Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đóa Mạn Đà La Của Cô Dâu Xứ Lâu Lan

Thể loại: ngôn tình, tiểu thuyết  Đóa Mạn đà la của cô dâu xứ Lâu Lan Truyện có đan xen yếu tố kinh dị, Phật giáo,hoàn hồn mượn xác,tình yêu qua vài kiếp,…  Giới thiệu về bối cảnh và các địa điểm trong câu chuyện Bối cảnh của câu chuyện xảy ra ở vùng Đôn Hoàng và Tân Cương. Vì vậy, trước khi vào truyện, Phạm sẽ giới thiệu sơ qua về hai vùng đất này.  1. Đôn Hoàng Là một thị xã thuộc đại cấp thị Cửu Tuyền, tỉnh Cam Túc, nằm trong một ốc đảo sa mạc. Đôn Hoàng nổi tiếng với các tượng Phật được khắc trong hang đá (trong truyện gọi là bích hoạ). Còn trong thực tế, Đôn Hoàng còn mang trong mình nhiều di sản văn hóa cổ đại rất quý giá. Nói đến Đôn Hoàng, không thể không nhắc tới núi Minh Sa nằm ở phía Nam ngoại ô cách thành phố Đôn Hoàng khoảng 5km, rặng núi này được hình thành bởi những hạt cát vàng to bằng hạt tấm chạy dài 40 km dọc “Con đường tơ lụa”. Giữa những cồn cát núi Minh Sa là một nguồn nước trong vắt có tên là Nguyệt Nha Tuyền dài 218 mét. Một điều rất lạ, Nguyệt Nha Tuyền bốn bề là những dải cát mênh mông mà chẳng bao giờ bị phủ lấp. Cạnh bên, một thành lầu có tên là Ngọc Môn Quan đứng sừng sững trên mỏm đồi sỏi đá (cách thành phố Đôn Hoàng chừng 90 km về phía Tây Bắc). Từ nơi đây có thể phóng tầm mắt về phía những cồn cát, lăng tẩm cổ còn sót lại cùng những thiên nhiên kì thú tiềm ẩn vẻ hoang sơ ở Đôn Hoàng. Đây cũng là một địa điểm được nói đến trong câu chuyện. Lịch sử lâu đời đã ươm ủ nên nền văn hóa cổ rực rỡ cho Đôn Hoàng, nơi đây hiện vẫn còn lưu giữ một khối lượng lớn các văn hiến ghi chép cùng hành lang tranh họa Mạc Cao dài tới 25 km. Hang Mạc Cao là trung tâm văn hóa và nghệ thuật của xứ Đôn Hoàng, đây là cụm hang đá lớn nhất Trung Quốc. Khi khai quật hang động, vô số thợ thuộc các triều đại của các thế hệ đã điêu khắc trên vách rất nhiều tượng Phật, vẽ rất nhiều bích họa. Mặt khác, do hang Mạc Cao Đôn Hoàng nằm trên nút “con đường tơ lụa”, nên nó cũng là nơi gặp gỡ của tôn giáo, văn hóa, kiến thức giữa phương đông và phương tây. Những bức bích hoạ này và vị trí đặc biệt của hang Mạc Cao và vùng đất Đôn Hoàng trở thành cảm hứng cho tác giả viết “Đoá mạn đà la của cô dâu xứ Lâu Lan”. 2. Vùng Tân Cương Tân Cương nghĩa là ‘biên cương mới’, tên gọi này được đặt từ thời nhà Thanh. Tân Cương chiếm khoảng một phần sáu diện tích toàn Trung Quốc và một phần tư chiều dài đường biên giới quốc gia. Tân Cương được chia thành Bồn địa Dzungarian ở phía bắc và Bồn địa Tarim ở phía nam (nơi xảy ra câu chuyện giữa hai nhân vật chính). Vùng trung lưu vực sông Tarim thuộc nam Tân Cương, nằm trên tuyến giữa của con đường tơ lụa. Tân Cương vào thế kỉ thứ năm bị chia ra làm hai Đông Đột Quyết và Tây Đột Quyết. Nhưng Tây Đột Quyết lại dùng quân cát cứ, đôi khi làm loạn, thậm chí còn đem quân đánh lại Trung Nguyên. Là một bộ lạc du mục, nên sự thống trị của Tây Đột Quyết ở Tây Vực cực kì dã man. Họ cướp bóc lương thực, súc vật của các nước nhỏ, đốt phá làng mạc, thành quách, bắt bớ tù binh, nô lệ. Thương khách lai vãng trên con đường to lụa đôi khi cũng bị uy hiếp, cướp đoạt. Tây Đột Quyết còn mưu đồ lũng đoạn việc buôn bán tơ lụa của Trung Quốc với phương Tây. Sau khi nhà Đường thống nhất Trung Nguyên, các tiểu quốc ở Tây Vực và các quốc gia Tây Á tấp nập cử sứ thần về triều yêu cầu nghiêm trị bọn Tây Đột Quyết để khôi phục con đường tơ lụa. Trong đó có Lâu Lan, Vu Quốc, Quy Tư… Thế là trước hết nhà Đường đem quân tiểu trừ lực lượng Tây Đột Quyết ở nam Thiên Sơn, vào năm 658 CN, nhà Đường đặt An tây Đô hộ phủ tại Quy Tư, xác lập vị trí vững chắc của chính quyền trung ương tại đây. Và câu chuyện của chúng ta nói về chuyện một thái tử của Vu Quốc sang nhà Đường làm con tin trong thời điểm này. 3. Quốc gia Lâu Lan Lâu Lan là một quốc gia cổ, tồn tại vào thế kỉ thứ II Trước Công nguyên nằm ở vùng Đông Bắc sa mạc La Bố ở vùng Tân Cương (nay thuộc Trung Quốc). Lâu Lan được biết đến với cái tên tiếng Nga là Krorayina. Lâu Lan quốc nằm trên con đường tơ lụa và lãnh thổ phần lớn bao quanh bởi sa mạc. Để khơi thông con đường tơ lụa, vào năm 108 Trước Công nguyên, nhà Hán ở Trung Quốc đã tiêu diệt quốc gia này và biết nơi đây thành một chư hầu của Đại Hán và biến vương triều Lâu Lan trở thành bù nhìn của nhà Hán. Ngày nay, di chỉ còn lại của vương quốc Lâu Lan chỉ còn là các tòa thành bị vùi lấp ở sa mạc Tân Cương. 4. Lịch sử Của “CON ĐƯỜNG TƠ LỤA” Trung Quốc - Về địa lí: Con đường tơ lụa bắt đầu từ Phúc Châu, Hàng Châu, Bắc Kinh (Trung Quốc) qua Mông Cổ, Ấn Độ, Afghanistan, Kazakhstan, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, xung quanh vùng Địa Trung Hải và đến tận châu Âu. Con đường cũng còn đi đến cả Hàn Quốc và Nhật Bản. Nó có chiều dài khoảng 7 nghìn cây số. - Về lịch sử: Trung Quốc là nước đầu tiên tìm ra cách trồng dâu nuôi tằm, lấy kén ươm tơ, dệt lụa sớm nhất trên thế giới vào thế kỉ 3 TCN. Tơ lụa thời đó được dành riêng cho vua chúa và hàng quí tộc, sau này lụa tơ tằm được đưa đi các vùng. Con đường tơ lụa dần dần được hình thành từ đó. Thế kỉ 2 TCN, Trương Khiên nhận lệnh từ Hán Vũ Đế đi về phía Tây tìm người Nguyệt Chi nhằm kết đồng minh chống lại quân Hung Nô. Trải qua nhiều gian khổ, Trương Khiên đã tìm được người Nguyệt Chi ở nơi là miền Bắc Ấn Độ ngày nay. Trên đường về ông cùng tùy tùng đã mang theo nhiều sản vật mà triều đình rất quan tâm. Nhờ đó những tuyến đường nhỏ trước đây đã được kết nối lại với nhau, nhiều tuyến mới được khai phá và an toàn hơn do được sự bảo vệ của triều đình. Tuyến đường mà Trương Khiên đã khai phá được người đời sau gọi là Con đường tơ lụa. -Về giao lưu văn hóa: Con đường tơ lụa là một con đường huyền thoại nối liền Trung Hoa rộng lớn với vùng Tây Á kì bí, nó gắn liền với hàng ngàn câu chuyện truyền thuyết xa xưa. Không đơn thuần chỉ là huyết mạch thông thương buôn bán của những “thương nhân lạc đà”, Con đường tơ lụa còn là một hành trình văn hóa, tôn giáo đa dạng được hòa trộn. ( Đó là một vài thông tin cơ bản trước khi chúng ta bước vào câu chuyện. *** Nguyện lòng kiếp sau, luôn vì thê quân, tốt xấu không phân li. Nay ta yếu nhược, không thể như trước, thỉnh gửi hai bông hoa, lấy dâng cho Phật. (Ứng lời thái tử Thụy theo lời kinh Phật). Phần một: Dấu chu sa Phật ấn Dù ở trong lịch sử của thời kì mông muội - mù mờ - dã man, tàn khốc và đầy rẫy vu thuật, bói toán, tô-tem[1] cũng không thể chống đỡ nổi với quyền thế. Có những nhà sử học so sánh nó với ác ma, ngón tay thô cứng, đốt ngón tay chỉ hơi dùng sức gấp lại sẽ nứt ra một khe hở và có âm thanh truyền ra. Rất nhiều sinh mệnh vô vọng bị nó thao túng đã phải tuẫn táng cùng với nó. Sau mấy ngàn năm tăm tối, văn minh bị xé rách thành từng mảnh, nhưng văn minh đã học được cách bao dung, dệt thành một tấm lưới, lại vô tri giác thay đổi, đồng hóa dã man… [1] Tô-tem: đồ đằng - vật tổ - vật thể tự nhiên, hay gặp nhất là động vật, được người Anh-Điêng ở Bắc Mỹ coi như biểu tượng của một bộ tộc hoặc gia đình. Nguyệt Ấn Thần nhớ ra đoạn văn trên này khi đang ngồi trên xe lửa đến cột mốc biên giới tỉnh Cam Túc, nhìn qua cửa sổ xe, có thể thấy những hàng bạch dương hồng nhạt héo rũ phất phơ bay theo từng cơn lốc cát vàng. Chúng khiến không khí hoang vu kéo dài đến tận nền văn minh nhân loại ở ngay bên cạnh, nếu người cũng vì hoàn cảnh mà từng bước dã man như tằm ăn rỗi, vậy văn minh sẽ lấy tư thế gì để đồng hóa nó? Cô hơi chau mày rồi mở mắt, giữa ấn đường[2] có một vết thương nho nhỏ màu đỏ sậm, phảng phất như dấu chu sa của mĩ nhân. [2] Ấn đường: điểm giữa hai hàng lông mày. Khi ghi danh thi vào nghiên cứu sinh, các giảng viên đều nói đùa với cô: Không nên học hội họa, lẽ ra nên vào khoa khảo cổ - diện mạo cô cực kì giống một cô gái thời cổ đại: cằm nhỏ lại nhọn, hai gò má trắng nõn và nốt chu sa giữa hai hàng lông mày. Dù ai nhìn vào cũng cho rằng cô sinh ở thời cổ đại! Cô luôn mỉm cười thản nhiên, như một cô gái trong bức hoạ thời Tống bước ra, vạt váy nhẹ nhàng phất phơ. Tranh đời Tống chú trọng ở nét bút trau chuốt và thuân mặc[3], thoạt nhìn vết tích trên mặt giấy Tuyên Thành, trong lòng cô cũng choáng váng khi nhìn từng thước tấc gương mặt, hoặc sâu hoặc nông, vì sắc thái trên đó với gương mặt cô như một. Cho nên, bản thân Nguyệt Ấn Thần cũng nghĩ cô giống bức tranh Tống Triều, theo thời gian chậm rãi mai một, nhàn nhạt vui giận, nhàn nhạt sầu thương, phảng phất như Đức Phật phổ độ chúng sinh, khóe miệng hơi nhếch vẻ thận trọng, khiến người khác nhìn vào không thể đoán ra là hờn hay giận, là buồn hay vui. [3] Thuân mặc: một lối vẽ của Trung Quốc, đặt nghiêng ngọn bút lông quệt mực khô nhạt để thể hiện vân đá và mặt nam mặt bắc của núi, sau khi phác ra đường nét chung. Những cô gái ít khi, hoặc không bộc lộ tâm tư ra ngoài như thế rất khó đàm luận chuyện tình yêu, cô nghĩ. Trên tay cô là một chiếc vòng tay anh trai tặng, màu xanh lục đậm, được khắc thành hình bảy đoá hoa sen, chính giữa là năm bông sen, hai hoa còn lại ở hai sườn, không biết dùng loại vật liệu gì màu xanh đen kết lại, mộc mạc, cổ xưa lại xinh đẹp. Chiếc vòng này nằm ở bưu điện hơn một tháng, khi Giang Hòa lấy về giúp cô, anh nói đùa, “Anh trai em thật là kì quái, thứ đồ thế này mà cũng chuyển cho em.” Chưa ai thấy Nguyệt Ấn Thần tức giận như ngày hôm đó, cô lập tức chia tay với anh, cũng là người yêu duy nhất ở đại học. Sau này, cô cũng không thể lí giải tại sao lúc ấy cô lại nổi giận, có lẽ là mơ hồ cảm thấy Giang Hòa không nên châm chọc tấm lòng của người anh trai đang ở xa cô. Có lẽ ở trong lòng Ấn Thần, Trục Lỗi là một vị thần linh luôn luôn khiến cho người khác phải tôn kính và ngưỡng mộ, thậm chí khi Trục Lỗi lỡ tay làm cô bị thương, cuối cùng lưu lại một vết sẹo nhỏ giữa trán, cô cũng cảm thấy anh như là một vị thần vì vất vả giải thoát cho cô mà lưu lại một dấu vết, hoà với máu, biến thành ấn kí đỏ sậm kì ảo trên cơ thể cô. Cũng vì vậy, Giang Hòa nói cô không bình thường. Người học nghệ thuật rất không bình thường, có lẽ. Nhớ tới Giang Hòa, cô luôn sẽ nhếch khóe miệng, cười nụ. Anh là một người cởi mở, thích mang sự cởi mở của anh bao phủ những người xung quanh. Nếu không phải anh kiên quyết nói chiếc vòng tay Trục Lỗi tặng thành một bộ xương khô, Ấn Thần có lẽ sẽ không chia tay với anh. Xương khô? Giang Hòa thật biết nghĩ ra cách làm khó! Ấn Thần tinh nghịch gẩy móng tay vào giữa vòng tay, nheo mắt nhìn. Chiếc vòng khá nặng, chủ yếu là bởi vì bảy bông sen kia. Cô không biết loại gỗ nào có thể sinh ra sức nặng lớn như vậy với một vật nhỏ như thế này. Còn vương một loại hương khí nhàn nhạt của cây hoắc diệp[4]. Nghe anh trai nói loại hương hoắc diệp quý báu này chỉ có ở Tây Vực thời cổ đại, dùng làm cống phẩm cho hoàng đế. [4] Hoắc diệp: một loại cây có lá rất thơm, dùng làm thuốc. Vậy cô có thể gọi là nửa quý tộc? Một cô bé con 7, 8 tuổi ngồi đối diện cô nhìn chằm chằm tay cô, “Oa” một tiếng khóc ré lên, bổ nhào vào lòng một thiếu phụ, rấm rứt: “Mẹ, con sợ...” Mẹ cô bé âm thầm nén giận, liếc mắt nhìn Ấn Thần một cái, rồi mới quay sang an ủi con gái. Ấn Thần ngơ ngác ngồi tại chỗ, vẻ mặt xấu hổ. Sao chứ, cô có làm gì dọa con bé ấy sao? Xe lửa chậm rãi chạy vào trạm dừng Đôn Hoàng. Ấn Thần cười cười tỏ vẻ có lỗi với hai mẹ con, xách hành lí chuẩn bị xuống.p> Hai mắt cô bé đẫm lệ nhìn nàng, hỏi mẹ: “Mẹ, đó là quỷ sao?” Mẹ cô lau nước mắt cho cô, ôm cô vào lòng, lẩm bẩm: “Không phải, không phải, làm sao có thể?” Ấn Thần sửng sốt, nhìn về phía vòng tay, vẫn là màu xanh đen, hoa sen như cũ, bảy đóa. Đôn Hoàng là một thành phố cổ xưa và thần bí. Vào thế kỷ thứ 4 sau công nguyên, giới tăng lữ dùng bùn đất ở đây, nặn ra cánh tay Quan Âm tròn và nhẵn mịn đầu tiên, bắt đầu từ khi đó, cái tên Đôn Hoàng đã không còn gắn liền với những bánh xe lịch sử của trần gian.p> Khi Ấn Thần đi ra sân ga, toà thành cổ bị phủ trong ánh tịch dương của bầu trời chiều hôm, hiện lên dưới ánh sáng vàng rực, bóng loáng, cát vàng ở phía sau làm tăng thêm lịch sử phong trần, khiến Đôn Hoàng thoạt nhìn như một vị mĩ nhân tuổi xế chiều, sa mỏng hư vô mịt mờ che khuất mặt nàng, những đường nét như có như không làm cho thâm tâm người khác sinh ra ý niệm muốn trộm ngó toàn cảnh. Sự huyền bí làm con người khắc khoải. Mời các bạn đón đọc Đóa Mạn Đà La Của Cô Dâu Xứ Lâu Lan của tác giả Đồng Hoa.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thượng Thư Đại Nhân, Biến! - Tô Áng
Văn án: “Rất nhiều người nói, bàn tay hội họa tài hoa Lan công tử có phong thái chi lan ngọc thụ hiếm có khó tìm, chỉ tiếc là hơi keo kiệt. Cũng có rất nhiều người nói, trong các quan lớn triều đình, Liên đại nhân tuổi trẻ tài cao, dung mạo sáng sủa nhất thiên hạ, chỉ tiếc là keo kiệt lắm. Chỉ có Phương Uyển Chi biết, hai nam nhân keo kiệt đến tận xương này thực ra là cùng một người. Cha của Phương Uyển Chi nói: "Con phải lôi kéo được hắn, chúng ta sau này có phát đạt được không đều tùy vào con cả." Nàng nhìn người đứng cách đó không xa, tay cầm sợi dây đang quan sát con mèo vô cùng chăm chú, tự nhiên lại thấy áp lực trên đầu mình không phải nặng vừa đâu.” ------------ Nữ chủ trong truyện này đúng là số con rệp, có chút sắc đẹp thì bị cha già tham tiền dẫn vào cung, định để cho lão hoàng đế già lụ khụ nạp làm phi tử. Thật may nàng tương kế tựu kế, giữa đám quý tộc thả một cái rắm, thành công huỷ hoại hình ảnh tài nữ. Ngày ngày, nàng diễn trò một nháo hai khóc ba thắt cổ, giả bộ đau thương không thiết sống, quay mặt đi là ung dung trốn trong phòng không lo bị ép gả. Cha già lo lắng, dùng hết tiền bạc đem nàng đến cầu Lan Khanh công tử vẽ cho một bức tranh chân dung. Người người đều nói rằng, có tranh của Lan Khanh công tử vẽ cho, dù là heo nái cũng có thể tìm được chồng. Thế là Phương Uyển Chi ngày ngày phải vác thân đến căn nhà rách của Lan Khanh, chờ chàng ta vẽ xong một bức mĩ nhân đồ đẹp xuất sắc. Lan Khanh chính là nam chủ của truyện, nhưng tính cách lại có vẻ hơi khác người. Nhà giàu nứt đố đổ vách, vẽ một bức tranh đã đủ ăn cả đời, nhưng chàng ta lại chọn nơi ở là một cái viện rách nát, ghế không có mà ngồi. Thực ra, Lan Khanh cũng chỉ là nghệ danh, thân phận thực sự của chàng ta là Liên thượng thư Liên Dụ – nổi tiếng mồm mép nhanh nhạy, vô sỉ bỉ ổi, không chuyện gì không thể làm, lại keo kiệt có tiếng. Liên thượng thư đối đầu tài nữ nhà giàu, cuộc chiến tưởng như không cân sức này ai sẽ giành phần thắng? Phương tiểu thư nói cực kì nhiều, từ chuyện đầu xóm đến cuối ngõ, chuyện lông gà vỏ tỏi đến con mèo con chó. Liên thượng thư lại yêu thích sự yên tĩnh. Vì vậy mỗi buổi gặp nhau của hai người lại chìm trong không khí kì quái khi một người cứ nói còn một thì cứ ngồi như tượng gỗ. Rốt cuộc, Liên thượng thư cũng bị cái miệng của Phương tiểu thư thuần hoá, một ngày không nghe nàng tám chuyện sẽ thấy bứt rứt khó chịu. 1-0 nghiêng về Phương tiểu thư. Liên đại nhân nổi tiếng keo kiệt, trong nhà đồ đạc sang trọng không thiếu, nhưng chỉ chàng ta mới được sử dụng. Còn khách hàng hả… “Trà một lượng bạc một chén, năm lượng một bình. Ghế hoa mai, ba lượng ngồi một canh giờ.” Thậm chí, Liên đại nhân giữa trời hè nóng bức còn đốt lò sưởi trong phòng, cốt để bán cho Phương tiểu thư ba mươi lượng một khối băng làm mát. 1-1 cho Liên thượng thư “vắt cổ chày ra nước”. Chuyện tình như chó với mèo của Liên Dụ và Phương Uyển Chi chẳng biết từ bao giờ đã nảy sinh. Liên đại nhân không gặp Phương tiểu thư là thấy nhớ, còn hôn trộm nàng rồi xấu hổ tặng quà “đền bù”, khiến Phương Uyển Chi được phen hết hồn khi ông thần keo kiệt lại chi tiền mạnh tay đến thế. Còn Phương tiểu thư đôi khi thất thần ngắm Lan Khanh công tử đến ngẩn người. Nhưng rồi cha nàng phát hiện ra thân phận thật của Lan Khanh, mọi việc bắt đầu thay đổi. Cha Phương Uyển Chi muốn dựa vào nàng để lấy lòng Liên thượng thư, vì vậy Phương tiểu thư lắm miệng điêu ngoa đột ngột biến thành một thiếu nữ nhà giàu chỉ biết nịnh nọt lấy lòng trước mặt Liên Dụ, khiến chàng tức giận mà không biết phải làm gì, bỏ không được giữ không xong. Nhưng thật may là sau này nam chính đã anh dũng đạp bằng mọi việc, khiến Phương lão gia ngậm ngùi gả con gái qua, lại cưng chiều Phương tiểu thư hết nước hết cái. Cả hai nhân vật chính trong cuốn truyện này đều không hoàn hảo, lại có cái gì đó rất “thật”. Phương Uyển Chi phận nữ nhi, luôn phải nghe theo lời cha, dù cho ông ta có bội bạc với mẹ mình. Nàng tuy ngoài mặt là một tiểu thư hiền dịu, nhưng sâu trong thâm tâm lại ẩn giấu tính khí bạo lực và cứng đầu, có ước mơ lớn lao là kiếm một người chồng chỉ có duy nhất mình mình trong tim. Liên Dụ là một người tốt, nhưng cái tốt ấy lại được chàng giấu trong vẻ bất cần và vô sỉ. Chàng quan tâm Phương Uyển Chi, nhưng lại không biết cách thể hiện, khiến nàng hiểu nhầm biết bao lần. Chàng cũng là một con người cô độc và bất hạnh, vì không có được tình cảm gia đình như những người bình thường khác. Chỉ khi gặp được Phương Uyển Chi, chàng mới học được cách mỉm cười, trò chuyện với mọi người, không còn cô đơn. Cả hai nhân vật là hai mảnh ghép đầy khuyết điểm, chỉ khi chập lại với nhau mới trở nên hoàn hảo. Và cái kết truyện HE hường phấn ngọt ngào đảm bảo sẽ đốn ngã tim bạn trong vòng một nốt nhạc. Trích đoạn: Trên đường lớn xuất hiện một bóng người thướt tha. Có lẽ nàng vừa chạy tới, hoặc là bị chọc tức, cho nên mới đứng giữa đường như thế. Liên Dụ ngẩn người một lúc, sau đó lại nhìn trái nhìn phải một lượt: “Nàng mang dao tới làm gì? ” “Ngài lăn ra đây cho ta.” Liên Dụ cảm thấy Phương Uyển Chi muốn chém hắn thật, nhưng không hiểu sao trong lòng vẫn rất vui. Nàng muốn hắn tới, hắn sẽ ngoan ngoãn tới. Phương đại cô nương bên này lửa giận đã sắp lên tới đỉnh đầu. Không vì cái gì khác, chỉ vì một câu đơn giản hắn cũng chưa từng nói với nàng. Hai người chuyện nên làm cũng đã làm, chuyện không nên làm cũng chỉ còn một bước lau súng cướp cò, ngay cả một câu thích nàng, hắn cũng chưa từng mở miệng. Phương đại cô nương chưa ăn thịt heo cũng đã thấy heo chạy, nàng tìm khắp thoại bản cũng không tìm ra một nam chủ nào có tính tình như Liên Dụ. “Phát bổng lộc rồi sao?” Liên Dụ mơ màng gật đầu. “Phát khi nào? ” “Trưa hôm qua.” Phương Uyển Chi nhướn mi: “Sao thế, không phải mỗi lần ngài chiếm tiện nghi của ta xong đều muốn đưa bạc sao, lần này lại không đưa bạc à?” Liên Dụ vội vàng tháo hà bao bên hông đưa cho nàng, một câu cũng không dám nói. “Bổng lộc không được bao nhiêu, nếu nàng muốn mua đồ thì đến phòng thu chi, có rất nhiều, đều đưa nàng cả.” “Sao ta lại dám lấy bạc của Liên Dụ ngài chứ, giờ ta cũng không cần mặt mũi nữa, hôm nay ta chỉ muốn hỏi một câu, rốt cục ngài có thích ta không?” Ánh sáng mặt trời buổi sớm rơi trên mặt đất, chiếu lên người nàng như tạo thành một viền vàng nhạt, giống như một vị nữ tướng quân mạnh mẽ uy phong. Liên Dụ chưa từng thấy nàng như thế, cho nên nhìn đến sững người, như thể muốn khắc ghi hình ảnh này vĩnh viễn cùng tháng năm. Hắn nghĩ, có lẽ cả đời này cũng không thể nào quên được cô nương thẳng thắn trước mặt lúc này. “Phương Uyển Chi, ta muốn cưới nàng.” Ta đã nghĩ từ rất lâu, chưa từng do dự, cũng không hề dao động. Chỉ muốn cưới nàng, lấy nàng mà thôi. Mời các bạn đón đọc Thượng Thư Đại Nhân, Biến! của tác giả Tô Áng.
Ta Là Đào Hoa Tinh - Thiên Lí Châu
Hoa đào rơi lẳng lặng trên mặt nước. Ta cùng chàng một bước thoảng qua nhau. Duyên phận của công chúa Nhiếp Trường Hoan và thừa tướng Ôn Nhược Cẩn có thể gói gọn trong hai câu nói trên. Bởi vì lúc gặp nhau, một người là công chúa bị lưu đày, còn một người đang bị đuổi cùng giết tận bởi chính đệ đệ cùng cha khác mẹ của mình. Là Trường Hoan đã cứu Ôn Nhược Cẩn, nhưng nàng tuyệt nhiên không nhớ. Bởi vì khi ấy, nàng đang phát bệnh. Trường Hoan vốn là một nàng công chúa được cưng chiều từ nhỏ, thế nhưng bởi vì cữu cữu của nàng phạm phải tội danh hối lộ, kết quả ngoại trừ đương sự bị phán trảm, gia tộc của nàng từ già đến trẻ phải chịu kiếp lưu đày. Mà trước đó, mẫu phi của nàng không vượt qua được sự thâm hiểm của hậu cung, chết không rõ nguyên do. Còn nhỏ như vậy đã phải chịu quá nhiều biến cố, Trường Hoan liền mắc một chứng bệnh lạ trong người, khi phát bệnh, nàng thường ngồi ôm chân bó gối, nghĩ mình là một cây hoa đào thành tinh. Và trong một lần như thế, nàng gặp Ôn Nhược Cẩn. Ôn Nhược Cẩn bị truy sát, thân thể mang theo độc tố chạy trốn, đã rơi vào bẫy thú. Trường Hoan không hề biết rằng mình đã từng cứu hắn, bởi vì sau lần gặp ấy, Ôn Nhược Cẩn vẫn không hề quay lại tìm nàng. Hắn phải trị thương. Giống như số trời đã định, Ôn Nhược Cẩn bị chất độc trong người hành hạ đến sống dở chết dở, nhưng mỗi lần hắn chuẩn bị đi đến bờ vực ấy, hắn lại nhìn thấy Trường Hoan, rồi chẳng biết vì sao, hắn lại dần dần khỏe lên. Cho đến ngày, hắn hoàn toàn vượt ra khỏi cái chết, cũng là lúc hắn quyết định sẽ đi tìm nàng. Ôn Nhược Cẩn sắp xếp một chút, tạo ra một vài tình huống vô tình mà hữu ý để gặp Trường Hoan. Trường Hoan được trở về hoàng cung sau 5 năm lưu đày, đều là nhờ đến công lao của biểu ca nàng trên chiến trường. Nhưng sống ở môi trường khắc nghiệt quá lâu, Trường Hoan đã không còn là một công chúa hoạt bát khỏe mạnh nữa rồi. Nàng sợ lạnh và sợ cả lòng người. Cho nên khi quay về, nàng sống lặng lẽ ở Sương Thanh Điện. Đối với ai cũng đều là một biểu tình hiểu chuyện, nghe lời. Dù sao cũng từng là nữ nhi của một phi tần được sủng ái, hoàng hậu đương triều Trịnh thị đương nhiên cũng tỏ rõ mình là mẫu nghi thiên hạ, liền muốn sắp xếp hôn sự cho Trường Hoan. Chính ngay lúc đó, nàng không tìm được lý do thoái thác liền vận dụng cách cũ, giả vờ phát bệnh. Quả nhiên, tránh được một lần chỉ hôn. Thế nhưng, điều này lại khiến Ôn Nhược Cẩn được lợi. Mọi người thấy Trường Hoan có bệnh trong người, ai cũng tránh xa. Chỉ có hắn, nhân cơ hội một lần lập công liền khẩn cầu Hoàng đế Nhiếp Dục ban hôn cho mình cùng công chúa Trường Hoan.  Đương nhiên lần này Trường Hoan không còn cách gì để từ chối. Nhưng quả thật, nàng vốn cũng không muốn từ chối. Bởi vì, qua một vài lần gặp gỡ tiếp xúc, nàng cảm giác được, con người này là thật sự có ý với nàng. Có ý, cho nên mới quan tâm đến cảm nhận của nàng, sợ nàng lạnh, sợ nàng không vui, sợ nàng xa lánh. Thế nên mới có chuyện, đã bái đường rồi mà hắn vẫn không hề động đến nàng. Cùng lắm không nhịn được thì cũng chỉ là nắm tay một cái, hôn hôn một chút. Trường Hoan thực sự cảm động. Thời gian ở cạnh hắn, nàng luôn cảm thấy vui vẻ, cũng hiểu được những khó khăn mà hắn đã từng trải qua. Thì ra, một Ôn thừa tướng tuổi trẻ tài cao của ngày hôm nay thật sự chẳng hề dễ dàng. Một người bị hoàn cảnh khó khăn mài giũa, còn một người bị nhân tình thế thái dạy dỗ. Cả hai nguyện ý ở bên cạnh, cùng nhau an ủi, cùng nhau trải qua chặng đường còn lại yên bình an ổn. Sau khi giúp Hoàng đế diệt trừ mầm mống phản nghịch, đồng thời trả được mối thù giết mẫu thân cho Trường Hoan, Ôn Nhược Cẩn từ quan, mang theo thê tử về quê sinh sống. Hai người lúc này mới chính thức bái đường, vui hưởng hạnh phúc của một cặp phu thê thật sự. Không màng thế sự, chỉ cầu yên vui. Mời các bạn đón đọc Ta Là Đào Hoa Tinh của tác giả Thiên Lí Châu.
Phượng Nghi Thiên Hạ - Tâm Doanh Cốc
Liễu Khinh Vũ, xuất thân từ danh gia vọng tộc, kì tuyển tú năm ấy đến miếu Nguyệt Lão, một lòng mong muốn được gả cho nam tử tốt nhất trong thiên hạ - Hoàng đế. Nàng không ngờ ở chính miếu Nguyệt Lão ấy, nàng gặp được nam tử cướp đi trái tim mình - Lý Hy. Chàng nhặt khăn tay nàng đánh rơi, cùng nàng hứa hẹn sẽ đem khăn đến phủ trả lại cho nàng. Nhưng chưa đợi được, xe ngựa tuyển tú đã đưa nàng vào cung. Nàng không ngờ, ở vườn hoa trước đại điện, nàng không gặp hoàng đế mà lại gặp Lý Hy. Chàng mặc triều phục đội mũ quan... Thời khắc ấy, ước nguyện của Khinh Vũ đã thay đổi, một lòng hi vọng không được chọn, cũng Lý Hy hẹn ước bên nhau. Nàng đến tạ ý chỉ của Thái hậu, không ngờ lại gặp Hoàng đế. Tiểu muội muội của Hoàng đế một mực đòi Hoàng huynh đi thả diều, còn kéo theo nàng. Hắn phát hiện ra miếng ngọc bội trên cổ nàng - miếng ngọc trước đây rất lâu, khi còn bé trong lúc bị sốt cao được nàng bên cạnh chăm sóc hắn đã tặng cho nàng. Hoàng đế ép buộc nàng bên mình, hôn sự với Lý Hy bỗng chốc hóa hư không. Nàng căm phẫn nhưng không thể kháng chỉ, đau thương nhìn nam tử mình yêu bị Hoàng đế điều ra biên ải đánh giặc. Nàng là nữ nhân của Hoàng đế nhưng ngày đêm mong nhớ nam tử khác, hỏi thăm tin tức về Lý Hy. Nàng mang thai, ngày Lý Hy trở về, nàng đang ở cữ vội vàng chạy đến đài gác, ngắm Lý Hy từ xa, khóc đến thương tâm. Nàng được phong hậu, Lý Hy được Thái hậu tứ hôn... Từ ngày đó, nàng tự chôn vùi hết tình cảm dành cho Lý Hy. Nàng ở Hậu cung càn quấy, dùng thủ đoạn lộ liễu bao nhiêu cũng chưa từng thấy ai trách cứ, phát giác. Đám phi tần nhìn nàng căm phẫn. Hoàng đế dung túng yêu thương nàng, nàng không càn quấy nữa, luôn bồi hắn uống thuốc bổ. Hoàng đế uống thuốc, uống suốt 6 năm, cuối cùng sắc mặt nhợt nhạt nói: “Trẫm biết… là nàng hạ độc, cho dù là thuốc độc, trẫm cũng không thể chống lại sự thùy mị của nàng… Khinh Vũ, đây là tội lớn phản nghịch đó… cái đầu nhỏ của nàng làm sao mà giữ được…” Đến giây phút cuối cùng ấy, Liễu Khinh Vũ bật khóc. Đến cuối cùng, nàng cũng trả được thù, nhưng nhận lại được gì? Nàng không nhận ra người nàng hận nhất cũng từ từ ăn sâu vào tâm gan trở thành người nàng yêu nhất... -----[ Trích đoạn 1 ]----- Ta chưa từng biết, chỉ cần ta tùy ý cười là có thể khiến hoàng đế điên đảo thần hồn. Trong lúc nửa mơ nửa tỉnh, nội giám đến gọi hoàng đế lâm triều, hắn vừa định đứng dậy, cánh tay ta đột nhiên ôm lấy thắt lưng cường tráng, dịu dàng cười nói: “Hoàng thượng, ở lại với nô tỳ một lát được không…” Vì thế quân vương không vào triều sớm. Ta không thích kiến trúc cổ xưa của Đông cung, hắn liền sai người thu thập hoa cỏ của cả kinh thành và ngoại ô, ủ thành nước hoa, pha thuốc màu quét lại vôi cho ta, lập tức khắp kinh thành không ngửi thấy hương hoa, bướm chỉ bay lượn dập dờn trong Đông cung. Nửa đêm ta đột nhiên muốn ngắm tuyết, hắn không ngại tối trời đưa ta lên Ly Sơn. Ta nóng lòng nhớ nhà, hắn thuận theo ý ta xuống tuần phía Nam. Sử quan ghi chép: Đương kim thánh thượng và hoàng hậu yêu thương lẫn nhau, tình cảm gắn bó, nguyện làm uyên ương không làm tiên. -----[ Trích đoạn 2 ]----- Rốt cuộc ta đã trả được thù, nào những thống khổ ngày xưa hắn trút lên người ta, nào những cưỡng bức tù túng hai năm trong mù mịt tăm tốt, ta đã trả lại hết. Hắn hít một hơi sâu, khó khăn nói: “Trẫm biết… là nàng hạ độc, cho dù là thuốc độc, trẫm cũng không thể chống lại sự thùy mị của nàng… Khinh Vũ, đây là tội lớn phản nghịch đó… cái đầu nhỏ của nàng làm sao mà giữ được…” Ta thảng thốt không nói lên lời. Hắn quả thực biết hết… trao hết quyền lực cho ta để ta có thể giữ được tính mạng, thậm chí sau khi ngôi vua thay đổi vẫn hưởng phồn hoa! Ta cứ cho là hắn hồ đồ, đầu óc bị sắc đẹp của ta làm mê muội, hóa ra hắn vẫn tỉnh táo, chỉ có một mình ta chìm đắm trong thù hận, không tài nào thoát ra… Nước mắt của ta lăn xuống, ta thấy ánh mắt hắn dần dần tản mát, sinh khí từ từ rút khỏi thân thể, trong lòng chợt len lỏi một tia hối hận, mà hắn lại nở nụ cười, “Có phải chung quy nàng cũng không hận được trẫm phải không… Thế nhưng trẫm chưa bao giờ hối hận cả! Ha ha…” Bàn tay nắm lấy tay ta bỗng chốc siết chặt, ánh mắt tỏa ra sự tinh nhuệ rực rỡ như sao băng, cuối cùng lụi tắt trong bóng tối khôn cùng, “Khinh Vũ, trẫm cảm thấy rất may mắn vì kiếp này trẫm là hoàng đế… nhờ vậy mới có quyền lực cưỡng ép giữ nàng lại bên cạnh!”   Mời các bạn đón đọc Phượng Nghi Thiên Hạ của tác giả Tâm Doanh Cốc.
Vương Phủ Hỗ Xuyên Hàng Ngày - Hoa Lý Tầm Hoan
Trấn Bắc Vương thế tử Việt Dung là “thần tiên sống” trong mắt của mọi người, còn nhớ ngày thế tử ra đời trên trời giáng xuống cam lộ, giải đại nạn hạn hán ở Tây Bắc, có vị cao nhân từng nói thế tử mệnh cách bất phàm, là Tiên Quân trên trời chuyển thế.  Quả nhiên như lời cao nhân đã nói, thế tử từ nhỏ vấn đạo tu tiên, lớn lên lại thanh lãnh bất phàm, cả người tiên khí phiêu phiêu như trích tiên lạc vào trần gian. Thật khiến cho người ta chỉ dám đứng từ xa mà tôn kính, ngưỡng mộ mà chẳng không dám lại gần vì sợ làm ngại mắt tiên nhân. Mà thế tử phu nhân Tô Cấm là người vô cùng ôn nhu đoan trang, tính tình hiền huệ nhã nhặn, chính là hình mẫu thê tử lý tưởng của vô số nam nhân, càng là hình mẫu dâu hiền mà các mẹ chồng mong ước.  Thế tử Việt Dung và thế tử phu nhân Tô Cấm đã thành thân hơn ba năm, cùng nhau dưỡng dục một nhi tử, tuy tình cảm không nồng nàn đến khắc cốt ghi tâm nhưng cũng tương kính như tân, là đôi phu thê mẫu mực trong mắt của mọi người. Chính Việt Dung và Tô Cấm cũng cảm thấy như vậy. Mãi cho đến một ngày, vì một tai nạn nhỏ, hai người đột nhiên tráo đổi thân phận, mới phát hiện... Phu quân cao lãnh ưu nhã đại thần tiên ư? Phu nhân ôn nhu đoan trang, kiều kiều nhược nhược tiểu đáng thương à? Không, tất cả đều không tồn tại. Tồn tại chỉ có hai người kỹ thuật diễn siêu cấp, ngụy trang bao nhiêu năm cũng không bị vạch trần mà thôi. Mời các bạn đón đọc Vương Phủ Hỗ Xuyên Hàng Ngày của tác giả Hoa Lý Tầm Hoan.