Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tự do vượt lên trên sự hiểu biết - Krishnamurti

Cuộc đời và tư tưởng của Krishnamurti có nhiều nét thú vị lạ thường; toàn bộ khối lượng đồ sộ các tác phẩm của ông và các tác phẩm viết về ông tương đương với khoảng 400 quyển sách cỡ trung; thật không dễ dàng để nắm bắt hết mọi điều ông cố gắng truyền tải. Đã có trên 70 đầu sách tổng hợp nội dung từ những buổi diễn thuyết, thảo luận trên khắp thế giới của Krishnamurti được phát hành và tái bản nhiều lần, các tác phẩm của ông được đông đảo độc giả đón nhận và trân quý. Trong số đó, Tự do vượt trên sự hiểu biết luôn chiếm giữ vị thế đặc biệt trong lòng bạn đọc. Chính Krishnamurti đã đề nghị Mary Lutyens – một tác giả chuyên nghiệp, và cũng là người bạn lâu năm – thực hiện quyển sách này, ông để bà toàn quyền quyết định mọi điều, kể cả thể loại và tựa sách.

Cuộc đời và tư tưởng của Krishnamurti có nhiều nét thú vị lạ thường; toàn bộ khối lượng đồ sộ các tác phẩm của ông và các tác phẩm viết về ông tương đương với khoảng 400 quyển sách cỡ trung; thật không dễ dàng để nắm bắt hết mọi điều ông cố gắng truyền tải. Đã có trên 70 đầu sách tổng hợp nội dung từ những buổi diễn thuyết, thảo luận trên khắp thế giới của Krishnamurti được phát hành và tái bản nhiều lần, các tác phẩm của ông được đông đảo độc giả đón nhận và trân quý. Trong số đó, Tự do vượt trên sự hiểu biết luôn chiếm giữ vị thế đặc biệt trong lòng bạn đọc. Chính Krishnamurti đã đề nghị Mary Lutyens – một tác giả chuyên nghiệp, và cũng là người bạn lâu năm – thực hiện quyển sách này, ông để bà toàn quyền quyết định mọi điều, kể cả thể loại và tựa sách.

Mary bắt đầu bằng việc tổng hợp lại nội dung các buổi thuyết giảng, trò chuyện của Krishnamurti từ năm 1963 đến năm 1967; sau đó, bà tuyển lựa những trích đoạn có nội dung hàm súc, đẹp đẽ và tươi mới nhất để biên soạn thành quyển sách nhỏ trên tay bạn. Trong nhiều năm sau đó, Krishnamurti vẫn tiếp tục thảo luận, tra vấn và trình bày về nhiều chủ đề liên quan đến tôn giáo, chính trị, uy quyền, tâm lí, triết học,... dẫn đến việc khó có tài liệu đơn lẻ nào được xem là đích xác và đầy đủ tuyệt đối. Tuy nhiên, tôi tin rằng Tự do vượt trên sự hiểu biết vẫn là cuốn sách dẫn nhập lý tưởng nhất để bạn bắt đầu khám phá về những tư tưởng và thông điệp giá trị từ Krishnamurti.

Mary bắt đầu bằng việc tổng hợp lại nội dung các buổi thuyết giảng, trò chuyện của Krishnamurti từ năm 1963 đến năm 1967; sau đó, bà tuyển lựa những trích đoạn có nội dung hàm súc, đẹp đẽ và tươi mới nhất để biên soạn thành quyển sách nhỏ trên tay bạn. Trong nhiều năm sau đó, Krishnamurti vẫn tiếp tục thảo luận, tra vấn và trình bày về nhiều chủ đề liên quan đến tôn giáo, chính trị, uy quyền, tâm lí, triết học,... dẫn đến việc khó có tài liệu đơn lẻ nào được xem là đích xác và đầy đủ tuyệt đối. Tuy nhiên, tôi tin rằng Tự do vượt trên sự hiểu biết vẫn là cuốn sách dẫn nhập lý tưởng nhất để bạn bắt đầu khám phá về những tư tưởng và thông điệp giá trị từ Krishnamurti.

Nếu đọc cuốn sách này lần đầu, có lẽ bạn sẽ thắc mắc liệu một tài liệu bắt nguồn từ những năm 1960 có thể liên hệ chặt chẽ đến mức nào với thế giới hiện thời. Đã có biết bao trào lưu nổi dậy theo từng thời kỳ rồi bị dập tắt, hoặc do chính những người khởi lên xu hướng đó từ bỏ. Hiện tượng Krishnamurti có vì vậy mà trở nên lỗi thời? Krishnamurti đã phát biểu nhiều điều ứng nghiệm suốt chiều dài lịch sử loài người chứ không riêng gì thời đại này; chúng ta có đủ cơ sở để tin vào giá trị bền vững trong tư tưởng của ông. Thậm chí, có thể nói rằng quan điểm của ông ở thời đại ngày nay – những năm đầu thế kỷ 21 – còn trở nên xác đáng hơn bao giờ hết. Chúng ta hiện sống trong một thế giới mà tình trạng phụ thuộc lẫn nhau của con người gia tăng đáng kể, dù là về kinh tế, chính trị, y tế hay môi trường. Bất kỳ sự kiện nào diễn ra thuộc một trong các lĩnh vực trên đều tác động lẫn nhau và dội ngược lại chính nó. Mọi vấn đề nhân sinh giờ đây đều có mối liên hệ chặt chẽ và đòi hỏi – như được đề cập trong báo cáo chính phủ Anh quốc về tình hình biến đổi khí hậu – một liên minh quốc tế rộng lớn hơn so với trước kia. Chúng ta có thể thấy rõ rằng không một quốc gia nào có thể bảo vệ lợi ích nước nhà mà không bận tâm đến nhu cầu của nước bạn; bằng không thì chắc chắn sẽ dẫn đến tình trạng mâu thuẫn và thiếu quân bình trên phạm vi toàn cầu.

Nếu đọc cuốn sách này lần đầu, có lẽ bạn sẽ thắc mắc liệu một tài liệu bắt nguồn từ những năm 1960 có thể liên hệ chặt chẽ đến mức nào với thế giới hiện thời. Đã có biết bao trào lưu nổi dậy theo từng thời kỳ rồi bị dập tắt, hoặc do chính những người khởi lên xu hướng đó từ bỏ. Hiện tượng Krishnamurti có vì vậy mà trở nên lỗi thời? Krishnamurti đã phát biểu nhiều điều ứng nghiệm suốt chiều dài lịch sử loài người chứ không riêng gì thời đại này; chúng ta có đủ cơ sở để tin vào giá trị bền vững trong tư tưởng của ông. Thậm chí, có thể nói rằng quan điểm của ông ở thời đại ngày nay – những năm đầu thế kỷ 21 – còn trở nên xác đáng hơn bao giờ hết.

Chúng ta hiện sống trong một thế giới mà tình trạng phụ thuộc lẫn nhau của con người gia tăng đáng kể, dù là về kinh tế, chính trị, y tế hay môi trường. Bất kỳ sự kiện nào diễn ra thuộc một trong các lĩnh vực trên đều tác động lẫn nhau và dội ngược lại chính nó. Mọi vấn đề nhân sinh giờ đây đều có mối liên hệ chặt chẽ và đòi hỏi – như được đề cập trong báo cáo chính phủ Anh quốc về tình hình biến đổi khí hậu – một liên minh quốc tế rộng lớn hơn so với trước kia. Chúng ta có thể thấy rõ rằng không một quốc gia nào có thể bảo vệ lợi ích nước nhà mà không bận tâm đến nhu cầu của nước bạn; bằng không thì chắc chắn sẽ dẫn đến tình trạng mâu thuẫn và thiếu quân bình trên phạm vi toàn cầu.

Thế giới hiện thời cần ở chúng ta một tâm trí tươi mới để không gây thêm hoặc làm trầm trọng hơn những mối xung đột, bất hòa. Krishnamurti đã nhiều lần khẳng định rằng một tâm trí có khả năng tạo nên sự đồng điệu giữa các quốc gia – hay cộng đồng, hội đoàn, đội nhóm – thì không thể tách biệt khỏi tâm trí có khả năng tạo nên sự đồng điệu giữa người và người; đó là tâm trí nhận biết một cách trọn vẹn. Tự do vượt trên sự hiểu biết giúp ta khám phá cái trở lực, chướng ngại khiến tâm trí không đạt đến tình trạng ấy. Trước tiên, là do suy nghĩ ta sai lệch, cứ mang mớ tri kiến cũ kỹ ra để hồi đáp lại những thách thức mới mẻ, vốn đòi hỏi một cách nhìn nhận hoàn toàn khác lạ. Việc để cho hành động bị chi phối nặng nề bởi quá khứ là chứng bệnh trầm kha của các chính khách, của bạn và của cả tôi nữa. Trong các mối quan hệ cá nhân, chúng ta bị che mắt, bị dẫn dụ bởi những hình tượng do chính mình tạo dựng về nhau. Vì cứ mê mải trong sự thỏa nguyện hay bất mãn dựa trên kinh nghiệm quá khứ, chúng ta khó mở lòng ra với những điều mới mẻ.

Thế giới hiện thời cần ở chúng ta một tâm trí tươi mới để không gây thêm hoặc làm trầm trọng hơn những mối xung đột, bất hòa. Krishnamurti đã nhiều lần khẳng định rằng một tâm trí có khả năng tạo nên sự đồng điệu giữa các quốc gia – hay cộng đồng, hội đoàn, đội nhóm – thì không thể tách biệt khỏi tâm trí có khả năng tạo nên sự đồng điệu giữa người và người; đó là tâm trí nhận biết một cách trọn vẹn. Tự do vượt trên sự hiểu biết giúp ta khám phá cái trở lực, chướng ngại khiến tâm trí không đạt đến tình trạng ấy. Trước tiên, là do suy nghĩ ta sai lệch, cứ mang mớ tri kiến cũ kỹ ra để hồi đáp lại những thách thức mới mẻ, vốn đòi hỏi một cách nhìn nhận hoàn toàn khác lạ. Việc để cho hành động bị chi phối nặng nề bởi quá khứ là chứng bệnh trầm kha của các chính khách, của bạn và của cả tôi nữa. Trong các mối quan hệ cá nhân, chúng ta bị che mắt, bị dẫn dụ bởi những hình tượng do chính mình tạo dựng về nhau. Vì cứ mê mải trong sự thỏa nguyện hay bất mãn dựa trên kinh nghiệm quá khứ, chúng ta khó mở lòng ra với những điều mới mẻ.

Vì vậy, vấn đề tâm lý của từng cá nhân cũng chính là vấn đề toàn cầu của nhân loại; chính những diễn trình tâm lý tiềm tàng cùng nhận thức thiếu hoàn thiện đã điều khiển và chi phối tất cả chúng ta. Nhân loại bao lâu nay vẫn chìm ngập trong nỗi thống khổ, thế nên theo Krishnamurti, chúng ta cần tiến hành ngay một cuộc cách mạng về mặt tinh thần. Để mang đến sự đổi thay, con người phải ngừng tách biệt mình khỏi phần còn lại của nhân loại dựa trên những khác biệt về tín ngưỡng, ý thức hệ chính trị, truyền thống và văn hóa; chúng ta là con người, nào phải đâu những món hàng dán nhãn. Thế nhưng bi kịch thay, dường chư chúng ta không cảm nhận được tầm quan trọng của việc có chung một tâm thức, để đối diện với những thử thách, nếm trải nhọc nhằn và sướng vui cùng nhau; điều đó dẫn đến cảm giác cô đơn, sợ hãi và sự hung hãn tiềm tàng. Mặt khác, tâm trí có thể đổi mới chỉ nhờ quá trình quan sát điều đang là và mọi ẩn ý trong đó. Krishnamurti tin rằng điều cốt yếu không phải là triết học, ý thức hệ hay tín ngưỡng, mà nằm ở việc quan sát mọi sự đang diễn ra với đời sống thực tế hằng ngày của chúng ta, trong nội tâm và cả ở ngoài mặt; hãy thành thật chỉ ra những gì mà chúng ta dành toàn bộ sức lực và sự chú tâm vào đó. Được thể hiện bằng ngôn từ giản đơn, Tự do vượt trên sự hiểu biết là một quyển sách nhỏ dung dị, mang trong mình những nhận định thông tuệ về tình trạng bị khuôn định của loài người. Như Krishnamurti vẫn luôn muốn làm rõ, ông không chủ định nhồi nhét đầu óc hoặc dâng sự thật lên tận miệng cho ai cả. Trái lại, tất cả chúng ta được ông mời gọi tham gia thách thức và chất vấn mọi điều ông nói, tự đánh giá xem đối với chúng ta những quan điểm đó có thật đúng đắn, phù hợp hay không. Sẽ lãng phí vô cùng nếu chúng ta hiểu điều ông nói đơn thuần về mặt ngôn từ hay trí óc. Khi ta thấu hiểu về một điều gì, theo một cách tự nhiên, nó được chuyển hóa thành hành động, trong đó có sự tự do và niềm vui.

Vì vậy, vấn đề tâm lý của từng cá nhân cũng chính là vấn đề toàn cầu của nhân loại; chính những diễn trình tâm lý tiềm tàng cùng nhận thức thiếu hoàn thiện đã điều khiển và chi phối tất cả chúng ta. Nhân loại bao lâu nay vẫn chìm ngập trong nỗi thống khổ, thế nên theo Krishnamurti, chúng ta cần tiến hành ngay một cuộc cách mạng về mặt tinh thần. Để mang đến sự đổi thay, con người phải ngừng tách biệt mình khỏi phần còn lại của nhân loại dựa trên những khác biệt về tín ngưỡng, ý thức hệ chính trị, truyền thống và văn hóa; chúng ta là con người, nào phải đâu những món hàng dán nhãn. Thế nhưng bi kịch thay, dường chư chúng ta không cảm nhận được tầm quan trọng của việc có chung một tâm thức, để đối diện với những thử thách, nếm trải nhọc nhằn và sướng vui cùng nhau; điều đó dẫn đến cảm giác cô đơn, sợ hãi và sự hung hãn tiềm tàng. Mặt khác, tâm trí có thể đổi mới chỉ nhờ quá trình quan sát điều đang là và mọi ẩn ý trong đó. Krishnamurti tin rằng điều cốt yếu không phải là triết học, ý thức hệ hay tín ngưỡng, mà nằm ở việc quan sát mọi sự đang diễn ra với đời sống thực tế hằng ngày của chúng ta, trong nội tâm và cả ở ngoài mặt; hãy thành thật chỉ ra những gì mà chúng ta dành toàn bộ sức lực và sự chú tâm vào đó.

Được thể hiện bằng ngôn từ giản đơn, Tự do vượt trên sự hiểu biết là một quyển sách nhỏ dung dị, mang trong mình những nhận định thông tuệ về tình trạng bị khuôn định của loài người. Như Krishnamurti vẫn luôn muốn làm rõ, ông không chủ định nhồi nhét đầu óc hoặc dâng sự thật lên tận miệng cho ai cả. Trái lại, tất cả chúng ta được ông mời gọi tham gia thách thức và chất vấn mọi điều ông nói, tự đánh giá xem đối với chúng ta những quan điểm đó có thật đúng đắn, phù hợp hay không. Sẽ lãng phí vô cùng nếu chúng ta hiểu điều ông nói đơn thuần về mặt ngôn từ hay trí óc. Khi ta thấu hiểu về một điều gì, theo một cách tự nhiên, nó được chuyển hóa thành hành động, trong đó có sự tự do và niềm vui.

Để thấu hiểu vô số vấn đề được đặt ra trong quyển sách này, Krishnamurti mong bạn tìm cho mình một trạng thái thiền định mà trong đó không có người thiền, vì tâm trí đã tự trút bỏ khỏi nó mọi điều thuộc về quá khứ. “Nếu bạn chú tâm hoàn toàn trong suốt quá trình đọc quyển sách này, thì đó chính là thiền”. Rồi sau đó, bạn cứ việc bắt đầu hành trình tìm hiểu về mọi điều của riêng mình.

Để thấu hiểu vô số vấn đề được đặt ra trong quyển sách này, Krishnamurti mong bạn tìm cho mình một trạng thái thiền định mà trong đó không có người thiền, vì tâm trí đã tự trút bỏ khỏi nó mọi điều thuộc về quá khứ. “Nếu bạn chú tâm hoàn toàn trong suốt quá trình đọc quyển sách này, thì đó chính là thiền”. Rồi sau đó, bạn cứ việc bắt đầu hành trình tìm hiểu về mọi điều của riêng mình.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Bổn Dạy Phép Toán
Ta in cuốn sách này, chẳng có ý in sách dạy cho đủ mọi sự về Phép Toán; có ý in bổn nhỏ tóm lại mọi đểu cần kíp hơn và có ích hơn trong Phép Toán mà thôi. Song ta muốn chỉ phải nói theo cách nào, mà làm các phép cho nhằm cho trúng. Ta đã bỏ những cách cho đặng biết, khi làm một Phép Toán rồi, mÌnh có làm cho nhằm cách h.I. không. Làm vậy vì sợ nói ra nhiều điều lắm, thì làm cho những học trò mới tập học Phép Toán lấy làm rối trí chăng.
EINSTEIN (1972) - NGUYỄN HIẾN LÊ
Tôi say mê theo lí tưởng công bằng và trách nhiệm đối với xã hội (…) nhưng hiển nhiên là tôi không thích trực tiếp hợp tác với người khác, đàn ông và đàn bà. Tôi là con ngựa chỉ quen với một cỗ yên cương, không chịu buộc chung với một con ngựa nào khác. Tôi không khi nào hết lòng tuỳ thuộc các bạn bè, ngay cả gia đình của tôi nữa. Những liên hệ đó luôn luôn lơi dần ra và tuổi càng cao, tôi càng muốn rút vào cái vỏ của tôi. Tôi say mê theo lí tưởng công bằng và trách nhiệm đối với xã hội (…) nhưng hiển nhiên là tôi không thích trực tiếp hợp tác với người khác, đàn ông và đàn bà. Tôi là con ngựa chỉ quen với một cỗ yên cương, không chịu buộc chung với một con ngựa nào khác. Tôi không khi nào hết lòng tuỳ thuộc các bạn bè, ngay cả gia đình của tôi nữa. Những liên hệ đó luôn luôn lơi dần ra và tuổi càng cao, tôi càng muốn rút vào cái vỏ của tôi. Học giả, tác giả hiệu Lộc Đình, sinh ngày 8 tháng 1 năm 1912 tại Hà Nội (giấy khai sinh ghi ngày 8-4-1912 nhằm ngày 20-11 Tân Hợi 1911) quê làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc tỉnh Hà Tây), gia đình song thân ngụ ở Hà Nội. Ông xuất thân trong một gia đình Nho học, thân phụ, bác ruột tham gia phong trào Duy tân ở Trường Đông Kinh nghĩa thục, người mất (bác cả) ở nước ngoài, người (bác Ba) bị thực dân truy nã lẻn vào Sài Gòn rồi ẩn mình ở Đồng Tháp Mười. Từ đó, bác Ba ông sống lập nghiệp luôn ở miền Tây Nam Bộ.Thuở nhỏ, Nguyễn Hiến Lê học ở Trường Tiểu học Yên Phụ, Trường Bưởi, Trường Cao đẳng Công chánh (Hà Nội). Năm 1934 tốt nghiệp được bổ làm việc tại các tỉnh miền tây Nam Bộ; kể từ đó ông làm việc và định cư luôn ở miền Nam cho đến ngày qua đời.Năm 1935 bắt đầu viết du kí, kí sự, tiểu luận, dịch thuật các tiểu phẩm văn chương đến năm 1954 ông có đến hàng chục cuốn, nhưng đã thất lạc trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Vì ông từng làm nhân viên Sở Công chánh thuộc ngành Thủy lợi (Hydraulique) thường đi thực địa ở các tỉnh miền Hậu Giang, Tiền Giang nên biết khá tường tận về đất đai và con nguời ở các địa phương thuộc khu vực này.Sau Cách mạng tháng Tám, rồi toàn quốc kháng chiến, ông bỏ đời sống công chức tản cư về Đồng Tháp, Long Xuyên đi dạy học. Năm 1952 thôi dạy, lên Sài Gòn sinh sống bằng ngòi bút và chuyên tâm vào công tác văn hóa.Tác phẩm đầu tay của ông là một cuốn du kí khoa học có tên: Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, sách mỏng (100 trang) mà tác giả đã bỏ ra nhiều công sức. Nguyên sách được viết nhân một chuyến về Hà Nội thi lấy bằng kĩ sư do đề nghị của bạn học hiện là Chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Thanh Nghị (Vũ Đình Hòe), sách viết xong nhưng gởi ra Hà Nội không được (vì chiến tranh), bản thảo bị mất trong Đồng Tháp Mười.Năm 1954 ông viết lại xuất bản trong năm đó và được tái bản nhiều lần. Từ đó, hằng năm ông có đôi ba tác phẩm ra mắt công chúng độc giả.Ngòi bút Nguyễn Hiến Lê đề cập đến nhiều lĩnh vực, mà ở lĩnh vực nào cũng có căn cứ khoa học, am tường cặn kẽ về các đối tượng, sâu sắc về các vấn đề được nhắc tới và không thiếu tính nghệ thuật, từ triết học, sử học đến các chuyên ngành khác Sử học: gồm một số cuốn về lịch sử và văn minh sử thế giới: Lịch sử thế giới (4 cuốn), Đông Kinh nghĩa thục (1954), Sử Trung Quốc (1996), Lịch sử văn minh Trung Hoa, Tô Đông Pha...
Triết học Descartes
Cuốn sách này được xem như một toàn thư về Descartes. Cuốn sách là bản in chung 3 trong 1: 2 tác phẩm quan trọng nhất của Descartes được lịch sử triết học đề cao là "Phương pháp luận" và "Những suy niệm siêu hình học" do GS. Trần Thái Đỉnh dịch sang tiếng Việt; và cuốn sách biên khảo "Triết học Descartes". Triết học truyền thống khởi đi từ thế giới và luôn lấy thế giới làm nền, còn triết học Descartes lại khởi sự từ hành vi suy tưởng của con người và luôn lấy đó làm căn cứ. Triết học của Descartes là triết học tinh thần và triết học truyền thống là triết học thiên nhiên. Descartes đả phá tất cả, Hy Lạp và Trung cổ khởi công từ chỗ truy nhận thế giới vĩnh cửu và tuyệt đối chân thật, nay Descartes khởi sự từ chỗ coi thế giới là truyện bày đặt, truyện biến ngôn và ông khởi sự từ hành vi suy tư của con người. Descartes xác định lại 2 lĩnh vực khoa học và triết học, phân ranh rõ rệt giữa những truy tầm khoa học và những suy niệm triết học. Descartes khởi sự triết học từ tư tưởng con người, tức yếu tố tinh thần của con người chứ không xây triết học trên thế giới như triết học truyền thống đã làm. Vì vậy, triết học của Descartes là triết học về con người, nhưng ngạc nhiên là ông không định nghĩa con người là con vật có lý trí. Ông đề cao ý chí (volonté) và tự do hơn. Ông coi ý chí là yếu tố căn bản và cao trọng nhất nơi con người. Có thể nói rằng, con người trong triết Descartes không còn là một vật trong thiên nhiên nữa, nhưng là một tinh thần. Descartes coi con người là một hữu thể siêu việt. Và Descartes là chỗ đứt quãng, phân ranh hai thời đại đi trước và đi sau thành hai nền tư tưởng khác hẳn nhau. Cuốn sách này được xem như một toàn thư về Descartes. Cuốn sách là bản in chung 3 trong 1: 2 tác phẩm quan trọng nhất của Descartes được lịch sử triết học đề cao là "Phương pháp luận" và "Những suy niệm siêu hình học" do GS. Trần Thái Đỉnh dịch sang tiếng Việt; và cuốn sách biên khảo "Triết học Descartes". Triết học truyền thống khởi đi từ thế giới và luôn lấy thế giới làm nền, còn triết học Descartes lại khởi sự từ hành vi suy tưởng của con người và luôn lấy đó làm căn cứ. Triết học của Descartes là triết học tinh thần và triết học truyền thống là triết học thiên nhiên. Descartes đả phá tất cả, Hy Lạp và Trung cổ khởi công từ chỗ truy nhận thế giới vĩnh cửu và tuyệt đối chân thật, nay Descartes khởi sự từ chỗ coi thế giới là truyện bày đặt, truyện biến ngôn và ông khởi sự từ hành vi suy tư của con người. Descartes xác định lại 2 lĩnh vực khoa học và triết học, phân ranh rõ rệt giữa những truy tầm khoa học và những suy niệm triết học. Descartes khởi sự triết học từ tư tưởng con người, tức yếu tố tinh thần của con người chứ không xây triết học trên thế giới như triết học truyền thống đã làm. Vì vậy, triết học của Descartes là triết học về con người, nhưng ngạc nhiên là ông không định nghĩa con người là con vật có lý trí. Ông đề cao ý chí (volonté) và tự do hơn. Ông coi ý chí là yếu tố căn bản và cao trọng nhất nơi con người. Có thể nói rằng, con người trong triết Descartes không còn là một vật trong thiên nhiên nữa, nhưng là một tinh thần. Descartes coi con người là một hữu thể siêu việt. Và Descartes là chỗ đứt quãng, phân ranh hai thời đại đi trước và đi sau thành hai nền tư tưởng khác hẳn nhau.Cuốn sách này được xem như một toàn thư về Descartes. Cuốn sách là bản in chung 3 trong 1: 2 tác phẩm quan trọng nhất của Descartes được lịch sử triết học đề cao là "Phương pháp luận" và "Những suy niệm siêu hình học" do GS. Trần Thái Đỉnh dịch sang tiếng Việt; và cuốn sách biên khảo "Triết học Descartes". Cuốn sách này được xem như một toàn thư về Descartes. Cuốn sách là bản in chung 3 trong 1: 2 tác phẩm quan trọng nhất của Descartes được lịch sử triết học đề cao là "Phương pháp luận" và "Những suy niệm siêu hình học" do GS. Trần Thái Đỉnh dịch sang tiếng Việt; và cuốn sách biên khảo "Triết học Descartes".
Trang Tử - Trí tuệ của tự nhiên
Trang Tử (tiếng Hán: 莊子; ~365–290 trước CN[1]) là một triết gia và tác gia Đạo giáo. Tên thật của ông là Trang Chu (莊周) và tác phẩm của ông sau đều được gọi là Trang Tử. Ông còn có tên là Mông Lại (蒙吏), Mông Trang (蒙莊) hay Mông Tẩu (蒙叟). Ông sống vào thời Chiến Quốc, thời kỳ đỉnh cao của các tư tưởng triết học Trung Hoa với Bách Gia Chư Tử. Trang Tử (tiếng Hán: 莊子; ~365–290 trước CN[1]) là một triết gia và tác gia Đạo giáo. Tên thật của ông là Trang Chu (莊周) và tác phẩm của ông sau đều được gọi là Trang Tử. Ông còn có tên là Mông Lại (蒙吏), Mông Trang (蒙莊) hay Mông Tẩu (蒙叟). Ông sống vào thời Chiến Quốc, thời kỳ đỉnh cao của các tư tưởng triết học Trung Hoa với Bách Gia Chư Tử. Cuốn sách Trang Tử - Trí tuệ của tự nhiên do NXB Đồng Nai ấn hành được xem là tập ngụ ngôn thể hiện một trí tuệ mênh mông và phóng túng mang một màu sắc lãng mạn xa vời có ảnh hưởng lớn đến triết học, văn học đời sau. Cuốn sách Trang Tử - Trí tuệ của tự nhiên do NXB Đồng Nai ấn hành được xem là tập ngụ ngôn thể hiện một trí tuệ mênh mông và phóng túng mang một màu sắc lãng mạn xa vời có ảnh hưởng lớn đến triết học, văn học đời sau.Cuốn sách gồm 33 chương. Mời các bạn cùng tham khảo.Mục Lục : 1. Tiêu dao du 2. Tề vật luận 3. Dưỡng sinh chủ 4. Nhân gian thế 5. Đức sung phù 6. Đại Tông Sư 7. Ứng Đế Vương 8. Biển mẫu 9. Mã đề 10. Tề khiếp 11. Tại hựu 12. Thiên địa 13. Thiên đạo 14. Thiên vận 15. Khắc ý 16. Thiên tính 17. Thu thủy 18. Chí lạc 19. Đạt sinh ..... 28. Nhượng Vương 29. Đạo chích 30. Thuyết kiếm 31. Ngư phụ 32. Liệt ngự khấu 33. Thiện địa Mục Lục :1. Tiêu dao du2. Tề vật luận3. Dưỡng sinh chủ4. Nhân gian thế5. Đức sung phù6. Đại Tông Sư7. Ứng Đế Vương8. Biển mẫu9. Mã đề10. Tề khiếp11. Tại hựu12. Thiên địa13. Thiên đạo14. Thiên vận15. Khắc ý16. Thiên tính17. Thu thủy18. Chí lạc19. Đạt sinh.....28. Nhượng Vương29. Đạo chích30. Thuyết kiếm31. Ngư phụ32. Liệt ngự khấu33. Thiện địa