Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

PDF KIM VÂN KIỀU TRUYỆN (1875) - TRƯƠNG VĨNH KÝ - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ

Năm 1875, hơn nửa thế kỷ sau khi Nguyễn Du mất, Trương Vĩnh Ký (1837-1898) đã xuất bản quyển “Kim, Vân, Kiều truyện” quốc ngữ. Đây là quyển truyện Kiều chuyển từ chữ Nôm (nho, nhu) sang “quốc ngữ” đầu tiên trong văn học Việt Nam. Không thấy ông Ký nói đã chuyển ngữ Kiều từ bản in nào. Trong lời tựa bằng tiếng Pháp, ông Ký chỉ ghi, đây là truyện thơ mà “mọi người đều thuộc lòng, bất kể là trẻ già hay trai gái”. Mọi người là những ai? Thuộc giai tầng nào? Chắc rằng, không phải là những người thuộc tầng lớp ăn trên ngồi chốc trong xã hội thời bấy giờ. ... "Không thể so sánh với văn chương khắp các nước, ta hẵng so sánh với văn chương hai nước có liền tiếp quan hệ với ta, là văn chương Tàu và văn chương Pháp. Văn chương Tàu thật là mông mênh bát ngát, như bể như rừng. Nhưng trong rừng văn bể sách đó, tưởng cũng ít quyển sánh được với truyện Kiều, mà xét cho kỹ có lẽ không có sách nào giống như truyện Kiều. Gốc truyện tuy do một bộ tiểu thuyết Tàu mà ra, nhưng vào tay Cụ Tiên điền ta biến hóa hẳn, siêu việt ra ngoài cả lề lối văn chương Tàu, đột ngột như một ngọn cô phong ở giữa đám quần sơn vạn hác vậy. Có người sánh truyện Kiều với Li-tao, nhưng Li-tao là một bài than, từ đầu đến cuối toàn một giọng bi đát thảm thương, so với Cung-oán của ta có lẽ đúng hơn. Có người lại sánh với Tây-xương, nhưng Tây-xương là một bản hát, từ điệu có véo von, thanh âm có réo rắt, nhưng chẳng qua là một mớ ca từ cho bọn con hát, không phải là một nền văn chương chân chính. Cứ thực thì truyện Kiều dẫu là đầm thấm cái tinh thần của văn hóa Tàu, dẫu là dung hòa những tài liệu của văn chương Tàu, mà có một cái đặc sắc văn chương Tàu không có. Cái đặc sắc ấy là sự "kết cấu". Nhà văn, nhà thơ Tàu, ngoài những bài thơ bài văn nho nhỏ ngăn ngắn, phàm làm sách chỉ biết cách biên tập, không sành cách kết cấu. Biên tập là cóp nhặt mà đặt liền lại; kết cấu là thu xếp mà gây dựng lên, thế nào cho thành một cái toàn bức các bộ phận điều hòa thích hợp với nhau, không thêm bớt được chút nào. Truyện Kiều là một cái toàn bức như thế, mà là một bức tranh thế thái nhân tình vẽ sự đời như cái gương tầy liếp vậy. Xét về cách kết cấu thì văn chương nước Pháp lại là sở trường lắm. Cho nên truyện Kiều có thể sánh với những áng thi văn kiệt tác của quí quốc, như một bài bi kịch của Racine hay một bài văn tế của Bossuet vậy. Đó là nói về cái thể tài văn chương. Còn về đường tinh thần thời trong văn học Pháp có hai cái tinh thần khác nhau, là tinh thần cổ điển và tinh thần lãng mạn. Tinh thần cổ điển là trọng sự lề lối, sự phép tắc; tinh thần lãng mạn là trong sự khoáng đãng, sự li kỳ. Truyện Kiều gồm được cả hai cái tinh thần ấy, vì vừa có cái đạo vị thâm trầm của Phật học, vừa có cái nghĩa lý sáng sủa của Nho học, vừa có cái phong thú tiêu dao của Trang Lão, lấy lẽ phải ông Khổng mà chế lại sự thần bí của nhà chùa, sự khoáng dật của hai họ. Nhưng mà ngay trong văn chương nước Pháp tưởng cũng không có sách nào giống hẳn như truyện Kiều, vì truyện Kiều có một cái đặc sắc mà những nền kiệt tác trong văn chương Pháp không có. Đặc sắc ấy là sự "phổ thông". Phàm đại văn chương, không những ở nước Pháp, ở nước nào cũng vậy, chỉ có những người thượng lưu học thức mới thưởng giám được, kẻ bình dân không biết tới. Người Pháp không phải là ai ai cũng biết đọc kịch Racine hay là đọc văn Bossuet. Nhưng Người Nam thời ai ai cũng biết ngâm Kiều, kể Kiều, "lẩy" Kiều để ứng dụng trong sự ngôn ngữ thường, kẻ thông minh hiểu cách thâm trầm, kẻ tầm thường hiểu cách thô thiển, nhưng ngâm nga lên thảy đều lấy làm vui tai, sướng miệng, khoái trí, tỉnh hồn. Thử hỏi cổ kim Đông Tây đã có một áng văn chương nào cảm người được sâu và được rộng như thế chưa. Tưởng dễ chỉ có một truyện Kiều ta là có thể tự cao với thế giới là văn chương chung của cả một dân tộc 18, 20 triệu người, già, trẻ, lớn, bé, giỏi, dốt, sang, hèn, đều thuộc lòng và đều biết hay cả." Trích: Phạm Quỳnh diễn thuyết về Nguyễn Du và Kiều (1924)

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Phụ Nữ Với Gia Đình
Phụ nữ với gia-đình có một mối liên- lạc vô-hình và bền-chặt. Gia-đình là nền tảng của quốc-gia. Người nội-tướng hẳn phải có trách- nhiệm nặng-nề. Đàn trẻ con, quốc-gia sau này, nhờ các bà mà trở nên khá giả. Gần đây, những phong-trào đuổi theo vật chất, sa-xỉ, đã biến-hoại óc phụ-nữ và chực đẩy họ ra ngoài gia-đình. Chị em tưởng nhảy ra làm việc xã-hội, sống tự do, rồi định lập hội giải-phóng, vận-động bình-quyền....Phụ Nữ Với Gia ĐìnhNXB Đời Mới 1943Dũng Kim212 TrangFile PDF-SCAN
PDF 300 lời giải đáp về luyện Khí công để chữa bệnh - Mã Tế Nhân
Khí Công là một phép luyện trị bệnh, tự thân tâm mình rèn luyện không cần phải uống thuốc, mà có công hiệu ngừa bệnh trị bệnh, giữ được sức khỏe, tăng thọ, ích trí, nó đã có thể là một tiết tấu sinh hoạt, điều tiết được mọi sự căng thẳng, lại có thể nâng cao được hiệu suất công tác. Điều này càng làm cho khí công được nhiều người ưa thích.Công pháp Khí công rất phong phú về yêu cầu và hiệu quả thu hoạch của mỗi loại công pháp đều khác nhau. Những người bị bệnh mạn tính, muốn thông qua rèn luyện Khí công để tự chữa bệnh, thường là sẽ sinh ra nhiều vấn đề, từ chọn lựa công pháp tới chính xác nắm vững được công pháp, từ phản ứng có được hay không, cho đến làm thế nào củng cố được công hiệu chữa trị, từ hiểu rõ khái quát về Khí công cho tới lựa chọn học tập đề cao được công pháp, để tiến tới việc tăng cường thể chất... Đó là những vấn đề mà mọi người muốn được giải đáp rõ ràng và cách chỉ đạo chính xác!Cuốn sách này ra đời chính là để đáp ứng nhu cầu đó của những ai yêu thích và quan tâm đến Khí công. Nội dung sách lấy việc giản minh chính xác và thực dụng có công hiệu làm đặc điểm. Nó chẳng những giúp cho người mới học tiến bước vào cửa Khí công, mà còn thích hợp với mọi người ưa thích Khí công và chỉ đạo Khí công! Tuy chưa giải đáp được thật đầy đủ mọi vấn đề Khí công, song có thể giúp ích cho bạn phần nào về sự hiểu biết và thực hành!Mã Tế Nhân
THỜI CỦA THÁNH THẦN - HOÀNG MINH TƯỜNG - TẢI SÁCH PDF MIỄN PHÍ
Thời của thánh thần là một tiểu thuyết của nhà văn Hoàng Minh Tường xuất bản vào tháng 8 năm 2008. Sách dày 650 trang, chia làm hai phần với 29 chương, do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành. Cuốn sách đề cập đến vấn đề trong xã hội Việt Nam trong thời kỳ từ Cách mạng Tháng Tám 1945 đến thời kỳ hội nhập hiện nay, như cải cách ruộng đất, nhân văn giai phẩm, thống nhất đất nước, di tản, hòa hợp dân tộc... thông qua số phận của một gia đình.Ngay sau khi phát hành trong tháng 8 năm 2008, sách đã bị thu hồi.Tiểu thuyết này viết về những số phận khác nhau của những con người trong một gia đình có truyền thống khoa bảng ở một làng quê châu thổ sông Hồng. Bốn anh em trai nhà họ Nguyễn Kỳ là Khôi, Vĩ, Vọng, Quặc (ba người con đẻ, một con nuôi), sau Cách mạng tháng Tám 1945, mỗi người đi xa một ngả.Sau đó, có người trở thành cán bộ lãnh đạo; có người là nhà thơ nhưng bị quy là thành phần phản động, theo nhóm Nhân văn Giai phẩm, thuộc hàng ngũ xét lại; có người lại di cư vào Nam rồi đi di tản sang Mỹ; người thì ở nhà cày ruộng... "Ba thế hệ của một gia đình, từ ông Lý Phúc, đến bốn người con trai của ông, rồi đến những đứa cháu của ông đã vật vã trên nửa thế kỉ của đất nước trong cơn gió bụi và cuộc bể dâu. Dòng xoáy khốc liệt suốt hai cuộc chiến tranh đã cuốn họ đi, nhào nặn nên tính cách và số phận của họ."Toàn bộ các sự kiện lớn của đất nước, bao gồm Cải cách ruộng đất; đấu tranh chống Nhân văn Giai phẩm, chống Xét lại; Giải phóng miền Nam - Thống nhất đất nước; đến hoà hợp dân tộc... những vấn đề cốt lõi ấy, được xem xét và đánh giá qua những số phận mấy đời chìm nổi của một gia đình đều được tái hiện thông qua số phận của gia đình và những người con, cùng như những người có liên quan.
Đinh Tiên Hoàng PDF (NXB Nhật Nam 1929) - Nguyễn Tử Siêu
Đinh Tiên Hoàng (Đinh Bộ Lĩnh 968-979) Đinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (Hoa Lư, Ninh Bình), con trai ông Đinh Công Trứ, một nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử Châu Hoan. Cha mất sớm, Đinh Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở, thường đi chăn trâu, bắt lũ trẻ khoanh tay làm kiệu để ngồi cho chúng rước và lấy bông lau làm cờ bày trận giả đánh nhau. Lớn lên rất thông minh, có khí phách và có tài thao lược. Thấy nhân dân khổ sở vì loạn 12 sứ quân, Ông dựng cờ nghĩa, mong lập nghiệp lớn. Đinh Bộ Lĩnh theo về dưới cờ của Trần Minh Công (Trần Lãm) ở Bố Hải Khẩu, được Trần Lãm nhận làm con nuôi. Khi Trần Lãm mất, Đinh Bộ Lĩnh thay quyền đem quân về giữ Hoa Lư, chiêu mộ hào kiệt để dẹp loạn 12 sứ quân. Năm Mậu Thìn (968) sau khi dẹp xong loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu là Tiên Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.Đinh Tiên HoàngNXB Nhật Nam 1929Nguyễn Tử Siêu88 TrangFile PDF-SCAN