Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Em

Bạn sẽ làm gì khi một cô nhà văn xinh đẹp, gợi cảm bước vào hiệu sách nơi bạn làm việc? Joe Goldberg đã làm cái điều mà bất cứ ai trong tình cảnh đấy cũng sẽ làm: Google tên của cô.  Chỉ có một Guinevere Beck duy nhất ở thành phố New York này, người sở hữu một tài khoản Facebook và viết Tweet gần như mỗi ngày. Joe biết được mọi thứ mà anh cần biết về cô: bạn cô ấy chỉ gọi cô ấy là Beck, cô ấy học Đại học Brown, sống trên phố Bank và sẽ đi đến một quán bar ở Brooklyn tối nay để kiếm tìm một cuộc hẹn “ngẫu nhiên” hoàn hảo.  Từ kẻ đeo bám trở thành bạn trai, Joe biến mình thành người đàn ông hoàn hảo của Beck, đồng thời lặng lẽ dùng mọi cách – kể cả giết người - loại bỏ những chướng ngại vật, sắp xếp những sự kiện để Beck luôn “an toàn” trong vòng tay anh.  Cuốn tiểu thuyết là một cú tát giáng thẳng vào thực tế thời đại kỹ thuật số siêu kết nối; là lời cảnh tỉnh rằng bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể dễ dàng bị theo dõi và thao túng bởi một kẻ vô hình. *** EM (YOU) là cuốn tiểu thuyết đã được chuyển thể thành phim và có thể xem trên Netflix. Nhưng ngay cả với những ai đã xem qua bộ phim này, cuốn tiểu thuyết này vẫn rất đáng đọc, vì nó một lần nữa tái hiện bầu không khí mê hoặc mà điên rồ, thậm chí còn sắc nét hơn của câu chuyện. Ngay cả khi đã biết được các tình tiết sẽ diễn ra, cuốn sách vẫn mới mẻ và hấp dẫn để đọc đến trang cuối cùng. EM bắt đầu câu chuyện của mình tại một hiệu sách, nơi Joe - nhân vật chính - làm việc, gã là một kẻ bán sách. Và rồi Beck - một cô gái tóc vàng bước vào, xinh đẹp như một quả đào chín mọng, nàng là một nhà văn trẻ. Joe đã yêu Beck ngay từ cái nhìn đầu tiên, và anh đã lên kế hoạch cưa cẩm cô như bất kỳ chàng trai nào phải lòng một cô gái. Như xem cô ấy đăng gì trên Twitter, tìm hiểu xem cô ấy nhà ở đâu, tò mò bạn trai cũ của cô ấy là ai, kết thân với các cô bạn gái thân của cô ấy… EM sẽ dễ dàng đánh lừa các độc giả ngây thơ ở những chương đầu tiên khi nghĩ rằng đây là khởi đầu của một chuyện tình lãng mạn. Một anh chàng bán sách tinh tế thật đẹp đôi với một cô nàng nhà văn trẻ ngọt ngào. Mà thực ra đúng là đã có một chuyện tình nở hoa trong cuốn sách, nồng nàn men say như rượu ủ lâu năm. Tác giả Caroline Kepnes đã dùng những lời lẽ đầy mật ngọt để kể câu chuyện của mình. Như một viên kẹo của mụ phù thuỷ, quá sặc sỡ, quá thơm tho, không thể cưỡng lại. Nhưng khi lớp bọc đường bên ngoài đã trôi đi hết, sẽ dần lộ ra lõi nhân bên trong là kịch độc. Hoá ra loài hoa ái tình ấy là hoa ăn thịt, rượu quý ấy cũng đã hoà lẫn với độc dược tự bao giờ. Joe có lẽ là mẫu bạn trai ao ước của nhiều cô gái khi tinh tế, dịu dàng, sẵn sàng làm bánh kếp bằng cái muôi đỏ vì bạn gái mình thích thế. Joe kéo Beck ra khỏi những mối quan hệ xấu như gã bạn trai tồi, cô bạn thân muốn kiểm soát. Joe thúc đẩy Beck làm việc mà cô cần phải làm - thực sự viết cho xong một cuốn sách thay vì viết Twitter mỗi giờ và email mỗi ngày cho những chuyện chẳng ra đâu vào đâu. Joe muốn bảo bọc Beck và làm cho cuộc sống của cô tốt hơn. Nhưng ấy là khi Joe không trộm điện thoại để đọc các email của Beck. Lẻn vào nhà cô để thó một món đồ riêng tư làm kỷ niệm. Tốt nhất là Joe đừng có một cái lồng - theo đúng nghĩa đen - dưới tiệm sách của mình, nơi gã bảo vệ những cuốn sách quý và cả người cần hắn bảo bọc. Bởi ranh giới giữa bảo bọc và giam cầm đôi khi rất mong manh. Nhẹ nhàng ở các chương đầu, nhưng nhịp điệu càng về sau càng nhanh dần, khiến người đọc khó lòng bỏ cuốn sách xuống trước khi biết được kết thúc cuối cùng. Như thể họ đang là Beck, cũng đang gấp rút bỏ chạy khỏi một bóng ma rình rập, hay vẫy vùng thoát khỏi một cái lồng. Họ nóng lòng muốn được biết kết thúc của chính mình trong cuộc đào thoát ấy, hay chính xác hơn là kết thúc của Beck. Và nếu trốn thoát, có lẽ họ thầm dặn lòng sẽ không bao giờ bước chân vào một cái hiệu sách nào nữa, hoặc chớ có yêu một gã bán sách. *** Em bước vào hiệu sách, một tay giữ trên cánh cửa để chắc chắn cửa không bị đóng sầm lại. Em mỉm cười, có phần ngượng nghịu vì xinh đẹp quá, móng tay em trơn nhẵn và em đang mặc một chiếc áo len cổ chữ V màu be, rất khó đoán em có đang mặc áo ngực hay không nhưng tôi nghĩ rằng em hoàn toàn không mặc gì ở bên trong cả. Em trông “ngoan” tới mức cực kỳ khêu gợi, đôi môi em khẽ lẩm bẩm với tôi “chào anh” trong khi phần lớn mọi người chỉ lướt qua, nhưng có phải thật em không, trong chiếc quần bò màu hồng trễ cạp, kiểu vải sợi gai màu hồng như trong truyện Mạng nhện của Charlotte, và em ơi em từ đâu đến? Em đơn giản và hoàn hảo, như cô nàng Natalie Portman bé bỏng của tôi trong đoạn cuối của bộ phim Closer, khi cô - với vẻ mặt ngây thơ - đi cùng thằng cha xấu tính người Anh về nhà ở Mỹ. Em “đến nhà” của tôi, cuối cùng thì em cũng đến, vào một buổi sáng thứ Ba, lúc 10:06. Mỗi ngày tôi đi từ nhà ở Bed-Stuy đến hiệu sách tại phía Đông1 thành phố này. Mỗi ngày tôi kết thúc ca làm, gói ghém đồ đi về mà chưa bao giờ thấy một ai như em. Nhìn em xem: hôm nay em bước vào thế giới của tôi. Tôi chợt thấy rùng mình và muốn uống một viên thuốc rối loạn lo âu, nhưng thuốc lại đang ở dưới tầng mà thực ra tôi cũng không muốn uống viên thuốc ấy. Tôi không muốn đi xuống. Tôi muốn ở đây để tập trung ngắm em cắn những móng tay trần, không sơn màu của mình và quay đầu sang trái; à không, em đang cắn cái mảng màu hồng kia, mở to đôi mắt, quay sang bên phải; à lại không nữa, em không thích đọc sách tiểu sử, không đọc cả sách self-help (may quá, tạ ơn Chúa), và đi chậm lại đôi chút khi tới kệ chứa tiểu thuyết.   Tuyệt. Tôi để cho em biến mất sau những kệ sách – Tiểu thuyết xếp theo vần từ F tới K. Em không phải kiểu các “nữ thần” bất an về bản thân mà phải đi tìm kiếm Faulkner vì em sẽ không bao giờ đọc hết cũng như không bao giờ nên bắt đầu đọc sách của ông; sách của Faulkner khó nhằn và có khả năng sẽ làm đông cứng đêm hứng tình của em, nếu sách cũng có thể đông cứng được. Faulkner chỉ có duy nhất một giá trị là để thuyết phục em hãy nhập vai vào cuộc tình một đêm khi em thề rằng em không bao giờ chơi kiểu qua đường ấy. Nhưng em sẽ không phải kiểu con gái như thế đâu. Em không thuộc tầng lớp sẽ đọc Faulkner và với chiếc quần bò trễ cạp kia của em thì em thừa tiệc tùng ham vui cho những cuốn sách của Stephen King nhưng lại quá thiếu thời thượng để đọc những cuốn của Heidi Julavits… cuối cùng em sẽ mua sách của tác giả nào đây? Em hắt xì hơi một cái, ầm lên, và tôi tưởng tượng ra ngay sự ồn ã của em khi em ở trên giường. “Chúa phù hộ!”2 tôi nói toáng lên.   Em khúc khích cười và quay lưng lại, cô nàng dâm đãng này. “Anh cũng thế nhé, anh bạn.” Anh bạn. Em đang thả thính tôi, và nếu tôi là cái loại mất dạy hay lên Instagram, tôi sẽ chụp lại những tấm thẻ từ F đến K, chỉnh màu thật đẹp rồi viết lên đó: “F--K3, tuyệt quá, tôi đã tìm thấy em.”   Bình tĩnh nào Joe. Bọn con gái không thích kiểu con trai táo bạo như thế đâu. Tôi phải tự nhắc bản thân mình như thế. Cảm ơn Chúa đã đưa một khách hàng khác đến và thật khó để đọc vị thằng cha này với cuốn sách chẳng có gì bất ngờ của Salinger trên tay gã – thật thế, việc này vẫn luôn luôn chẳng dễ dàng gì. Thằng cha này, gì đây nhỉ, phải đến ba mươi sáu tuổi rồi, mà chỉ đọc đến Franny và Zooey thôi sao? À không, hãy nhìn vào thực tế chút đi. Hắn ta sẽ không đọc nó. Đấy chỉ là cuốn đặt lên trên để che đi cuốn sách của Dan Brown đang nằm dưới đáy giỏ mà thôi. Thời gian làm việc ở hiệu sách đã giúp tôi hiểu rằng phần lớn mọi người trên thế giới này cảm thấy tội lỗi khi thể hiện con người thật của bản thân. Tôi lấy cuốn sách của Dan Brown cho vào túi trước, như thể nó là ấn phẩm ấu dâm và bảo thằng cha kia rằng Franny và Zooey chỉ là đồ bỏ. Hắn ta chỉ gật đầu, còn em vẫn ở trong khu vực F-K bởi vì tôi vẫn thấy chiếc áo len màu be của em thấp thoáng sau những kệ sách. Nếu em kiễng chân lên một chút, tôi sẽ có thể nhìn thấy chút bụng của em hở ra. Nhưng em lại không làm thế. Em lấy một cuốn sách và ngồi xuống ghế, xem ra em định sẽ ngồi ở đấy cả tối. Có thể như thế sẽ giống Natalie Portman trong phim Where the Heart Is, bộ phim chuyển thể không thành công từ cuốn sách của Billie Letts – thuộc chiếu trên so với thể loại phim đó – và tôi sẽ tìm thấy em ở tâm điểm của bóng đêm. Chỉ có điều, em sẽ không có bầu còn tôi thì không phải là thằng khốn kiếp trong bộ phim ấy. Tôi sẽ đến, ngả vào em và nói, “Xin lỗi làm phiền quý cô, nhưng chúng ta đang gần sát sạt vào nhau đấy,” và em sẽ ngẩng lên, mỉm cười, “Đâu có, em đâu có sát sạt gần.” Em hít một hơi và thì thào. “Em đang rất đón chờ anh mà. Anh bạn.” “Này!” Salinger-Brown càu nhàu. Hắn vẫn còn ở đây sao? Hắn vẫn còn ở đây. “Tôi lấy hóa đơn được chưa?” “À phải, xin lỗi nhé.” Hắn giật lấy hóa đơn từ tay tôi. Không phải hắn ta ghét tôi đâu. Hắn ta ghét chính bản thân hắn đó. Nếu mọi người đều có thể tự chăm sóc cảm xúc cá nhân thì phòng dịch vụ chăm sóc khách hàng sẽ vận hành dễ dàng hơn nhiều. “Mày biết không, thằng nhóc? Mày cần phải vượt qua bản thân mày. Mày chỉ làm việc ở một hiệu sách thôi. Mày không xuất bản những cuốn tiểu thuyết này. Mày không hề viết sách và nếu mày có tí ti gì gọi là khá khẩm trong việc đọc sách thì có thể mày đã chẳng làm việc ở một hiệu sách như thế này. Vì thế, hãy bỏ ngay cái thái độ đánh giá người khác ở trong mắt mày và chúc tao một ngày tốt lành đi!” Thằng cha kia có thể nghĩ ra bất cứ cái gì trên đời để nói với tôi nhưng hắn vẫn chỉ là một thằng khốn nạn không dám thừa nhận mình mua sách của Dan Brown. Em xuất hiện với nụ cười từa tựa Portman, rõ là em đã nghe thấy tiếng thằng chó chết kia vừa nói. Tôi nhìn em. Em nhìn thằng kia và hắn thì vẫn đang đợi tôi. “Chúc ông một ngày tốt lành, thưa ông.” Tôi nói và hắn biết thừa rằng tôi cũng chẳng có lòng thành gì, thái độ dành cho một người lạ thì chỉ đến thế thôi. Khi hắn đi rồi, tôi gào toáng lên với hắn nhưng thực ra là để em nghe cho rõ: “Đọc Dan Brown vui nhé ông ơi!” Em đi tới, cười ngặt nghẽo, và cảm ơn Chúa, lúc này đang là buổi sáng, chúng ta đang chết cứng trong một buổi sáng mà không có ai quanh đây làm phiền chúng ta cả. Em đặt cái giỏ đựng sách lên quầy thanh toán và hỏi khẽ: “Thế anh sẽ phán xét cả em nữa phải không?” “Anh là thằng khốn nạn phải không?” “Ừm… không sao, em đoán đó chỉ là do tâm trạng nhất thời của anh thôi.” Em thật ngọt ngào. Em biết cách nhìn thấy phần tốt đẹp nhất bên trong mỗi người. Em đang khen tôi. “Thật ra…” Tôi nói, tôi nghĩ tôi nên im lặng và tôi cũng muốn im lặng, nhưng em lại ra hiệu cho tôi, muốn tôi nói tiếp. “Thằng cha đó chính là lý do mà những con quái thú không nên biến mất.” Em chăm chú nhìn tôi. Em có vẻ tò mò khiến tôi muốn biết nhiều hơn về em, nhưng vì tôi không thể hỏi nên tôi tiếp tục nói. “Ai cũng luôn luôn muốn đấu tranh cho những điều tốt đẹp hơn, gầy đi năm cân, đọc thêm năm cuốn sách, đi đến bảo tàng, mua một đĩa nhạc cổ điển để nghe và thích thú tận hưởng nó. Nhưng thực ra những gì người ta mong muốn ở sâu thẳm bên trong là ăn bánh donut, đọc tạp chí và mua những đĩa nhạc pop. Còn sách á? Quên nó đi. Hãy mua Kindle. Em có biết tại sao Kindle lại thành công như thế không?” Em phá lên cười và lắc đầu, em đang lắng nghe tôi ở chính cái đoạn mà phần lớn mọi người khác sẽ tỏ ra chán nản và tiếp tục cúi đầu vào điện thoại. Nhìn em thật xinh đẹp khi em hỏi, “Là tại vì sao cơ?” “Anh sẽ cho em biết tại sao. Internet đã mang phim khiêu dâm đến tận nhà…” Tôi mới dùng từ phim khiêu dâm, thật là một từ ngu xuẩn, nhưng em vẫn yên lặng lắng nghe, em đúng là một cô nàng búp bê đáng yêu đấy. “Thế là em không cần ra ngoài và nỗ lực để có được nó nữa. Em sẽ không cần phải nhìn thẳng vào mắt của cậu con trai ở quầy hàng, người mà bây giờ đã biết em thích xem các cô gái bị tét mông khi ở trên giường. Nhìn thẳng vào mắt nhau là thứ khiến chúng ta trở thành con người trong xã hội văn minh.” Đôi mắt như hai hạt hạnh nhân của em nhìn tôi và tôi nói tiếp, “Em đã bị lộ tẩy rồi.” Em không đeo nhẫn cưới trên tay, còn tôi tiếp tục nói, “Con người mà.” Trông em rất kiên nhẫn, còn tôi thì lẽ ra phải im đi nhưng tôi lại không thể làm thế được. “Và Kindle ý mà, Kindle mang đến tất cả những thứ mà em cần phải nỗ lực mới có được khi em đọc, tức là làm chính xác như những gì mà Internet đã làm với phim khiêu dâm. Không cần phải gò bó hay cân đối cái gì nữa. Em có thể đọc tiểu thuyết Dan Brown cả ở nơi công cộng lẫn những chốn riêng tư. Và thế là văn minh nhân loại kết thúc. Nhưng…” “Lúc nào cũng có một chữ NHƯNG nhỉ,” em nói và tôi đoán em đến từ một gia đình giàu sang phú quý, nơi mà những con người thân thiện thường trao cho nhau những cái ôm yêu thương và nắm tay hát quanh đống lửa trại. “Nhưng khi không còn chỗ nào để mua các bộ phim hoặc mua album, tất cả sẽ quay trở lại với sách. Khi những tiệm bán băng đĩa biến mất, những thằng mọt sách đứng trông tiệm băng đĩa, đọc lại những câu thoại của Tarantino, chiến đấu vì Dario Argento và ghét những người thuê phim Meg Ryan về xem cũng sẽ không còn nữa. Loạt hành động đó, tức là sự tương tác giữa người bán và người mua, là một sự tương tác hai chiều rất quan trọng mà loài người chúng ta có được. Tất nhiên em không thể giao tiếp hai chiều như thế mà lại không bao giờ hiểu nhầm, em hiểu ý anh chứ?” Tôi cũng không biết liệu em có hiểu được ý tôi không nhưng em đã không bảo tôi ngừng lại giống như tất cả mọi người vẫn làm, em chỉ gật đầu. “Hừm.” “Đấy thấy không, tiệm băng đĩa thực sự là một nơi rất công bằng. Nó mang đến sức mạnh cho mấy thằng mọt sách – Người ta thực sự mua Taylor Swift sao? – mặc dù sự thật là mấy thằng đó sẽ “xóc lọ” với hình Taylor Swift khi về nhà.” Đừng nói đến Taylor Swift nữa. Chẳng biết em đang cười với tôi hay đang cười vào mặt tôi nữa? “Dù sao thì...” Tôi nói, và tôi định sẽ im lặng nếu em bảo tôi làm thế. “Dù sao thì?” Em hỏi, và em muốn tôi nói tiếp. “Vấn đề là thế này, mua một vật dụng gì đó là một trong những điều cực kỳ cơ bản mà chúng ta làm. Thằng cha lúc nãy không đến đây để mua Dan Brown hay Salinger. Thằng cha đó tới đây để thú tội.” “Thế anh là linh mục à?” “Không. Anh là nhà thờ.” “Amen.” Em nhìn xuống giỏ sách của em và tôi như một kẻ cô độc loạn trí khi cũng nhìn vào chiếc giỏ. Điện thoại của em. Em không nhìn thấy, nhưng tôi nhìn thấy. Tôi như vỡ lẽ ra. Chiếc điện thoại có ốp bảo vệ màu vàng. Điều này chứng tỏ em chỉ tự chăm sóc bản thân khi mọi thứ bắt đầu đi quá giới hạn. Tôi cược là em chỉ uống thuốc khi cơn cảm lạnh kéo dài tới ngày thứ ba. Tôi cầm điện thoại của em lên và giả vờ đùa. “Em lấy trộm cái này của gã kia phải không?” Em lấy lại điện thoại của mình và cẩn trọng nói. “Em và chiếc điện thoại này…” Em nói. “Em là một người mẹ tồi.” Mẹ. Em thật sự là gái hư, đúng thế đấy. “Ừ.” Em mỉm cười và bây giờ tôi có thể chắc chắn em không mặc áo lót bên trong. Em lấy những cuốn sách ra khỏi giỏ, đặt giỏ lên sàn nhà và nhìn tôi như thể tôi không có khả năng đánh giá bất cứ điều gì mà em làm từ khoảng cách xa như thế. Núm vú của em nổi lên trên áo. Em đã không che chắn chúng lại cẩn thận. Em thấy đám kẹo dẻo xoắn mà tôi để ở quầy thanh toán. Em chỉ tay vào đó như thể em đang đói lắm. “Em lấy một cái được không?” “Được.” Tôi nói, và tôi có cảm giác như mình đã bón cho em ăn vậy. Tôi cầm cuốn sách đầu tiên của em lên, Kỳ nghỉ không thể tin được4 của tác giả Spalding Gray5. “Thú vị đấy!” Tôi nói. “Phần lớn mọi người đều hiểu được những đoạn độc thoại của ông ấy. Đây là một cuốn sách tuyệt hay, nhưng không phải là kiểu sách mà mọi người đi loanh quanh xem xét và mua, đặc biệt là một phụ nữ trẻ không có ý định tự sát giống như số phận của tác giả.” “Ồ, đôi khi chúng ta sẽ có cảm giác muốn vùi mình ở một nơi nào đó tăm tối, anh hiểu cảm giác đó chứ?” “Ừ.” Tôi nói. “Anh hiểu chứ.” Nếu chúng tôi còn ở thời thiếu niên, hẳn là tôi sẽ hôn em mất. Nhưng hiện tại, tôi đang trong bộ dạng của một nhân viên bán hàng, đeo một cái bảng tên trên ngực và chúng ta đã đi quá thời điểm vàng của thanh xuân rồi. Những bước đi trong đêm không phù hợp với lúc ban ngày, khi ánh nắng vẫn đang chảy trên cửa sổ. Chứ chẳng nhẽ tiệm sách lại phải tăm tối mới đúng ư? Tự chú thích với bản thân: Cần bảo ông Mooney làm chỗ này tối om lại. Bằng rèm cửa. Hoặc bất cứ cái gì. Tôi cầm cuốn sách thứ hai của em lên, Những Nhân Vật Tuyệt Vọng6, tác phẩm của một trong những tác giả yêu thích nhất của tôi, Paula Fox. Đây là một dấu hiệu tốt, nhưng cũng có thể em mua nó bởi em đọc được trên một trang blog ngu xuẩn nào đấy rằng tác giả là bà ngoại của Courtney Love. Tôi không dám chắc chắn rằng em mua Paula Fox bởi vì em thật sự phù hợp với tác giả này, hay là bị ảnh hưởng từ khẳng định trong bài luận của Jonathan Franzen.   Em sờ tay vào ví tiền. “Bà ấy là một tác giả tuyệt vời đúng không? Nếu bảo bà ấy không xứng đáng thì giết em đi còn hơn, bất kể bài luận của Franzen có viết gì về bà ấy đi nữa, anh công nhận không?” Cảm ơn Chúa. Tôi mỉm cười. “Bờ biển phía Tây7.”   Em quay mặt nhìn đi hướng khác. “Em chưa có dịp đến đó.” Tôi nhìn em và em giơ hai tay lên trời như đầu hàng. “Đừng bắn em nhé.” Em khúc khích cười và tôi mong rằng em cũng đang ham muốn. “Khi nào có dịp em sẽ đọc Bờ biển phía Tây, còn Những Nhân Vật Tuyệt Vọng thì em đã đọc cả tỉ lần rồi. Cuốn này em mua cho một người bạn.” “Ừ.” Tôi đáp, và những chiếc đèn đỏ nhấp nháy tín hiệu nguy hiểm trong lòng tôi. Cho một người bạn. “Có thể việc này sẽ chỉ lãng phí thời gian thôi. Anh ấy sẽ chẳng đọc đâu. Nhưng ít ra thì tác giả cũng đã bán được thêm một cuốn sách rồi, phải không ạ?” “Phải.” Có thể anh ta là anh trai, hoặc bố hay gã hàng xóm đồng tính của em, nhưng tôi biết anh ta là bạn của em. Tôi quệt ngón tay vào máy tính. “Tổng cộng là ba mươi mốt đô-la lẻ năm mươi mốt.” “Ôi trời ơi, nhiều thế cơ. Đó, đấy chính là lý do Kindle thống trị thế giới đấy.” Em nói trong khi mở chiếc ví màu hồng da lợn hiệu Zuckerman ra và đưa tôi chiếc thẻ thanh toán, mặc dù em có đủ tiền mặt trong ví để trả cho chỗ này. Em muốn tôi biết tên của em và tôi thì không ngốc đến nỗi không đoán được ý đó, nên tôi quẹt thẻ của em và để cho sự yên lặng giữa hai chúng tôi tự dưng trở nên ầm ĩ - đó là lý do hôm nay tôi đã không bật nhạc và tôi cũng không thể nghĩ ra bất cứ thứ gì để nói. “Xong rồi đây.” Tôi đưa cho em tờ hóa đơn. “Cảm ơn anh.” Em khẽ lẩm nhẩm trong miệng. “Hiệu sách này thật tuyệt.” Em ký vào hóa đơn với cái tên Guinevere Beck. Tên em như một bài thơ và bố mẹ em có lẽ là những kẻ ngớ ngẩn, giống phần lớn những cặp bố mẹ khác trên đời này. Guinevere? Làm ơn đi. “Cảm ơn, Guinevere.” “Anh gọi em là Beck được rồi. Guinevere nghe hơi dài và tức cười lắm, anh có thấy thế không?” “Beck à, em không giống cái tên của em chút nào. Mà này, album Midnite Vultures8 tuyệt thật đấy.”   Em cầm lấy túi đựng sách của mình lên, mắt vẫn không rời khỏi tôi bởi vì em muốn tôi biết em đang nhìn tôi đắm đuối. “Chắc chắn rồi, Goldberg.” “Đừng, gọi anh là Joe được rồi. Goldberg nghe hơi dài và tức cười lắm, em có thấy thế không?” Chúng tôi phá lên cười và dường như em cũng muốn biết tên tôi y như cách tôi muốn biết tên em vậy, hoặc là em chẳng buồn để ý đến cái thẻ tên gắn trên áo tôi. “Em có chắc là em không muốn lấy cuốn Bờ biển phía Tây luôn bây giờ không?” “Nghe có vẻ điên rồ nhưng quả thực là em đang tiết kiệm. Em sẽ để nó vào danh sách đọc lúc dưỡng già.” “Ý em là danh sách những việc nhất định phải làm?” “Không không, không phải. Hai cái này là hoàn toàn khác nhau. Danh sách đọc lúc dưỡng già là một danh sách những thứ anh dự định đọc và xem khi anh vào ở trong viện dưỡng lão ấy. Danh sách việc nhất định phải làm giống như là… như là đến thăm Nigeria hay nhảy khỏi máy bay vậy. Còn danh sách đọc lúc dưỡng già giống kiểu đọc cuốn Bờ biển phía Tây, xem Pulp Fiction và nghe album mới nhất của Daft Punk cơ.” “Anh không thể tưởng tượng ra được lúc em ở trong viện dưỡng lão.” Em đỏ mặt. Em như Charlotte trong truyện Mạng nhện của Charlotte vậy, còn tôi thì thật sự muốn được yêu em. “Anh không định chúc em một ngày tốt lành sao?” “Chúc em ngày tốt lành, Beck.” Em mỉm cười. “Cảm ơn anh, Joe.” Em đã không đến đây vì những cuốn sách, Beck ạ. Em không cần thiết phải gọi tên tôi. Em cũng không cần phải mỉm cười, hay lắng nghe hay đối xử tử tế gì với tôi cả. Nhưng em đã làm như thế. Chữ ký của em còn ở trên tờ hóa đơn đây. Đây không phải một giao dịch chuyển khoản và cũng không phải là một mã số ghi nợ. Cái này hoàn toàn thật. Tôi ấn ngón tay cái vào đoạn mực còn tươi trên tờ hóa đơn và dấu mực từ chữ ký Guinevere Beck của em in hằn trên ngón tay tôi rồi. Mời các bạn đón đọc Em của tác giả Caroline Kepnes & Hoài Anh (dịch) & Trà Fiew (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chó Dẫn Đường Phiêu Lưu Ký Tập 1 - Mikhail Samarsky
Mikhail Samarsky sinh năm 1996, Sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống văn chương (bố là nhà soạn kịch, mẹ là nhà văn chuyên viết truyện trinh thám), từ năm 12 tuổi, Mikhail Samarsky đã bắt đầu đam mê sáng tác. Năm 12 tuổi cô xuất bản cuốn truyện đầu tiên. Tác phẩm là sự đồng cảm sâu sắc với những người kém may mắn trong cuộc sống khi không nhìn thấy ánh sáng, phải sống trong bóng đêm lặng lẽ. Chính vì lẽ đó, ngay khi vừa ra đời, Chuyện Cảm Động Không Đến Từ Con Người nhanh chóng tạo được tiếng vang tại Nga và được ấn hành bằng chữ nổi với các ngôn ngữ như Đức, Czech, Bulgaria, Thụy Điển và đang được dựng thành phim truyện nhựa. ***         Trong tác phẩm này, Mikhail Samarsky đã dùng một thủ pháp độc đáo khi để chú chó Trison kể lại những gì diễn ra trong thế giới loài người. Qua cái nhìn và suy nghĩ của Trison, xã hội loài người hiện lên một cách sống động với đầy đủ hỉ, nộ, ái, ố. Ở đó, có không ít kẻ tham lam, toan tính, bon chen, phản phúc và vô cảm.         Mikhail Samarsky đã dựng nên một hành trình đầy cao cả và thú vị của chú chó Trison. Trước khi về nhà Sashka, Trison từng có thời gian làm công việc dẫn đường cho ông cụ Ivan Savelievich, một người mà theo đánh giá của Trison: “Đó là một con người tuyệt vời và là một người bạn tốt của tôi”. Khi cụ ông Ivan Savelievich qua đời, Trison được chuyển về trường huấn luyện và tại đây, Sashka cùng mẹ và bà đã tới đón Trison về nhà. Không chỉ hấp dẫn, lôi cuốn với nhiều tình tiết độc đáo đầy kịch tính,Chuyện Cảm Động Không Đến Từ Con Người còn là lời nhắc nhở về tình thương và lòng nhân ái, khi mà trong xã hội hiện đại ngày càng thưa vắng dần sự quan tâm, đồng cảm với những con người tật nguyền, bất hạnh… *** “Chúng tôi có đôi mắt đã chết, nhưng trái tim vẫn đang sống”. Lần đầu tiên tôi nghe câu nói này năm 12 tuổi, từ miệng một cậu bé mù mà tôi tình cờ làm quen trong công viên. Câu chuyện của cậu bé ấy về cuộc đời mình làm xao động lòng tôi, đến nỗi tôi quyết định thử đóng vai người mù để chiêm nghiệm nỗi đau tinh thần mà cậu phải chịu đựng hàng ngày, hàng giờ. Đợi đến kỳ nghỉ hè, tôi quyết “cất giấu” đôi mắt của mình trong vài ngày. Kết quả là tôi sống được ba ngày với dải băng đen bịt mắt. Không có một ngoại lệ nào cả - suốt 72 giờ tôi sống cuộc sống của người mù. Ăn uống, đi dạo trong sân, chơi với con chó cưng của mình, thay sách thường bằng sách nói, nghe tivi… Xin nói ngay – rất dễ sợ. Thỉnh thoảng có cảm giác không thể chịu đựng nổi. Ngay trong ngày đầu tiên (ôi, ngày mà nói làm gì – ngay giờ đầu tiên), tôi đã muốn giật phắt cái mảnh băng đen ấy ra và không bao giờ tiến hành những cuộc thử nghiệm như thế nữa. Xin nói thực lòng, chính tôi cũng không biết làm sao tôi có thể vượt qua được ba ngày “đen tối” đó. Nhưng dù sao điều đó cũng không giúp cảm nhận được đến tận cùng những gì người mù phải chịu đựng. Bởi vì tôi biết rằng một ngày, hai ngày rồi ba ngày sẽ trôi qua và tôi sẽ lại được nhìn thấy mẹ, thấy bầu trời xanh, bãi cỏ xanh, ráng chiều hồng nhạt. Một lần, trong đầu tôi xuất hiện ý nghĩ: “Nếu bỗng cứ thế này vĩnh viễn thì sao?”. Lòng dạ trở nên bồn chồn bất an. Đêm cuối cùng, tôi nằm hoài không sao ngủ được, không chỉ chực khóc thầm mà còn muốn khóc ầm lên. Có một chuyện tôi không sao lý giải nổi – hoặc đó là ảo ảnh, hoặc chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên: ngay sau khi tháo băng bịt mắt, tôi ngước mắt nhìn lên bầu trời và trông thấy một chiếc cầu vồng. Tôi rất thích ngắm nhìn cầu vồng và thường buồn tiếc khi nó biến mất. Nhưng hôm đó không hiểu tại sao tôi không cảm thấy hứng thú cho lắm. Ý nghĩ đầu tiên vụt đến trong đầu: người bạn của tôi không bao giờ có thể nhìn thấy vẻ đẹp lung linh ấy. Và lúc đó tôi tự hứa với lòng mình: “Một khi còn sống trên đời, tôi còn nỗ lực giúp đỡ người mù!”. Một học sinh có thể làm gì để giúp người khiếm thị? Tôi bắt đầu thu thập tư liệu, làm quen với các huấn luyện viên dạy chó dẫn đường, liên hệ thư từ với những người khiếm thị và cuối cùng, tôi viết nên cuốn sách về một cậu bé mù và người bạn bốn chân của cậu – con chó dẫn đường Trison thuộc giống Labrador. Tất nhiên, tôi đặt tên cho cuốn sách là “Cầu vồng tặng bạn” (Bản dịch tiếng Việt có tựa đề “Chó dẫn đường phiêu lưu ký”). Sau khi xuất bản ở Nga, cuốn sách lập tức được dịch ra tiếng Đức và được Hội các nhà văn sáng tác bằng tiếng Nga của Cộng hòa Séc cho đăng tải trên tạp chí Prague chuyện cảm động không đến từ con người Parnas, sau đó còn được dịch sang tiếng Bulgaria, tiếng Anh và tiếng Thụy Điển. Một số nhà hảo tâm đã tài trợ cho kế hoạch xuất bản cuốn “Cầu vồng tặng bạn” ở Nga bằng chữ nổi Braille trên giấy. Hiện cũng đang có dự án xuất bản cuốn sách này bằng phiên bản điện tử để người khiếm thị có thể đọc qua màn hình chữ nổi. Đây là một dự án rất tốn kém. Tuy nhiên, Quỹ “Những trái tim đang sống” do tôi đề xướng hiện đang phát triển rất mạnh, đã quyên được một số tiền khá lớn, đủ để thực hiện một số dự án có mục đích giúp đỡ người khiếm thị ở Nga. Nhưng có một điều đáng tiếc, không phải tất cả những người khiếm thị đều có chương trình phần mềm đặc biệt để đọc sách điện tử, không phải ai cũng có khả năng tài chính để có thể sở hữu màn hình chữ nổi Braille. Vì thế, rất nhiều người khiếm thị yêu cầu xuất bản sách nói. Đối với họ, đó là phương thức duy nhất để tiếp cận với nền văn học cổ điển và đương đại. Xin hãy tin rằng người khiếm thị cũng là những con người giống hệt chúng ta. Trong số họ có không ít tài năng sáng tạo – những nhà thơ, nhạc sĩ, ca sĩ, nhà sáng chế và thậm chí có cả những họa sĩ, vận động viên thể thao. Giống như chúng ta, họ cũng biết yêu thương, vui mừng, buồn chán, đồng cảm – tóm lại, mắt họ đã chết nhưng tim họ vẫn sống. Xin hãy chia sẻ với họ một phần trái tim của mình và đặt lên đó một chiếc cầu vồng dành tặng những người khiếm thị! Nhân dịp những cuốn sách của tôi được xuất bản bằng tiếng Việt, với tất cả trái tim mình, tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn Công ty First News và dịch giả Phạm Bá Thủy về những nỗ lực to lớn nhằm giới thiệu những tác phẩm của tôi đến bạn đọc. Hi vọng, đây là bước khởi đầu thuận lợi cho mối quan hệ hợp tác lâu dài. Tôi rất mừng vui khi sách của tôi đã tìm được bạn đọc ở đất nước Việt Nam hiếu hiền, tươi đẹp. Tôi cũng hi vọng sẽ có một ngày, bản dịch tiếng Việt những cuốn sách nói về con chó dẫn đường của tôi sẽ đến được với người khiếm thị Việt Nam qua phiên bản sách nói hoặc sách điện tử. Hẹn gặp lại cùng hai cuốn sách tiếp theo của tôi về chú chó Trison dũng cảm mà tôi vừa mới hoàn thành. Với tất cả lòng kính trọng chân thành và niềm hi vọng vô biên. - Mikhail Samarsky Chó Dẫn Đường Phiêu Lưu Ký gồm có hai tập: Chuyện Cảm Động Không Đến Từ Con Người Người Bạn Tri Kỷ Vượt Qua Rào Cản Ngôn Ngữ Mời các bạn đón đọc Chó Dẫn Đường Phiêu Lưu Ký Tập 1: Chuyện Cảm Động Không Đến Từ Con Người của tác giả Mikhail Samarsky.
Trong Thẳm Sâu Tâm Hồn - Jacquelyn Mitchard
Là cuốn đầu tiên được nữ hoàng truyền hình Oprah Winfrey chọn để khởi đầu cho Câu lạc bộ sách Oprah. Cuốn sách đã được dịch ra hơn 14 thứ tiếng. Trong thẳm sâu tâm hồn với tựa gốc The deep end of the ocean là một trong những cuốn tiểu thuyết nổi bật nhất của Jacquelyn Mitchard, đưa bà từ một nhà báo trở thành một trong những tiểu thuyết gia hàng đầu thế giới. Cuốn sách kể về một gia đình nhỏ ở bang Illinois. Beth, một người vợ, một người mẹ trẻ dường như luôn cảm thấy quá sức khi phải cùng lúc làm cả hai việc: chăm sóc ba đứa con và theo đuổi đam mê nhiếp ảnh. Trong một dịp gia đình đi du lịch, Beth vô tình để lạc mất Ben - đứa con trai thứ của cô và cũng là đứa mà cô yêu thương nhất trong ba đứa con mình. Từ đó, cô bắt đầu bước vào cuộc sống đầy bi kịch với nỗi tuyệt vọng trong cuộc tìm kiếm Ben kéo dài ròng rã những năm tiếp theo sau đó. Cuốn tiểu thuyết với một cốt truyện xuất sắc và giọng kể tài tình đã chiếm được tình yêu của bao trái tim độc giả. Trên tất cả, đây đích thực là một câu chuyện về tình yêu: tình yêu lớn lao mà Beth dành cho các con đã giúp cô nhận ra cô không chỉ có mình Ben mà còn có Vicent và đứa con gái nhỏ; tình yêu chồng vợ đã khiến chồng cô chấp nhận lặng lẽ ở bên cô suốt 9 năm, cùng cô chờ đợi không mệt mỏi, không một lời oán than; tình yêu anh em đã khiến Vicent dũng cảm đối mặt với quá khứ để giúp em trai mình lấy lại ký ức bị mất… Trong thẳm sâu tâm hồn đã gửi đến hàng triệu độc giả thông điệp lớn nhất của cuốn sách: tình yêu thương dù bị giấu kín tận nơi sâu thẳm nào đó của tâm hồn, vẫn sẽ có ngày được nhìn thấy, và chính nó sẽ cứu vãn mọi thứ, hàn gắn mọi thứ đổ vỡ và đau khổ. Tạp chí People từng viết nhận xét về cuốn sách: “Một câu chuyện xúc động với cảm giác hồi hộp của một cuốn tiểu thuyết ly kỳ, chạm đến nơi lắng sâu nhất của tình gia đình thiêng liêng gắn bó.” *** Jacquelyn Mitchard là một nhà báo, đồng thời là tác giả best seller của New York Times. Bà được biết đến với những tác phẩm như The most wanted (được đề cử giải Britain's Orange Prize for Fiction), tác phẩm Cage of stars  (được đề cử giải Britain's Spread The Word Prize)... *** Tháng Mười Một, 1995 Tất cả là mười năm, mười năm tròn, từ buổi sáng tháng Tám nóng như thiêu đó khi Beth bỏ cái phong bì đầy những hình vào ngăn kéo cho đến buổi chiều thu lành lạnh khi cô lấy nó ra đặt từng tấm một trên bàn làm việc của mình. Thật vậy, mười năm và biết bao thay đổi. Mùa hè vừa qua đã đánh dấu một năm tròn kể từ khi Beth biết những gì đã xảy ra cho Ben, con trai cô. Và nếu cô tính cả chập chùng những hình ảnh của tất cả các diễn biến sau đó thì thật ra phải là gần mười một năm. Chỉ mới cách đây vài tuần thôi, vào tháng Mười, một câu truyện với cái tít “Phần kết cho Ben” đã xuất hiện trên trang nhất tờ USA Today – một nỗ lực trễ tràng cả “một năm sau” dựa trên vài lời trích đã xưa lắc xưa lơ từ vài người ít ỏi vẫn muốn trả lời cho báo giới. Nhưng đó không phải là câu chuyện gợi cho Beth nhớ đến mấy bức hình. Chỉ đơn giản là một sáng nọ cô thức giấc và biết. Cô muốn nhìn thấy chúng. Ngày hôm đó trời mưa suốt, một ngày tháng Mười Một u ám lạnh lẽo. Đã nhiều năm nay mưa vẫn làm Beth sợ, khiến cô phải tập trung vào một loạt những công việc quen thuộc hằng ngày. Nhưng hôm đó thậm chí mưa cũng không ngăn cản cô được. Có thể nói là cô đang vội, như thể việc nhìn vào mấy tấm hình đó sẽ đặt một dấu chấm hết vào cuối một câu đã được viết thật dài trên trang giấy. Beth đặt mấy tấm hình xuống, chỉ có mười sáu tấm – một cuộn phim ngắn, vì Pat đã dùng cái máy chụp ảnh Instamatic nhỏ nhắn rẻ tiền đó, cái máy ảnh luôn làm Beth xấu hổ. Cô úp chúng xuống, giống như một phụ nữ già ngồi chơi xếp bài một mình nơi cửa sổ. Rồi cô nhắm mắt lại và sờ vào từng tấm một. Nó không rung lên. Không có chút điện áp nào. Cô chỉ cảm nhận được đó là giấy Kodak, thật láng với một lớp bụi mỏng. Chẳng có gì huyền bí. Beth thở phào nhẹ nhõm. Tất cả những năm tháng đó. Dấu niêm phong vẫn còn nguyên, giống như những mép giấy vẫn dính vào nhau, với dấu mực đã hoen mờ hiển thị ngày tháng trên đó, một lời tiên tri thật đáng kinh ngạc. Ngày mùng ba tháng Sáu, và cái năm. Mùng ba tháng Sáu, một ngày thứ Bảy, vì Pat đã bỏ cuộn phim ở tiệm rửa ảnh vào đúng ngày cô đi dự buổi họp lớp. Khi anh nhớ ra để đi lấy ảnh thì đã là cuối mùa hè đầu tiên, Pat vừa đi vào nhà vừa khóc nức nở và đưa chúng cho Beth, như thể anh mong cô sẽ ôm lấy anh, an ủi anh bằng một cách nào đó để có thể chịu đựng được cái chứng tích ấy. Thay vì thế, cô chỉ ép cái phong bì đựng ảnh thật chặt giữa hai bàn tay rồi đem chúng đến bàn làm việc của mình. Beth chưa hề biết chính xác tại sao, nhưng cứ như thể việc cô luôn biết vị trí của những bức ảnh đó là điều quan trọng lắm, dù đôi khi nó cũng làm cô rất khó chịu. Ví dụ có những lần Beth thoáng thấy chiếc phong bì khi cô mở ngăn kéo ra để lấy mấy cái kẹp giấy hay mấy tờ nhãn có địa chỉ của cô. Beth làm việc đó thật nhanh, như ngày xưa cô luôn phải hít một hơi thật sâu trước khi chạy qua bức tranh của Goya vẽ Kronos đang trệu trạo nhai một đứa bé mà không hiểu vì sao bà ngoại Kerry của cô cứ treo mãi trên tường cầu thang. Lần nào cô cũng có chính xác cái cảm giác ngộp thở đó khi cô đóng ngăn kéo lại để không nghĩ đến cái hình ảnh gớm guốc kia nữa. Nhưng đôi khi cô vẫn nhìn cái phong bì, và vài lần cô còn thật sự lấy mấy ngón tay phủi bụi cho nó nữa. Và khi họ đã chuẩn bị hành lý xong xuôi để đi Chicago thì Beth còn cố ý bước đến ngăn kéo như thể cô sẽ lấy những bức ảnh đó ra ngắm. Nhưng cô đã không làm thế. Lúc đó cô thấy còn quá sớm. Quá sớm để ngắm, quá sớm để vứt chúng đi. Và còn những vật dụng khác của Ben nữa, những thứ mà Beth đã dần dà thu thập đủ can đảm để vứt đi hay gói lại đem cất. Vào những ngày mưa, những ngày ngột ngạt, cô thậm chí đã đập vỡ tan tành vài món trong những vật dụng đó – một hộp nhạc, một khung đựng hình bằng gốm được trang trí với những khối gỗ xinh xinh dành cho trẻ nhỏ. Cô chưa từng nghĩ mình sẽ làm thế với những tấm ảnh. Xét cho cùng thì Beth là một nhiếp ảnh gia; đối với cô những bức ảnh là những lá bùa. Nhưng cô cũng có cảm giác rằng đến một lúc nào đó cô sẽ yêu quý những bức ảnh, đặc biệt là bức cuối cùng trong cuộn phim, với cái hàng hiên nhà cô. Bước chân đơn giản của thời gian, hay tôn giáo, hay sự nhẫn nhục, sẽ biến nó thành niềm vui ngọt ngào lẫn đắng cay của cô, một bức ảnh của Ben lần cuối cùng cô thấy thằng bé – à, cũng không phải lần cuối cô thấy nó, mà là lần cuối cô thấy nó đúng với bản chất của nó, thằng con trai đơn giản, đang hớn hở tươi cười, đứa con không bao giờ xuất hiện trong những giấc mơ của cô, dù cô thường vừa khóc vừa cầu xin để được thấy nó, với ý nghĩ rằng ít nhất thì cô cũng không phải sợ nó trong giấc ngủ của mình. Và vì thế, một ngày nào đó, có lẽ khi cô gần đất xa trời và biết chắc rằng mình sẽ nhanh chóng bị lãng quên, sẽ không phải kéo lê cuộc đời thêm nữa, cô mới muốn ngắm những bức ảnh đó thường xuyên, có lẽ là hằng ngày. Vì thế cô đã muốn giữ chúng luôn bên mình. Nếu không cô sẽ mất chúng. Chỉ vài tuần sau buổi họp lớp, cô nhận ra ngay rằng mình bắt đầu đánh mất mọi thứ rất dễ dàng, chìa khóa, ngân phiếu, tiền nong cứ tuột khỏi tay cô như thể chúng có cuộc sống sinh học riêng vậy. Trong bếp, khi mở túi đựng thực phẩm ra hay khi xếp quần áo để đem bỏ giặt, Beth thường đứng đờ ra mà không thể nào nhớ được túi nào là bột ngũ cốc hay cái nào là khăn trải giường. Cô dần phải chấp nhận đó là một dị tật suốt đời sau một tai nạn. Chỉ khi nhìn lại tiến trình của nó thì Beth mới có thể thấy sự khiếm khuyết của mình là một chọn lựa chủ tâm, không phải một màn sương tạm thời sẽ mau tan biến khi cô hồi phục trở lại và nhìn mọi việc rõ ràng hơn. Sự khiếm khuyết đó là do cô tự tạo ra, từng bước từng bước một. Cô buộc mình phải nhớ lại những lề thói học đường đã phôi pha, và chỉ cần một kỷ niệm về Ben, hay về ngày hôm đó, cũng có thể phá tung được những vỏ bọc bên ngoài. Beth biết mình không thể chịu đựng được những suy nghĩ đó; và không thể hồi phục như xưa mà không nhớ về chúng. Vì thế giờ đây khi nhìn lại, dường như cô đã chọn lựa để không hồi phục. Thay vào đó, cô cố sống trong tình trạng hiện tại quanh cái miệng núi lửa mỏng manh, di chuyển thật nhẹ nhàng và tránh những điều đối với cô chẳng khác gì một trận tuyết lở. Beth đã cố giải thích với chồng cái trận tuyết lở đó và nhu cầu phải xua tan nó đi nhưng anh vẫn không hiểu được. Cô đã gắng hết sức và càng cố thì càng giống như một kẻ ngốc khi nói cho anh biết về những người mắc bệnh đó – hội chứng Korsakov – căn bệnh chia nhỏ trí nhớ ra thành nhiều khoảng thời gian. Những bệnh nhân như thế, phần lớn là những người nghiện rượu, có thể đi gặp bác sĩ hay một nhân viên công tác xã hội và, trong nhiều phút, nói chuyện rất thông minh về thời tiết, về sức khỏe của họ, những câu chuyện trên trang nhất của một tờ báo đang trải ra trên bàn làm việc. Nhưng nếu vị bác sĩ hay người nhân viên nọ rời khỏi phòng, thậm chí chỉ một phút thôi, thì những nạn nhân của hội chứng Korsakov sẽ không nhớ họ đã từng gặp một người nào như thế cả. Và quá trình tự giới thiệu sẽ phải lặp đi lặp lại nhiều lần. ... Mời các bạn đón đọc Trong Thẳm Sâu Tâm Hồn của tác giả Jacquelyn Mitchard.
Ngày Cuối Tuần Định Mệnh - Henry Denker
Một tiếng gọi khẩn thiết vang lên làm rung cả mấy bức tường của khoa Cấp cứu: - Cho xin bác sỹ Forrester! Có người bị trúng đạn! Khẩn cấp đấy! Ngay lúc ấy, hai hộ lý nhao vào phòng cấp cứu ở đầu hành lang. Trong một buồng dành làm chỗ khám, bác sỹ Kate đang khám cho một bệnh nhân. Cô ngẩng đầu và quay về phía một nữ y tá: - Tôi xong rồi đây. Cô đưa mẫu máu này đến khoa Xét nghiệm và báo cho tôi ngay khi có kết quả. Kate Forrester lao ra khỏi buồng và chạy dọc hành lang. Mái tóc vàng xổ ra bao quanh khuôn mặt không trang điểm và chiếc blu nhàu nát chứng tỏ cô đã nhiều giờ liền làm việc không ngơi tay ở phòng cấp cứu. Trong bệnh viện lớn này của New York, những đêm thứ bảy và chủ nhật luôn luôn là những đêm bận rộn vất vả, nhất là đêm nay lại càng bận, vì bác sỹ trực cùng với Kate bị một cơn cảm cúm quật ngã đã phải nằm liệt giường. Người được phân công đến giúp Kate thì giờ này vẫn chưa có mặt. Giống như nhiều bạn đồng nghiệp trẻ trong những trường hợp tương tự, Kate đành tự mình xoay xoả, cố gắng làm hết sức mình trong những điều kiện làm việc có nhiều khó khăn không ai có thể tin nổi. Khi Kate chạy ngang qua buồng C, một nữ y tá gọi giật giọng: - Bác sỹ Kate, khi nào chị rảnh tay một chút … Nhưng Kate không dừng lại mà chạy thẳng tới buồng cấp cứu, nơi có một cậu con trai mười bốn tuổi đang mất máu. Chẳng may cho cậu bé, lại tình cờ đứng giữa làn đạn của hai tay anh chị đang xung đột với nhau ở một phố không xa bệnh viện. Biết rằng bác sỹ Forrester cùng một lúc chỗ nào cũng có người gọi, nữ y tá Adélaide Cronin quay về buồng C để hỏi sơ qua một bệnh nhân nữ mới đến một số câu. Là một y tá giỏi đã có hơn mười sáu năm trong nghề, Cronin muốn nói chuyện riêng với bệnh nhân - một cô gái mười chín tuổi có bộ tóc nâu. Nhưng không hiểu sao, mẹ cô cứ nhăm nhăm ở bên cạnh, không chịu rời con nửa bước lấy cớ để trông nom cô. Sau khi đã cân nhắc, bà Cronin hỏi cô gái: - Xin cô cho biết cô bị đau ra sao? Lập tức bà mẹ cắt ngang: - Tôi muốn chị mời một bác sỹ đến đây ngay. Con tôi cần phải được hưởng những chăm sóc tốt nhất. - Tôi đã báo bác sỹ Forrester. - Không, tôi yêu cầu con tôi phải được bác sỹ trưởng trực tiếp khám. Tốn kém bao nhiêu, chúng tôi cũng có thể trả! Chị hiểu chứ? - Tôi e rằng vào giờ này, nhất lại là tối thứ bảy, ông ta sẽ không đến - bà Cronin phản bác lại - Và bây giờ - Bà quay ra nói với cô gái - cô hãy nói điều gì đã khiến cô phải tới đây? - Con tôi đau do những cơn nôn oẹ - Bà mẹ vội giải thích. Thông cảm những sợ hãi do quá lo cho con của bà mẹ, bà Cronin ngoảnh về phía bà ta với vẻ mặt ân cần, khoan dung. - Thưa bà … - Stuyvesant - Bà mẹ cô gái tiếp lời - Bà Claude Stuyvesant. Cái tên đủ nổi tiếng để bà Cronin nhận ra ngay lập tức. Tuy nhiên, hiểu rằng mình sẽ phải làm gì, bà vẫn không thay đổi thái độ. - Bà Stuyvesant, những lời khai này sẽ được đưa vào hồ sơ bệnh án của con bà. Cho nên chừng nào cô ấy còn nói được thì tốt hơn hết là bà cứ để cô ấy tự nói, bằng chính những lời của mình. Bởi như thế sẽ càng chính xác hơn thôi. Bác sỹ sẽ cần đến nó để tiến hành chẩn đoán, vì vậy tôi xin bà … - Mong bà thứ lỗi. Bà mẹ rời khỏi bàn khám, nơi con bà đang được đặt nằm. Tóc cô gái trẻ xoã ra bết vào trán đang rịn mồ hôi, hơi thở cô nhè nhẹ, từng hồi đứt khúc, người cô căng ra. Trong khi lẳng lặng ghi nhận những triệu chứng suy sụp cả thể chất lẫn tinh thần ấy, bà Cronin nắm tay cô bắt mạch và đo huyết áp. ... Mời các bạn đón đọc Ngày Cuối Tuần Định Mệnh của tác giả Henry Denker.
Pháo Đài Trắng
Pháo đài Trắng, cuốn tiểu thuyết mang lại tên tuổi cho Orhan Pamuk, là câu chuyện về một học giả trẻ tuổi người Ý. Bị cướp biển bắt ở giữa Venice và Naples, anh bị đem ra bán đấu giá ở chợ nô lệ Istanbul. Một nhà bác học Thổ Nhĩ Kỳ muốn học hỏi các tiến bộ khoa học và tri thức phương Tây đã mua anh về. Nhưng rồi họ khi họ bị ràng buộc bởi những tội lỗi và bí mật của nhau, khi mối quan hệ của họ trở nên ngày càng phức tạp, cả chủ nhân và nô lệ bỗng phát hiện ra rằng họ đều là thành viên của quân đội Hoàng gia, và rằng cả hai đều đang trong cuộc hành trình rồi cuối cùng sẽ dẫn họ tới Pháo đài Trắng.  *** Nhận định   “Một ngôi sao mới đang lên ở phương Đông—Orhan Pamuk. Pháo đài Trắng là một trong số rất ít những tiểu thuyết tạo ra được một thế giới hoàn chỉnh và độc lập bằng tài năng khác thường… Ông là một người kể chuyện tài hoa như Sê-hê-ra-zát vậy.” - New York Times “Lịch lãm và có sức nặng… Sẽ không ngoa chút nào nếu so sánh Pamuk với Kafka và Calvino; cũng nghiêm túc như thế, cũng duyên dáng, cũng tinh tế như vậy. Ta có mọi bằng chứng về điều đó” - Independent “Tiểu thuyết gia tiên phong của Thổ Nhĩ Kỳ và ở bất cứ đâu cũng là một trong những nhân vật thú vị nhất trong làng văn… Một người kể chuyện hàng đầu.” Times Literary Supplement “Pháo đài Trắng tuyệt vời không phải bởi nó đã tái hiện một thời đại, mà vì nó đã khám phá bí mật cá nhân con người và trên hết vì Pamuk đã gói gọn những suy tư đó trong một câu chuyện đơn giản đến nhường ấy.” - Guardian ‘Một cuốn sách kỳ lạ và tài tình về sự đau đớn trong quá trình tự khám phá bản thân. Và trong suốt thiên tiểu thuyết, người ta có thể chứng kiến sự pha trộn siêu việt của những gì Pamuk thực sự thấy bằng con mắt của một kẻ quá hướng về Tây phương trong khi bề ngoài lại quá thiên về Trung Đông. Trong khoảnh khắc, Đông- Tây đã gặp gỡ.” New York Times ‘Cuốn tiểu thuyết xuất sắc của Orhan Pamuk về những ảnh hưởng ngoại lai… đã đem đến cho chúng ta một cái nhìn điềm tĩnh và thành kiến một cách tao nhã vào kết quả của phát tán văn hóa. Tác phẩm phảng phất âm hưởng của Calvino, nhưng cách viết và thế giới quan của tác giả lại gần hơn với Kazuo Ishiguro.” - Independent *** Mùa Hè năm 1982, tôi tìm được tập bản thảo viết tay ấy dưới đáy một chiếc rương bụi bặm ở Gebze (một thành phố gần Istanbul, thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ), khi lục lọi hàng tuần theo thói quen trong đám "hồ sơ" lộn xộn của chính quyền thành phố, ngập đầy những sắc lệnh, chiếu chỉ, văn tự, biên bản tòa án và các báo cáo công vụ. Với tấm bìa trang nhã bằng thứ giấy vân cẩm thạch có những hoa văn mơ hồ, gợi nhớ về giấc mộng nào đó, được viết bằng nét chữ rõ ràng, dễ đọc, tập bản thảo ấy nổi bật hẳn lên giữa đám công văn giấy tờ bạc phếch và lập tức khiến tôi chú ý. Bàn tay ai đó, chắc là có chủ ý, muốn khêu gợi tính tò mò của tôi, đã viết trên trang thứ nhất cái tựa đề: "Con nuôi người thợ làm chăn". Tôi hài lòng đọc nhanh hết tập sách mà bên lề các trang giấy có những hình người đầu bé xíu vẽ bởi bàn tay con trẻ, mặc những bộ y phục đính chi chít cúc. Tập bản thảo khiến tôi rất thích thú, nhưng vì lười chép lại, nên lợi dụng sự tin cậy của người nhân viên, vốn rất trọng nể tôi và chẳng hề theo dõi, tôi giấu nó vào trong cặp, đơn giản là tôi đã đánh cắp quyển sách ấy trong đám giấy tờ mà ngay cả vị kaimakam (người đứng đầu một tỉnh hoặc một khu vực (tiếng Thổ) trẻ tuổi cũng không dám gọi là "hồ sơ lưu trữ". Thời gian đầu, tôi đọc đi đọc lại quyển sách nhiều lần mà không biết phải làm gì với nó. Sự hoài nghi của tôi đối với lịch sử vẫn còn chưa hết, nhưng tôi chú ý đến bản thảo không chỉ từ phương diện khoa học, văn hóa hoặc lịch sử, mà còn bởi rất thích lối hành văn của nó. Rồi điều đó khiến tôi phải nghĩ về tác giả của bản thảo. Khi tôi và các đồng sự buộc phải rời trường Đại học Tổng hợp, tôi quay về nghề cũ của ông tôi, vốn là một người từng xuất bản các bách khoa thư, và chính khi đó tôi đã nghĩ tới chuyện đưa một bài về tác giả tập bản thảo mà tôi tìm được vào cuốn bách khoa thư Những người nổi tiếng mà tôi phụ trách phần lịch sử. Tôi bắt đầu dành cho việc đó tất cả những giây phút rảnh rỗi, ngoại trừ thời gian làm bách khoa thư và nhậu nhẹt. Tôi tra cứu các nguồn tư liệu về giai đoạn ấy và thấy một số sự kiện được phản ánh trong sách không tương ứng với thực tế lịch sử. Chẳng hạn, trong thời gian năm năm Koprulu (Pasha Koprulu Mehmet (1575-1661): đại tể tướng dưới triều Mehmet IV) giữ chức tể tướng, đúng là ở Istanbul đã xảy ra một trận đại hỏa hoạn, điều đó cũng được phản ánh trong các tư liệu thành văn, nhưng trận dịch hạch được bản thảo đề cập đến, mà lại lây lan rộng đến mức tưởng chừng như đáng được ghi vào lịch sử, thì trong các văn bản ấy lại chẳng có lời nào nhắc đến. Tên tuổi nhiều vị đại thần được nêu không đúng, hoặc nhầm lẫn, một số vị bị thay tên đổi họ. Họ tên của các vị đại sư chiêm tinh không tương ứng vởi tên họ ghi trong Biên niên sử vủa triều đình, nhưng tôi không chú tâm lắm vào những chi tiết này, vì cho rằng đây là chủ ý của tác giả. Mặt khác, phần lớn các sự kiện lịch sử nêu trong bản thảo đều được khẳng định, có một số sự kiện còn trùng hợp khá chi tiết, chẳng hạn như vụ ám sát đại sư chiêm tinh Huseyn Etendi, diễn ra trong chuyến đi săn thỏ của hoàng đế Mehmet IV (Mehmet IV (1642-1693): vị sultan thứ 19 của đế quốc Ottoman (1299- 1923), tức Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay, trị vì trong quãng thời gian 1648-1687), tại khu rừng gần cung điện Mirahor, điều đó cũng được sử gia Naimai ((1655-1716): nhà sử học Ottoman) nhắc đến. Tôi cho rằng tác giả bản thảo hẳn là một người mơ mộng và ham đọc sách, khi làm việc đã sử dụng các tư liệu tương ứng, đã đọc vô số sách vở và sau đó đưa một số chi tiết vào các ghi chép của mình. Những trước tác của Evlyia Chelebi mà tác giả có nhắc đến, rõ ràng là chỉ được ông ta đọc lướt, nhưng qua bản thảo thì chẳng rõ hai người có quen biết nhau hay không. Tôi vẫn không mất hy vọng tìm ra dấu vết của tác giả, nhưng các truy cứu trong những thư viện Istanbul đã khiến cho niềm hy vọng đó tan thành mây khói. Tôi không kiếm được một tài liệu hay quyển sách nào đã hiến tặng hoàng đế Mehmet IV trong khoảng thời gian từ năm 1652 đến năm 1680, cả ở thư viện trong cung điện Topkapi (cung điện hoàng gia ở Istanbul - thủ đô Thổ Nhĩ Kỳ, nay là Viện Bảo tàng) cũng như các thư viện khác mà tôi đồ rằng chúng có thể đã được chuyển đến. Tài liệu duy nhất mà tôi đã gặp được trong các thư viện ấy là công trình của "nhà thư pháp thuận tay trái", được nhắc đến trong bản thảo. Tôi cố gắng theo dõi số phận của những công trình ấy, gửi vô số thư từ đến các trường đại học tổng hợp Ittaly, nhưng chỉ nhận được những hồi âm bực mình, còn những mưu toan tìm kiếm trong các nghĩa địa Gebze, Jennethisar và Uskudar con người đã viết nên cuốn sách mà không lưu lại tên họ mình đều chẳng mang lại kết quả mong muốn. Tôi chấm dứt các cuộc tìm kiếm và ngồi viết một bài cho bách khoa thư, dựa trên nội dung của bản thảo. Đunrg như tôi đoán trước, bài viết không được chấp nhận, không phải vì nó thiếu cơ sở khoa học, mà bởi người tôi đề cập đến là một nhân vật khuyết danh. Có thể chính vì thế mà mối quan tâm của tôi đối với quyển sách lại càng lớn hơn. Thậm chí tôi còn muốn thôi việc, mặc dù tôi rất yêu công việc và các đồng nghiệp của mình. Có thời, gặp ai tôi cũng nói về quyển sách, như thể không phải tôi phát hiện được, mà chính tôi đã viết ra nó. Để khêu gợi chú ý, tôi nói về ý nghĩa biểu trưng của quyển sách đó, nói rằng nó giống với hiện thực ngày nay, rằng càng đọc quyển sách ấy tôi càng hiểu thêm thời đại bây giờ. Sau những lời như vậy, đám thanh niên, chủ yếu là những người quan tâm đến chính trị, các mối quan hệ Đông-Tây và nền dân chủ đã chú ý đến quyển sách đó, nhưng chẳng bao lâu sau những người trẻ tuổi ấy, cũng như bạn bè tôi, đã quên lãng nó. Một ông giáo sư, bạn của tôi, đã đọc xong cuốn sách vì tôi chèo kéo, khi mang trả có nói rằng những câu chuyện như thế đầy rẫy trong các bản thảo chồng chất tại những ngôi nhà gỗ cũ kĩ trên các ngõ phố Istanbul. Cư dân của những ngôi nhà đó, nếu coi sách là Thánh thư Koran, thì sẽ cất nó lên nóc tủ, còn không, họ sẽ xé rời từng tờ ra để nhóm bếp lò. Và thế là, đọc đi đọc lại bản thảo hết lần này đến lần khác, được khích lệ bởi một cô gái đeo kính, điếu thuốc không lúc nào rời môi, tôi quyết định đem nó đi xuất bản. Độc giả sẽ thấy rằng khi dịch ra tiếng Thổ hiện đại, tôi đã không hề chú trọng đến phong cách, tôi cứ đọc vài câu trong nguyên bản để trên bàn, sau đó tôi đi sang một phòng khác, đến bên chiếc bàn khác, nơi tờ giấy trắng đang đợi, tôi ngồi xuống ghế và cố gắng diễn đạt nội dung vừa đọc bằng ngôn ngữ thời nay. Nhan đề quyển sách không do tôi đặt ra, mà là của nhà xuất bản đã đồng ý in nó, Chắc có người sẽ hỏi tôi, có ý nghĩa gì đặc biệt trong những lời đề từ in ở trang nhất hay không. Tôi cho rằng, thói quen tìm kiếm một mối liên hệ nào đó trong tất cả mọi thứ là căn bệnh của thời đại chúng ta. Và chính bởi cũng ngả theo căn bệnh chung ấy, tôi đã cho xuất bản câu chuyện này.   FARUK DARVINOGL Mời các bạn đón đọc Pháo Đài Trắng của tác giả Orhan Pamuk.