Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Truyền Kỳ Mạn Lục - Nguyễn Dữ

Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm văn xuôi duy nhất của Việt Nam từ xa xưa được đánh giá là “thiên cổ kỳ bút” (ngòi bút kỳ lạ của muôn đời), một cái mốc lớn của lịch sử văn học, sau này được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Tác phẩm gồm 20 truyện thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái nhằm gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, xã hội nhiễu nhương. Truyền kỳ mạn lục đã được dịch và giới thiệu ở một số nước như Pháp, Nga… *** Nhà văn Việt Nam, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc Thanh Miện, Hải Dương. Thuộc dòng dõi khoa hoạn, từng ôm ấp lý tưởng hành đạo, đã đi thi và có thể đã ra làm quan. Sau vì bất mãn với thời cuộc, lui về ẩn cư ở núi rừng Thanh Hóa, từ đó "trải mấy mươi sương, chân không bước đến thị thành". Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với thầy học là Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ XVI và để lại tập truyện chữ Hán nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn, Tryền kỳ mạn lục (in 1768, A.176/1-2). Truyện được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời dịch ra chữ nôm. Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, viết bằng tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả, hoặc của một người cùng quan điểm với tác giả. Hầu hết các truyện xảy ra ở đời Lý, đời Trần, đời Hồ hoặc đời Lê sơ từ Nghệ An trở ra Bắc. Lấy tên sách là Truyền kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những truyện lạ), hình như tác giả muốn thể hiện thái độ khiêm tốn của một người chỉ ghi chép truyện cũ. Nhưng căn cứ vào tính chất của các truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục không phải là một công trình sưu tập như Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục... mà là một sáng tác văn học với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Đó là một tập truyện phóng tác, đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể loại tự sự hình tượng trong văn học chữ Hán. Và nguyên nhân chính của sự xuất hiện một tác phẩm có ý nghĩa thể loại này là nhu cầu phản ánh của văn học. Trong thế kỷ XVI, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ XV; mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực. Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước. Nhu cầu phản ánh quyết định sự đổi mới của thể loại văn học. Và Nguyễn Dữ đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ XVI. Trên thực tế thì đằng sau thái độ có phần dè dặt khiêm tốn, Nguyễn Dữ rất tự hào về tác phẩm của mình, qua đó ông bộc lộ tâm tư, thể hiện hoài bão; ông đã phát biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề lớn của xã hội, của con người trong khi chế độ phong kiến đang suy thoái. Trong Truyền kỳ mạn lục, có truyện vạch trần chế độ chính trị đen tối, hủ bại, đả kích hôn quân bạo chúa, tham quan lại nhũng, đồi phong bại tục, có truyện nói đến quyền sống của con người như tình yêu trai gái, hạnh phúc lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng, có truyện thể hiện đời sống và lý tưởng của sĩ phu ẩn dật... Nguyễn Dữ đã phản ánh hiện thực mục nát của chế độ phong kiến một cách có ý thức. Toàn bộ tác phẩm thấm sâu tinh thần và mầu sắc của cuộc sống, phạm vi phản ánh của tác phẩm tương đối rộng rãi, khá nhiều vấn đề của xã hội, con người được đề cập tới. Bất mãn với thời cuộc và bất lực trước hiện trạng, Nguyễn Dữ ẩn dật và đã thể hiện quan niệm sống của kẻ sĩ lánh đục về trong qua Câu chuyện đối đáp của người tiều phu trong núi Nưa. ở ẩn mà nhà văn vẫn quan tâm đến thế sự, vẫn không quên đời, vẫn nuôi hy vọng ở sự phục hồi của chế độ phong kiến. Tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Dữ là tư tưởng Nho gia. Ông phơi bày những cái xấu xa của xã hội là để cổ vũ thuần phong mỹ tục xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong kiến, phủ định triều đại mục nát đương thời để khẳng định một vương triều lý tưởng trong tương lai, lên án bọn "bá giả" để đề cao đạo "thuần vương", phê phán bọn vua quan tàn bạo để ca ngợi thánh quân hiền thần, trừng phạt bọn người gian ác, xiểm nịnh, dâm tà, để biểu dương những gương tiết nghĩa, nhân hậu, thủy chung. Tuy nhiên Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ thể hiện tư tưởng nhà nho, mà còn thể hiện sự dao động của tư tưởng ấy trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến. Nguyễn Dữ đã có phần bảo lưu những tư tưởng phi Nho giáo khi phóng tác, truyện dân gian, trong đó có tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo và chủ yếu là tư tưởng nhân dân. Nguyễn Dữ đã viết truyền kỳ để ít nhiều có thể thoát ra khỏi khuôn khổ của tư tưởng chính thống đặng thể hiện một cách sinh động hiện thực cuộc sống với nhiều yếu tố hoang đường, kỳ lạ. Ông mượn thuyết pháp của Phật, Đạo, v.v. để lý giải một cách rộng rãi những vấn đề đặt ra trong cuộc sống với những quan niệm nhân quả, báo ứng, nghiệp chướng, luân hồi; ông cũng đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng nhân dân khi miêu tả cảnh cùng cực, đói khổ, khi thể hiện đạo đức, nguyện vọng của nhân dân, khi làm nổi bật sự đối kháng giai cấp trong xã hội. Cũng chính vì ít nhiều không bị gò bó trong khuôn khổ khắt khe của hệ ý thức phong kiến và muốn dành cho tư tưởng và tình cảm của mình một phạm vi rộng rãi, ông hay viết về tình yêu nam nữ. Có những truyện ca ngợi tình yêu lành mạnh, chung thủy sắt son, thể hiện nhu cầu tình cảm của các tầng lớp bình dân. Có những truyện yêu đương bất chính, tuy vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo nhưng lại phản ánh lối sống đồi bại của nho sĩ trụy lạc, lái buôn hãnh tiến. Nguyễn Dữ cũng rất táo bạo và phóng túng khi viết về những mối tình si mê, đắm đuối, sắc dục, thể hiện sự nhượng bộ của tư tưởng nhà nho trước lối sống thị dân ngày càng phổ biến ở một số đô thị đương thời. Tuy vậy, quan điểm chủ đạo của Nguyễn Dữ vẫn là bảo vệ lễ giáo, nên ý nghĩa tiến bộ toát ra từ hình tượng nhân vật thường mâu thuẫn với lý lẽ bảo thủ trong lời bình. Mâu thuẫn này phản ánh mâu thuẫn trong tư tưởng, tình cảm tác giả, phản ánh sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến trong tầng lớp nho sĩ trước nhu cầu và lối sống mới của xã hội. Truyền kỳ mạn lục có giá trị hiện thực vì nó phơi bày những tệ lậu của chế độ phong kiến và có giá trị nhân đạo vì nó đề cao phẩm giá con người, tỏ niềm thông cảm với nỗi khổ đau và niềm mơ ước của nhân dân. Truyền kỳ mạn lục còn là tập truyện có nhiều thành tựu nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện, dựng nhân vật. Nó vượt xa những truyện ký lịch sử vốn ít chú trọng đến tính cách và cuộc sống riêng của nhân vật, và cũng vượt xa truyện cổ dân gian thường ít đi sâu vào nội tâm nhân vật. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Truyền kỳ mạn lục là mẫu mực của thể truyền kỳ, là "thiên cổ kỳ bút", là "áng văn hay của bậc đại gia", tiêu biểu cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của sáng tác dân gian. BÙI DUY TÂN Nguyễn Dữ là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng phong Thượng thư. Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, Nguyễn Dữ thi Hội nhiều lần, đạt trúng trường và từng giữ chức vụ Tri huyện Thanh Tuyền nhưng mới được một năm thì ông xin từ quan về nuôi dưỡng mẹ già. Trải mấy năm dư không đặt chân đến những nơi đô hội, ông miệt mài "ghi chép" để gửi gắm ý tưởng của mình và đã hoàn thành tác phẩm "thiên cổ kỳ bút" Truyền kỳ mạn lục. Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào chưa rõ, nhưng căn cứ vào tác phẩm cùng bài Tựa Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm Vĩnh Định thứ nhất (1547) và những ghi chép của Lê Quý Đôn trong mục Tài phẩm sách Kiến văn tiểu lục có thể biết ông là người cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, có thể lớn tuổi hơn Trạng Trình chút ít. Giữa Nguyễn Dữ và Nguyễn Bỉnh Khiêm tin chắc có những ảnh hưởng qua lại về tư tưởng, học thuật... nhưng e rằng Nguyễn Dữ không thể là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm như Vũ Phương Đề đã ghi. Đối với nhà Mạc, thái độ Nguyễn Dữ dứt khoát hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không làm quan với nhà Mạc mà chọn con đường ở ẩn và ông đã sống cuộc sống lâm tuyền suốt quãng đời còn lại. Truyền kỳ mạn lục được hoàn thành ngay từ những năm đầu của thời kỳ này, ước đoán vào khoảng giữa hai thập kỷ 20-30 của thế kỷ XVI. Theo những tư liệu được biết cho đến nay, Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ. Sách gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển, được viết theo thể loại truyền kỳ. Cốt truyện chủ yếu lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp xuất phát từ truyền thuyết về các vị thần mà đền thờ hiện vẫn còn (đền thờ Vũ Thị Thiết ở Hà Nam, đền thờ Nhị Khanh ở Hưng Yên và đền thờ Văn Dĩ Thành ở làng Gối, Hà Nội). Truyện được viết bằng văn xuôi Hán có xen những bài thơ, ca, từ, biền văn, cuối mỗi truyện (trừ truyện 19 Kim hoa thi thoại ký) đều có lời bình thể hiện rõ chính kiến của tác giả. Hầu hết các truyện đều lấy bối cảnh ở các thời Lý-Trần, Hồ, thuộc Minh, Lê sơ và trên địa bàn từ Nghệ An trở ra Bắc. Thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái, tinh loài vật, cây cỏ..., tác phẩm muốn gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, không còn kỷ cương trật tự, vua chúa hôn ám, bề tôi thoán đoạt, bọn gian hiểm nịnh hót đầy triều đình; những kẻ quan cao chức trọng thả sức vơ vét của cải, sách nhiễu dân lành, thậm chí đến chiếm đoạt vợ người, bức hại chồng người. Trong một xã hội rối ren như thế, nhiều tệ nạn thế tất sẽ nảy sinh. Cờ bạc, trộm cắp, tật dịch, ma quỷ hoành hành, đến Hộ pháp, Long thần cũng trở thành yêu quái, sư sãi, học trò, thương nhân, nhiều kẻ đắm chìm trong sắc dục. Kết quả là người dân lương thiện, đặc biệt là phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ. Nguyễn Dữ dành nhiều ưu ái cho những nhân vật này. Dưới ngòi bút của ông họ đều là những thiếu phụ xinh đẹp, chuyên nhất, tảo tần, giàu lòng vị tha nhưng luôn luôn phải chịu số phận bi thảm. Đến cả loại nhân vật "phản diện" như nàng Hàn Than (Đào thị nghiệp oan ký), nàng Nhị Khanh (Mộc miên phụ truyện), các hồn hoa (Tây viên kỳ ngộ ký) và "yêu quái ở Xương Giang" cũng đều vì số phận đưa đẩy, đều vì "nghiệp oan" mà đến nỗi trở thành ma quỷ. Họ đáng bị trách phạt nhưng cũng đáng thương. Dường như Nguyễn Dữ không tìm được lối thoát trên con đường hành đạo, ông quay về cuộc sống ẩn dật, đôi lúc thả hồn mơ màng cõi tiên, song cơ bản ông vẫn gắn bó với cõi đời. Ông trân trọng và ca ngợi những nhân cách thanh cao, cứng cỏi, những anh hùng cứu nước, giúp dân không kể họ ở địa vị cao hay thấp. Truyền kỳ mạn lục ngay từ khi mới hoàn thành đã được đón nhận. Hà Thiện Hán người cùng thời viết lời Tựa, Nguyễn Thế Nghi, theo Vũ Phương Đề cũng là người cùng thời, dịch ra văn nôm. Về sau nhiều học giả tên tuổi Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú đều ghi chép về Nguyễn Dữ và định giá tác phẩm của ông. Nhìn chung các học giả thời Trung đại khẳng định giá trị nhân đạo và ý nghĩa giáo dục của tác phẩm. Các nhà nghiên cứu hiện đại phát hiện thêm giá trị hiện thực đồng thời khai thác tinh thần "táo bạo, phóng túng" của Nguyễn Dữ khi ông miêu tả những cuộc tình si mê đắm đuối đậm màu sắc dục. Hành vi ấy tuy trái lễ, trái đạo trung dung nhưng lại đem đến chút hạnh phúc trần thế có thực cho những số phận oan nghiệt. Về mặt thể loại mà xét thì Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm đỉnh cao của truyện truyền kỳ Việt Nam. Nguyễn Dữ chịu ảnh hưởng của Cù Hựu nhưng Truyền kỳ mạn lục vẫn là "áng văn hay của bậc đại gia", là sáng tạo riêng của Nguyễn Dữ cũng như của thể loại truyện truyền kỳ Việt Nam. TRẦN THỊ BĂNG THANH Lời tựa(1) Tập lục này là trước tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu. Ông là con trưởng vị tiến sĩ triều trước Nguyễn Tường Phiêu (2). Lúc nhỏ rất chăm lối học cử nghiệp, đọc rộng nhớ nhiều, lập chí ở việc lấy văn chương truyền nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, nhiều lần thi Hội đỗ trúng trường, từng được bổ làm Tri huyện Thanh Tuyền (3). Được một năm ông từ quan về nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu. Mấy năm dư không đặt chân đến chốn thị thành, thế rồi ông viết ra tập lục này, để ngụ ý. Xem văn từ thì không vượt ra ngoài phên giậu của Tông Cát (4), nhưng có ý khuyên răn, có ý nêu quy củ khuôn phép, đối với việc giáo hóa ở đời, há có phải bổ khuyết nhỏ đâu! Vĩnh Định năm đầu (1547), tháng Bảy, ngày tốt. Đại An Hà Thiện Hán kính ghi Kẻ hậu học là Tùng Châu Nguyễn Lập Phu biên. (1) Lời Tựa này được chép trong Cựu biên Truyền kỳ mạn lục. Bản này hiện chưa có trong các thư viện ở Hà Nội. Ở đây chúng tôi theo Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san, Đài Loan thư cục in năm 1987. Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú in năm Cảnh Hưng 35 (1774) lấy lại lời tựa này nhưng không ghi tên Hà Thiện Hán. Cuối bài ghi thêm "Nay xã trưởng xã Liễu Chàng là Nguyễn Đình Lân soạn in vào năm Giáp Ngọ (1774) để làm bản gốc cho nghìn vạn đời và để bán cho thiên hạ xem đọc". Chú thích (2) Nguyễn Tường Phiêu: người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc tỉnh Hải Dương, đồ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm Hồng Đức 27 (1496) đời Lê Thánh Tông; làm quan đến Thừa chánh sứ. Sau khi mất được tặng chức Thượng thư, phong phúc thần. (3) Thanh Tuyền: tức huyện Bình Xuyên, thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. (4) Tông Cát: Cù Tông Cát, tên là Cù Hựu, tác giả Tiễn đăng tân thoại. Mời các bạn đón đọc Truyền Kỳ Mạn Lục của tác giả Nguyễn Dữ.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kẻ Trộm Mộ - Phù Sinh
Sách Nói Kẻ Trộm Mộ Những ngôi mộ cổ ở sâu dưới lòng đất luôn là nơi ẩn chứa nhiều bí mật, nhiều cổ vật và nhiều cạm bẫy. Những kẻ trộm mộ không những trên thông thiên văn dưới tường địa lý mà cần phải có kỹ năng sống vô cùng cao siêu và ảo diệu, đôi khi cũng cần phải dựa vào cả vận may của mình. Nếu thiếu một trong số những thứ đó, dù chỉ là chút sơ sảy, kết cục nhận lại sẽ thật thê thảm. Mỗi cánh cửa mở ra, sau nó lại có vô vàn cánh cửa khác khép kín. Càng vào sâu, càng kỳ quái. Càng kỳ quái, càng muốn khám phá. Thế nhưng, khi đối mặt với những thứ tưởng chừng không thể tồn tại trên cõi thực, liệu có mấy kẻ không giật mình thảng thốt, không sợ hãi bỏ chạy, không mục thây trong địa đạo khổng lồ? Không phải tự nhiên mà các bậc tiền bối điểm chỉ: Đi trộm bất cứ ngôi mộ nào cũng vậy, trên người nhất định phải mang theo một cây nến! Bởi ai biết được, dưới mồ sâu tối đen như mực kia, bất cứ lúc nào cũng có thể nhảy ra những thứ kinh dị chết người. Và có đôi khi, một trong số những kẻ trộm mộ buộc phải bỏ mạng để cứu sống đồng đội của mình? Liệu những kẻ đó có dám hy sinh bản thân, hay đành lòng… giết hại lẫn nhau? *** “Được rồi, bây giờ các ngươi đã biết hết mọi chuyện, cũng đến lúc phải lên đường rồi.” Nói xong, Trịnh Duy Tín đưa bàn tay phải cầm súng lên, chỉ vào Tôn Kim Nguyên cười lạnh, nói: “Đồ nhi ngoan, ngươi đã giúp vi sư không ít chuyện, ta sẽ để ngươi được chết một cách sảng khoái.” Thấy Trịnh Duy Tín định giết Tôn Kim Nguyên, tôi và Vương Tiên Dao không thể trơ mắt nhìn, nhưng hai chúng tôi còn chưa kịp có hành động gì thì Trịnh Duy Tín đã lại chĩa họng súng về phía chúng tôi, cười lạnh, nói: “Đừng có làm bừa, cũng đừng nôn nóng, cứ từng người từng người một, rồi cuối cùng các ngươi sẽ được đoàn tụ với nhau ở một nơi khác thôi.” Anh gầy chợt lại nói: “Anh không thể giết bọn họ được! Bọn họ đã đồng ý giao thần khí ra rồi mà, việc gì còn phải lạm sát người vô tội chứ?” Tôn Kim Nguyên và Vương Tiên Dao đều tỏ ra hết sức ngạc nhiên, không ngờ vào lúc này rồi mà anh gầy còn cất lời cầu xin giúp chúng tôi. Trịnh Duy Tín lạnh lùng nói: “Chú thì hiểu cái gì? Người làm đại sự cần biết dùng thủ đoạn tàn độc, mà bọn chúng lại biết quá nhiều rồi, nhất định phải diệt khẩu mới được.” Rồi lão ta lại nhìn qua Tôn Kim Nguyên, nói tiếp: “Đồ nhi ngoan, vi sư tiễn ngươi lên đường đây.” Dứt lời liền không chút do dự bóp cò khẩu súng lục trong tay. Đúng vào lúc tiếng súng vang lên, anh gầy đột nhiên nhào tới, đẩy ngã Tôn Kim Nguyên xuống đất, có điều anh ta cũng vì thế mà trúng đạn vào lưng. Trong khoảnh khắc đó, thời gian như ngừng trôi, tất cả mọi người đều không nói năng gì, trên mặt ngợp đầy vẻ kinh ngạc, cặp mắt lặng lẽ dõi nhìn tất thảy. ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Trộm Mộ của tác giả Phù Sinh.
Lời Nguyền Lâu Lan - Sái Tuấn
Tác phẩm bắt đầu từ cái chết đột ngột Giang Hà - 3 tuần sau khi trở về từ chuyến khảo sát ở thành cổ Lâu Lan. Manh mối duy nhất để lại cho cô vợ chưa cưới Bạch Bích chính là một chùm chìa khóa thần bí. Bạch Bích hy vọng nhờ vào chùm chìa khóa đó để tìm ra được đáp án sự thật. Nhưng mọi việc diễn ra càng lúc càng ly kỳ khôn lường. Một tháng sau đó, trong Trung tâm nghiên cứu Khảo cổ xảy ra liên tiếp năm vụ án mạng hết sức lạ lùng. Cảnh sát Diệp Tiêu tiếp nhận vụ án, triển khai điều tra và vô tình vén được bí mật đã cất giấu hàng nghìn năm. Lời nguyền cổ xưa và vĩnh cửu không chỉ làm cho cả một thành phố bị tiêu vong, mà còn thay đổi vận mệnh của biết bao con người... Sái Tuấn được đánh giá là một nhà văn kỳ tài. Tiểu thuyết kinh dị của Sái Tuấn thường giải phẫu, phân tích sâu sắc sự giao thoa giữa lịch sử và thực tế, giữa tình yêu và sự kinh dị, giữa huyền hoặc và suy diễn, mà vẫn thấm đậm chất nhân văn. Anh viết văn đã 10 năm nay và nổi tiếng với ác tác phẩm như: Trở lại Hoang thôn - Sái Tuấn Thần đang nhìn ngươi đấy - Sái Tuấn Quán Trọ Hoang Thôn - Sái Tuấn Mắt Mèo - Sái Tuấn Địa ngục tầng thứ 19 - Sái Tuấn Hồ Sinh Tử - Sái Tuấn Mưu Sát Tuổi Xuân - Sái Tuấn 120 Ngày Nhìn Trộm - Sái Tuấn ... *** Nửa tiếng sau, tiếng bước chân vội vã của Diệp Tiêu đã vang lên trong phòng khám nghiệm tai nạn của cảnh sát giao thông. Trong hành lang dài, một khoảng tối mờ. Trong nhà xác cạnh hành lang còn để rất nhiều xác người mặt mũi biến dạng vì bị tai nạn giao thông. Phần lớn trông đều rất thê thảm. Có nhiều người đầu một nơi chân tay một nẻo. Có lúc Diệp Tiêu cảm giác bốn bánh xe lao vun vút cũng nguy hiểm không kém một kẻ sát nhân tàn nhẫn. Diệp Tiêu thay quần áo, bước vào phòng khám nghiệm, nhìn thấy xác một thanh niên đang nằm trên bàn phẫu thuật. Hứa An Đa. Hứa An Đa đã bị cởi bỏ hết quần áo, toàn thân ở trần. Anh ta lúc đó trắng như một cục tuyết, anh ta ca khoảng 1m70, trông rất cơ bắp, xem ra là người chịu khó luyện tập, hoặc do công việc thường phải đi dã ngoại. Gương mặt đã biến dạng hết, toàn máu và não. - Nguyên nhân xảy ra tai nạn là thế nào? - Diệp Tiêu hỏi nhỏ người cảnh sát giao thông được giao thụ lý vụ tai nạn này. ... Mời các bạn đón đọc Lời Nguyền Lâu Lan của tác giả Sái Tuấn.
Người Điều Khiển Tâm Lý II - Dực Tô Thức Quỷ
Trong đội Điều tra đặc biệt có một báu vật: Chính là Mộc Cửu  Trong đội Điều tra đặc biệt có hai kẻ dở hơi: Lam Tiểu Nhã và Triệu Cường Trong đội điều tra trinh thám đặc biệt cũng có 3 chuyện kì tích: Giọng hát của đội trưởng, giọng cười của Mộc Cửu và Triệu Cường không lạc đường.  Mỗi vụ án riêng biệt nhau chỉ là cùng 1 đội điều tra nên bắt đầu đọc từ phần 2 cũng không sao. *** Đúng như Mộc Cửu suy đoán, trong phòng ngủ của Viên Đình dán đầy tư liệu về hoa hồng ăn thịt người, từ vụ án đầu tiên đến vụ án cuối cùng, cô ta sưu tầm tất cả tư liệu, phần lớn đều cắt trên báo xuống, còn dùng bút đỏ khoanh tròn lên những bức tranh, bên cạnh còn đính những tấm ảnh hiện trường vụ án, toàn bộ đều do cô ta chụp lại. Hơn mười năm, cảnh sát đang tìm hoa hồng ăn thịt người, cô ta cũng tìm, cảnh sát tìm vì muốn đưa hắn ra công lý, còn cô tìm chỉ vì muốn gặp hắn một lần, thậm chí hy vọng trở thành 'thức ăn' của hắn. Chuyện điên khùng khiến người ta khó tin như vầy chỉ vì cô ta đã yêu đến điên cuồng, vặn vẹo mất rồi. Bên trong tư liệu có một bức tranh, là người đàn ông mặc âu phục khoảng hơn 30 tuổi, mày kiếm, ánh mắt kiên định và dịu dàng, khóe miệng hơi rướn lên giống như một quý ông tao nhã, nhưng hắn chính là hoa hồng ăn thịt người, kẻ biến thái giết bốn mươi lăm mạng người trong vòng bốn năm. Sau khi cảnh sát đến phòng ngủ của Viên Đình, lấy toàn bộ tư liệu trong tủ quần áo của cô ta, thì cô ta chỉ đứng ở cửa nhìn, nhìn những thứ cô ta sưu tầm suốt mười năm bị bỏ vào trong thùng, cả người cô ta chết lặng. Nhưng khi nhìn thấy bức tranh cô ta vẽ cũng bị tháo xuống, chuyện này đã kích thích cô ta, cô ta nổi điên lên, gào thét muốn xông lên: "Không được đưa anh ấy đi! Trả anh ấy lại cho tôi! Đó là vật thuộc về tôi! Là của tôi đấy!" ... Mời các bạn đón đọc Người Điều Khiển Tâm Lý II của tác giả Dực Tô Thức Quỷ.
Zoo (Tiếng Việt)
Hơi lạnh phà ra từ khắp cuốn sách kinh dị này… Phà ra từ hầm ngầm, nơi các nạn nhân bị chặt thành từng mảnh nhỏ để trôi vừa qua lưới chắn cống xối, Phà ra từ bộ ảnh chụp lần lượt từng bước phân hủy xác một cô gái: đổi màu, ứa nước, rữa nát đến khô quắt dòi bọ chán nản bỏ đi, Phà ra từ người đàn ông tỉnh dậy với máu me đầm đìa và lê lết chấm phẩy chạy mãi mà không hề hay biết chân mình đã gãy… Cũng như phà ra từ không thiếu một câu chuyện nào bởi sự miêu tả tỉ mỉ và gần như bàng quan của tác giả trước những cảnh chết khác nhau của con người. Dù thế, bằng cách dõi theo những góc khuất trong tâm lý thủ phạm, bằng cách khai thác những tình huống gặp nạn gần gũi với đời sống, bằng cách gia giảm tương đương giữa phạm tội và luận tội, ZOO đã kín đáo thả theo sau luồng hơi lạnh ấy một chút nhân tính, một chút nhân quả, một chút nhân văn. Bởi vậy cuốn sách này, tuy lạnh giá… Nhưng rất ít lạnh lùng. *** Hồi tiểu học, gần nhà tôi có một công viên rất nhỏ, vây kín bởi những tòa nhà cao tầng. Khi ngày tàn, nơi đây vô cùng yên tĩnh, không còn âm thanh của xe cộ và người qua lại nữa. Đôi lúc có chiếc giày trẻ em đánh rơi. Công viên này là thế. Đến giờ ăn tối, lũ bạn cùng đến công viên nô đùa với tôi đã về nhà cả rồi, riêng tôi vẫn nán lại chờ đến lúc cha mẹ trở về. Chơi đánh đu chán, ma xui quỷ khiếhn t ế nào tôi lại chạy đến chỗ bãi cát. Bãi cát ở góc công viên đó hay bị lãng quên vì mọi người thường ham đánh đu hoặc chơi cầu trượt. Lúc hoàng hôn, ánh mặt trời lách qua khe hở giữa các tòa nhà, nhuộm đỏ thắm cả khoảnh đất im ắng này. Mình tôi lặng lẽ ngồi nghịch cát bên cạnh cái xô nhựa màu vàng ai đó bỏ quên. Tôi cởi giày, đắp cát lên hai bàn chân. Những hạt cát nhỏ li ti lọt qua các kẽ ngón chân rơi xuống, cảm giác man mát rất dễ chịu. Tôi thường duỗi thẳng cánh tay thọc xuống cát để đo xem cát sâu đến đâu. Chưa thấy đáy đâu mà cả cánh tay tôi lút vào bằng hết. Tôi kể chuyện này với cha nhưng ông không tin, “Bãi cát ấy phải có đáy, chứ không thể sâu thế được.” Chắc cha nhầm rồi, mấy lần thọc tay xuống, cát đều ngập hết cánh tay tôi. Tôi không nhớ đây là lần thứ mấy tôi làm việc này. Ở góc công viên có một cái cây, dưới nắng chiều, bóng lá hắt xuống trông như một bức tranh đen trắng. Lúc tay phải lút đến nách thì đầu ngón tay tôi chạm phải một vật. Đó là một thứ mềm và mát được chôn dưới cát. Tôi tò mò ra sức thọc xuống sâu hơn nữa. Khi đầu ngón giữa gắng gượng đụng được vào nó, tôi cảm nhận được sự mềm mại và đàn hồi. Tôi muốn nắm lấy để lôi lên nhưng không làm được. Tôi còn có cảm giác có thứ gì đó bám vào đầu ngón tay. Tôi rút tay lên để nhìn, thì ra là mấy sợi tóc khá dài. Tuy dính cát lem nhem nhưng vẫn nhận ra được đây là những sợi tóc của con gái. Tôi lại thọc tay xuống, định sờ vào cái vật bị chôn ở dưới. Nhưng lần này thì dù quờ quạng thế nào, ngón tay cũng không đụng phải thứ gì cả. Tiếc ơi là tiếc! Các tòa nhà cao tầng bao quanh công viên với những ô cửa sổ đóng im ỉm chìm trong không gian đỏ ối, trông như những bức tường lớn vây kín tôi và bãi cát ở giữa. ... Mời các bạn đón đọc Zoo của tác giả Otsuichi.