Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kiếm Sống - Maxim Gorky

K iếm sống[1] là phần hai trong tác phẩm bộ ba tự thuật[2] của M. Gorky, miêu tả thời niên thiếu của cậu bé Alyosha Peskov, tức Gorky, từ năm 1878 đến năm 1884. Trong phần đầu, M. Gorky đã kết thúc Thời thơ ấu của mình bằng những dòng chua chát: “Sau khi chôn cất mẹ tôi được vài ngày, ông ngoại bảo tôi: - Này Leksei, mày không phải là cái mề đay, mày không thể lủng lẳng mãi trên cổ tao, mày hãy đi ra đời mà kiếm sống… Và thế là tôi bước vào đời.” Mới mười tuổi đầu, cậu bé mồ côi Alyosha đã bắt đầu ở với người đời, tìm hiểu cuộc sống và đấu tranh để tìm ra lối thoát cho mình. Giai đoạn này đã hình thành mối quan hệ mới của Alyosha với con người và thế giới xung quanh. Bước vào đời để kiếm sống, Alyosha luôn va chạm với sự hèn hạ, tồi tệ của bọn “tiểu thị dân”, những kẻ luôn tự cho mình là “ưu việt nhất thành phố”, họ tưởng rằng họ “biết những phép cư xử đúng đắn nhất và dựa trên những phép tắc mù mờ đối với tôi đó mà kết tội mọi người một cách tàn nhẫn, không thương tiếc”. Những kẻ này thường có thái độ ganh tị, ghen ghét với điều tốt đẹp ở những người mà họ không sao hiểu nổi. Để biện bạch cho cuộc sống nhỏ nhen và nghèo nàn, khiến nó tăng thêm cái vẻ quan trọng bề ngoài, họ, giống như ông lão Kashmirin keo kiệt, hung dữ hay bà già Matryona độc ác, ích kỉ, luôn luôn lôi kéo Chúa vào những việc tẹp nhẹp buồn tẻ của mình, biến Chúa thành một sức mạnh trừng phạt mù quáng để bảo vệ cho tội lỗi và lợi ích cá nhân… Alyosha càng ngày càng thấy rõ mặt trái của cuộc sống, thấy những sự nhục mạ nhân cách, những lao động vô nghĩa, khổ sai. Lúc ấy, theo như lời Gorky kể, cuộc sống của Alyosha như vĩnh viễn bị quy định một cách chặt chẽ trong các hình thức và các mối quan hệ mà Alyosha trông thấy ngày này qua ngày khác, mỗi ngày một buồn tẻ, gay gắt hơn, khiến khó mà nghĩ tới khả năng thay đổi, làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn. Nhưng khi ấy, sách vở – kho tàng tư tưởng sáng tạo của con người – đã tới giúp Alyosha. Những tác phẩm của các nhà văn Nga ưu tú, của các tác giả nước ngoài như Walter Scott, Dickens… đã giúp cậu hiểu được rất nhiều điều mà trước đó cậu vẫn băn khoăn. Sách vở đã giúp Alyosha khắc phục tâm trạng bối rối, mất niềm tin vào con người. Mỗi cuốn sách hay như mở ra trước mắt Alyosha một cánh cửa sổ hướng về thế giới mới mẻ mà cậu bé chưa từng biết, chưa từng thấy. Càng đọc nhiều sách, Alyosha càng thấy gần gũi với thế giới hơn, cuộc sống đối với cậu càng sáng sủa, có ý nghĩa hơn. Sau này, Gorky nhớ lại: “Sách vở đã chỉ cho tôi chỗ đứng của mình trong cuộc sống, nói cho tôi biết rằng con người thật vĩ đại và đẹp đẽ, luôn hướng về cái tốt đẹp hơn, rằng con người đã gây ra nhiều chuyện trên trái đất và vì thế mà họ phải chịu biết bao đau khổ.”[3] Một nhân vật trong Kiếm sống là Jikharev đã nói với Alyosha với vẻ đồng tình: “Cháu không có thái độ dửng dưng mà luôn tập trung vào công việc. Cháu cứ nên như thế mãi, điều đó rất tốt!” Alyosha đã dũng cảm lao vào cuộc sống, dũng cảm “bước vào đời” mặc dù nhiều khi va chạm phải mặt trái xấu xa ghê tởm của nó. Gorky viết: “Trong tôi có hai con người: Một người sau khi đã biết quá nhiều điều ghê tởm và bẩn thỉu, trở nên sợ hãi cuộc sống, nản lòng bởi hiểu quá rõ các chuyện khủng khiếp xảy ra hằng ngày. Người ấy bắt đầu nhìn cuộc sống, nhìn mọi người với thái độ thiếu tin tưởng và hoài nghi, thương hại một cách bất lực cả bản thân và những người xung quanh. Con người ấy mơ ước một cuộc sống cô độc, yên tĩnh, chỉ có sách vở, không dính líu đến ai, mơ về một tu viện, một chòi canh trong rừng, một vọng gác đường sắt, mơ được đến Ba Tư, được đảm nhiệm cương vị một người gác đêm ở ngoại ô thành phố. Càng ít người càng tốt, càng tránh xa con người càng tốt… Còn người kia được nuôi dưỡng bằng ý chí thiêng liêng của các cuốn sách hay và sâu sắc, mỗi khi cảm thấy sức mạnh của những điều khủng khiếp xảy ra hằng ngày kia có thể dễ dàng đè bẹp mình, làm nhơ bẩn trái tim mình, nên cố sức tự vệ, cắn chặt răng, siết chặt nắm đấm, luôn sẵn sàng xông vào bất kì cuộc tranh cãi và trận chiến đấu nào. Con người này giàu tình yêu thương, và giống như những nhân vật dũng cảm trong các cuốn tiểu thuyết Pháp, chỉ cần đến câu thứ ba là đã rút ngay gươm ra khỏi bao và sẵn sàng chiến đấu.” Trên bước đường kiếm sống, Alyosha đã gặp và sống với những người lao động bình thường: thợ mộc, thợ nề, thợ làm tượng thánh, phu khuân vác… và cả các nghệ sĩ, nhà thơ, nhà triết học… Mỗi người đều cần thiết và quan trọng đối với Alyosha, giúp tâm hồn cậu thêm phong phú, khiến cậu trở nên mạnh mẽ, khôn ngoan, có đủ nghị lực đương đầu với những khó khăn trong cuộc sống. Trong quá trình tiếp xúc với những người này, tính cách của Alyosha dần dần hình thành. Bác đầu bếp Smouri, một trong những “người thầy” của Alyosha, một người vốn nghiêm nghị và thích cô độc, có tâm hồn hiền hậu và tấm lòng công bằng, cao thượng. Khi Alyosha đọc cho bác nghe chuyện Taras Bulba của Gogol, tới cảnh cái chết của vị thủ lĩnh Cossack thì Smouri, người mà tất cả mọi người trên tàu đều sợ, đã khóc nức nở. Chính nhờ cuộc gặp gỡ với Smouri mà Alyosha bắt đầu say mê đọc sách. Càng tiếp xúc với những người Nga bình thường, càng tìm hiểu họ sâu hơn, Alyosha càng thấy “những người chủ” là tầm thường, tẻ nhạt, thế giới của họ hóa ra không bền vững và chắc chắn như cậu tưởng. Alyosha đã trải qua cả một “trường học đường đời” khi làm việc ở xưởng làm tượng thánh. Những người thợ trong xưởng mà Alyosha tiếp xúc là những người có tinh thần ham hiểu biết, có tâm hồn phong phú và có tài năng. Ở mỗi người, Alyosha đều cảm thấy họ thực sự hiểu biết cuộc sống và nghệ thuật. Những người đó tuy sống tù túng trong xưởng nhưng vẫn đầy lòng cao thượng, sức mạnh và vẻ đẹp. Không phải vô cớ khi kể về Sitanov, Gorky nhắc rằng trong anh hình như có một cái gì giống với “nhà quý tộc Tây Ban Nha”, nhân vật mà Sitanov yêu thích hơn cả. Đặc biệt, Jikharev đã khiến Alyosha rất đỗi ngạc nhiên; đó là một nghệ sĩ nhân dân, một người bị giày vò vì khát vọng hiểu biết và sáng tác tự do. “Chúng ta biết được những gì? Chúng ta sống thật quá tầm thường… Còn đâu là tâm hồn? Tâm hồn ở đâu rồi? Nguyên bản thì có đấy; nhưng trái tim thì không…” Alyosha lo lắng và vui mừng nghe những lời lạ tai ấy của Jikharev. Những người này càng ngày càng nhận thức rõ sự bất công, vô nghĩa của thứ lao động cưỡng bách. Họ bị dồn vào cảnh lao động kiệt sức và đơn điệu, mất hết niềm vui và phúc lợi ở đời. Họ thèm muốn ánh sáng, tri thức, cái đẹp. Những cuốn sách mà Alyosha đọc đã khiến họ say mê, rung động. Khi Alyosha đọc tập thơ Con quỷ của Lermontov, những người này khiến cậu hết sức ngạc nhiên bởi khả năng thụ cảm nghệ thuật rất tinh vi và sâu sắc của họ. Qua những năm sống phiêu bạt ấy, trong Alyosha nảy sinh tình yêu mạnh mẽ với con người, thứ tình yêu mà cậu sẽ mang suốt đời. “Chú được cái tốt là đối với ai chú cũng coi như họ hàng thân thích cả, cái đó rất tốt!” Kapendiukhin đã nói với Alyosha như vậy. Alyosha luôn có mặt trên con đường đi tìm chân lí, mục đích cuộc sống, đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi vẫn giày vò cậu: “Làm thế nào để giúp đỡ mọi người?” Đối với Alyosha, việc tìm hiểu ông lão thợ mộc Osip là một điều “hết sức cần thiết”. Tính tình phức tạp của Osip giúp cho Alyosha hiểu được bản chất mâu thuẫn của nông dân (Về Osip, năm 1897 Gorky đã viết trong truyện ngắn Vanka Mazin và năm 1912 trong truyện ngắn Băng chuyển). Alyosha biết tìm ở mọi người những điều cần thiết với cậu, mặc dù những người ấy khác xa cậu. Trong tâm thức, Alyosha đã phân biệt được ước mơ và thực tế. Giờ đây, cậu không chỉ hướng về sách vở, thơ ca, truyện thần thoại để tìm kiếm sự dũng cảm và chân lí mà biết hướng vào hiện thực: “Điều đó càng khiến tôi ngạc nhiên hơn, tôi cảm thấy rất rõ những mâu thuẫn giữa thực tế và sách vở. Trước mặt tôi là con người sinh động mà trong sách vở không thấy được: bác Smouri, anh thợ đốt lò Yaakov, ông khách lưu lạc Aleksasha Vassiliep, bác Jikharev, chị thợ giặt Natalya…” Hình ảnh của những con người sinh động này chiếm một vị trí quan trọng trong tâm trí cậu bé Alyosha. Chương cuối của Kiếm sống xuất hiện một hình tượng đầy ý nghĩa – cảnh “trái đất nửa thức nửa ngủ”. Alyosha muốn đá tung tất cả trái đất và ngay cả chính mình nữa để cho tất cả mọi vật “xoay như một cơn lốc mừng vui trong điệu múa tưng bừng của những người yêu nhau say đắm, những người yêu cuộc sống này – cuộc sống mở đầu cho một cuộc sống khác tươi đẹp, phấn khởi và ngay thật”… Nhưng trong giai đoạn này, hiểu biết của Alyosha còn hạn chế, cậu chưa trả lời được câu hỏi: Cụ thể phải làm gì để giúp mọi người, phải thực hiện lí tưởng xây dựng một thế giới hợp lí và công bằng như thế nào? Tác phẩm Kiếm sống kết thúc bằng những suy nghĩ già dặn của cậu thiếu niên Alyosha mười sáu tuổi, sau những năm lăn lộn với sóng gió của cuộc đời để kiếm sống. “Tôi nghĩ bụng: ‘Ta phải làm được một việc gì chứ, nếu không thì ta sẽ sống vô ích…’ Vào những ngày thu ảm đạm, khi không những không nhìn thấy, không cảm thấy, mà còn quên mất cả mặt trời, tôi thường bị lạc trong rừng. Tôi đi chệch đường, chẳng tìm được lối hẻm nào; cuối cùng, sau khi sục sạo đến mệt bã người, tôi cắn răng đi xuyên qua rừng rậm, giẫm trên những cành cây mục nát, những mô đất tròng trành của vũng lầy. Cuối cùng, tôi luôn tìm được đường đi. Tôi quyết định cũng sẽ sống một cuộc đời như vậy.” Nhưng mãi đến sau này, phải qua nhiều năm được tôi luyện trong “những trường đại học” thực tế của cuộc đời, chàng thanh niên Alyosha Peskov mới tìm được hướng đi cho mình. Truyện tự thuật không phải là một thể loại mới trong văn học. Trước kia ở Nga, Saltykov Shchedrin, Lev Tolstoy, Aksakov… cũng đã từng viết truyện tự thuật. Gorky phát triển một cách sáng tạo truyền thống ưu tú của quá khứ và nâng cao tính tư tưởng của thể truyện này. Tác phẩm tự thuật của Gorky đóng một vai trò quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Nó là chiếc chìa khóa giúp ta hiểu thấu nguồn gốc thiên tài của Gorky, nắm chắc mối quan hệ vô cùng sâu sắc giữa Gorky với nhân dân, đất nước và cuộc sống. Con đường Gorky đã trải qua là con đường tiêu biểu của nhiều người Nga mòn mỏi trong cảnh bần cùng hóa bi thảm, trong lao động cực nhọc, sự vươn lên của tuổi trẻ với khát khao sáng tạo thường chịu áp chế, bóp nghẹt, nhưng những người trẻ tuổi vẫn tràn trề lòng tin, vượt mọi trở ngại trên con đường đi tìm lẽ sống. Gorky không coi tiểu sử của Alyosha Peskov là một hiện tượng siêu việt, ông từng tuyên bố: “Lịch sử của Gorky không phải là một trường hợp duy nhất và không phải là một trường hợp ngoại lệ đặc biệt.”[4] Các nét tính cách nổi bật của Alyosha là: Lòng biết ơn nồng nhiệt với những người có lòng tốt với mình; tình cảm thương yêu những bạn cùng trang lứa đau khổ hơn mình; khát vọng chính nghĩa tới mức say sưa; mối căm thù sâu sắc đối với bọn áp bức tàn bạo; tinh thần bất khuất, khắc phục khó khăn; lòng yêu lao động… Nổi bật nhất là tinh thần hiếu học, chí cầu tiến, óc quan sát tinh vi, thói quen nhìn thẳng vào sự việc để phân biệt rõ ràng cái tốt, cái xấu. Alyosha không sống thụ động, tính cách cậu dần được hình thành vững vàng trong cuộc đấu tranh chống lại nguồn gốc của cái xấu xa trong đời sóng, trong khao khát hướng tới những điều tốt đẹp, công bằng và nhân đạo. Gặp Gorky lần đầu tiên năm 1905, Lenin nói: “Phải học ở Gorky cách nhìn và cách nghe.” Tác phẩm tự thuật của Gorky là một kho vốn sống phong phú, miêu tả lại bước đường gian truân đã dẫn dắt Gorky tới tuổi trưởng thành, nêu lên những ấn tượng sâu sắc nhất đã gợi hình, gợi ý, chuẩn bị cho đời sống văn học của Gorky. Tác phẩm không chỉ là tiểu sử riêng của một cá nhân mà còn là bức chân dung của cả một thế hệ, bức họa rộng lớn về phong cảnh, đất nước và xã hội Nga cuối thế kỉ XIX với những nét khắc họa điêu luyện, sâu sắc về cả diện mạo và tâm lí sinh động của con người. Tính điển hình của các hiện tượng được miêu tả trong tác phẩm bộ ba Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi khái quát cao độ, làm rung động và chiếm được cảm tình lớn của độc giả. Nhà văn Alexander Shirvanzade[5] đã nói về tác phẩm bộ ba tự thuật của Gorky như sau: ‘Theo quan điểm của tôi, toàn bộ cuốn sách tượng trưng cho cuộc sống của nhân dân Nga; cuốn sách kể về tâm hồn nặng trĩu không chỉ của dân tộc Nga mà của các dân tộc nói chung. Anh xem, tôi có phải là người Nga đâu, tôi là người Armenia, sinh trưởng và sống khác xa cuộc sống Nga, vậy mà những gì anh miêu tả rất giống cuộc sống của dân tộc tôi. Anh hãy tin rằng nhà văn Pháp, nhà văn Anh, hay nhà văn ở bất kì nước nào, xuất thân từ nhân dân hoặc hiểu biết cuộc sống của dân tộc mình, cũng sẽ nói với anh những điều như vậy.”[6] Nhà cách mạng Đức Rosa Luxemburg[7] trong bài luận văn Tinh thần văn học Nga có bàn tới tác phẩm tự thuật của M. Gorky như sau: “Chú bé kêu gào như một con sói con bị truy bức, nhe nanh vuốt sắc nhọn trước số mệnh. Cái tuổi thơ ấu đầy khốn quẫn, đau khổ, nhục nhã, hoài nghi, lưu lạc, gần gũi với những cặn bã của xã hội ấy bao hàm tất cả những đặc trưng có tính chất điển hình trong cuộc sống của giai cấp vô sản nước Nga đương thời. Phải đọc hồi kí của Gorky mới có thể lường được quá trình phát triển kinh khủng của ông – từ dưới đáy của xã hội vươn đến đỉnh cao của thế giới quan khoa học, của nghệ thuật thiên tài và của sự tu dưỡng văn hóa. Vận mệnh cá nhân của Gorky tượng trưng cho giai cấp vô sản Nga – giai cấp nhìn bề ngoài thì thiếu văn hóa, thô bạo, dưới thời Nga hoàng đã trải qua những thử thách của cuộc đấu tranh tàn khốc và trong một thời gian ngắn ngủi đến kinh người, trong vòng hai mươi năm, trở thành lực lượng tích cực của lịch sử.”[8] Đối với Gorky, cuộc sống và số phận ông cũng là cuộc sống và số phận của nhân dân ông; những điều khủng khiếp xảy ra xung quanh ông có ghê gớm đến thế nào đi chăng nữa cũng không thể làm ông mất lòng tin vào cuộc sống. Ông vẫn nhìn thấy trong cuộc sống những mầm non tốt đẹp của tương lai và vạch ra con đường của quá trình phát triển lịch sử sau này. Đó là một trong những điểm khác biệt giữa tác phẩm tự thuật của Gorky và các tác phẩm tự thuật cổ điển khác. Trên cơ sở tài liệu tự thuật, Gorky đề ra một trong những vấn đề quan trọng nhất của hiện thực xã hội chủ nghĩa – vấn đề hình thành tính cách con người tiêu biểu cho những mói quan hệ mới – mà sau này nhiều nhà văn khác kế thừa. Có thể nói tác phẩm tự thuật của Gorky là một tác phẩm hiện thực xã hội chủ nghĩa cổ điển đặc sắc, bởi vì Gorky đã cương quyết vạch trần chủ nghĩa tư bản theo lập trường quan điểm của Đảng, đồng thời cũng khẳng định tương lai vĩ đại của dân tộc Nga. Các nhà nghiên cứu và phê bình văn học nhiều lần nhận định rằng, chỉ xét riêng các chi tiết miêu tả một cách tế nhị, tinh vi tâm hồn, đặc điểm tâm lí, nghệ thuật thể hiện nội tâm, tác phẩm bộ ba tự thuật của Gorky có thể sánh ngang với các tác phẩm ưu tú của nền văn học thế giới. Tuy nhiên, điểm nổi bật trong sáng tác của Gorky là quá trình hình thành tư tưởng cách mạng, quá trình con người nhận thức xã hội. Đó chính là cái sáng tạo mà Gorky đã đóng góp vào truyền thống văn học vẻ vang của quá khứ, và chính điều đó đã xác định giá trị tác phẩm bộ ba tự thuật của Gorky với sự phát triển của nền văn học Xô viết và thế giới. Trần Khuyến Mời các bạn đón đọc Kiếm Sống của tác giả Maxim Gorky.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sư Tử, Phù Thủy Và Cái Tủ Áo - C. S. Lewis
HỌ MỞ MỘT CÁNH CỬA BƯỚC VÀO CẢ MỘT THẾ GIỚI Narnia…một vùng đất bị đóng băng bởi mùa đông vĩnh cửu…một vùng đất đang chờ đợi để được giải phóng. Bốn nhà thám hiểm bước qua cánh cửa của chiếc tủ áo và rơi vào vùng đất của Narnia - một vùng đất đang chịu sự thống trị bởi quyền năng của mụ Phù thuỷ Trắng. Nhưng khi mọi hy vọng gần như đã bị dập tắt thì Sư tử vĩ đại Aslan trở về, được xem là bắt đầu của những thay đổi lớn lao… *** Biên niên sử về Narnia viết về một thế giới tưởng tượng, những phép màu và một thế giới song song cùng tồn tại với thế giới của chúng ta. Biên niên sử về Narnia dựng nên một thế giới tưởng tượng, kỳ ảo nhưng có những cơ sở của hiện thực - điểm khác biệt với Harry Potter. Biên niên sử về Narnia là một tác phẩm hư cấu có giá trị nghệ thuật cao trên nhiều phương diện: Một tác phẩm có cấu trúc cân đối, hoàn chỉnh, tính tư tưởng quán xuyến từ đầu đến cuối ; là tinh thần đấu tranh cho chính nghĩa, cho con người, đặc biệt là một tình yêu thiên nhiên, hoà mình với thiên nhiên, coi cỏ cây hoa lá, muông thú cũng có tính bản thiện và có nhu cầu được cộng sinh trong thế giới của muôn loài và cho muôn loài. Một tư tưởng rất nhân bản và đang được nhân loại đề cao. Bộ sách Biên niên sử về Narnia giúp bạn đọc có ý thức tốt hơn về môi trường thiên nhiên cũng như môi trường văn hoá. Và đặc biệt có thể nhìn cuộc đời với một đôi mắt " ngây thơ " hơn. Biên niên sử về Narnia hấp dẫn nhờ một cốt truyện cổ điển, có mâu thuẫn, cao trào và giải quyết mâu thuẫn, thể hiện một trí tưởng tượng rất cao, mang dấu ấn của cá tính sáng tạo của nhà văn. Từ tập 1 đến tập 7 của Biên niên sử về Narnia, thế giới tưởng tượng được xây dựng và phát triển một cách vừa khác biệt vừa nhất quán với toàn bộ và theo cấp độ tăng tiến, khiến người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác với những hình tượng độc đáo, kỳ thú không hề bị lặp lại. Bộ sách Biên niên sử về Narnia gồm có: Tập 1: Cháu trai Pháp Sư Tập 2: Sư Tử Phù Thủy và cái Tủ Áo Tập 3: Con Ngựa và Cậu Bé Tập 4: Hoàng Tử Caspian Tập 5: Trên con tàu hướng tới Bình Minh Tập 6: Chiếc ghế Bạc Tập 7: Trận chiến cuối cùng Biên niên sử về Narnia đưa ra một hệ thống nhân vật phong phú, có cá tính : không có nhân vật nào lẫn với nhân vật nào, dù là con vật hay con người đều có những nét đặc biệt đáng ghi nhớ. Lối giải quyết mâu thuẫn của tác giả, tự nhiên, không gượng ép và đặc biệt là nhẹ nhàng, thoải mái không gây nên những cảnh quá dữ dội có thể ảnh hưởng đến tâm hồn trẻ thơ. Theo bình chọn của tạp chí Big Reader : Biên niên sử về Narnia có tên trong danh sách 21 cuốn sách được độc giả Anh yêu thích nhất (trong danh sách 100 tiểu thuyết thế giới). Bộ truyện được chuyển thể sang tác phẩm điện ảnh trở thành là bộ phim ăn khách của thế kỷ 21. *** Clive Staples Lewis sinh năm 1898 tại Belfast. Ông làm nghiên cứu sinh và là trợ giảng bộ môn Văn học Anh tại trường Magdalen, Oxford và sau này là giáo sư bộ môn Văn học thời kỳ Trung cổ và Phục hưng tại Đại học Cambridge, nơi ông làm việc cho đến khi qua đời vào năm 1963. Clive Staples Lewis viết rất nhiều sách về phê bình văn học và Đạo cơ đốc, với tác phẩm nổi tiếng “The Screwtape Letters”, cùng với bốn cuốn tiểu thuyết khác dành cho người lớn. Bộ truyện “Biên niên sử Narnia”, gồm 7 tập, là bộ truyện duy nhất ông viết cho trẻ em. *** Đ ã từng có bốn đứa trẻ tên là Peter, Susan, Edmund và Lucy. Câu chuyện này kể về một chuyện đã xảy ra với chúng trong thời gian chúng bị đưa đi khỏi London để tránh những trận công kích. Chúng sơ tán đến nhà một giáo sư già sống ở trung tâm đất nước, cách ga xe lửa gần nhất 10 dặm và cách bưu điện 2 dặm. Ông không có vợ con và sống trong một tòa nhà rộng mênh mông với một bà quản gia tên là Macready và ba người giúp việc. (Tên họ là Iry, Margaret và Betty nhưng họ không xuất hiện trong chuyện này nhiều). Giáo sư tuổi đã già, rất già, tóc râu bờm xờm, bạc trắng cả trên mặt lẫn trên đầu và bọn trẻ đem lòng quý mến ông ngay lập tức. Nhưng vào cái buổi tối đầu tiên, khi ông đứng chờ đón chúng ở cửa trước, trông ông lạ đến nỗi Lucy (cô em út) cảm thấy hơi sờ sợ, còn Edmund (đứa áp út) thì lại buồn cười và nó phải giả tảng là đang hỉ mũi để che giấu điều này. Ngay sau khi chúc giáo sư ngủ ngon, bọn trẻ lên lầu ngủ đêm đầu tiên và bọn con trai đã kéo sang phòng con gái để tán chuyện. - Chúng ta đã đi đến nơi đến chốn. – Peter nói.- Mọi chuyện rồi sẽ tuyệt lắm đấy! Chà chà, ông già này sẽ để cho chúng ta muốn làm gì tùy thích. - Em nghĩ đấy là một ông già đáng mến!- Susan nói. - Ồ, đừng giở cái giọng ấy ra đi!- Edmund nói, nó đang mệt mà lại phải giả vờ là không mệt, điều này bao giờ cũng khiến nó trở nên cáu bẳn, khó chịu.- Đừng có tiếp tục cái kiểu ăn nói như thế. - Như thế là thế nào? – Susan hỏi.- Dù sao thì cũng đến giờ em đi ngủ rồi đấy. - Cứ làm như mẹ người ta ấy, Edmund dấm dẳn. – Chị là cái thớ gì mà bảo tôi đi ngủ? Chị đi ngủ đi! - Cả mấy anh em mình cùng đi ngủ không hơn sao?- Lucy hỏi.- Chắc chắn là lại cãi vã nếu chúng ta tiếp tục nói chuyện theo kiểu này. - Không, khoan hãy đi ngủ.- Peter nói.- Để anh bảo cho các em biết, đây là một kiểu gia đình không có ai để ý đến việc chúng ta làm đâu. Dù sao họ cũng không nghe thấy chúng ta đâu. Từ đây đi xuống phòng ăn cũng mất đến mười phút cùng với đủ loại cầu thang và hành lang. - Có tiếng động gì vậy?- Lucy giật mình lên tiếng. Đó là ngôi nhà lớn hơn bất cứ căn nhà nào mà nó đã thấy và ý nghĩ về tất cả những hành lang dài dằng dặc cùng một dãy các cánh cửa dẫn vào những căn phòng trống trải khiến nó cảm thấy hơn rờn rợn. - Chỉ là một con chim thôi, đồ ngốc,- Edmund nói. - Đó là một con cú, - Peter nói. – Đấy là một nơi tuyệt vời dành cho chim chóc. Anh đi ngủ đây. Anh nói thế đấy, hãy mở một cuộc thám hiểm nơi này vào sáng ngày mai. Các em có thể tìm thấy bất cứ cái gì ở một nơi như thế này. Có nhìn thấy những dãy núi trên đường chúng ta đi đến không? Còn những cánh rừng nữa? Có thể có đại bàng. Có thể có hươu đực. Sẽ có cả chim ưng nữa. - Và con lửng! – Lucy reo lên. - Cáo!- Edmund đế thêm. - Và thỏ nữa!- Susan nói. Nhưng sáng hôm sau chỉ có một cơn mưa dai dẳng, xám xịt làm thành một bức màn dày và khi nhìn qua cửa sổ bạn chẳng nhìn thấy núi, cũng chẳng nhìn thấy rừng cây thậm chí cả dòng suối chảy qua vườn cũng không. Mời các bạn đón đọc Sư Tử, Phù Thủy Và Cái Tủ Áo của tác giả C. S. Lewis.
Cháu Trai Pháp Sư - C. S. Lewis
Narnia… một vùng đất có những con thú biết trò chuyện…một mụ phù thuỷ ẩn nấp… và là nơi mà một thế giới mới sắp được tạo ra. Trong một chuyến đi táo bạo để cứu lấy sự sống, hai người bạn bị cuốn vào một thế giới xa lạ, và bị mụ phù thuỷ độc ác bắt làm nô lệ. Nhưng rồi chính bài hát của sư tử Aslan đã dệt nên một tấm vải về một vùng đất mới, một vùng đất mà sau này chính là Narnia. Và ở Narnia, mọi chuyện đều có thể xảy ra… ***     Biên niên sử về Narnia viết về một thế giới tưởng tượng, những phép màu và một thế giới song song cùng tồn tại với thế giới của chúng ta.     Biên niên sử về Narnia dựng nên một thế giới tưởng tượng, kỳ ảo nhưng có những cơ sở của hiện thực - điểm khác biệt với Harry Potter.      Biên niên sử về Narnia là một tác phẩm hư cấu có giá trị nghệ thuật cao trên nhiều phương diện: Một tác phẩm có cấu trúc cân đối, hoàn chỉnh, tính tư tưởng quán xuyến từ đầu đến cuối ; là tinh thần đấu tranh cho chính nghĩa, cho con người, đặc biệt là một tình yêu thiên nhiên, hoà mình với thiên nhiên, coi cỏ cây hoa lá, muông thú cũng có tính bản thiện và có nhu cầu được cộng sinh trong thế giới của muôn loài và cho muôn loài. Một tư tưởng rất nhân bản và đang được nhân loại đề cao. Bộ sách Biên niên sử về Narnia giúp bạn đọc có ý thức tốt hơn về môi trường thiên nhiên cũng như môi trường văn hoá. Và đặc biệt có thể nhìn cuộc đời với một đôi mắt " ngây thơ " hơn.      Biên niên sử về Narnia hấp dẫn nhờ một cốt truyện cổ điển, có mâu thuẫn, cao trào và giải quyết mâu thuẫn, thể hiện một trí tưởng tượng rất cao, mang dấu ấn của cá tính sáng tạo của nhà văn. Từ tập 1 đến tập 7 của Biên niên sử về Narnia, thế giới tưởng tượng được xây dựng và phát triển một cách vừa khác biệt vừa nhất quán với toàn bộ và theo cấp độ tăng tiến, khiến người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác với những hình tượng độc đáo, kỳ thú không hề bị lặp lại. Bộ sách Biên niên sử về Narnia gồm có: Tập 1: Cháu trai Pháp Sư Tập 2: Sư Tử Phù Thủy và cái Tủ Áo Tập 3: Con Ngựa và Cậu Bé Tập 4: Hoàng Tử Caspian Tập 5: Trên con tàu hướng tới Bình Minh Tập 6: Chiếc ghế Bạc Tập 7: Trận chiến cuối cùng      Biên niên sử về Narnia đưa ra một hệ thống nhân vật phong phú, có cá tính : không có nhân vật nào lẫn với nhân vật nào, dù là con vật hay con người đều có những nét đặc biệt đáng ghi nhớ. Lối giải quyết mâu thuẫn của tác giả, tự nhiên, không gượng ép và đặc biệt là nhẹ nhàng, thoải mái không gây nên những cảnh quá dữ dội có thể ảnh hưởng đến tâm hồn trẻ thơ. Theo bình chọn của tạp chí Big Reader : Biên niên sử về Narnia có tên trong danh sách 21 cuốn sách được độc giả Anh yêu thích nhất (trong danh sách 100 tiểu thuyết thế giới). Bộ truyện được chuyển thể sang tác phẩm điện ảnh trở thành là bộ phim ăn khách của thế kỷ 21. *** Clive Staples Lewis sinh năm 1898 tại Belfast. Ông làm nghiên cứu sinh và là trợ giảng bộ môn Văn học Anh tại trường Magdalen, Oxford và sau này là giáo sư bộ môn Văn học thời kỳ Trung cổ và Phục hưng tại Đại học Cambridge, nơi ông làm việc cho đến khi qua đời vào năm 1963.     Clive Staples Lewis viết rất nhiều sách về phê bình văn học và Đạo cơ đốc, với tác phẩm nổi tiếng “The Screwtape Letters”, cùng với bốn cuốn tiểu thuyết khác dành cho người lớn.     Bộ truyện “Biên niên sử Narnia”, gồm 7 tập, là bộ truyện duy nhất ông viết cho trẻ em. *** Đ ây là câu chuyện kể về một sự kiện đã xảy ra lâu lắm rồi. Ngày ấy, ông nội bạn vẫn còn là một đứa trẻ. Đây cũng là một câu chuyện hết sức quan trọng bởi vì nó cho biết chuyện gì đã xảy ra giữa thế giới của chúng ta với mảnh đất Narnia từ buổi khai thiên lập địa. Vào thời điểm ấy, thám tử tài ba Sherlock Holme vẫn sống ở đường Baker còn Bastables thì đang tìm kho báu ở đường Lewisham. Thời ấy, nếu bạn là một cậu bé, bạn sẽ phải mặc áo cổ cồn kiểu Eton thít chặt lấy cổ còn bọn học sinh ấy mà, đúng là được xếp thứ ba trong việc quậy – chỉ sau ai thì bạn biết rồi đấy. Nhưng các món ăn thì ngon hết biết, còn kẹo bánh thì… Thôi, tôi chả nói nó rẻ và ngon đến mức nào đâu, e sẽ làm bạn chảy nước miếng vì thèm mất thôi. Phải vào thời ấy, có cô bé tên là Polly Plummer. Cô bé sống trong một căn hộ nằm trong một dãy nhà liên kế dài. Một sáng nọ trong lúc ra vườn sau chơi cô thấy một thằng nhóc đang trèo lên bức tường nhà bên cạnh. Polly lấy làm thắc mắc bởi vì cho đến lúc ấy nó chưa hề trông thấy một nhóc nào ở nhà bên ngoài ông già Ketterley và cô Ketterley, vốn là hai anh em ruột – một ông già độc thân và một bà cô không chồng. Vì thế khi ngóng cổ nhìn sang, trên mặt con bé mang một dấu hỏi to đùng. Mặt cậu bé kia thì nhem nhuốc như hề. Khó có thể làm cho mặt nó bẩn hơn, kể cả khi nó nghịch đất nghịch cát rồi vì một lí do gì đó khóc nức nở và đưa hai tay lên lau mặt. Nhưng thật ra thì đó gần như là điều mà nó vừa làm. Mời các bạn đón đọc Cháu Trai Pháp Sư của tác giả C. S. Lewis.
Hậu Duệ Thần Đèn Tập 3: Hổ Mang Chúa Kathmandu - Philip Ballantyne Kerr
Cặp djinn sinh đôi John và Philippa Gaunt, một lần nữa lần theo dấu vết của một bí ẩn mang đầy dấu vết ma thuật. Chu du trên lốc gió từ New York đến London, rồi lại từ Nepal đến Ấn Độ, cặp sinh đôi mang trên vai nhiệm vụ trợ giúp cậu bạn djinn của họ, Dybbuk, tìm ra kẻ đã ám sát người bạn thân của Dybbuck bằng nọc một con rắn hổ mang chúa. Và, khi xâm nhập vào thế giới nguy hiểm của Giáo phái Chín Hổ Mang, John và Philippa bất ngờ nhận ra chúng chính là mục tiêu của giáo phái thờ rắn kỳ dị này. Giờ đây, cặp sinh đôi phải tìm được bùa thế thân Hổ Mang Chúa vô giá, và ngăn chặn kế hoạch hiểm độc của giáo chủ giáo phái Chín Hổ Mang! *** “Hậu Duệ Thần Đèn” không chỉ dành cho bạn đọc thiếu nhi mà còn dành cho cả những độc giả trưởng thành yêu thích truyện phiêu lưu viễn tưởng.  John và Philippa là hai anh em sinh đôi. Chúng nghĩ rằng, chúng là những đứa trẻ bình thường, nhưng từ khi bà giúp việc của gia đình trúng số độc đắc, chúng phát hiện ra một sự thật đáng kinh ngạc: chúng là Djinn - hậu duệ thần đèn, và chính năng lực kỳ diệu của chúng đã giúp bà giúp việc trúng số. Nhưng năng lực djinh rất nguy hiểm và rắc rối, chúng phải học cách kiểm soát những ký năng mới mẻ này và chú chó Nimord lập dị trở thành thầy dạy chúng. Ông đã lôi kéo chúng đến Ai Cập để cùng ông tìm ngôi mộ của một pharaoh bị thất lạc, và thế là cả ba người tìm ngôi mộ của một cuộc chiến khủng khiếp chống lại Iblis – tên djinh ác độc nhất thế giới.  *** Hậu Duệ Thần Đèn gồm có: Truy Tìm Akhenaten Djinn Xanh Babylon Hổ Mang Chúa Kathmandu Ngày Tái Sinh Những Chiến Binh Đất Nung Mắt Rừng Năm Tu Sĩ Khổ Hạnh Xứ Faizabad *** Lời của Tác Giả Cho những độc giả “lỡ” quên mất chuyện đã xảy ra trong hai tập đầu tiên John và Philippa Gaunt là hai bạn nhỏ sống ở New York. Sau khi nhổ răng khôn, cả hai bất ngờ phát hiện ra mình là djinn. Răng khôn, cũng giống như sự thông minh, xuất hiện sớm hơn đối với những đứa trẻ djinn. Cậu Nimrod của John và Philippa, một djinn cực kỳ mạnh sống ở London, là người đã hướng dẫn hai bạn “nhập môn” djinn ở Ai Cập, một đất nước với khí hậu nóng bức phù hợp cho quá trình phát triển sức mạnh djinn. Được tạo ra từ lửa, djinn vốn không ưa gì cái lạnh, và những djinn trẻ chưa trưởng thành như John và Philippa gần như không thể “vận” được sức mạnh djinn khi ở trong vùng khí hậu lạnh. John và Philippa vẫn còn rất nhiều điều phải học hỏi về djinn, và sức mạnh của chúng vẫn còn đang trong giai đoạn phát triển. Tuy nhiên, đừng xem thường hai bạn trẻ này. Là một cặp djinn sinh đôi - không phải dạng giống nhau như đúc đâu nhé - khi hợp sức lại với nhau, chúng có được một sức mạnh to lớn như bất kỳ djinn trưởng thành nào. Điều này giải thích tại sao hai bạn có thể giúp cậu Nimrod ngăn chặn kế hoạch lợi dụng 70 djinn thất lạc của Akhenaten để thay đổi sự cân bằng sức mạnh giữa ba tộc djinn Tốt và ba tộc djinn Xấu - còn gọi là Sự Điều Bình - của Iblis, gã djinn độc ác nhất thế giới. Trong khi tất cả những chuyện đó xảy ra, người mẹ djinn của chúng, bà Layla, ở nhà và cố không liên hệ gì với thế giới djinn, để giữ an toàn cho chồng, ông Edward Gaunt, một người bình thường và là một giám đốc ngân hàng. Mọi việc đều ổn thỏa, ít nhất là khi sức mạnh đặc biệt của cặp sinh đôi vẫn chưa bị phát hiện. Nhưng khi Philippa bị bắt cóc bởi Ayesha, vị djinn tối cao của thế giới djinn, người có vẻ đã quyết định lựa chọn cô bé làm người kế vị vị trí Djinn Xanh Babylon của mình, Layla nhận ra bà không thể bỏ mặc tương lai của con gái. Để có thể có được sự tôn trọng của tất cả djinn - cả phe Tốt và phe Xấu - Djinn Xanh buộc phải cỏ một sự độc lập hoàn toàn về lý trí. Nó còn là một vị trí đòi hỏi sự hy sinh cá nhân đáng kể, vì Djinn Xanh buộc phải từ bỏ gia đình để sống một mình, đứng bên ngoài phạm trù Tốt và Xấu. Và vì thế, Layla đã quyết định can thiệp và âm thầm hỗ trợ John trong nhiệm vụ giải cửu em gái tại Iravotum - quốc gia ngầm dưới lòng đất của Djinn Xanh ở Babylon. Nhưng rồi, Layla phát hiện ra người mà Djinn Xanh thật sự nhắm tới không phải là Philippa mà chính là bà. Và, để tuổi thơ của con gái không bị đánh cắp, Layla đã chấp nhận điều kiện của Ayesha: khi Ayesha qua đời, chính bà, chứ không phải Philippa, sẽ trở thành Djinn Xanh Babylon đời tiếp theo. Philippa và John dĩ nhiên rất sốc khi phát hiện ra Ayesha là bà ngoại của mình. Tuy nhiên, chúng lại hoàn toàn không biết rằng chẳng bao lâu nữa, người mẹ yêu dấu của chúng sẽ rời khỏi nhà vĩnh viễn. Trong khi Iblis tiếp tục là kẻ thù lớn nhất của cặp sinh đôi, Philippa và John đã có được một vài người bạn tốt. Đầu tiên là ông Rakshasas, vốn là một người bạn thân của cậu Nimrod, một djinn lớn tuổi có sức mạnh đang hao mòn dần, nói tiếng Anh với chất giọng của người Ai-len dù sinh ra ở Ấn Độ. Tiếp theo là ông Groanin, quản gia kiêm tài xế trung thành của cậu Nimrod đến từ Manchester, người chỉ còn một cánh tay do tích tắc bất cẩn trước một con hổ đói tại Bảo tàng Anh quốc. Cũng phải kể đến Dybbuk, một cậu bé djinn sống ở Palm Springs, California, cùng mẹ là bác sĩ Jenny Sachertorte. Ông bà Gaunt còn có một bà quản gia trung thành tên Trump, người vẫn tiếp tục làm việc cho nhà Gaunt sau khi Philippa đã bí mật biến điều ước được trúng giải độc đắc xổ số New York của bà thành hiện thực. P.B. Kerr, tháng Hai năm 2006 Mời các bạn đón đọc Hậu Duệ Thần Đèn Tập 3: Hổ Mang Chúa Kathmandu của tác giả Philip Ballantyne Kerr.
Hậu Duệ Thần Đèn Tập 2: Djinn Xanh Babylon - Philip Ballantyne Kerr
John và Philippa Gaunt là hai anh em sinh đôi gần đây vừa khám phá ra việc họ là hậu duệ của một tộc djinn (thường được gọi là thần đèn) lâu đời. Sở hữu năng lực thần thông vĩ đại, họ vừa mới trở về sau cuộc phiêu lưu chống lại một djinn độc ác ở Cairo và London. Giờ đây, một bí ẩn lại cuốn cặp sinh đôi lao vào hành trình khác thường kế tiếp. Khi quyển Grimoire của vua Solomon, quyển sách có thể cho người sử dụng quyền năng điều khiển mọi djinn trên đời, bị báo mất cắp, cặp sinh đôi được triệu hồi đi lấy lại nó, mà không hề biết một cái bẫy đã được giăng ra sẵn chờ đợi họ. John phải ngay lập tức dấn thân vào một hành trình nguy hiểm như một áng sử thi để giải cứu em gái mình …. trước khi quá muộn. “… Ngay khi đang nói, John đã cầm kiếm đâm vào cái người có hình dáng giống như cha cậu như lời hướng dẫn nghiêm ngặt của Eno: “Kẻ thâm nhập bắt buộc phải giết chết người bảo vệ thứ bảy mà không chút lưỡng lự, hoặc sẽ phải đối mặt với sự thất bại hoàn toàn của tham vọng bí hiểm của mình”. John không chắc từ “bí hiểm” nghĩa là gì, nhưng cậu có thể chắc chằn rằng nếu không làm đúng theo hướng dẫn của Eno đến từng câu chữ, cậu sẽ không bao giờ được gặp lại em gái – ít nhất là đứa em mà cậu biết và yêu quý. Nhưng nếu John nghĩ rằng thanh kiếm của cậu sẽ xuyên qua không khí, cậu đã lầm. Qua cán cầm của thanh kiếm, cú đâm của cậu có cảm giác thật đến rợn người. Còn tệ hơn nữa là việc cái người giống hệt cha cậu hét lên một tiếng kinh hoàng, như thể ông thật sự bị đâm chết. Và ông cũng không biến mất như những người bảo vệ khác. Thay vào đó, ông ngã gục mặt xuống đất và nằm im lìm giữa một vũng máu. Máu nhìn quá ướt, quá thật và quá đỏ. *** “Hậu Duệ Thần Đèn” không chỉ dành cho bạn đọc thiếu nhi mà còn dành cho cả những độc giả trưởng thành yêu thích truyện phiêu lưu viễn tưởng.  John và Philippa là hai anh em sinh đôi. Chúng nghĩ rằng, chúng là những đứa trẻ bình thường, nhưng từ khi bà giúp việc của gia đình trúng số độc đắc, chúng phát hiện ra một sự thật đáng kinh ngạc: chúng là Djinn - hậu duệ thần đèn, và chính năng lực kỳ diệu của chúng đã giúp bà giúp việc trúng số. Nhưng năng lực djinh rất nguy hiểm và rắc rối, chúng phải học cách kiểm soát những ký năng mới mẻ này và chú chó Nimord lập dị trở thành thầy dạy chúng. Ông đã lôi kéo chúng đến Ai Cập để cùng ông tìm ngôi mộ của một pharaoh bị thất lạc, và thế là cả ba người tìm ngôi mộ của một cuộc chiến khủng khiếp chống lại Iblis – tên djinh ác độc nhất thế giới.  *** Hậu Duệ Thần Đèn gồm có: Truy Tìm Akhenaten Djinn Xanh Babylon Hổ Mang Chúa Kathmandu Ngày Tái Sinh Những Chiến Binh Đất Nung Mắt Rừng Năm Tu Sĩ Khổ Hạnh Xứ Faizabad *** P. B. Kerr nhận ra ông muốn trở thành nhà văn gần như ngay khi ông vừa biết đọc. Tác phẩm đầu tay của ông Chiếc phi cơ biến mất được viết khi ông lên mười. Ông đã nói về tuổi thơ của mình ở Scotland như sau: "Không có ti vi màu hay chương trình truyền hình dành cho trẻ em, không có máy vi tính, không có sân chơi. Vậy nên những trò tiêu khiển của chúng tôi có khuynh hướng ở ngay tại gia. Thật dễ để tôi trở nên ghiền sách, vì thực sự đâu còn gì khác cho tôi làm. Tôi cảm thấy tiếc cho lũ trẻ nhà tôi, có quá nhiều thú vui khác cạnh tranh nhau để giành được sự chú ý của chúng." Hiện Kerr đang sống cùng vợ và ba người con ở London. Tác giả P.B. Kerr sinh ra ở Edinburgh, Scotland, nơi ông được nuôi dưỡng niềm ham thích đọc sách đến tận bây giờ. Mặc dù Hậu duệ thần đèn là bộ sách dành cho thiếu nhi đầu tiên của P.B. Kerr, ông đã rất nổi tiếng trong thế giới truyện trinh thám qua cái tên Philip Kerr, tác giả của bộ truyện ba cuốn Berlin Noir, Một vụ điều tra triết học, Toà nhà Gridiron, Phát súng, cùng rất nhiều bộ tiểu thuyết ăn khách khác. Ông hiện đang sống cùng gia đình ở London. *** Quy tắc chơi Djinnversoctoannular Trò chơi cổ đại với xúc xắc, hoặc astaragali, là một trò chơi dành cho djinn với số lượng người chơi không giới hạn, Djinnversoctoannular sử dụng một bộ bảy viên xúc xắc tám mặt, hay còn được gọi là astaragali. Tám mặt astaragali được đánh dấu bởi Linh hồn, Thời gian và Không gian, Lửa, Đất, Không khí, Nước, Gỗ và Sự May mắn. Sự May mắn, Linh hồn, Thời gian và Không gian, Gỗ, Không khí, Nước, Lửa, và Đất, những mặt được liệt kê ở đây theo thứ tự giá trị với Sự May mắn là giá trị cao nhất[29] Sau khi ném, những viên astaragali sẽ được chuyển cho người chơi tiếp theo cùng với một lời tố (giống bài xì phé) có cấp độ cao hơn lời tố trước đó. Khi một lời tố bị thách thức, người đưa ra lời tố hoặc người thách thức lời tố sẽ mất đi “điều ước” tùy thuộc vào việc lời tố đó là lời tố xác thực hay là lời tố lừa. Mỗi người chơi có ba “điều ước”. Một người chơi sẽ bị loại khỏi ván đấu một khi mất hết ba điều ước. CÁCH CHƠI Tất cả người chơi sẽ cùng ngồi quanh một cái bàn thuận tiện, để bộ astaragali của djinnverso có thể được chuyển đi theo chiều kim đồng hồ từ người chơi này qua người chơi khác mà không làm xáo trộn vị trí các viên astaragali đã được ném. Số lượng người chơi tốt nhất là từ bốn đến tám người, còn trong một giải thi đấu thì chỉ có bốn người chơi một lần. Sức mạnh djinn bị cấm sử dụng trong suốt ván đấu djinnverso, và những viên astaragali sẽ được ném trong một cái hộp thủy tinh được thiết kế đặc biệt để vừa che giấu kết quả ném, vừa phát hiện việc sử dụng sức mạnh djinn trái luật. Do đó, kết quả thắng thua được quyết định không phải bởi khả năng may rủi hay sức mạnh djinn, mà bởi chính khả năng lừa phỉnh đối thủ của người chơi. Bất cứ người chơi nào bị phát hiện sử dụng sức mạnh djinn trong khi chơi sẽ ngay lập tức bị loại khỏi ván đấu. Người chơi đầu tiên được quyết định bởi kết quả ném astaragali, với người được chọn là người có kết quả ném cao nhất. Nếu có hai người chơi có cùng kết quả ném cao nhất, họ sẽ cùng ném lại. Trong lượt chơi của mình, mỗi người chơi có quyền quyết định sẽ ném tất cả/vài/một/hoặc không viên astaragali nào, và thường sẽ ném chúng mà không để những người chơi khác thấy được. Người chơi đầu tiên phải ném cả bảy viên astaragali. Một người chơi cần phải tuyên bố chính xác mình sẽ ném bao nhiêu viên. Quy tắc này đã được đem ra thảo luận trong lần họp cuối cùng. Quyết định của Trọng Tài Tối Cao là nó được giữ nguyên. Và hiện nay, nó được biết tới như Quy tắc Badroulbadour. Người chơi ấy sau đó sẽ chuyển những viên astaragali được che kín trong hộp cho người chơi ở phía bên trái mình, và đưa ra lời tố. Lời tố này phải có cấp độ cao hơn lời tố trước đó. Người chơi tiếp theo có thể, hoặc chấp nhận những viên astaragali và bắt đầu lượt chơi của mình, hoặc thách thức lời tố. Một lời tố chính thức được thách thức bằng từ “mendax”. Một khi được thách thức, hộp astaragali sẽ được mở ra để kiểm tra. Nếu cấp độ của những viên astaragali bên trong hộp ngang bằng hoặc cao hơn lời tố, người thách thức lời tố sẽ mất đi một điều ước, và hộp astaragali sẽ được chuyển cho người chơi ở bên trái người thách thức lời tố để bắt đầu lại từ đầu. Nếu cấp độ của những viên astaragali bên trong hộp thấp hơn lời tố, người đưa ra lời tố sẽ mất đi một điều ước, và người thách thức lời tố sẽ trở thành người bắt đầu lại ván đấu. Tiến trình được đề cập phía trên thường được người chơi thực hiện với một thái độ cử chỉ gây bối rối đối phương, để làm những người chơi khác phải cố gắng hơn. Mỗi một lời tố không cần thiết phải hoàn toàn được chỉ định rõ, và trong trường hợp này nó được coi là lời tố yếu nhất có thể đưa ra mà vẫn đáp ứng được luật lệ đã đề ra. Tốt hơn là một lời tố hợp lệ, cũng như Tốt hơn nhiều (nghĩa là Tốt hơn của tốt hơn) v. v… Nếu một người chơi tố thấp hơn cấp độ astaragali đạt được, nó được coi như Tốt hơn. Việc tố thấp hơn cấp độ này có thể được chỉ ra bởi bất cứ người chơi nào vào bất cứ thời điểm về sau nào của ván đấu, tính đến lúc hộp astaragali được mở ra trước một sự thách thức lời tố. Khi lời tố đạt đến cấp độ Djinnverso: Bảy May mắn (L,L,L,L,L,L,L)[30], người chơi cần đưa ra lời tố cao hơn sẽ phải ném cả bảy viên astaragali, và sau đó có thể ném tất cả/vài/một/hoặc không viên nào thêm hai lần nữa để đạt được cấp độ Bảy May mắn khác. Nếu người chơi làm được điều này, không ai mất đi một điều ước nào, và người chơi tiếp theo sẽ bắt đầu một ván mới. Còn nếu không đạt được cấp độ Bảy May mắn lần nữa, người chơi sẽ mất đi một điều ước. Khi một người chơi chỉ còn lại một điều ước sau khi mất đi điều ước thứ hai của mình, người đó – chứ không phải người chơi ở bên trái họ – sẽ là người bắt đầu ván đấu tiếp theo, tức ném astaragali lại lần nữa. Mỗi người chơi bắt đầu ván đấu với ba điều ước, và sẽ bị loại khỏi ván đấu khi mất hết cả ba điều ước của mình. Người chiến thắng chung cuộc là người cuối cùng còn lại một điều ước. Nếu một người chơi vắng mặt khi đến lượt chơi của mình, người đó được coi như đã chấp nhận lời tố và chuyển hộp astaragali cho người chơi tiếp theo mà không ném viên astaragali nào, như là một lời tố Tốt hơn. Đó là Quy tắc Cairo. Mời các bạn đón đọc Hậu Duệ Thần Đèn Tập 2: Djinn Xanh Babylon của tác giả Philip Ballantyne Kerr.