằng một ngày nào đó tôi lại phải tìm đến những phòng mạch như của bà đây để điều trị. Đúng là ở đời, nói trước bước không qua. Trong đầu tôi hiện giờ đang bùng nhùng biết bao ý nghĩ. Những ý nghĩ đó cứ đan xen, hòa trộn lẫn nhau. Vâng, chuyện quan trọng nhất tôi sẽ kể cho bà nghe ngay đây. Đấy, bà lại có điện thoại rồi, và tiếng chuông điện thoại đã làm tôi hoảng loạn và câu dạo đầu đầu tiên mà tôi muốn bắt đầu đã lại tan biến đi mất. Tôi phải nói cho bà biết ngay rằng, chuyện tôi sắp kể là một câu chuyện tình. Bà làm ơn có thể tắt điện thoại đi được không, vì điện thoại sẽ làm ngắt mạch câu chuyện của tôi và tôi sẽ lại khó bắt đầu lại từ đầu. Vâng, đây là một câu chuyện tình chẳng giống như bất kỳ một câu chuyện tình nào khác. Và chính nó đã làm tôi trở nên trầm cảm từ bấy lâu nay. Chuyện của tôi đã bắt đầu từ nhiều năm rồi. Chuyện của tôi và người ấy ấy mà. Tôi có buộc phải nói tên người ta ra không? Có à? Có nói ra thì lòng tôi sẽ thanh thản hơn để giãi bày à? Đúng thế, đúng là nghề nghiệp của bà có khác. Mới bắt đầu thì đã thấy có hiệu nghiệm rồi, bởi tôi cứ lấy kinh nghiệm từ mình mà ra. Nếu một ngày tôi cố gắng gọi dù chỉ là gọi thầm tên của người ta thì cả ngày hôm đó tôi sẽ cảm thấy thanh thản và chịu hơn, còn nếu như tôi cứ bắt mình phải quên đi và sống trong sự kìm nén thì tôi sẽ cảm thấy rất ngột ngạt, khó thở. Vâng, anh ấy tên N.V . Nhưng chỉ có điều, bà biết không, khi gọi tên anh ấy ra như vậy thì tim tôi lại thổn thức, cả người tôi như có một luồng điện chạy qua vậy, các mạch máu dường như lưu thông nhanh hơn, hơi thở của tôi gấp gáp, các tế bào trên cơ thể tôi lại căng ra, chúng như muốn đón nhận nơi anh từng cử chỉ, vuốt ve, từng ánh mắt, thậm chí chúng còn muốn hít thở hơi thở của anh. Đã bao đêm tôi tập ngồi thiền. Tôi không dám nghĩ về anh bất kỳ lúc nào. Thì tôi đã nói với bà lúc nãy, khi bà đang tra những bệnh án của tôi. Tôi yêu anh ấy, yêu say mê, cuồng nhiệt. Tôi yêu anh bằng con tim run rẩy trắng trong của mình. Khoảng cách xa xôi càng làm cho tình yêu của tôi tăng dần lên theo năm tháng. Mỗi mùa đến rồi lại qua. Mỗi năm đến rồi lại đi. Mỗi mùa đem đến cho tôi những thứ tình cảm khác nhau dành cho anh. Bản chất anh trầm ngâm, chắc anh thích mùa thu. Bây giờ Paris đang là mùa thu, bà thấy đó. Cảnh tượng đẹp thiên thần ngoài kia. Ban nãy, trước khi đến phòng khám của bà, tôi đã đạp xe trên kè sông Seine. Anh sáng vàng xộm, xiên qua những kẽ lá đâm thẳng xuống mặt dường nhựa, chiếu lên những chiếc lá rụng lao xao chạy dọc theo những ngọn gió. Tôi còn thấy những con tàu mousse chạy lờ lững trên dòng sông nổi tiếng toàn cầu, chạy xuyên qua thành phố trái tim của thế giới. Khách du lịch đến từ khắp nơi đều thích dạo dọc sông Seine trên những con tàu mang tầm lịch sử. Dạo sông Seine và ngắm những tòa nhà chọc trời đổ bóng xuống lòng sông! Còn gì đẹp và lãng mạn hơn. Khi đi qua công viên Luxembourg cũng thế, tôi nhìn vào và thấy rất nhiều người đi dạo. Đầu thu rồi nhưng những đám cỏ vẫn xinh xắn, vẫn xanh ngắt. Chúng mới đẹp làm sao khi điểm những chiếc lá vàng vừa rơi từ những cây dẻ xuống đậu là là trên bề mặt. Cuộc đời con người cũng vậy, cũng mong manh quá, cũng như chiếc lá đang rơi kia. Tôi giơ tay ra và bắt được một chiếc. Trên đó cũng có những đường gân chạy ngang dọc như những đường chỉ trong tay tôi đây, hay như trong tay bà vậy. Hai chiếc lá là hai bộ gân khác nhau, cũng như tay tôi khác tay bà. Chiếc lá tôi đang cầm là màu vàng nâu, và đã khô đi. Vậy là nó kết thúc cuộc đời một cách tốt đẹp. Nó đã sản sinh ra bao lượng ô-xi cho chúng ta và đã hút đi bao lượng các-bon-nic để cho trái đất xanh này bớt đi ô nhiễm? Và kia kìa, xa chỗ tôi đứng một chút, có một chiếc lá xanh vừa rụng xuống. Đúng thế, nó còn xanh lắm vậy mà đã phải lìa khỏi cành. Bà thấy cảm cảnh à? Tôi cũng vậy, nhưng trong cuộc đời này còn biết bao điều hệ trọng hơn như thế xảy ra mỗi ngày. Đối với chính loài người chúng ta. Nào tai nạn giao thông. Nào thiên tai. Nào bệnh tật... Và còn chiến tranh nữa. Nhiều vô cùng. Nhưng tôi lan man rồi. Không đi vào câu chuyện chính của mình. Không sao à? Bà ở đây là để nghe tôi nói sao? Và tôi có quyền được kể ra, được nói ra tất cả những gì ẩn chứa trong lòng? Ngay cả những điều mà tôi không dám thổ lộ với ai, kể cả những người thân của mình? Ngày xưa, nếu mẹ tôi còn sống, có lẽ bà sẽ cho tôi những lời khuyên bổ ích. Hay cả người anh trai lớn nhất của tôi nữa. Anh ấy đã ra đi khi còn quá trẻ và đã có những lúc tôi oán thán anh ấy. Rằng nếu anh còn sống, cuộc sống của tôi có lẽ sẽ thanh thản hơn. Anh cũng sẽ cho tôi rất nhiều lời khuyên. Anh ấy thông minh, kiên nhẫn và hình như chưa tạt tai tôi bao giờ. Bà thấy đấy, khi còn bé, dù là con gái đi nữa, nhưng ai mà chẳng có lúc làm những điều bậy bạ, nghịch ngợm, nhưng anh ấy đã ân cần giảng giải cho tôi. Tôi nhớ rất rõ những lần anh giúp tôi làm bài tập hóa. Trong tất cả các môn, tôi dốt môn này nhất. Khi phải cân bằng những phương trình hóa học là tôi chết tắp lự. Đấy là tôi nói những phương trình khó thôi, còn nếu không thì điểm trung bình môn hóa của tôi cũng đạt được trên trung bình khá kia đấy. Hôm đó, hồi tôi học lớp mười một bà ạ, anh đang say sưa giảng cho tôi về các hợp chất a-xit, hợp chất khí, hay các loại muối, kiềm thì tôi bất chợt hỏi tại sao con người lại cứ gây chiến tranh để tạo ra những cái chết vô nghĩa lý... Anh trai tôi nhìn xuống, lúc ấy tôi chắc phải kinh khủng lắm, như thoát thiền vậy. Ánh mắt tôi xa xăm, nhìn ra ngoài sân lúc ấy cũng đang là mùa thu, ánh nắng cũng lao xao, vài tia nắng len lỏi qua các kẽ ngói chiếu thẳng xuống mặt bàn tôi đang ngồi làm bài tập. Những hạt bụi nhỏ li ti chạy nhảy huyên náo trong đám nắng dệt lên tấm lưới vô hình giăng giăng. Ngày đó trong đầu tôi đã nảy sinh ý nghĩ về sống chết vô thường. Con người sinh ra để yêu thương nhau nhưng rồi cũng để chém giết lẫn nhau. Hồi đó, anh trai cả tôi vừa xuất ngũ. Anh đi làm nghĩa vụ quân sự đúng vào thời kỳ quân Tàu giở mặt tấn công vào biên giới phía bắc Việt Nam. Chắc anh hiểu được nỗi niềm của tôi, bởi những lần anh về phép, tôi hay bắt anh kể cho nghe chuyện binh đao, khói lửa. Anh toàn kể chuyện vui, nhưng có một lần tôi nghe lỏm được, khi đang ngồi học bài sau tấm liếp. Tôi vốn không tò mò, nhưng khi nghe anh đang nói chuyện với mẹ mà lại khóc ấm ức. Anh mà lại khóc ư, chuyện thật lạ! Giỏng tai nghe ngóng, tôi nghe thấy anh kể cho mẹ nghe về chuyện một người bạn thân của anh tháng trước đã tử trận. Anh ấy mới hai mươi tuổi. Chưa một lần có bạn gái, chưa được cầm tay người phụ nữ nào. Trong cuốn nhật ký của anh chỉ có những dòng anh gửi cho một người tên Liên, mà anh tôi vừa đi gặp chiều nay. Buồn quá phải không bà, khi chúng ta đang sổng trong thời đại Internet, hòa mạng chỉ trong giây lát là có thể nói chuyện với người ở bên nửa kia của trái đất. Con gái con trai mới mười hai, mười ba tuổi đầu đã có bạn khác giới xí xa xí xớn rồi đấy. Còn tôi, mấy ngày trước đó, trong giờ học, bọn tôi, hay đúng ra là mấy thằng Hùng, Tiến, Cần, Trường... chúng nó chẳng chịu học, sau đó lại còn vẽ bậy hết lên mặt, viết những câu không thể nghe nổi như mẹ ơi con muốn chết, hận đời và khát máu, khiến thầy giận quá. Chúng nó thì làm gì mà đã biết những dư vị đó, trẻ con, vớ vẩn, tự nhiên tôi thấy ghét chúng nó thế, mặc dù thằng Hùng vốn cũng rất tử tế và học giỏi. Hôm đó, thầy đã không dạy mà nói chuyện thâm tình với chúng tôi, như những người bạn, người em. Thầy kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện cũng đại loại như của anh trai tôi. Ngày trước, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, thầy cũng có một người bạn chết trận như vậy, rằng người con trai ấy tên là Tâm, chết ngay trên cánh tay của thầy tôi. Trước khi chết chỉ nói được mỗi câu “Cậu mang về cho mẹ tớ cái khăn có thêu con chim hòa bình nhé”. Tất cả những câu chuyện như vậy gieo rắc trong tâm hồn tôi những gì mong manh, dễ vỡ, nên tôi sợ bà ạ. Nhưng rồi những gì tôi sợ cũng xảy ra. Anh tôi mất đột ngột trong một tai nạn hết sức thông thường. Cho đến tận bây giờ tôi vẫn không tin đó là sự thật.   Mời các bạn đón đọc Côn Trùng của tác giả Hiệu Constant.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mặt Trăng và Đồng Sáu Xu - William Somerset Maugham
MẶT TRĂNG VÀ ĐỒNG SÁU XU mượn một phần tiểu sử của danh họa người Pháp Paul Gauguin, một trong những họa sĩ tiên phong, một tên tuổi rất lớn và đầy sáng tạo của hội họa hiện đại, xuất hiện gần như đồng thời với sự ra đời lừng lẫy của các họa sĩ trường phái Ấn tượng. S. Maugham đã mượn câu chuyện nửa thực nửa hư về cuộc đời của nhà danh họa để trình bày những ý nghĩ của mình về Nghệ thuật, Tình yêu và Con người. Chắc hẳn ông có dựa vào quyển hồi ký của chính nhà danh họa, nhưng ở nhiều chỗ ông đã hư cấu với thủ pháp quen thuộc của mình. Ở đây chúng ta gặp lại Maugham với những chủ đề ta đã từng gặp trong hai tác phẩm kia: con người, dục vọng, nghệ thuật… Có thể nói trong cả ba tác phẩm nổi bật nhất này của mình, Maugham đều viết về sự ràng buộc mà cái bản năng lớn nhất của con người là Dục vọng (và dĩ nhiên theo nó là Tình Yêu) tác động lên nhân vật chính của tác phẩm, là những người đàn ông. Ở Of Human Bondage đó là sự ràng buộc, của dục vọng - tình yêu, trên một người bình thường. Ở The Radzor’s Edge là ràng buộc trên một người đi tìm sự giải thoát và ở The Moon and Sixpence là ràng buộc trên một nghệ sĩ thiên tài. Câu chuyện của 3 tác phẩm nói chung là mô tả cách những người đàn ông đó đã phản ứng lại sự ràng buộc kia… Khoảng năm 1972 - 1973 ở Sài gòn xuất hiện bản dịch The Moon and Sixpence dưới cái tên “Đời nghệ sĩ” (nxb Ca dao). Một nhà phê bình khó tính đã than trời về bản dịch này. Tôi tình cờ kiếm được nguyên tác ở chợ sách son trên hè phố Sài Gòn và đã kiểm chứng được lời than phiền này. Quả là một bản dịch quá tệ, tôi thử so vài trang để sửa và kết quả là mỗi trang của bản dịch được tôi sửa chi chít đen kịt, đó chỉ là với khả năng của một người có vỏn vẹn ít năm học tiếng Anh ở trường trung học. Tình cờ ít năm sau đó cũng trên hè phố bán son, tôi lại “vớ” được quyển nhật ký của Paul Gauguin dịch ra tiếng Anh với cái nhan đề The Intimate Journal. Kể cũng là duyên phận. Sách in lại nhiều bức tranh của Gauguin để minh họa. *** William Somerset Maugham là nhà văn Anh, sinh năm 1874 và sống ở Pháp cho đến khi lên mười. Học xong đại học ở Anh, ông làm thầy thuốc tại bệnh viện. Có khiếu văn chương, ông sớm bắt đầu viết tiểu thuyết và thành công với vài tác phẩm đầu tay, rồi chuyển hẳn sang sáng tác văn học. Ông nổi tiếng với hai truyện dài Kiếp người (Of Human Bondage) (1914) và Mặt trăng và đồng sáu xu(The Moon and sixpence) (1919). Trong số sách được xuất bản sau đó có: (Bức Bình phong (The Painted Veil) (1925),Quý Ngài trong phòng khách (The Gentleman in the Parlour) (1930), Don Fernando (1935), Lưỡi dao cạo (The Razor’s Edge) (1944), Sổ tay nhà văn (A Writer’s Notebook)(1949), Cách nhìn thiên vị (Points of View) (1958),… W.S. Maugham đồng thời còn là một nhà soạn kịch trứ danh với những sáng tác như: Phu nhân Frederick (Lady Frederick) (1907), Smith (1909), Đất hứa (The Land of Promise) (1913). Ông cũng là tác giả nhiều truyện ngắn rất được hoan nghênh. Toàn tập truyện ngắn của ông được tái bản nhiều lần với số lượng mấy trăm nghìn bản, ví dụ như Mưa. Trong Mặt trăng và đồng sáu xu, tác giả kể lại cuộc đời một nhà buôn cổ phần chứng khoán trở thanh họa sĩ thiên tài mà người đương thời chưa đánh giá đúng giá trị tác phẩm cho tới khi ông qua đời một cách thê thảm ở nơi đất khách quê người. Kinh doanh thành đạt, sống sung túc, được vợ con hết lòng yêu mến, Charles Strickland bất thình lình bỏ gia đình ra đi, không còn quan hệ với cái xã hội ông đã từng sống, quyết tâm hiến cả đời mình cho hội họa. Ông sống gian khổ trong nhiều năm phấn đấu không thành công ở Paris. Hoàn cảnh xui khiến, ông đi tìm môi trường sáng tác mới ở một nơi xa xôi ở cái tuổi gần năm mươi. Trên đảo Tahiti, trong một gian nhà nhỏ ở một vùng hẻo lánh, được chăm sóc bởi người vợ trẻ, ông miệt mài vẽ cho đến ngày chết vì bệnh hủi, mù cả hai mắt. Tác phẩm cuối cùng của ông là những bức tranh vẽ trên vách và trần nhà mà người được may mắn nhìn thấy đánh giá là kiệt xuất. Với tính khí khác thường vốn có, ông yêu cầu vợ đốt căn nhà, nhưng những bức tranh vẽ trên vải không đóng khung vứt lung tung trong nhà đủ cho những ai hiểu biết hội họa coi ông là một thiên tài. Mời các bạn đón đọc Mặt Trăng và Đồng Sáu Xu của tác giả William Somerset Maugham.
Gánh Hàng Hoa
Tác phẩm miêu tả cuộc sống của tầng lớp trí thức nghèo tại Hà Nội trong những năm 30 của thế kỷ 19. Chàng thư sinh tên Minh có vợ là một cô gái xinh đẹp, duyên dáng, người làng Ngọc Hà, làm nghề trồng hoa và bán hoa. Cuộc sống vợ chồng tuy vất vả nhưng vui vẻ và hạnh phúc. Vợ Minh, Liên, là bạn của anh từ thuở nhỏ, vô cùng yêu chồng, hết lòng kiếm tiền nuôi chồng ăn học để mong chồng đỗ đạt. Nhưng rồi Minh vì tính đa nghi ghen tuông lại nghĩ sai về tình cảm tốt đẹp của người bạn học với mình, anh Văn và Liên. Từ sau cuộc nhậu ở nhà Văn, Minh ngã bị thương vào mắt và tạm thời không thấy ánh sáng trong một khoảng thời gian, anh sinh ra tiêu cực, chán nản, càng đa nghi. Tuy vậy, chính Minh sau khi khỏi mắt cũng bị sắc đẹp của người con gái khác làm cho xao lòng, bỏ nhà ra đi.. *** Gánh Hàng Hoa gồm có: Hy Vọng Hạnh Phúc Sau Ngày Vui Hương Và Sắc Sáng Và Tối Hy Sinh Viết Báo Trong Vườn Bách Thảo Ánh Sáng Khủng Hoảng Hai Cảnh Mộng Con Đường Cũ Đời Vẫn Vui, Vẫn Đẹp Mời các bạn đón đọc Gánh Hàng Hoa của hai tác giả Khái Hưng & Nhất Linh.
Bông Huệ Đỏ - Anatole France
“Một trong những tác phẩm viết về tình yêu hay nhất của nền văn học Pháp”. Sự đánh giá ấy đối với cuốn tiểu thuyết Bông huệ đỏ đã có từ lâu, và gần như được công nhận hoàn toàn trong đông đảo người đọc, cũng như trong giới phê bình Pháp.   Hay nhất, không phải vì nội dung tác phẩm, số phận nhân vật và tình yêu của họ đã vượt ra ngoài tầm cỡ con người bình thường, mà trái lại, là một bước dấn sâu hơn vào thế giới nội tâm phong phú phức tạp của những con người bình thường. Ba người ấy, nàng Thérèse diễm lệ và đa tình, chàng Le Ménil, rồi chàng Decharre, hoàn toàn không phải là những “siêu nhân”. Họ trần tục như hết thảy những người trần tục nhất. Họ đến với nhau, hòa quyện vào nhau, thiêu đốt nhau trong ngọn lửa đắm say cực kỳ mãnh liệt, để rồi cùng chính lúc ấy, họ gieo mầm khổ ải cho nhau bởi sự ham hố bất tận, tính ích kỷ và sự ghen tuông. Tình yêu là hạnh phúc, nhưng tình yêu cũng là khổ đau? Hạnh phúc trong khổ đau? Hay khổ đau trong hạnh phúc? Con người không phải không luôn luôn tự đặt ra những câu hỏi như vậy. Nhưng kết cục con người vẫn không thoát khỏi nỗi đam mê mà tấm lưới tình yêu đã giăng sẵn để đón chờ họ.   Bông huệ đỏ được viết sau hàng loạt các tác phẩm lừng danh của Anatole France, ghi nhận một bước chuyển khá quan trọng trong sự nghiệp sáng tạo của ông. Nếu như trong các tiểu thuyết Ðảo chim cụt, Thiên thần nổi loạn, Thais, v. v.., nhân vật của ông là những trí thức khép kín, mang nỗi đau khổ âm thầm của thời đại, thì trái lại, trong Bông huệ đỏ, Thérèse, Le Ménil, Decharre… đều bình thường, gần gũi. Có người cho rằng đó là sự phản ánh một phần tâm trạng thực của tác giả qua mối tình “hạnh phúc và đau khổ” của ông với bà Caillavel, người phụ nữ trí thức nổi tiếng thời bấy giờ.   NHÀ XUẤT BẢN PHỤ NỮ  ***   Anatole France (tên thật là François-Anatole Thibault, 16 tháng 4 năm 1844 – 13 tháng 10 năm 1924) sinh ở Paris, là con của một chủ cửa hàng sách, từ nhỏ đã ham mê văn học, nghệ thuật. Học ở trường Collège Stanislas. Trong thập niên 1860, France tiếp xúc với nhóm Parnasse và xuất bản tập thơ đầu tiên (1873). Sau đó ông chuyển sang viết văn xuôi và thật sự có tiếng tăm khi cuốn tiểu thuyết Le crime de Sylvestre Bonnard (Tội ác của Sylvestre Bonnard, 1881) ra đời và được nhận giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp. Trong thập niên 1890, ông viết nhiều bài phê bình văn học cho Le Temps (Thời báo) và in thành 4 tập sách với tên La vie littéraire (Đời sống văn học).   Những năm cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, tư tưởng và sáng tác của Anatole France đã có những thay đổi. Ông từ bỏ lập trường người quan sát để trở thành chiến sĩ đấu tranh cho nền dân chủ. Cụ thể là trước kia ông thường miêu tả cuộc sống và con người thời kỳ Trung cổ hoặc thời kỳ suy vong của chế độ phong kiến, thì nay ông viết về các sự kiện lịch sử và xã hội đương đại, đồng thời tiếp tục truyền thống nhân văn chủ nghĩa của Rabelais và Voltaire, phê phán nền cộng hòa thứ ba của Pháp, chế giễu không thương xót những kẻ gây chiến tranh xâm lược tàn khốc. Năm 1921 ông được trao giải Nobel Văn học vì “những tác phẩm xuất sắc mang phong cách tinh tế, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và khí chất Gô-loa đích thực”…   A. France là một trong những nhà văn lớn nhất của nước Pháp thời cận đại, trải qua một con đường khó khăn và phức tạp từ chủ nghĩa nhân đạo ảo tưởng đến chủ nghĩa hiện thực cách mạng. Ông mất ở Tours, Indre-et-Loire. *** Tác phẩm chính:   - Những câu thơ vàng (Poèmes dorés, 1873), thơ.  - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, 1881), tiểu thuyết.  - Sách của bạn tôi (Le Livre de mon ami, 1885), hồi ký.  - Bông huệ đỏ (Le lys rouge, 1894), tiểu thuyết.  - Vườn Epicure (Le jardin d'Epicure, 1894), tập cách ngôn.  - Lịch sử hiện đại (L'histoire contemporaine), gồm 4 tiểu thuyết:   + Cây du trên đường dạo chơi (L'orme du mail, 1897)  + Hình người bằng cây liễu (Le mannquin d'osier, 1897)  + Chiếc nhẫn tử thạch anh (L'anneau d'amethyste, 1899)  + Ông Bergeret ở Paris (Monsieur Bergeret à Paris, 1901)  - Hung thần lên cơn khát (Les dieux ont soif, 1912), tiểu thuyết  - Thiên thần nổi loạn (La révolte des anges, 1914), tiểu thuyết.    Những tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:   - Quyển truyện của bạn tôi (La livre de mon ami, hồi kí), Vũ Thị Hay và Lê Ngọc Trụ dịch, Trung tâm Học liệu xuất bản, 1962, tái bản 1972  - Sách của bạn tôi (La livre de mon ami, hồi kí), Hướng Minh dịch và giới thiệu, NXB Văn Học, 1988, tái bản 2009.  - Đảo Panhgoanh (L'Île des Pingouins tiểu thuyết), Nguyễn Văn Thường dịch, NXB Văn Học, 1982.  - Thiên thần nổi loạn (La révolte des anges, tiểu thuyết), Đoàn Phú Tứ dịch, NXB Văn Học, 1987.  - Bông huệ đỏ (Le lys rouge, tiểu thuyết), Nguyễn Trọng Định dịch, NXB Phụ Nữ, 1989.  - Các hung thần lên cơn khát (Les dieux ont soif, tiểu thuyết), Trần Mai Châu dịch, NXB Văn Nghệ TP.HCM, 1990.  - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, tiểu thuyết), Nguyễn Xuân Phương dịch, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1996.  - Tội ác của Sylvestre Bonnard (Le crime de Sylvestre Bonnard, tiểu thuyết), Nguyễn Xuân Phương dịch, NXB Văn Nghệ TP. HCM, 2001.  - Thais- Vũ nữ thoát tục, (Thaïs, tiểu thuyết), Hoàng Minh Thức dịch, NXB Tổng hợp Tiền Giang, 1989.  - Mối tình người thợ gốm, (tập truyện ngắn), Nxb Văn học, Hà Nội 1987.   Mời các bạn đón đọc Bông Huệ Đỏ của tác giả Anatole France.
Người Đưa Đường Thọt Chân - Bùi Việt Sỹ
Câu chuyên của cuốn sách dài 300 trang chỉ xoay quanh bản kê khai hải quan và chỉ diễn ra trong mấy giờ kiểm tra hàng hoá của một du học sinh Việt Nam sẽ gửi theo đường biển về nước. Thắng, vị tiến sĩ tân khoa là tuýp người điển hình cho cái thời gian khó ấy: Anh tháo vát, lanh lợi, chấp nhận hành xử hèn hèn để mưu cầu sự đổi đời cho mình và vợ con. Nhưng dù hoàn cảnh đã "uốn nắn" tính cách Thắng mềm đi đến mấy, Thắng vẫn còn hạt nhân lương tri và nó khiến anh day dứt khôn nguôi. Thắng khác hầu hết các nhân vật cùng loại, những chàng trọc phú hớn hở hợm hĩnh với mấy ngàn Dmak bồi thường không cả cần biết tới tương lai vô nghề nghiệp từng xuất hiện trên văn đàn thời đầu thập kỷ trước. Tiểu thuyết hấp dẫn chính nhờ tính cách hèn hèn nhưng vẫn đầy khát vọng cao sang của Thắng. Thắng mang hoa hồng đến làm thân với bà thiếu tá Hải quan Nga, chứ không mang tiền. Khi trả lời bà thiếu tá, đôi khi Thắng cũng nói dối cho qua chuyện, chẳng hạn với câu hỏi Mục đích đến Liên Xô, anh nghĩ rằng để đổi đời nhưng lại trả lời rằng để học tập; còn về cơ bản anh trả lời bằng các câu chuyện để qua nó làm mềm lòng người đàn bà thép với các câu hỏi tờ khai lạnh lùng. Để trả lời câu Từ đâu đến nước Nga và đã đến như thế nào? Thắng đã qua câu nói nổi tiếng của vợ một viên tướng trong phim Moscow không tin những giọt nước mắt: "Muốn có một vị tướng à? Thế thì trước hết hãy lấy một viên trung uý mới ra trường và theo hắn 15 năm hết các vùng biên cương này đến hải đảo xa xôi kia, cuối cùng còn phải chờ xem số phận có mỉm cười với mình không..." để kể lại hơn mười năm phấn đấu từ một học sinh xuất sắc, anh phải tham gia phục vụ chiến đấu trên mặt trận giao thông, lập nhiều công tích nhưng rồi vẫn phải hèn hèn làm thân với vợ chồng ông Viện trưởng, rồi lại phải mưu mẹo vượt qua các trò ma lanh khác để kiếm một suất sang đây. Để trả lời câu Mày làm gì ra mà nhiều tiền để mua nhiều hàng như thế, Thắng đã không đến nỗi nói rằng tôi sống bằng nước lã, nhưng anh cũng không dám nói toàn bộ sự thật về cuộc buôn bán chợ đen như một nền kinh tế thực sự hoạt động dưới cái vỏ của nó là nền kinh tế in giá cả lên hàng hoá nhưng mua xong bán lại thì vẫn kiếm lời từ chính nền kinh tế ấy. Những trang Thắng hồi tưởng về việc sản xuất áo lông thú giả cổ, việc bán nó và có thể đã bị lừa mất trắng, việc mua tủ đá chỉ dành bán cho những người có công huân... đã lột tả thật thê thảm hình ảnh một tiến sĩ học ở Liên Xô mà chỉ có hơn 70 từ tiếng Nga làm vốn và trả thi bằng những trò láu lỉnh được cho qua trong tinh thần hữu nghị, chiếu cố vì đất nước có chiến tranh... *** Chào một ngày tốt lành! Bà thiếu tá Hải quan Natalia vừa ngồi vào bàn, chuẩn bị cho một ngày làm việc mới, nghe thấy tiếng chào vội ngước mắt lên. Trước mắt bà là Thắng cùng với chàng thanh niên hôm ấy. Thắng vẫn ăn vận com lê lịch sự và trên tay vẫn có một bó hồng nhung đỏ tím, loại hoa quý và đắt tiền ở xứ lạnh. - Chào một ngày tốt lành! - Bà đáp lại và vội vã đứng lên. Đại uý Ivan, như lần trước, khoanh hay tay trước ngực, đứng tựa lưng vào cạnh bàn đối diện. - Thế nào, anh bạn trẻ thân mến của tôi! - Sau một chút xúc động, bà lấy lại được vẻ tự chủ và cất tiếng hỏi. - Cảm ơn bà! Mọi việc đều bình thường - Thắng mỉm cười, đáp vui vẻ tự tin. - Bình thường ư? - Bà hơi kéo dài giọng, cố ý nhấn mạnh câu trả lời của Thắng. Lạy chúa tôi. - Bà nói tiếp mà không làm dấu thánh. Còn về phần tôi thì thế này. Bà cân nhắc từng từ để nói tiếp. Tất cả hàng hoá của anh, tôi đã cho niêm phong và để vào góc kho. Đồng thời tôi cũng đã làm tờ trình, thỉnh thị ý kiến giải quyết của trên. Đó là tờ trình đầu tiên, sau hai mươi nhăm năm trong nghề của tôi. - ồ cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của bà! Giọng Thắng vẫn giữ được vẻ bình thản mà lịch sự. - Và tôi đã nhận được tờ phúc đáp như sau. Bà cúi xuống lục tìm trong một cặp hồ sơ. Và một phút sau, bà rút ra một tờ giấy cứng như một tờ bìa mầu trắng, trên đó có đánh máy các điều cần thực hiện. Rồi bà chậm rãi đọc: A. Chiếc Viđiô Sanyo người gửi hàng có thể đưa đến cửa hàng đồ cũ, ký gửi, sau đó mua lại. Khi đã có hoá đơn mua tại cửa hàng, khách gửi sẽ được làm thủ tục xuất theo luật lệ hiện hành. B. Về chiếc đàn Pianô của Italia, khách gửi phải làm đơn đưa lên Sở Văn hoá thành phố, Sở sẽ lập Hội đồng giám định xét duyệt xem có được cho xuất hay không? Chiểu theo quyết định đó, Hải quan cửa khẩu biển sẽ thi hành. ... Mời các bạn đón đọc Người Đưa Đường Thọt Chân của tác giả Bùi Việt Sỹ.