Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chớ Gọi Tôi Là Người

Để rửa mối nhục thất bại của dân Trung Quốc trên đấu trường võ thuật quốc tế, một tổ chức dân gian tự xưng là Ủy ban Tổng động viên nhân dân toàn quốc, gọi tắt là Tổng hội, nỗ lực lần theo manh mối quyết tìm cho ra truyền nhân của phái Đại Mộng Quyền, tương truyền là môn phái thượng đình có thể mượn lực chế nhân, vô địch thiên hạ. Tình cờ, bọn họ nhận ra anh chàng đạp xe xích lô tên Đường Nguyên Báo ở ga Bắc Kinh chính là người thừa hưởng bí kíp võ thuật. Và thế là, vô số màn hoạt náo bi hài đã được bày ra dưới ngòi bút của ông vua "văn học lưu manh" Trung Quốc. Đầy ắp tính biểu tượng và những đặc trưng văn hóa, xã hội không kèm giải thích, cuốn sách là một thách thức với cả những độc giả đã trót say mê thế giới nghệ thuật độc đáo, kỳ dị của Vương Sóc. "Khác lạ đến mức khó chịu... Cốt truyện đơn giản, mặc dù nó đã lạc bước vào sự cường điệu hoang đường phóng túng đến độ đáng kinh ngạc..." - USA Today "Vương Sóc, được coi như 'Kerouac của Trung Quốc'... Vở hài kịch siêu thực này mang đến một kết thúc đậm tính khải huyền." - The Economist Người khác nhau ôm động cơ viết tiểu thuyết khác nhau. Đa số tiểu thuyết không cần phải nhìn nhận một cách nghiêm túc. nếu cứ khăng khăng muốn hỏi câu vì sao, chỉ càng khiến đầu óc mình rối loạn. Nói theo một ý nghĩa nào đó, tôi là người không có đầu óc, càng không phải kẻ dốc hết tâm sức, cần mẫn miệt mài. Thoạt tiên hiểu ra điểm này, mọi người mới có thể tránh việc tự mình dẳn vặt. Tôi đề nghị bạn hãy xem thứ này là một mớ càn xiên bát nháo." - Vương Sóc *** "Cuộc họp hôm nay có bốn vấn đề cần thảo luận.Vấn đề thứ nhất do đồng chí Trưởng Ban thư ký Ủy ban tổ chức giải thi đấu tự do Trung Quốc mở rộng Triệu Hàng Vũ trình bày về tình hình hoạt động của Ban thư ký trong giai đoạn trước với các cổ đông, vấn đề thứ hai là do trong các cổ đông có tồn tại một số ý kiến không tín nhiệm một vài lãnh đạo của Ban thư ký, để giải tỏa thắc mắc của các cổ đông, để chứng minh lần thi đấu này là thực sự cần thiết, chúng tôi đã tìm được một băng video ghi cảnh thi đấu ở Sapporo[1], sẽ phát cho các vị cổ đông xem trong thời gian giải lao. Vấn đề thứ ba có liên quan tới việc đổi tên cho Ủy ban tổ chức giải thi đấu tự do Trung Quốc mở rộng và cơ cấu thường trực của Ban thư ký. Vấn đề thứ tư là để công việc được tiến hành thuận lợi, chúng tôi thực hiện hoạt động nhận tiền quyên góp lần thứ ba - mong các vị cổ đông không ra về trước giờ tan họp." Đây là một nhà hát có súc chứa tới hơn nghìn người, hiện giờ các chỗ ngồi đều vắng tanh vắng ngắt. Trên sân khấu bày chiếc bàn tròn lớn, người tham dự cuộc họp ngồi chen chúc xung quanh, một luồng ánh sáng chiếu lên gương mặt người chủ trì. Đó là một thanh niên cực kỳ đẹp trai. Luồng ánh sáng chuyển động về phía người đàn ông đeo kính có gương mặt xanh xao, mái tóc bù xù đang ngồi cạnh người chủ trì, mắt kính phản quang khiến người ta gần như không thể nhìn thấy đôi mắt của ông ta. Xem cách nói gấp gáp cũng đủ nhận ra đây là người dễ bị kích động. Ông ta chính là Triệu Hàng Vũ, Trưởng Ban thư ký Ủy ban tổ chức giải thi đấu tự do Trung Quốc mở rộng. "Về công việc của Ban thư ký Ủy ban tổ chức giải thi đấu tự do Trung Hoa mở rộng, tôi xin trình bày bốn điểm. Sau khi trình bày xong mời các vị cổ đông đặt câu hỏi, hỏi trực tiếp hay đưa giấy cũng được, tôi xin lần lượt trả lời. Nếu có câu nào tôi không trả lời được thì những đồng chí khác trong Ban thư ký sẽ giải đáp. Trước tiên tôi cần phải nói rằng êkíp Ban thư ký đã làm việc rất tốt, công việc cũng có chút thành tích. Thứ hai là Ban Thư ký làm việc rất vất vả. Ở đây tôi có vài con số muốn nói cho mọi người biết, từ khi Ban thư ký bắt đầu làm việc, mọi nhân viên chúng tôi từ trên xuống dưới chưa từng được ăn ngon ngủ yên. Chặng đường đã đi vất vả như đường từ Bắc Kinh vượt qua Thái Bình Dương tới San Francisco vậy. Tổng cộng ăn hết hơn bảy nghìn gói mì tôm, hút hơn mười bốn nghìn điếu thuốc, uống tới hơn một trăm cân trà. Trong trương mục đã ghi rõ các khoản tiền, không một xu nào rơi vào túi riêng của tôi cả. Thứ ba, cá biệt có thể có đồng chí khi nấu mì đã ăn vài quả trứng chiên, khi làm đêm ngoài uống chè ra còn dùng thêm ít mật ong. Đối với những trường hợp chi vượt tiêu chuẩn như vậy, chúng tôi phát hiện một xử lý một, quyết không nương tay. Cũng xin hoan nghênh các đồng chí đã thẳng thắn phê bình. Sau đây tôi xin trình bày về tình hình công tác của Ban thư ký gần đây, cũng chính là điểm cuối cùng. Trong hội nghị cổ đông lần trước, chúng ta đã ra nghị quyết phải tìm truyền nhân của Đại Mộng quyền. Hội nghị vừa kết thúc, chúng tôi đã lập tức phái 9 đội đi khắp nơi tìm kiếm. Tính tới đêm qua đã có 8 đội trở về. 8 đội này đã đi khắp Tam Sơn Ngũ Nhạc nhưng đều trở về tay trắng. Giờ chúng ta chỉ có thể hy vọng vào đội thứ 9 mà thôi. Đội này do nữ nhân viên giỏi nhất của Ban thư ký là Bạch Độ dẫn đầu, trước lúc xuất phát tôi đã kiên quyết ra lệnh: Không tìm được truyền nhân Đại Mộng quyền thì đừng quay về gặp tôi! Tôi rất tin tưởng năng lực của đồng chí Bạch Độ, chỉ cần người đó còn sống thì dù phải đi khắp chân trời góc bể cô ấy cũng sẽ tìm được anh ta. Tuy nhiên có một sự thực khốc liệt đang bày ra trước mắt chúng ta, chúng ta không thể không nghĩ tới khả năng Đại Mộng quyền đã bị thất truyền. Nói cho cùng thì lần cuối cùng chúng ta nghe được tin tức về truyền nhân Đại Mộng quyền là hơn 90 năm trước. Chúng tôi nhận ra người tráng sĩ Nghĩa Hòa Đoàn[2] bị giải ra pháp trường trong bức ảnh năm đó chính là Chưởng môn nhân của Đại Mộng quyền." Triệu Hàng Vũ mở chiếc túi da đen đặt trên bàn, lấy ra một tấm ảnh đen trắng đã được phóng to. Trong ảnh là một đám dân đen áo quần rách rưới đang bị đội lính tuần tay cầm yêu đao giải ra pháp trường. Trong đó có một người đàn ông da đen mình trần, dáng người mập mạp, tóc tết đuôi sam quấn quanh cổ, bên cạnh có đánh dấu một mũi tên đen nho nhỏ. "Đây là do nhân viên tình báo của chúng tôi chụp lại trong điện Louvre ở Paris. Người đàn ông có mũi tên đen chỉ vào ở trong ảnh chính là Chưởng môn đương thời của Đại Mộng quyền, còn danh tính quê quán thì không có cách nào khảo cứu." Triệu Hàng Vũ đưa tắm ảnh cho người bên cạnh để mọi người truyền tay nhau xem, ai cũng nhìn đi nhìn lại người đàn ông thô kệch trong bức ảnh một cách hứng thú. "Giống gã đồ tể phải không?" Triệu Hàng Vũ châm điếu thuốc, hỏi người đàn ông gầy gò có dáng dấp như một vị giám đốc với mái tóc bóng mượt, mặc âu phục đeo kính gọng vàng đang chăm chú nhìn bức ảnh. "Anh nên hiểu điều này, chân nhân bất lộ tướng." "Các anh làm thế nào để biết đây là Chưởng môn của Đại Mộng quyền?" Người đàn ông gầy gò hỏi lại. "Chúng tôi có bốn bằng chứng để chứng minh điều này." Triệu Hàng Vũ gẩy gẩy tàn thuốc, chậm rãi nói. "Đầu tiên chúng tôi tra trong hồ sơ lưu trữ của nhà Thanh, và đọc một số lượng lớn ngoại truyện dã sử có ghi chép về các hoạt động chiến đấu của Nghĩa Hòa Đoàn suốt một dải từ Bắc Kinh đến Thiên Tân. Tất cả các ghi chép đều cho thấy rằng, năm đó, khi Nghĩa Hòa Đoàn hoạt động mạnh mẽ nhất, dưới quyền của Tào Phúc Điền ở huyện Tĩnh Hải thành phố Thiên Tân có viên đại tướng giỏi dùng Đại Mộng quyền, mượn lực chế nhân, súng đạn Tây dương không động đến được một sợi lông của người đó. Cuộc chiến tại tô giới Tử Trúc Lâm và giáo đường North Cathedral anh ta đều tham gia, giết chết vô số người Tây. Sau khi khu vực Bắc Kinh, Thiên Tân bị chiếm đóng, có người trong đội quân của Lưu Thập Cửu ở thôn Cao Gia còn nhìn thấy anh ta. Sau đó, vị hảo hán này cùng bị bắt với Đại Đao Vương Ngũ ở Bắc Kinh, bị chém ở Thái Thị Khẩu[3]. Đó là điểm thứ nhất. Thứ hai, thông qua bức ảnh này, chúng tôi đã tìm được con cháu của người tuần bổ dẫn đầu trong ảnh. Người lính tuần này đã tự sát vì sợ tội trong Cách mạng văn hóa, nhưng chúng tôi tìm được 'Đại Mộng quyền phổ' trong nhà ông ta. Căn cứ vào lời kể của Quế Lôi Thanh, cư dân ở số 125 ngõ Thái Lai, phố Tiểu Quách Trang, quận Hà Đông thành phố Thiên Tân, cha anh ta có được cuốn quyền phổ này khí xử trảm tù binh Nghĩa Hòa Đoàn năm đó, rốt cục là vị nào thì không thể biết được. Người của Nghĩa Hòa Đoàn bị bắt không nói rõ danh tính, chỉ luôn miệng nói: 'Sau hai mươi năm nữa lại làm một trang hảo hán'. Có một điểm có thể khẳng định, cha anh ta chỉ tham gia hành động sát hại các tráng sĩ của Nghĩa Hòa Đoàn một lần. Mà là do lính Tây bắt đi và bị chụp ảnh lại. Bởi vậy, cuốn quyền phổ này phải là của những người trong bức ảnh. Chúng tôi cũng tìm được ngài Boll Per là con cháu của vị giáo sĩ truyền giáo người Pháp Bo 11 Per - người đã chụp lại bức ảnh này, hiện nay đang làm tùy viên của Đại sứ quán Pháp tại Trung Quốc. Ngài ây đã rất nhiệt tình kê khai cho chúng tôi danh sách những người bạn của ông nội đã từng đến Trung Quốc hồi đó. Cuối cùng chúng tôi đã tìm được viên hạ sĩ quan chỉ huy quân Pháp trước kia nay ở thành phố Toulouse phía Nam nước Pháp tên là Radu, chính là người châu Âu mặc quân phục đứng cuối hàng trong bức ảnh. Ông cụ đã hơn một trăm tuổi, nhưng vẫn còn tráng kiện, ký ức về những việc đã xảy ra trong cuộc viễn chinh đến Trung Quốc vào cuối thế kỉ trước cũng còn rất rõ, đương nhiên bây giờ ông có quan hệ rất hữu hảo với nhân dân Trung Quốc. Sau khi biết ý định của chúng tôi, ông Radu đã lập tức chỉ cho chúng tôi người đàn ông mà mũi tên chỉ vào, nói anh ta chính là 'bậc kỳ nhân có thể làm thay đổi hướng bay của đạn'. Theo lời kể của Radu, ông đã từng chiến đấu với người này, khi đó một hàng người nhằm vào anh ta cùng bắn, nhưng tất cả đạn bắn ra đều bay ngược trở lại làm chết một loạt lính Tây ngay tại đó. Trong lúc hoảng loạn, ông Radu đã nhắm bắn lên trời, không ngờ phát súng lại bắn trúng vào người đó, thế là bọn họ ùa đến bắt anh ta lại, còng tay giải đi." "Đáng tiếc, đáng tiếc!" Tất cả cùng than thở. "Nhân tiện nói thêm, ông Radu cảm thấy rất hối hận về những gì mình đã làm khi còn trẻ, luôn miệng nhờ chúng tôi chuyển lời xin lỗi của mình đến nhân dân Trung Quốc." "Tôi có bốn vấn đề muốn hỏi đồng chí Trưởng Ban thư ký." Một vị chủ doanh nghiệp nông sản da mặt đen sạm, dáng vẻ thông minh hỏi Triệu Hàng Vũ: "Thứ nhất, nếu việc có hay không truyền nhân của Đại Mộng quyền còn chưa xác định được, vậy chúng ta có cần tiếp tục lãng phí tiền bạc và nhân lực để tìm kiếm hay không? Các môn phái võ lâm của nước ta đầy đủ cả, lẽ nào lại không thể sánh với Đại Mộng quyền hay sao? Anh sống chết theo đuổi cuộc tìm kiếm này phải chăng là vì một mối quan hệ cá nhân nào đó? Thứ hai, người Tây đã khôi phục lại quan hệ hữu hảo với nước ta, vì hòa bình thế giới, chúng ta có cần thiết gây chiến như vậy không? Thứ ba, nhân viên của Ban thư ký chỉ vẻn vẹn có hơn mười người, công việc cũng mới bắt đầu được một tuần, thế mà đã ăn hết bảy nghìn gói mì tôm, uống tới hơn một trăm cân trà, thực quá phí phạm. Nếu cứ tiếp tục như vậy, tôi khó lòng gánh vác được, cho dù có khó hạ thấp thêm tiêu chuẩn thì cũng nên bãi bỏ việc ăn uống quá ngon, nghiện thuốc quá nhiều đi, chung quy lại, không phải chúng tôi mời người ta đến ăn uống. Thứ tư, các anh đi Pháp điều tra, sao không sắp xếp để đại biểu cổ đông dẫn đầu?" "Tôi xin được trả lời bốn câu hỏi mà vị đại biểu này đã nêu." Triệu Hàng Vũ nghiêm túc nói. "Cũng là bốn điểm. Thứ nhất, chúng tôi không chuẩn bị để chết treo trên một cái cây là Đại Mộng quyền. Đồng thời với việc tìm kiếm truyền nhân của Đại Mộng quyền, chúng tôi cũng tiến hành liên hệ với truyền nhân của các phái như Đại Bằng quyền, Ưng Trảo Hầu quyền. Một khi chứng minh được Đại Mộng quyền đã thất truyền thì sẽ mời họ xuống núi. Ngoài ra, về hứng thú của cá nhân tôi với Đại Mộng quyền thì chỉ là muốn khống chế địch giành thắng lợi mà thôi, không hề có động cơ cá nhân nào trong đó. Đại Mộng quyền mượn lực chế nhân thực sự là tuyệt chiêu đúc kết nghìn năm tính túy của nước ta, chờ lát nữa xem video các vị sẽ biết. Nếu đem so thể lực với sự hung tợn thì những dàn tộc ăn rau quả như chúng ta khó có thể thắng được các chủng tộc ăn thịt - như bản thân tôi, nếu tính về mười đời trước thì cũng là môn đệ thư hương. Thứ hai, những người Tây già cả không phải lo, nhưng bọn Tây trẻ vẫn hung hăng sừng sộ. Nhìn thế giới ngày nay, chúng ta khó có thể tranh với người khác, đánh nhau không lấy được một cái huy chương vàng, sĩ diện của tổ tông coi như đã bị lũ con cháu hèn kém chúng ta làm cho mất hết rồi." "Cả nước cùng tiến lên rất khó," người chủ trì xen vào. "Hơn một tỷ người phục vụ một người nổi trội nhất thì còn có thể. Để tôi nói, thứ mà tổ tông để lại ngoài ăn ra thì còn có đánh nhau." "Tôi vẫn chưa nói hết." Triệu Hàng Vũ bất mãn lườm người chủ trì một cái, nói với mọi người. "Không làm như vậy không được, nỗi sỉ nhục hơn một trăm năm nay không tìm người thay chúng ta thì không thể được. Tôi bất chấp tất cả, ai có thể giúp được chúng ta, tôi sẽ móc cả trái tim mình ra trao cho người ấy. Anh chưa nghe người nước ngoài nói: 'Một người Trung Quốc là một con rồng, một nhóm người Trung Quốc là một ổ giòi."' "Đây là nói quá về chúng ta."   Mời các bạn đón đọc Chớ Gọi Tôi Là Người của tác giả Vương Sóc.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Làng Thiên Nga Đen - David Mitchell
Tháng giêng năm 1982. Cậu bé Jason Taylor 13 tuổi một thi sĩ rụt rè luôn tự ti về tật nói lắp đã dự cảm về một năm u tối trong ngôi làng hẻo lánh của mình ở miền quê nước Anh. Nhưng cậu đã không tính đến những tên đầu gấu học đường, sự rạn nứt đang âm ỉ trong gia đình mình, Cuộc chiến Falklands, mối đe dọa về sự xâm lăng của những người di gan du mục và những thực thể bí ẩn vẫn được gọi là con gái. Xuyên suốt trong quãng thời gian mười ba tháng trong hố đen giữa thời thơ ấu và tuổi thanh niên của nhân vật chính, đây là một cuốn tiểu thuyết quyến rũ, châm biếm, đau đớn và sống động với chất liệu cuộc sống như chảy tràn trên từng trang sách. *** David Stephen Mitchell (sinh 12 tháng 1 năm 1969) là một tiểu thuyết gia người Anh. Ông đã viết sáu tiểu thuyết, hai trong số đó, number9dream (2001) và Cloud Atlas (2004) đã lọt vào danh sách cho giải Booker. Ông đã sống ở Ý, Nhật Bản và Ireland. Mitchell sinh ra ở Southport ở Merseyside, Anh, và lớn lên ở Malvern, Worcestershire. Ông học tại Trường trung học Hanley Castle và tại Đại học Kent, nơi ông nhận bằng văn học Anh và Mỹ theo sau là bằng cao học trong văn học so sánh. Mitchell sinh sống ở Sicily trong một năm, sau đó chuyển đến Hiroshima, Nhật Bản, nơi ông giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên kỹ thuật trong 8 năm, trước khi trở về Anh, nơi ông có thể sống bằng các khoản thu nhập bằng nghề viết văn. Mời các bạn đón đọc Làng Thiên Nga Đen của tác giả David Mitchell.
Organ Mùa Xuân - Kazumi Yumoto
Kiriki Tomomi bước vào kỳ nghỉ xuân trước khi lên cấp 2 với nhiều khúc mắc. Bố mẹ đã ly thân do cuộc chiến triền miên với gia đình hàng xóm. Bà qua đời mới đây khiến cô bé chìm đắm vào sầu muộn và những giấc mộng lạ lùng. Ở nhà cả ngày chỉ có ông luôn lủi thủi với những việc riêng và cậu em Tetsu còn nhỏ nhưng ương bướng. Thế nên khi Tetsu bắt đầu rời khỏi nhà lang thang khắp thành phố với một sứ mệnh kỳ lạ: tìm mèo ốm, Tomomi liền đi theo bảo vệ em... Những cuộc phiêu lưu của hai đứa trẻ trong thành phố đã khiến Tomomi vụt thay đổi, cô hiểu hơn những người xung quanh, hiểu hơn chính mình. Và, cuốn sách đã như một cung đàn trong trẻo, đẫm dư vị mát lành và chơi vơi của mùa xuân, cho người đọc đắm chìm vào muôn vàn cảm xúc ngây thơ, để khi tỉnh lại sực nhận ra, lá đã xanh, hạ đã sang, và cô bé con kia đã lớn tự lúc nào. *** Kazumi Yumoto sinh năm 1959 tại Tokyo. Cô theo học khoa sáng tác tại Đại học Âm nhạc Tokyo. Trong khoảng thời gian đó, cô từng viết lời cho các vở opera, kịch nói trên sóng phát thanh và truyền hình. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của của Kazumi - Khu vườn mùa hạ (Natsu no niwa) xuất bản lần đầu năm 1992 đã nhanh chóng giành được thành công ở trong và ngoài nước. Tác phẩm tiếp theo của cô - Mùa thu của cây dương (Popura no Aki) cũng nhận được rất nhiều chú ý từ dư luận, được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.   Mời các bạn đón đọc Organ Mùa Xuân của tác giả Kazumi Yumoto.
Qui Cố Hương - Jiro Osaragi
“Nghĩ đến con cái tự nhiên lòng mình thanh sạch. Đó là diễm phúc của kẻ làm cha mẹ đó, cô biết không!” [Jiro Osaragi, Qui Cố Hương. Bản dịch Bùi Ngọc Lâm, Saigon 1973] Đọc Jiro Osaragi thấy cái không khí Âu châu của Kazuo Ishiguro phả khắp. Đây là tác gia tôi ít đọc, hình như chỉ biết có Hành Trình (The Journey), và nay làHomecoming. Nước Nhật của Osaragi là nước Nhật hậu chiến, nước Nhật thất trận. Thay vì nhìn đất nước dưới nhãn quan của người trong cuộc tham luyến và tội tình, của người cố gắng níu giữ vàng son đã mất như Y. Kawabata, Osaragi đặt mình là kẻ bàng quan. Ông cho nhân vật của mình đào thoát ra hải ngoại rồi quay về nhìn cố hương. Để thấy rằng những ngôi đền trên đỉnh núi vẫn đáng ngưỡng vọng, những cội anh đào sân chùa vẫn đáng chiêm bái, những vườn đá vườn sỏi vườn rêu vẫn đẹp đẽ, nhưng là cái đẹp của nghèo. Bởi nghèo nên buộc phải làm đẹp theo cách ấy. Gian nhà hoang chỉ có một vò rượu chơ vơ, là vì nghèo. Minimalism hóa ra là con đẻ của sự hoang tàn, túng thiếu. Nó đẹp một cách đau xót. Tình phụ tử, tình yêu trong văn Osaragi cũng được cảm bằng mắt người-ngoài-cuộc. Tỉnh táo, điềm tĩnh. Cha rất sung sướng khi con đã đến, nhưng lẽ ra con không nên làm thế, con không nên gặp một hồn ma, con đã đủ can đảm để lớn lên, thì con có thừa can đảm để xa cha. Em là người đàn bà khác thường, nhưng em đã gây ra cho tôi bao nhiêu oan khiên, vậy xin phép em, mai tôi đi sớm, tôi rửa hận bằng cách từ chối tình yêu của em. Tuyệt vời! Khi được hỏi mình có những tật xấu gì, Đức Dalai Lama nói, tôi còn tham luyến, chẳng hạn tôi không rời được cái đồng hồ đeo tay này. Còn bám chấp vào một cái gì, là còn phiền não. Đọc Osaragi để học cách yêu thương mà không nhất thiết phải dính chặt vào đối tượng yêu thương. *** Jiro Osaragi (4/10/1897 – 30/4/1973) tên thật là Haruhiko Nojiri. Ông sinh ra tại Yokahama, Nhật Bản. Sau khi tốt nghiệp từ Đại học Hoàng gia Tokyo, ông được nhận vào giảng dạy tại trường nữ sinh Kamakura (ngày nay là trường trung học Kamakura Jogakuin) nằm tại Kamakura, tỉnh Kanagawa. Nhờ các kỹ năng ngôn ngữ của mình, năm 1922, ông được tuyển dụng vào Bộ Ngoại giao. Nhưng sau trận động đất Great Kanto năm 1923, ông mất việc và quyết định trở thành nhà văn. Năm 1924, ông xuất bản quyển tiểu thuyết lịch sử đầu tiên Hayabusa no Genji. Các tiểu thuyết của ông phổ biến với bối cảnh lịch sử như Kurama Tengu (1924 – 1959), Teru Hi Kumoru Hi (“Sunny Days Cloudy Days”, 1926 – 1927), và Ako Roshi (“Loyal Retainers of Ako”, 1927 – 1928) đã được phát hành trên báo và tạp chí mang lại cho ông một lượng lớn những người ủng hộ. Nhiều truyện sau này được chuyển thể thành phim ảnh. Mời các bạn đón đọc Qui Cố Hương của tác giả Jiro Osaragi.
O, Mari! - Robert Enghibarian
N hận được cuốn tiểu thuyết O, Mari! của tác giả Robert Enghibarian từ tay bà Raisa Vardanyan, Đại sứ Armenia mới nhận nhiệm vụ ở Việt Nam, với đề nghị tôi sớm tổ chức dịch ra tiếng Việt để có cơ hội sắp tới giới thiệu với đông đảo bạn đọc chúng ta thêm hiểu về đất nước của bà, tôi thấy có cảm tình ngay với cuốn sách. Sách dày dặn, in ấn chững chạc, bìa các tông cứng, mặt bìa trang nhã với gương mặt xinh đẹp hiền hậu của một cô gái phương Tây bên cạnh ngọn tháp Epphen Pari quen thuộc. Linh cảm mách bảo tôi cuốn sách hẳn nói đến một mối tình có dính líu giữa chàng trai Armenia - xứ sở thuộc châu Á, vốn là một nước Cộng hòa Xô viết nằm ở cực Nam Liên xô trước đây, và cô gái bên trời Âu - cô gái Pari chăng? O, Mari! Bất giác tôi nhớ ngay tới khúc hát quen hình như đã được nghe ở đâu đó chỉ một hai lần mà cứ nhớ mãi: “Ô, Mari! Đóa hoa hồng. Trên đồng nội nơi em đi qua hoa cỏ ngả rạp mình đón chào em…”. Có lẽ trong bộ phim đạo diễn điện ảnh Liên xô nổi tiếng Rôman Karmen quay những ngày cuối chiến dịch Điện Biên Phủ có cảnh nhiều gương mặt các sĩ quan Pháp bị bắt làm tù binh buồn rầu ngẫm nghĩ trong tiếng hát của ca sĩ giọng teno da diết “Ô, Mari! Đóa hoa hồng...” Về nhà, tôi đã bắt tay vào đọc cuốn sách O, Mari! và càng đọc càng thấy hấp dẫn. Đúng là câu chuyện về một tình yêu sét đánh, say đắm giữa chàng trai người bản địa, sinh viên năm thứ hai khoa Luật trường Đại học Tổng hợp Erevan Armenia và cô gái "tóc sáng màu, cao không dưới một mét bảy lăm, dáng thể thao,…. gợi nhớ hình ảnh một nữ diễn viên nước ngoài…với một sự khác biệt chưa từng thấy, hoàn toàn nổi bật so với các khuôn mẫu sắc đẹp địa phương…Một thân hình được luyện tập, một bộ ngực nhỏ nhắn gần như không lộ ra, cặp chân dài, cần cổ cao, mái tóc vàng, ánh bạch kim chấm vai..." Chàng tên là Đavid, con trai một cán bộ cao cấp- tổng biên tập phụ trách một tờ báo lớn của một nước cộng hòa, từ bé đã luyện tập thể thao, đã đạt tới danh hiệu cấp quốc gia về môn vật tự do, là một trang nam nhi tuấn tú, học giỏi, nghĩa hiệp, được bạn bè cùng trường kính nể. Còn tên nàng chính là Mari, như trong bài hát quen thuộc, sinh ra ở Pari, bố là người gốc miền tây Armenia đã phải lưu lạc sang sống ở Pari từ sau Đại chiến thế giới thứ nhất, mẹ là một phụ nữ Pháp. Lên chín tuổi Mari theo cha mẹ hồi cư theo lời kêu gọi chiêu hồi của chính phủ Liên xô vào năm 1948, nay là sinh viên khoa Ngữ văn cùng một trường Đại học Tổng hợp Erevan. Một lần làm nhiệm vụ đội trưởng đội tự quản sinh viên ở cổng trường, Đavid đã tình cờ để ý thấy Mari…lập tức hình ảnh của Mari gây ấn tượng mạnh cho Đavid và chàng trai đã mê mẩn tìm cách làm quen với nàng. Chàng đã có cơ hội tự nguyện giúp nàng từ việc nhỏ nhất, mua hộ bữa ăn trưa cho nàng đến việc giải thoát cho nàng khỏi sự quấy quả hăm dọa của bọn côn đồ đường phố. Từ những sự quan tâm và nghĩa hiệp ấy dần dần nàng có cảm tình lại với Đavid. Mặc cho sự can ngăn chân thành của người bạn “nối khố” ngay từ sau những rắc rối đầu tiên xảy ra khi Đavid bắt đầu “dính" Mari, anh chàng Rapha hơn tuổi nhưng cùng khoa Luật: “tớ không khuyên cậu lằng nhằng với con búp bê đó. Quanh nó có cả trung đoàn bọn lượn vè vè, lại thêm một số cậu nghiêm túc nữa. Cậu sẽ vất vả, sẽ nhận được là: “vĩnh biệt, chàng trai, au revoir!”. Cô ta không dành cho cậu. Cô ta cần một chàng trai trí thức chững chạc, có tương lai chứ không phải một sinh viên năm thứ hai, dù là nhất đẳng môn vật tự do…” Bố mẹ Đavid cũng can ngăn con trai. Bố Đavid khuyên: “…Mari - không nghi ngờ gì, là một cô gái tốt, nhưng nó đã biết nó cần gì trong cuộc đời này, còn con thì chưa. Người vợ tương lai của con hiện đang học cấp một. Đấy, con xem mẹ con lấy bố trẻ hơn bố đến tám tuổi…Mari là người đồng niên với con nhưng trong cuộc sống nó già dặn và thông minh hơn con nhiều, phải đến bảy - tám năm. Con có thể là người đàn ông yêu quý của nó, nhưng không bao giờ là uy tín thực sự. Con cứ đi lại với con bé, làm bạn, nếu có thể có tình bạn đơn thuần, đừng ngu ngốc, đừng làm hỏng đời của con và của nó”. Nhưng tình yêu giữa đôi trai gái vẫn cứ mỗi ngày một khăng khít gắn bó. Đavid và Mari quấn quýt bên nhau như hình với bóng, như đôi sam bể…Vượt qua biết bao trở ngại thử thách trong bối cảnh xã hội có nhiều vấn đề phức tạp của lịch sử thời kỳ “băng tan” những năm 50, 60 thế kỷ trước ở Liên xô. Tình yêu khăng khít kéo dài suốt hơn bốn năm trời ăn học cho đến khi cả hai người cũng đã nhận được bằng tốt nghiệp, bắt đầu thu xếp công ăn việc làm… Đavid và Mari lại phải chia tay… Tình yêu không trọn vẹn mặc dù cả hai phía đều có thiện chí…Mari theo bố mẹ một lần nữa đi tái định cư ở Pari. Còn Đavid kiên quyết ở lại đất nước, quê hương với những người thân: cha mẹ, em trai mình, bạn bè, đồng nghiệp, kể cả những người bạn cùng học không tốt đẹp gì. Đavid đã từng khẳng định suy nghĩ và quyết định đúng của mình. Phản đối lại cái nhìn của ông Varugian, chuyên gia hóa học cũng là người hồi hương, luôn thất vọng từ khi trở về nước, Đavid khẳng định: “Chú cứ yên tâm, cháu ở đất nước của mình cảm thấy mình là người chủ!” Điều chia cắt mối tình không phải hai người cùng lứa tuổi, không phải những ghen tuông hờn giận thỉnh thoảng lại bột phát ở anh ở chị, cái thói thường của bất cứ đôi trai gái yêu nhau nào, không phải ở những hiểm nguy xã hội luôn rình rập…mà là ở cái nhìn một hiện thực xã hội khác nhau xuất phát từ môi trường văn hóa giáo dục của mỗi người, như có lần chính Đavid cũng đã nhận thức ra… Đavid và Mari chia tay nhau một cách đau đớn đầy nước mắt: “trước khi ra máy bay cùng cha mẹ trở lại Pari, Mari òa khóc nức nở. Không e ngại những người chung quanh, nàng ôm chặt lấy tôi, ghì sát vào ngực tôi”. Và chàng trai cũng: “Mái tóc sáng của Mari vừa mất hút không còn thấy, tôi mặc cho tình cảm bùng ra. Lấy cổ áo bành tô che đi, tôi nức nở khóc tức tưởi”. Một câu chuyện tình yêu, rất chân thật, được kể lại với những bối cảnh xã hội chân thật, được viết ra bởi tác giả, gần như tự sự cuộc tình duyên của chính mình. Những điều tác giả, một nhà khoa học dày dặn kinh nghiệm trong cuộc đời hoạt động sôi nổi của mình, trên cương vị với trách nhiệm của một nhà hoạt động xã hội có uy tín, hiện giữ các trọng trách trong giới trí thức đương đại ở Liên bang Nga, đưa ra trong cuốn tiểu thuyết đem cho người đọc nhiều hiểu biết, nhiều suy nghĩ như những bài học trong cuộc sống đang đi lên, hướng đến cái thiện, cái đẹp, hạnh phúc của con người. Đối với riêng tôi, như một người đọc, tôi vô cùng biết ơn tác giả. Có lẽ tôi hân hạnh được là người cùng thế hệ với tác giả, tuổi đời sấp xỉ hơn kém nhau chút ít. Tôi may mắn được sống ở Liên xô những năm tác giả miêu tả trong sách. Tôi cũng đã có lần từng được đến Erevan thủ đô của quê hương Armenia của tác giả, đến thăm ngôi trường Đại học Tổng hợp quốc gia Erevan, quảng trường Lênin, nơi nhân vật của cuốn sách đã ăn học, đã sinh sống… Cám ơn tác giả đã cho tôi sống lại tuổi trẻ của tôi, cho tôi thấy rõ thêm quê hương của ông, cho tôi thấy rõ hơn những bước đường tôi đã đi qua và hướng đi tiếp tới tương lai trên đoạn đường đi tiếp cùng với nhân dân, đất nước quê hương của mình. Và hy vọng rằng cuốn sách cũng để lại cho không ít bạn đọc khác ở Việt Nam có được những trải nghiệm như bản thân tôi… Dịch giả: THÚY TOÀN   R obert Enghibarian - Giám đốc viện Quốc tế điều hành (Đại học tổng hợp) MGIMO thuộc Bộ Ngoại giao Nga, Tiến sĩ khoa học luật pháp, Giáo sư, Nhà hoạt động công huân các khoa học của Liên bang Nga, Tiến sĩ Danh dự của Viện Hàn lâm khoa học nước cộng hòa Armenia và nhiều nước ngoài (Serbia, Sloveniya, Canada), nhiều trường cao đẳng Nga và nước ngoài. Trong cuốn tiểu thuyết tâm lý - bi kịch: những sự việc bi thảm của cuộc sống những người đương thời của tác giả đã diễn biến trên nền rất nhiều sự kiện xã hội - chính trị, nhiều biến thái của các quan hệ xã hội. Con người và thể chế, tình yêu và tình cảm, nghĩa vụ, tình bạn và sự phản bội, sự nóng vội của tuổi trẻ và sự sáng suốt của tuổi trưởng thành, những mô típ của các hành động con người, những sự thất thường của số phận luôn thay đổi - đó chỉ là một ít vấn đề mà tác giả suy nghĩ tới. Các hoạt động được miêu tả trong cuốn tiểu thuyết, đều được dựa trên các sự việc có thật, tất cả các nhân vật đều có nguyên mẫu của mình và nhiều khi mang tên họ thật. Cốt truyện sinh động, các nhân vật sáng rõ mạnh mẽ, sự thật chướng tai gai mắt về sự không giới hạn trên bình diện quốc gia tái hiện lại bức tranh sống động của quá khứ vừa qua - mặt trái của thời kỳ băng tan(1) - thời kỳ Khơrusốp, .... được tiểu thuyết hóa. Mời các bạn đón đọc O, Mari! của tác giả Robert Enghibarian.