Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sư Tử, Phù Thủy Và Cái Tủ Áo - C. S. Lewis

HỌ MỞ MỘT CÁNH CỬA BƯỚC VÀO CẢ MỘT THẾ GIỚI Narnia…một vùng đất bị đóng băng bởi mùa đông vĩnh cửu…một vùng đất đang chờ đợi để được giải phóng. Bốn nhà thám hiểm bước qua cánh cửa của chiếc tủ áo và rơi vào vùng đất của Narnia - một vùng đất đang chịu sự thống trị bởi quyền năng của mụ Phù thuỷ Trắng. Nhưng khi mọi hy vọng gần như đã bị dập tắt thì Sư tử vĩ đại Aslan trở về, được xem là bắt đầu của những thay đổi lớn lao… *** Biên niên sử về Narnia viết về một thế giới tưởng tượng, những phép màu và một thế giới song song cùng tồn tại với thế giới của chúng ta. Biên niên sử về Narnia dựng nên một thế giới tưởng tượng, kỳ ảo nhưng có những cơ sở của hiện thực - điểm khác biệt với Harry Potter. Biên niên sử về Narnia là một tác phẩm hư cấu có giá trị nghệ thuật cao trên nhiều phương diện: Một tác phẩm có cấu trúc cân đối, hoàn chỉnh, tính tư tưởng quán xuyến từ đầu đến cuối ; là tinh thần đấu tranh cho chính nghĩa, cho con người, đặc biệt là một tình yêu thiên nhiên, hoà mình với thiên nhiên, coi cỏ cây hoa lá, muông thú cũng có tính bản thiện và có nhu cầu được cộng sinh trong thế giới của muôn loài và cho muôn loài. Một tư tưởng rất nhân bản và đang được nhân loại đề cao. Bộ sách Biên niên sử về Narnia giúp bạn đọc có ý thức tốt hơn về môi trường thiên nhiên cũng như môi trường văn hoá. Và đặc biệt có thể nhìn cuộc đời với một đôi mắt " ngây thơ " hơn. Biên niên sử về Narnia hấp dẫn nhờ một cốt truyện cổ điển, có mâu thuẫn, cao trào và giải quyết mâu thuẫn, thể hiện một trí tưởng tượng rất cao, mang dấu ấn của cá tính sáng tạo của nhà văn. Từ tập 1 đến tập 7 của Biên niên sử về Narnia, thế giới tưởng tượng được xây dựng và phát triển một cách vừa khác biệt vừa nhất quán với toàn bộ và theo cấp độ tăng tiến, khiến người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác với những hình tượng độc đáo, kỳ thú không hề bị lặp lại. Bộ sách Biên niên sử về Narnia gồm có: Tập 1: Cháu trai Pháp Sư Tập 2: Sư Tử Phù Thủy và cái Tủ Áo Tập 3: Con Ngựa và Cậu Bé Tập 4: Hoàng Tử Caspian Tập 5: Trên con tàu hướng tới Bình Minh Tập 6: Chiếc ghế Bạc Tập 7: Trận chiến cuối cùng Biên niên sử về Narnia đưa ra một hệ thống nhân vật phong phú, có cá tính : không có nhân vật nào lẫn với nhân vật nào, dù là con vật hay con người đều có những nét đặc biệt đáng ghi nhớ. Lối giải quyết mâu thuẫn của tác giả, tự nhiên, không gượng ép và đặc biệt là nhẹ nhàng, thoải mái không gây nên những cảnh quá dữ dội có thể ảnh hưởng đến tâm hồn trẻ thơ. Theo bình chọn của tạp chí Big Reader : Biên niên sử về Narnia có tên trong danh sách 21 cuốn sách được độc giả Anh yêu thích nhất (trong danh sách 100 tiểu thuyết thế giới). Bộ truyện được chuyển thể sang tác phẩm điện ảnh trở thành là bộ phim ăn khách của thế kỷ 21. *** Clive Staples Lewis sinh năm 1898 tại Belfast. Ông làm nghiên cứu sinh và là trợ giảng bộ môn Văn học Anh tại trường Magdalen, Oxford và sau này là giáo sư bộ môn Văn học thời kỳ Trung cổ và Phục hưng tại Đại học Cambridge, nơi ông làm việc cho đến khi qua đời vào năm 1963. Clive Staples Lewis viết rất nhiều sách về phê bình văn học và Đạo cơ đốc, với tác phẩm nổi tiếng “The Screwtape Letters”, cùng với bốn cuốn tiểu thuyết khác dành cho người lớn. Bộ truyện “Biên niên sử Narnia”, gồm 7 tập, là bộ truyện duy nhất ông viết cho trẻ em. *** Đ ã từng có bốn đứa trẻ tên là Peter, Susan, Edmund và Lucy. Câu chuyện này kể về một chuyện đã xảy ra với chúng trong thời gian chúng bị đưa đi khỏi London để tránh những trận công kích. Chúng sơ tán đến nhà một giáo sư già sống ở trung tâm đất nước, cách ga xe lửa gần nhất 10 dặm và cách bưu điện 2 dặm. Ông không có vợ con và sống trong một tòa nhà rộng mênh mông với một bà quản gia tên là Macready và ba người giúp việc. (Tên họ là Iry, Margaret và Betty nhưng họ không xuất hiện trong chuyện này nhiều). Giáo sư tuổi đã già, rất già, tóc râu bờm xờm, bạc trắng cả trên mặt lẫn trên đầu và bọn trẻ đem lòng quý mến ông ngay lập tức. Nhưng vào cái buổi tối đầu tiên, khi ông đứng chờ đón chúng ở cửa trước, trông ông lạ đến nỗi Lucy (cô em út) cảm thấy hơi sờ sợ, còn Edmund (đứa áp út) thì lại buồn cười và nó phải giả tảng là đang hỉ mũi để che giấu điều này. Ngay sau khi chúc giáo sư ngủ ngon, bọn trẻ lên lầu ngủ đêm đầu tiên và bọn con trai đã kéo sang phòng con gái để tán chuyện. - Chúng ta đã đi đến nơi đến chốn. – Peter nói.- Mọi chuyện rồi sẽ tuyệt lắm đấy! Chà chà, ông già này sẽ để cho chúng ta muốn làm gì tùy thích. - Em nghĩ đấy là một ông già đáng mến!- Susan nói. - Ồ, đừng giở cái giọng ấy ra đi!- Edmund nói, nó đang mệt mà lại phải giả vờ là không mệt, điều này bao giờ cũng khiến nó trở nên cáu bẳn, khó chịu.- Đừng có tiếp tục cái kiểu ăn nói như thế. - Như thế là thế nào? – Susan hỏi.- Dù sao thì cũng đến giờ em đi ngủ rồi đấy. - Cứ làm như mẹ người ta ấy, Edmund dấm dẳn. – Chị là cái thớ gì mà bảo tôi đi ngủ? Chị đi ngủ đi! - Cả mấy anh em mình cùng đi ngủ không hơn sao?- Lucy hỏi.- Chắc chắn là lại cãi vã nếu chúng ta tiếp tục nói chuyện theo kiểu này. - Không, khoan hãy đi ngủ.- Peter nói.- Để anh bảo cho các em biết, đây là một kiểu gia đình không có ai để ý đến việc chúng ta làm đâu. Dù sao họ cũng không nghe thấy chúng ta đâu. Từ đây đi xuống phòng ăn cũng mất đến mười phút cùng với đủ loại cầu thang và hành lang. - Có tiếng động gì vậy?- Lucy giật mình lên tiếng. Đó là ngôi nhà lớn hơn bất cứ căn nhà nào mà nó đã thấy và ý nghĩ về tất cả những hành lang dài dằng dặc cùng một dãy các cánh cửa dẫn vào những căn phòng trống trải khiến nó cảm thấy hơn rờn rợn. - Chỉ là một con chim thôi, đồ ngốc,- Edmund nói. - Đó là một con cú, - Peter nói. – Đấy là một nơi tuyệt vời dành cho chim chóc. Anh đi ngủ đây. Anh nói thế đấy, hãy mở một cuộc thám hiểm nơi này vào sáng ngày mai. Các em có thể tìm thấy bất cứ cái gì ở một nơi như thế này. Có nhìn thấy những dãy núi trên đường chúng ta đi đến không? Còn những cánh rừng nữa? Có thể có đại bàng. Có thể có hươu đực. Sẽ có cả chim ưng nữa. - Và con lửng! – Lucy reo lên. - Cáo!- Edmund đế thêm. - Và thỏ nữa!- Susan nói. Nhưng sáng hôm sau chỉ có một cơn mưa dai dẳng, xám xịt làm thành một bức màn dày và khi nhìn qua cửa sổ bạn chẳng nhìn thấy núi, cũng chẳng nhìn thấy rừng cây thậm chí cả dòng suối chảy qua vườn cũng không. Mời các bạn đón đọc Sư Tử, Phù Thủy Và Cái Tủ Áo của tác giả C. S. Lewis.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bữa Cơm Ngày Mai Chúng Ta Cùng Chờ Đợi
“Nếu như có thể mở lòng, điều đó thật tốt biết bao Những cũng có những điều có lẽ đừng bao giờ nên biết.” Câu chuyện tình đắng cay ngọt ngào trong bảy năm giữa Ryota Hayama và Koharu Uemura từ ngày đầu tiên hẹn hò cho đến ngày họ kết hôn. Đều là học sinh trung học nhưng tính cách hai người hoàn toàn trái ngược nhau. Nếu Ryota là chàng trai trầm tính, gần như thờ ơ với mọi thứ xung quanh thì Koharu lại là cô gái thẳng thắn và tràn đầy năng lượng. Kể từ ngày hợp sức trong thử thách nhảy bao gạo, họ bắt đầu quen nhau. Họ hẹn hò ở quán ăn nhanh, nhận ra đã phải lòng đối phương ở một quán ăn gia đình và hẹn ước tình yêu bên bàn ăn với những bữa cơm bình dị mà ấm cúng. “Bữa cơm ngày mai chúng ta cùng chờ đợi là một bức tranh đẹp, một khúc nhạc êm êm vào buổi chiều nắng nhạt có những cánh hoa anh đào chao lượn trong tiếng nói cười. Ở đó chứa đựng những thanh âm trong trẻo của tuổi thanh xuân có ngập ngừng, có ngốc nghếch, tràn đầy mơ tưởng đan xen với đau buồn, cả ích kỷ lẫn thấu hiểu cùng hòa quyện để trưởng thành. Thật may vì đến cuối cùng chẳng điều gì lỡ dở, chẳng có ai lỗi hẹn với định mệnh của đời mình. Tôi đã nghĩ khi bộ phim khép lại rằng, yêu có thể mặn nồng, rạo rực nhưng yêu luôn là chốc lát, thương mới là cả một đời, là thứ có thể khiến hai người xa lạ thậm chí đối lập nhau vai kề vai đến cuối bến đỗ hạnh phúc – điểm cuối của tình yêu.” (Trích cảm nhận của độc giả @isissapphiremoon về cuốn sách ấn tượng này) *** Xuất bản lần đầu vào năm 2012 và tạo nên một cơn dư chấn lớn trong cộng đồng độc giả Nhật Bản bởi sự trong trẻo, ngây thơ và thuần khiết của mối tình đầu, Bữa cơm ngày mai chúng ta cùng chờ đợi xứng đáng được vinh danh là ấn phẩm xuất sắc nhất dành cho lứa tuổi thanh thiếu niên. Ngày 7/1/2017 – cuốn sách được chuyển thể thành phim điện ảnh cùng tên với sự tham gia diễn xuất của hai ngôi sao được giới trẻ yêu mến là Yuto Nakajima và Yuko Araki. *** Ngày tháng lặng lẽ trôi đi, ngờ như tôi đã có thể quên chuyện cũ. Vậy mà mỗi khi định khích lệ bản thân rằng mình đã ổn, thì những ngày tháng đó liền sống lại thật rõ nét trong tôi. Chia ly là điều không thể tránh khỏi trong cuộc đời. Điều đó đã được nhắc tới ra rả trong các bài hát, các bộ phim điện ảnh và phim truyền hình, không cần nói thêm tôi cũng hiểu. Nhưng việc chấp nhận một sự chia ly trái với mong muốn quả là một điều quá sức với tôi. Trên bầu trời xanh trong vắt nổi lên một cụm mây trắng yếu ớt. Trong lớp học đang tổ chức buổi họp quyết định việc tham gia các môn thi đấu trong ngày hội thể thao của trường. Những cuộc tranh chấp trong hòa bình xem ai sẽ tham gia môn nào trong các môn ném bóng vào rổ, kéo co, chạy tiếp sức v.v… mỗi lúc một mở rộng hơn. Tiếng oẳn tù tì, tiếng tranh giành, tiếng cười vang rộn. Lớp học ồn ào như chợ vỡ. Lúc này đây, đâu đó trên thế giới này đang có người chìm vào đau khổ. Nhưng ngày hội thể thao sẽ chẳng vì việc đó mà bị hủy bỏ. Dù có xảy ra chuyện gì, cuộc sống thường nhật ngu ngốc này vẫn cứ tiếp diễn thôi. “Này cậu.” Một giọng nói trong trẻo vang lên trên đầu tôi khi tôi đang mơ màng ngắm nhìn khung cảnh ngoài cửa sổ. “Xin lỗi đã chen ngang khi cậu đang thẩn thơ suy nghĩ như vậy…” Tôi ngẩng đầu lên thì thấy Uemura đang đứng trước mặt mình. “… Nhưng cậu có thể xác nhận giúp tớ điều này được không?” “Ừ, gì vậy?” “Vì cậu không có ý kiến gì nên đã được xếp vào nhóm nhảy bao gạo, không vấn đề gì chứ?” “Nhảy bao gạo ư?” Cụm từ thường ngày chẳng nghe thấy bao giờ khiến tôi ngơ ngác hỏi lại. “Năm ngoái cũng tổ chức phần thi này rồi, cậu không nhớ à? Trong môn thi ‘chạy tiếp sức kỳ diệu’ ấy. Phần chạy thứ ba sẽ là nhảy bao gạo.” Hội thể thao năm ngoái tôi tham gia môn ném bóng vào rổ, lúc đó tôi chơi rất chiếu lệ, chẳng buồn để mắt đến các môn khác. Vốn những cái tên như “chạy tiếp sức kỳ diệu” hay “nhảy bao gạo”, nghe thôi đã thấy ngớ ngẩn rồi. “Chỉ cần chui vào bao tải gạo, nhảy về phía trước năm mươi mét rồi trao tín gậy cho người chạy tiếp theo là được. Những môn khác đã chọn đủ các bạn tham gia rồi. Cậu đồng ý nhé?” Phải chui vào bao tải gạo và nhảy những năm mươi mét sao? Mệt chết mất. Thực lòng tôi thích những môn được hòa lẫn vào mọi người để không ai chú ý đến mình, như trò kéo co hoặc ném bóng vào rổ hơn. Nhưng hình như tôi chẳng còn cơ hội đòi hỏi nữa. Tôi lặng lẽ gật đầu. “Ok, vậy chốt rồi nha.” Uemura nói, rồi viết thêm tên tôi xuống dưới dòng chữ “nhảy bao gạo” trên bảng. Cho tới ngày hội thể thao, tiết Thể dục được dùng làm giờ luyện tập cho ngày thi. Môn chạy hay nhảy dây mới đáng luyện tập, còn trò nhảy bao gạo giống như trò chơi của con nít, có tập cũng chẳng để làm gì. Hơn nữa, nhiều bạn tham gia trò “chạy tiếp sức kỳ diệu” cũng đồng thời tham gia các trò khác, nên việc luyện tập cho trò này bị đẩy ra sau. Tôi bèn đi tìm một nơi râm mát trong góc sân tập, ngồi đó đợi tới lượt mình. Chuyện xảy ra đúng vào mùa thu ba năm trước. Mùa hè năm đó cũng giống mọi năm, mọi người đều ầm ĩ kêu nóng, trời đã sang thu nhưng vẫn chưa thoát khỏi cái nóng mùa hè, nóng hệt như bây giờ vậy. Lúc đó tôi học lớp chín, đang dốc sức luyện tập cho ngày hội thể thao cuối cùng của cấp hai. Khi ấy tôi là trưởng nhóm, phải tham gia vào mọi trận thi đấu ở mọi môn thi, tôi đà chạy cần mẫn hơn bất kỳ ai khác. Sự cố gắng của tôi rất có thế sẽ cứu nguy cho cả đội. Tôi đã thực sự ấp ủ trong lòng niềm hy vọng ngây thơ ấy. Rằng nếu tôi cố gắng, mọi chuyện sẽ chuyển biến theo hướng tốt hơn để đền đáp những cố gắng đó. Vì tôi không làm được gì khác, nên tôi muốn gắng hết sức để làm những việc ở ngay trước mắt mình. Giờ ngẫm lại, sự cố gắng của tôi hóa ra hoàn toàn vô nghĩa. Chẳng có điều gì trên thế giới này tốt lên nhờ hành động của tôi cả. “Xin lỗi vì chen ngang lúc cậu đang suy nghĩ vẩn vơ, nhưng chúng ta bắt đầu được chưa?” Ngẩng đầu lên, tôi thấy Uemura đang đứng đó với bao tải gạo trên tay. “À, ừ.” “Mình đi tập nào.” Tôi đứng lên nhìn xung quanh, có mấy đứa đang xỏ chân vào bao gạo tập nhảy, mấy đứa khác thì cột hai chân vào nhau theo kiếu hai người ba chân rồi nhảy dây. Có vẻ phần luyện tập cho trò “chạy tiếp sức kỳ diệu” đã bắt đầu. “Nào, cậu vào đây.” Uemura nói sau khi khéo léo chui nửa người vào bao. “Hả?” “Hả gì nữa, hai người cùng vào chung đó.” Uemura nói như thể chuyện hiển nhiên, nhưng tôi vẫn nhìn vào phía trong chiếc bao. “Cùng chui vào cái bao này á?” “Ừ. Cậu với tớ là cặp nam nữ duy nhất tham gia lần này.” Hẳn là cặp nam nữ duy nhất rồi. Bao tải gạo tuy to nhưng nếu chui vào thì co thể hai người sẽ dính sát vào nhau. Đương nhiên tôi không thể thoải mái khi chui vào đây cùng một cô gái nào đó được. “Tại sao hai chúng ta lại thành một cặp?” “Tại sao ư? Là vì tính cách của cậu rất u ám đó.” “U ám ư…?” “Thế nên không ai muốn ghép đôi với cậu cả. Người thì kêu nhảy với cậu sẽ bị tinh thần u ám của cậu ảnh hưởng, người thì kêu rất có thể hôm hội thể thao cậu nghỉ mất, nên mãi không chọn được bạn nào chịu ghép cặp với cậu. Vì tớ là ủy viên ban thể thao nên mới đành ghép cặp với cậu đấy.” Sau khi tuôn ra một tràng những sự thật tàn nhẫn đó, Uemura chợt ngẫm ra và nghiêng đầu hỏi: “Ôi, xin lỗi nhé, tớ không làm cậu tổn thương đấy chứ?” “À không sao. Tớ quen bị ghét rồi.” “Thế à? Kể cũng phải. Vì Hayama bị ghét suốt từ hồi lớp mười tới giờ mà.” Hả? Có chuyện đó à? Tôi muốn hỏi lại như vậy, nhưng may mắn giữ được vẻ thản nhiên, chỉ nói: “Xin lỗi nhé, làm phiền đến cậu rồi.” “Không sao, đừng để tâm. Nào, cậu nhanh vào đây đi.” Uemura nhích về phía trước chiếc bao, thúc giục tôi chui vào đứng phía sau. Tôi - một kẻ u ám và hình như luôn bị ghét từ trước tới giờ - chui vào chiếc bao tải, cố để cơ thể mình không chạm vào cô bạn Uemura - người đã miễn cưỡng ghép đôi với tôi trong phần thi này. Nhưng dù thế nào thì đó cũng là bên trong chiếc bao tải. Cơ thể chúng tôi sẽ cọ sát vào nhau, dù chúng tôi không muốn. “Chúng ta sẽ nhảy như thế này về tới đích. Cự ly phải nhảy là năm mươi mét, nhưng hôm nay là ngày tập đầu tiên, mình đặt mục tiêu mười mét thôi nhé.” Uemura đang giải thích về một môn thi đấu kỳ cục, nhưng tôi chẳng biết nói gì khác ngoài gật gù “Ừ, tớ hiểu rồi.” “Vậy bắt đầu nhé.” Nghe hiệu lệnh của Uemura, tôi cũng thử nhảy để tiến về phía trước, nhưng chiếc bao chỉ khẽ nhúc nhích rồi chệch sang một bên khiến chúng tôi mất thăng bằng chứ chẳng tiến lên được centimét nào. “Ừm, phải nhảy đồng thời thì mới tiến về phía trước được, nếu không, không những giậm chân tại chỗ mà còn bị ngã nữa, nên cậu phải bắt nhịp với tớ đấy.” Uemura nói, giọng xen lẫn tiếng thở dài. “Ừ.” “Nào, hai, ba!” Tôi nhảy theo lời ra hiệu của Uemura, nhưng bao gạo vẫn không tiến về phía trước. Bởi nó quá chật khiến tôi không nhúc nhích nổi. Mái đầu của Uemura cũng ở phía trước, ngay dưới cằm tôi, thật vướng víu, khiến ngay cả việc nhìn thẳng phía trước với tôi cũng thật khó khăn. “Cậu nhảy dài hơn chút đi. Nếu cơ thể không nhảy bổng lên thì bao gạo không tiến về phía trước được đâu.” “Ừ, tớ biết rồi.” Tôi thực muốn nói “Là lỗi của tớ chắc?”, nhưng vì chưa từng chui vào bao gạo hay bao rác để chơi trò này bao giờ nên tôi ngoan ngoãn nghe theo. “Thế thử lại lần nữa nhé. Hai, ba nào!” Uemura hô “hai, ba”, “hai, ba” mấy lần để thông báo thời điểm nhảy cho tôi biết. Tôi bèn bật nhảy theo tiếng hô đó. Dần dần chúng tôi không còn bị loạng choạng mất thăng bằng nữa, nhưng chẳng nhảy về phía trước được bao nhiêu. Các đôi nhảy bao gạo khác tuy vẫn trêu cười nhau nhưng cũng đã nhảy được về phía trước kha khá rồi. “Hayama này, chúng ta phải nhảy về phía trước, nên nếu cậu chỉ nhảy vống lên thì không được đâu. Phải nhớ nhảy về phía trước ấy.” Uemura ngoảnh đầu lại than phiền. “Tớ vẫn đang cố gắng mà.” “Vậy thử lại nhé. Nhớ nhảy về phía trước đấy. Hai, ba nào!” Ở trường học thi thoảng lại thản nhiên tổ chức mấy trò kỳ cục thế này. Các trò trong môn “chạy tiếp sức kỳ diệu” như nhảy dây hai người ba chân, hay cõng nhau đi qua ván thăng bằng đều chẳng cần thiết trong đời sống thực. Ngoài trò nhảy bao gạo, còn nhiều trò có các cặp chơi nam nữ, nhưng nghĩ sao vẫn thấy kỳ cục. Nếu tổ chức mấy trò này trong ngày hội văn nghệ ở các công ty, chắc chắn sẽ bị kiện vì quấy rối tình dục cho xem. “Các bạn nghỉ giải lao mười phút rồi chuyển sang tập kéo co và chạy tiếp sức theo nhóm. Nhớ uống nước đầy đủ đấy nhé.” Có tiếng thông báo tiết luyện tập kết thúc, tôi liền lập tức ra khỏi bao gạo. Cái nóng và sự vô lý của phần thi này khiến tôi chóng cả mặt. “Hả, đã hết giờ rồi à? Tụi mình còn chưa làm được tí nào.” Vừa càm ràm, Uemura vừa bước ra khỏi bao, nhìn thẳng vào mắt tôi. “Hayama này, không có giờ nghỉ cho cậu đâu đấy.” “Hả?” “Có thể cậu nghĩ mấy trò này thật ngớ ngẩn vô nghĩa, nhưng nếu cậu nghỉ thì sẽ chỉ còn mình tớ, không thể tập luyện được.” “Tớ hiểu mà.” Dù rất khổ sở nhưng tôi vẫn phải chui vào bao tải gạo tập nhảy. Cuộc sống thật là khắc nghiệt. Mời các bạn đón đọc Bữa Cơm Ngày Mai Chúng Ta Cùng Chờ Đợi của tác giả Maiko Seo & Vương Hải Yến (dịch).
Trí Nhớ Suy Tàn
Nhân vật của Trí nhớ suy tàn mơ hồ hơn rất nhiều sau từ "em", đó là chỗ mạnh của Nguyễn Bình Phương. Chẳng ai biết cô "em" sắp hai mươi sáu tuổi ấy tên là gì, làm việc ở cơ quan, nhưng cơ quan nào, công việc gì cũng chẳng rõ... Mối quan hệ giữa "em" với Tuấn và Vũ cũng mờ nhạt hơn mối quan hệ của "vous" với Henriette và Cécile... Chính sắc thái mù mờ có dụng ý kỹ thuật ấy - không loại trừ do "trí nhớ suy tàn" - tạo nên sức cuốn hút đông đảo bạn đọc nhập thân vào với "em". Thiếu gì những độc giả tiểu thuyết là các cô gái trạc tuổi như "em", có công ăn việc làm ở một cơ quan nào đó, có đủ loại bạn học ngày xưa, bạn bè hiện nay, có những chuyện linh tinh đời thường như "em", có những mối tình vui buồn, với những băn khoăn day dứt như "em"...Một truyện tiểu thuyết tình cảm Việt Nam đặc sắc của Nguyễn Bình Phương,(GS.Phùng Văn Tửu) *** Đây là tiểu thuyết thứ hai của Nguyễn Bình Phương đến với bạn đọc Pháp ngữ, sau cuốn “Thoạt kỳ thủy”. NXB Riveneuve, Pháp xuất bản cuốn Trí nhớ suy tàn cuối tháng 1 vừa qua. Tác phẩm do Emmanuel Poisson chuyển ngữ với tên Un autre ciel (Một bầu trời khác). Riveneuve giới thiệu cuốn tiểu thuyết là một trong những tác phẩm đặc trưng nhất của tác giả, người tiên phong của thế hệ viết văn mới. Đây là tác phẩm thứ hai của Nguyễn Bình Phương được xuất bản tại Pháp, sau Thoạt kỳ thủy (do Danh Thành dịch) năm 2014. Trí nhớ suy tàn là tiểu thuyết thứ năm, tác phẩm dung lượng ngắn nhất trong 9 tiểu thuyết đã xuất bản của Nguyễn Bình Phương. Tác phẩm ra mắt năm 2000 bởi NXB Thanh Niên, được tái bản bởi NXB Văn học (2006) và NXB Tổng Hợp (2013). Trí nhớ suy tàn được coi là tiểu thuyết đặc sắc của Nguyễn Bình Phương. GS Phùng Văn Tửu đánh giá về tác phẩm: “Nhân vật của Trí nhớ suy tàn mơ hồ hơn rất nhiều sau từ 'em', đó là chỗ mạnh của Nguyễn Bình Phương. Chẳng ai biết cô 'em' sắp hai mươi sáu tuổi ấy tên là gì, làm việc ở cơ quan, nhưng cơ quan nào, công việc gì cũng chẳng rõ...” Theo GS Phùng Văn Tửu, chính sắc thái mù mờ có dụng ý kỹ thuật ấy - không loại trừ do "trí nhớ suy tàn" - tạo nên sức cuốn hút đông đảo bạn đọc nhập thân vào với “em”. “Thiếu gì những độc giả tiểu thuyết là các cô gái trạc tuổi như ‘em’, có công ăn việc làm ở một cơ quan nào đó, có đủ loại bạn học ngày xưa, bạn bè hiện nay, có những chuyện linh tinh đời thường như 'em', có những mối tình vui buồn, với những băn khoăn day dứt như ‘em’”, Phùng Văn Tửu viết. PGS.TS Phùng Gia Thế đánh giá Trí nhớ suy tàn là những trang viết giàu chất thơ nhất của Nguyễn Bình Phương, thể hiện sinh động những vùng “hiện thực mờ”, vùng khuất lấp và cả sự thánh thiện trong cõi sâu thẳm mịt mù của con người. Nhà văn Nguyễn Bình Phương là một trong những cây bút cách tân hàng đầu của văn học Việt Nam hiện nay. 9 tiểu thuyết của ông đã được xuất bản gồm: Bả giời, Vào cõi, Những đứa trẻ chết già, Người đi vắng, Trí nhớ suy tàn, Thoạt kỳ thuỷ, Ngồi, Mình và họ, Kể xong rồi đi. Ông còn là tác giả của các tập thơ: Lam chướng, Khách của trần gian, Xa thân, Từ chết sang trời biếc, Thơ Nguyễn Bình Phương, Buổi câu hờ hững, Xa xăm gõ cửa. Nguyễn Bình Phương đang là Tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Quân đội - một tạp chí văn chương hàng đầu hiện nay. Dịch giả Emmanuel Poisson là Giáo sư Lịch sử Việt Nam tại Đại học Paris Diderot. Ông còn là nhà nghiên cứu, với công trình Quan và Lại ở miền Bắc Việt Nam. Bên cạnh đó, ông đã chuyển ngữ các tác phẩm của Phong Điệp, Nguyễn Việt Hà và một số tác giả Việt sang tiếng Pháp. *** Nguyễn Bình Phương, nguyên quán Hà Nội, sinh tại Thành phố Thái Nguyên. Tốt nghiệp trường Viết văn Nguyễn Du khóa IV. Từng đóng quân và làm báo tại biên giới phía Bắc, từng làm biên kịch tại Đoàn Kịch nói Quân đội, làm biên tập tại Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. Hiện công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Mời các bạn đón đọc Trí Nhớ Suy Tàn của tác giả Nguyễn Bình Phương.
Mùa Xuân Đen
Mùa Xuân Đen là một cuốn sách gồm mười truyện ngắn của nhà văn người Mỹ Henry Miller, được xuất bản năm 1936 bởi Obelisk Press ở Paris, Pháp. Black Spring là cuốn sách xuất bản thứ hai của Miller, sau Tropic of Cancer và trước Tropic of Capricorn. Cuốn sách được viết vào năm 1932-33 khi Miller đang sống ở Clichy, một vùng ngoại ô phía Tây Bắc của Paris. Giống như Tropic of Cancer, cuốn sách dành riêng cho Anaïs Nin. Black Spring được nhà xuất bản Obelisk Press ở Paris xuất bản vào năm 1936 nhưng không được xuất bản ở Hoa Kỳ cho đến năm 1963 do luật tục tĩu. Khi ấn bản “Black Cat” của Grove Press được phát hành, một số câu chuyện không bị coi là tục tĩu đã được xuất bản trong các tập khác của Miller như The Cosmological Eye, do New Directions xuất bản. Một số câu chuyện khác đã được xuất bản trên tạp chí New Directions hàng năm, New Directions trong Văn xuôi và Thơ. Miller, giống như các nhà phê bình của mình, có quan điểm cao về cuốn sách. Trong một bản ghi âm năm 1949, Miller nói: "Trong mười năm tôi sống ở Paris, chắc hẳn tôi đã viết được bảy hoặc tám cuốn sách. Cuốn này, Mùa xuân đen, tôi thích nhất trong tất cả những gì tôi viết trong khoảng thời gian đó. Đó là một giai đoạn tuyệt vời của cuộc đời tôi. Những năm 1932 và 33, sống bên ngoài Paris ở thị trấn Clichy, nơi tôi viết cuốn sách, tôi nghĩ là những năm tuyệt vời nhất trong cả cuộc đời tôi." Tập truyện gồm có:  Quê nhà yêu dấu Mùa xuân đen Chiều cuối tuần Tiệm thợ may Hắn Vào đời sống đêm Bọn hề Sa mạc người *** Henry Valentine Miller (26 tháng 12 năm 1891 - ngày 7 tháng 6 năm 1980) là một nhà văn người Mỹ, đã chuyển tới Paris khi ông phát triển đến đỉnh cao nhất của sự nghiệp. Ông được biết đến với việc phá vỡ các hình thức văn học hiện có và phát triển một thể loại mới của tiểu thuyết bán tự truyện trong đó ông pha trộn các nghiên cứu nhân vật, phê bình xã hội, phản ánh triết học, ngôn ngữ tả chân, tình dục, chủ nghĩa siêu thực, và chủ nghĩa thần bí. Tác phẩm kinh điển của ông về thể loại này là Tropic of Cancer, Black Spring, Tropic of Capricorn và bộ ba truyện The Rosy Crucifixion, với nội dung dựa vào kinh nghiệm sống của ông tại New York và Paris (tất cả đều bị cấm ở Hoa Kỳ cho đến năm 1961). Ông cũng đã viết hồi ký du lịch, phê bình văn học, và vẽ tranh màu nước. Miller được sinh ra tại nhà của gia đình ông, 450 East 85th Street, trong vùng Yorkville của Manhattan, thành phố New York. Ông là con trai của hai vợ chồng người Đức theo giáo hội Luther, Louise Marie (Neiting) và thợ may Heinrich Miller. Khi còn là một đứa trẻ, ông sống 9 năm tại 662 Đại lộ Driggs ở Williamsburg, Brooklyn, được biết đến tại thời điểm đó (và thường xuyên được nhắc đến trong các tác phẩm của ông) là Phường 14. Năm 1900, gia đình ông chuyển đến 1063 Decatur Street ở khu vực Bushwick của Brooklyn. Sau khi học xong tiểu học, mặc dù gia đình ông vẫn ở Bushwick, Miller theo học trường trung học Eastern District ở Williamsburg. Khi còn trẻ, ông đã hoạt động cho Đảng Xã hội chủ nghĩa Mỹ ("thần tượng kỳ quặc" của ông là nhà hoạt động xã hội đen Hubert Harrison). Miller theo học trường Cao đẳng Thành phố New York trong một học kỳ. Tác phẩm: Mùa Xuân Đen Thời Của Những Kẻ Giết Người Thế Giới Tính Dục ... Mời các bạn đón đọc Mùa Xuân Đen của tác giả Henry Miller.
Những Khẩu Pháo Ở Navarone
Ở thế kỷ 21 nước Mỹ tốt hay xấu, mạnh hay yếu, là siêu cường quốc duy nhất hay đang trên đà tan rã? Hậu Đế Chế, là cuốn tiểu luận của tác giả Emmanuel Todd – người viết cuốn Sự sụp đổ cuối cùng nổi tiếng năm 1976, trong đó dự đoán chính xác sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết. Tác giả cho rằng thế giới ngày nay có 2 cách nhìn về nước Mỹ. Cách thứ nhất là: Xấu xa, áp bức, phát xít, giả dối vàkhông đóng góp vào hòa bình của nhân loại. Cách thứ hai: Cho Mỹ là siêu cường duy nhất đang thống trị toàn cầu. Theo tác giả, cả 2 cách nhìn này đều cực đoan, thiên lệnh… Với con mắt chính trị sắc bén, tác giả khẳng định chính chiến lược tự cho mình là cường quốc duy nhất đã biến Mỹ thành trở ngại và mối đe dọa với nền hòa bình nhân loại. … *** Les Canons De Navarone Năm 1944, trong quần đảo Hy Lạp, một cuộc chiến đấu không khoan nhượng diễn ra giữa toán biệt động Anh và đội quân trú phòng tiền phương của Phát xít Đức . Ở Navarone, quân đội Đức đã thiết lập một pháo đài thép vô cùng kiên cố để kiểm soát sự lưu thông trên eo biển trọng yếu. Một toán biệt động Anh đã được thành lập với sứ mạng : đổ bộ lên một điểm của hòn đảo nổi tiếng bất khả xâm nhập và vô hiệu hóa hai khẩu đại bác ở Navarone. Nhóm ít người này dấn thân vào một cuộc chiến ác liệt. Họ chiến đấu đến tận cùng sức lực ... CHƯƠNG MỘT CHỦ NHẬT 1g – 9g Que diêm được quẹt mạnh vào vách rỉ sét của căn nhà có mái tôn lượn sóng, kêu soẹt và bật cháy, ánh sáng lập lòe trong im lặng và bóng tối của màn đêm. Mallory đưa mắt nhìn theo ánh lửa đang được châm vào điếu thuốc nhô ra dưới hàm râu tua tủa như bàn chải đánh răng của viên thiếu tướng, rọi sáng luôn khuôn mặt bất động của một người đàn ông đứng cách đó vài phân, với tia nhìn đăm đăm, cuốn hút vào câu chuyện. Ánh lửa tắt ngúm, que diêm bị chà đạp trên cát của sân bay. - Tôi nghe thấy họ, thiếu tướng khẽ nói. Tôi nghe họ đang tới. Trong năm phút nữa, không lâu hơn. Tối nay, trời im gió, họ sẽ hạ cánh trên đường bay số 2. Chúng ta hãy tới chờ họ trong phòng họp báo. Ông ngưng nói, ném về phía Mallory một cái nhìn hóm hỉnh và có vẻ mỉm cười. Nhưng giọng ông không được chút gì vui: - Này chàng trai, hãy chế ngự nóng nảy. Chỉ thời gian ngắn nữa thôi, anh sẽ nhận tất cả những câu trả lời đang mong đợi, và tôi e rằng còn hơi sớm đấy. Bất ngờ, viên thiếu tướng bước ra, về hướng dãy nhà to lớn lù lù ở đường chân trời đen nhạt. Mallory nhún vai, đi theo ông nhưng không bước chậm hơn, cùng với người thứ ba của nhóm, một nhân vật béo lùn đi núng nính nhưng rất gọn. Mallory nghĩ thầm Jensen hẳn phải khổ luyện mới có được dáng đi kiểu thủy quân như thế. Ông ta ở ba mươi năm trong nghề mà, nhưng đó chưa phải là vấn đề. Với chức vụ trưởng phòng 3 đặc trách những "Điệp vụ phá hoại" (S.O.E) 1 ở Caire 2 , hải quân đại tá James Jensen đã xuất sắc thành công và được tưởng thưởng Huân chương Công vụ Đặc biệt của Hải quân Hoàng gia. Đa mưu, giỏi nghi binh, tài bắt chước, hóa trang như thật, đều là "nghề" của chàng. Đã từng "quậy" ở các xứ phương Đông, từ Alexandrette 3 đến Alexandrie 4 , chinh phục sự nể nang của những người thợ ở các xưởng đóng tàu, cỡi lạc đà còn thành thạo hơn bọn cướp biển sa mạc, thân thể chằng chịt những vết thẹo không ai sánh kịp kể cả bọn ăn mày ghẻ lở ở các chợ trời phương Đông. Vậy mà tối nay, Jensen chỉ là một sĩ quan hải quân giản dị với vẻ mặt không vui. Bộ quân phục hoàn toàn trắng toát từ chóp mũ xuống tới đôi giày. Chỉ có lon đại tá óng ánh trên hai cầu vai và trên vành nón. Bước chân họ nhịp đều trên cát và sau đó nện vang rền trên xi-măng của đường ra phi đạo. Hai người đi sau hầu như mất hút bóng thiếu tướng. Mallory chợt quay sang Jensen. - Thưa Đại tá, như vậy có nghĩa gì? Tại sao mọi việc lại bí mật? Tại sao tôi phải có mặt ở đây? Lạy Chúa tốt lành! Mới hôm nào đây người ta "bốc" tôi ra khỏi đảo Crète 5 và chỉ báo trước có tám tiếng. Họ nói tôi được đi phép một tháng, và bây giờ thì… có mặt ở đây! - Rồi sao nữa? Jensen hỏi. - Còn sao nữa! Chẳng có nghỉ phép gì ráo trọi! Mallory nói bằng vẻ cay đắng. Không có lấy một đêm được ngủ. Chỉ có những giờ và những giờ trong văn phòng sở chỉ huy để trả lời hàng đống câu hỏi ngu xuẩn về leo núi Alpes 6 phía nam. Kế đó, họ lôi tôi ra khỏi giường ngủ với lệnh đi gặp Đại tá. Sau đó là những giờ xuyên qua sa mạc quỉ quái trong chiếc xe do một người Xcốt-len điên khùng vừa lái vừa hát những bài nồng nặc mùi rượu và đã hỏi tôi hàng trăm câu hỏi còn ngu xuẩn hơn nữa! - Hắn là một trong những nhân viên ưu tú nhất của tôi cải trang đấy. Theo tôi, đó là cuộc hành trình thú vị! - Một trong những… Mallory ấp úng không nói hết câu, lo lắng khi nghĩ tới những điều đã nói với viên đại úy già người Xcốt-len có râu mép lái xe. - Tôi… tôi xin Đại tá tha lỗi. Tôi thật không ngờ… - Dĩ nhiên, anh không được biết gì cả, Jensen ngắt lời. Tôi chỉ muốn trắc nghiệm xem anh có xứng đáng là người được chỉ định công tác này hay không. Trước khi "bốc" anh ra khỏi đảo Crète, tôi đã chắc rằng anh đủ khả năng, và qua thử thách vừa rồi, tôi lại càng thấy mình có lý. Nhưng tôi không hiểu anh nghĩ sao mà lại tin rằng được đi phép. Người ta thường hiểu sai ý tốt của cơ quan "Điệp vụ phá hoại" (S.O.E) nhưng dù sao cơ quan chúng tôi cũng không điên khùng đến nỗi trưng dụng nguyên một chiếc phi cơ cho các sĩ quan thuộc cấp nghỉ phép một tháng ở thủ đô của Ai Cập. - Tôi cũng chưa hiểu ý Đại tá… - Hãy kiên nhẫn, chàng trai, kiên nhẫn theo lời khuyên vừa rồi của ngài Thiếu tướng đáng kính của chúng ta. Thời gian bất tận. Chờ đợi và mãi mãi chờ đợi, đó là cuộc sống ở phương Đông. - Tổng cộng chỉ ngủ được có bốn giờ trong ba ngày như vậy còn chưa đủ sao? Mallory lầm bầm rủa thầm… A! Họ tới rồi! Cả hai chớp mắt liên hồi trước ánh sáng chói lóa của những đèn chiếu sáng phi đạo cho máy bay hạ cánh. Không đầy một phút, chiếc phóng pháo cơ dừng lại nặng nhọc, vụng về ngay gần họ. Thân máy bay màu xám và cánh bom lỗ chỗ những vết đạn kể cả đạn đại bác, một đầu cánh bị rách rời và động cơ ngoài bên trái ngưng hoạt động, dầu rỉ ra. Tấm kính của phòng lái thủng bể khoảng mười hai lỗ. Jensen chăm chú nhìn khá lâu những lỗ thủng và những vết thương chi chít của chiếc máy bay oanh tạc bị hư hại nặng, kế đó ông lắc đầu và quay mặt đi. - Đại úy Mallory, ông dịu dàng nói, anh than phiền chỉ được ngủ bốn tiếng, bây giờ tôi bắt đầu thấy anh là kẻ may mắn đã được ngủ trong thời buổi này. ° ° ° Gian phòng họp báo ít tiện nghi và thiếu thoáng khí được chiếu sáng bởi hai bóng đèn cực mạnh, Đồ đạc chỉ gồm vài tấm bản đồ sờn rách treo tường, khoảng gần hai chục cái ghế cũ mòn và một cái bàn bằng gỗ trắng. Viên thiếu tướng ngồi ở giữa đại tá Jensen và đại úy Mallory. Cửa phòng mở và những phi công đầu tiên bước vào, chớp mắt dưới ánh sáng cao độ. Dẫn đầu đoàn là một viên phi công tóc đen, vóc người to lớn, tay trái ôm nón và bộ đồ bay. Hàng chữ "Australie" 7 màu trắng nổi bật phía trên phù hiệu bên vai bộ kaki và trên hai nắp túi ở ngực. Anh chàng nhíu lông mày, im lặng ngồi xuống không cần xin phép, trước mặt ba vị sĩ quan, móc ra bao thuốc lá và quẹt diêm. Mallory lén nhìn thiếu tướng, nhưng ông có vẻ chịu đựng, giọng nói cũng thế. - Giới thiệu với các ông: đây là Thiếu tá không quân Bill Torrance. Và thiếu tướng nói thêm tuy hơi thừa: - Torrance là người Úc. Mallory có cảm tưởng ông hy vọng giải thích đôi điều về thái độ của thiếu tá Torrance… - Torrance đã chỉ huy một phi đội tấn công Navarone. Này Bill, các ông đây là hải quân đại tá Jensen, thuộc Hải quân Hoàng gia, và đại úy Mallory thuộc Viễn đoàn Xung kích Sa mạc 8] đều đặc biệt chú tâm đến Navarone. Thế nào Bill? Tối nay "làm ăn " ra sao? Mallory thầm nghĩ: "Navaron! Thì ra vì mày mà ta hiện diện ở đây" Anh chàng khá rõ về Navarone hay đúng hơn đã nghe nói đến như tất cả những ai từng phục vụ miền đông Địa Trung Hải. Nó là một pháo đài thép bất khả xâm phạm, ở ngoài khơi bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ, được bảo vệ kiên cố, theo ước lượng, bởi một đơn vị quân trú phòng hỗn hợp Đức và Ý, được xây dựng trên một hòn đảo của biển Egée 8 nơi đó quân Đồng minh hoàn toàn không tấn công nổi. Mời các bạn đón đọc Những Khẩu Pháo Ở Navarone của tác giả Alistair MacLean.