Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuần Đêm

Ít ai biết được rằng ở Matxcơva, trong vẻ huy hoàng lộng lẫy của thành phố này, kể cả vào ban đêm, lại có biết bao chuyện kỳ lạ xảy ra, phía trên mặt đất và sau một tầng thế giới khác nữa thường được bóng u minh bao phủ. Tuần Đêm - tiểu thuyết giả tưởng, pha một chút kinh dị lại mang rất nhiều yếu tố của trinh thám hình sự, đưa người đọc lạc vào thế giới của những-người-khác mà Lukianenko đã vẽ nên bằng trí tưởng tượng tuyệt vời của mình qua một loạt những cuộc phiêu lưu trong không gian lạ, để bạn nhìn thấy chính mình trong cái gọi là cuộc chiến giữa Thiện và - Ác, cảm nhận nỗi hoang mang khi đứng giữa lằn ranh mong manh của Ánh sáng và Bóng tối. Cuốn sách có triết lý lạnh lùng, lại được viết bằng ngòi bút sắc sảo của một nhà văn từng là bác sĩ tâm thần: cái Thiện, cái Ác trong thế giới này thậm chí đã nương vào nhau mà song song tồn tại, cái Thiện có thể thắng nhưng không thể triệt tiêu cái Ác, những con người của cái Thiện đôi khi cũng cần đến những thủ đoạn không được trong sạch lắm để giành phần thắng – để làm việc thiện, đôi lúc cũng phạm tội ác! *** Đầu năm 2010, tạp chí Expert đã công bố danh sách 10 nhà văn Nga đương đại nổi tiếng nhất theo bình chọn của tạp chí và độc giả. Sergey Lukianenko đứng thứ năm, được Expert đánh giá là “nhà văn vừa giữ được những giá trị truyền thống của văn học Nga, lại là một trong những tác giả thời thượng hiếm hoi của Nga theo đuổi thành công thể loại giả tưởng”. Sergey Lukianenko (bìa phải) trong một buổi chuẩn bị ra mắt phim Tuần đêm tại Saint Petersburg - Ảnh: barros.rusf.ru Ông được công nhận là nhà văn có tác phẩm được điện ảnh hóa nhiều và nhanh nhất từ trước đến nay. Ba cuốn sách của ông đã được chuyển thể thành phim (Tuần đêm, Tuần ngày và Hôm nay, mẹ ạ). Trong tương lai gần người ta đang chuẩn bị khai thác thêm một vài kịch bản phim nữa và đưa ra những phiên bản game online Tuần đêm ngày càng phức tạp, hoàn thiện. Vì sao có khi tội ác không bị trừng trị? Với nhân vật chính là Anton Gordetsky, một công dân bình thường của thủ đô nước Nga, câu chuyện Tuần đêm xoay quanh cuộc sống của anh ta giữa những nhân vật kỳ bí: ma cà rồng, người sói, những phù thủy tà giáo, minh giáo nhiều phép thuật, những con người biết biến hình vào những tầng lớp hiện thực được gọi là những tầng U Minh, công lực càng cao càng xuống được sâu hơn, nơi thế giới không còn màu sắc nhưng lại có những phép biến ảo kỳ lạ làm thay đổi hành vi đời sống... Thế nhưng, sức hấp dẫn của Tuần đêm quyết không phải ở những pha gay cấn, kinh dị hay huyền ảo ma quái (chất này so với phim Mỹ thì chưa “đủ đô”!), mà ở chỗ Tuần đêm đưa ra một cách lý giải thế giới độc đáo, bất ngờ không kém phần thuyết phục. Chẳng hạn, những bất hạnh, buồn khổ của con người do chính con người tạo ra cho nhau, bằng những lời nguyền rủa hoặc được thốt lên một cách độc địa, hoặc âm thầm tàn hại người ta. Hiện thân của những lời tàn ác ấy là những chiếc phễu đen xoay chầm chậm trên đầu... Từ đó mà xảy ra chiến tranh, thiên tai và những điều tồi tệ khác... Rồi những quầng sáng trên đầu mỗi người mà chỉ những người khác mới nhìn thấy được, chính là một dạng “chứng minh thư” trong đời, vừa làm nên khác biệt của con người trong đám đông, lại cho một hình dung rõ nét về bản chất và số phận của người. Đọc Tuần đêm, bạn đọc sẽ có cho mình lời đáp của một loạt câu hỏi: Vì sao đôi khi tội ác không bị trừng trị? Vì sao trong nhiều trường hợp, người ta không thể tùy tiện làm điều thiện mà tất cả đều phải tuân theo những nguyên tắc khắc nghiệt của một bản đại giao ước giữa ánh sáng và bóng tối? Hai thế lực tưởng chừng đối lập nhau hoàn toàn về lợi ích lại có thể đi đến những thỏa hiệp gì để giữ gìn sự cân bằng của thế giới? Cái ác được cấp “giấy phép” dưới hình thức nào và ai cầm cân nảy mực để những môn đồ thiện - ác hành động theo giao ước đã được đặt ra? Ngọn nguồn của lòng hận thù, sự lãnh đạm và cả tình yêu... - những vấn đề gần gũi của cuộc sống lẫn những biến động to lớn của lịch sử được tác giả Sergey Lukianenko bình thản cắt nghĩa bằng giọng văn khá trầm tĩnh, không chạy theo tốc độ, nhưng với cách cắt đặt lớp lang khéo léo không lộ ý, nhà văn từng là bác sĩ tâm thần này đã luôn khiến người đọc chấn động khi những câu chuyện nhỏ của Tuần đêm khép lại trang cuối cùng. Điều thú vị ở truyện kỳ ảo của Sergey Lukianenko chính là tính logic chặt chẽ trong thế giới tưởng chừng không có thật, nhưng lại được lý giải một cách khoa học, dễ chấp nhận về cả lý và tình. Tác giả khiến ta hiểu rằng tiểu thuyết kỳ ảo không phải là thể loại khoa học viễn tưởng với những tưởng tượng táo bạo về tương lai có thể một lúc nào đó sẽ trở thành sự thật. Ở đây, thế giới được giải mã thông qua diễn biến tâm lý nhân vật. Những triết lý về cuộc sống của những người khác góp phần làm sáng tỏ cách sắp đặt thế giới ngày càng đảo điên của những người thường. Sergey Lukianenko, sinh năm 1968, là một trong những cây bút ăn khách và có sức viết hàng đầu của nền văn học đương đại Nga thế kỷ 20-21, tác giả của một loạt tiểu thuyết, truyện vừa và kịch bản điện ảnh thể loại giả tưởng. Bắt đầu từ truyện ngắn đầu tay Hành vi xấu (1988), cho đến nay trung bình mỗi năm Lukianenko cho ra đời hai cuốn tiểu thuyết và đều được đón nhận nồng nhiệt. Ngoài cuốn Tuần đêm, Lukianenko đã từng đến với bạn đọc Việt Nam qua Mê cung ảnh (NXB Lao Động, Phương Hoài dịch) cách đây năm năm. Là bác sĩ tâm thần, những tiểu thuyết kỳ ảo của ông đặc biệt có tác động mạnh đến cảm nhận tâm lý của người đọc. Ông là “hot blogger” với trang blog nổi tiếng “doctor-livsy”, nhưng trang blog này đã phải đóng cửa sau một entry “nhạy cảm” về nước Mỹ và những vấn đề xung quanh chuyện người nước ngoài nhận con nuôi người Nga. *** Thang cuốn bò một cách chậm chạp, thẳng căng. Ga cũ rồi mà, biết làm sao. Ngược lại, gió thả sức thổi cuộn lên trong đường ống bê tông, vò rối tóc người, kéo xếch mũ áo khoác, luồn dưới khăn quàng và đẩy người xuống phía dưới. Gió không muốn Egor đi lên. Gió đòi người quay bước. Lạ thật - tuồng như chung quanh không một ai nhận ra sự hiện diện của gió cả. Bấy giờ ở đây cũng chẳng có mấy người - nhà ga về nửa đêm đã vắng. Dăm người đi ngược chiều, còn cùng phần thang với Egor hầu như chẳng có ai: một người đứng trước, hai hay ba người phía sau. Hết. Nếu không tính đến một nhân vật nữa - là gió! Egor đút tay vào túi, ngả người về phía sau. Khoảng hai phút từ lúc mới bước ra khỏi tàu, cái cảm giác có ánh mắt người lạ không rời cậu. Không hiểu sao hoàn toàn không phải cảm giác hãi sợ, mà nó phê phê, cảm giác, nhoi nhói lên như mũi tiêm. Ở đầu thang cuốn, nơi bắt đầu thang lên, có một người đàn ông mặc đồng phục. Không phải công an, mà là quân nhân. Tiếp đó là một phụ nữ đi cùng bé con ngái ngủ, bám vào tay mẹ. Nữa là một thanh niên trẻ, mặc áo khoác màu cam sặc sỡ, đeo tai nghe. Có vẻ như anh ta cũng ngủ trên đường. Không có gì đáng ngờ cả. Kể cả đối với một cậu bé đương về nhà vào giờ quá muộn. Một lần nữa, Egor lại nhìn lên trên - thấy một chú công an dựa người vào thanh vịn sáng loáng, rầu rĩ soi giữa đám hành khách xem có con mồi dễ vồ nào không. Chẳng có gì đáng sợ. Gió xô Egor lần cuối và lặng đi - dường như đã cam chịu, đã hiểu rằng gắng đấu sức cũng hoài công. Cậu bé lại nhìn về sau rồi bắt đầu chạy theo những bậc thang đang cuốn nhàu đi dưới chân. Lẽ ra phải rảo bước lên mới đúng. Không hiểu tại sao lại phải thế. Một lần nữa cậu lại bị chích nhói vào người, một cách vô lý và bất an, luồng khí lạnh lướt ngang qua cổ. Vẫn là gió. Egor co giò phóng qua cánh cửa mở hé, và cái lạnh sắc ngọt ào vào cậu với một sức mạnh mới. Mái tóc hãy còn ẩm sau khi đi bơi - cái máy sấy lại hỏng - lập tức đông đá. Egor kéo sụp cái mũ áo khoác xuống thấp hơn, chạy một mạch ngang qua mấy sạp hàng, hụp ngay xuống đường ngầm. Trên mặt đất, người đông hơn nhiều, nhưng nỗi lo ngại không hết được. Thậm chí cậu còn ngoái lại, chân vẫn không chậm bước - nhưng không ai theo dõi cậu cả. Người phụ nữ đi với con đang hướng về phía bến tàu điện, thanh niên đeo tai nghe dừng lại bên những ki-ôt, ngắm nghía hàng chai lọ, đồng chí quân nhân thì vẫn chưa bước ra khỏi metro. Cậu bé đi dọc đường ngầm, càng lúc càng rảo chân và rảo chân hơn nữa. Có tiếng nhạc từ đâu đó vang lên - khe khẽ, khó nghe, nhưng dễ chịu kỳ lạ. Giọng thanh thanh của ống tiêu, tiếng lao xao của dây đàn ghi-ta, âm rung lanh lảnh của bộ đàn gõ. Tiếng nhạc mời gọi, tiếng nhạc giục giã. Egor tránh nhóm người đi ngược chiều, đuổi kịp một người đàn ông vui nhộn say liêng biêng, lê bước chậm chạp. Mọi suy nghĩ tuồng như bay hết ra khỏi đầu, cậu đã gần như chạy. Tiếng nhạc đang gọi. Giờ trong nhạc đã có lời quện vào… dẫu còn lơ mơ chưa rõ tiếng, quá khẽ, nhưng lại gọi mời đến thế. Egor nhảy ra khỏi đường ngầm, dừng lại một giây nuốt một ngụm khí lạnh. Vừa lúc chiếc xe điện bánh hơi cũng lướt đến bến. Nó đợi vài giây, các cửa lên xuống mở toang, rồi khép lại, rời bến. Egor lờ đờ nhìn theo dấu chiếc xe - tiếng nhạc càng lúc càng vang lên to hơn, tràn ngập cả thế giới, từ cái khách sạn cao tầng hình bán nguyệt cho đến “cái hộp có chân” thấp thoáng không xa - nhà của cậu. Tiếng nhạc rủ cậu đi bộ. Dọc theo đại lộ được chiếu sáng rỡ, nơi tận giờ này vẫn có không ít người đi lại. Chỉ cần độ năm phút để đến chân cầu thang. Còn để đến với tiếng nhạc lại cần ít phút hơn. Egor cũng kịp đi được quãng trăm mét cho đến lúc tòa nhà khách sạn thôi không che gió cho cậu được nữa. Luồng băng giá quật vào mặt, gần như át hẳn tiếng nhạc mời gọi. Cậu lắc lư người, dần dừng lại. Trạng thái mông lung ma mị tan biến, song cái cảm giác về ánh mắt người lạ lại trở về - lần này thì cảm giác ấy còn quyện chặt với nỗi hãi hùng. Cậu ngoảnh lại - thêm một chiếc xe điện bánh hơi đang trờ về bến. Và trong ánh sáng của đèn đường thấp thoáng bóng áo màu cam sặc sỡ. Gã thanh niên đã đi lên cùng cậu trên thang cuốn, giờ theo sát gót. Mắt vẫn cứ khép hờ, nhưng gã đột nhiên đi nhanh và gắng sức hơn - như thể nhìn thấy Egor. Cậu bé bỏ chạy. Tiếng nhạc lại vang lên với sức ngân mới, xuyên thủng màn gió. Cậu đã có thể phân biệt được lời hát… cậu có thể, nhưng không muốn. Bây giờ chuẩn nhất là đi dọc theo đại lộ, ngang qua những cửa hiệu đóng cửa nhưng sáng đèn, đi sát những khách bộ hành đêm muộn, để lộ mình ra trong ánh đèn những chiếc ôtô đang phóng trên đường. Nhưng Egor lại rẽ vào một cái ngách cổng. Tiếng nhạc gọi cậu đến đó. Ở đây gần như tối hoàn toàn - chỉ có ở bên tường hai bóng đen lay động. Egor nhìn thấy chúng như nhìn qua màn sương mù, như thể chúng được chiếu hắt lên bởi một thứ ánh sáng xanh lè chết chóc. Một thanh niên và một thiếu nữ, còn trẻ, mặc rất mỏng, cứ như ngoài trời không phải âm hai mươi độ vậy. Tiếng nhạc lại dội lên lần cuối - chói óc và đắc thắng. Rồi im bặt. Egor có cảm giác toàn thân mềm nhũn. Người cậu ướt đẫm mồ hôi, chân đứng không vững, chỉ muốn ngồi bệt xuống vỉa hè trơn chuội vì phủ một lớp bùn đóng đá. - Trông ngon đấy… - đứa con gái khẽ nói. Cô ta có gương mặt thanh mảnh, má hóp, nước da tai tái. Mỗi đôi mắt là có vẻ sống động - đen, to và cuốn hút. - Để lại tí chút chứ… - gã thanh niên bảo. Mỉm cười. Hai người giống nhau như hai anh em ruột - không phải giống ở nét mặt mà ở một thứ gì đó khó nắm bắt, cùng chung cho cả hai, bao trùm lên họ từ bên trên, như thể một tấm voan bụi mờ ảo. - Để cho anh á? - Trong một thoáng, cô nàng rời mắt khỏi Egor. Trạng thái đờ đẫn hơi hẫng đi, song nỗi sợ hãi lại ập đến. Cậu bé mở miệng - nhưng bắt gặp ánh mắt của gã kia, và không thể nào kêu lên được. Cậu như bị quấn chặt bằng một tấm cao su lạnh. - Ừ. Giữ nó đi! Đứa con gái phì cười giễu cợt. Chuyển ánh nhìn sang Egor, chúm môi lại như đang hôn gió. Ả cất giọng khẽ phát ra những từ giờ đã thành quen thuộc - những lời từng quện vào tiếng nhạc gọi mời. - Lại đây… lại đây với ta… Egor đứng như trời trồng. Không đủ sức chạy nữa, dù cậu đang sợ phát khiếp, tiếng thét trong cổ vụn vỡ và nghẹn tắc. Cậu chỉ có thể đứng sững yên một chỗ. Một người đàn bà dắt hai con bec-giê to khỏe đi ngang qua ngách cổng. Chầm chậm, gò bước, như thể cử động dưới nước, như thể đang hiện đến trong một giấc mơ hãi hùng. Egor liếc thấy hai con chó vùng vằng, cố sấn đến phía ngách cổng - và trong lòng cậu bùng lên hy vọng mãnh liệt. Hai con chó gầm gừ, nhưng có vẻ không tự tin sao đó, vừa căm giận vừa hoảng sợ. Người đàn bà dừng lại một thoáng, nghi ngờ nhìn khe cổng. Egor bắt được ánh nhìn của bà ta - ánh nhìn của người không nhìn thấy gì, dường như xuyên qua một khoảng trống. - Đi thôi! - bà ta kéo dây xích, và lũ chó nhanh nhảu lùi về phía chân bà. Gã trai cười khẽ. Người đàn bà bước dấn lên, và đi khuất. - Thằng oắt kia, anh nhìn kìa, nó không đi! - đứa con gái nhõng nhẽo kêu lên - Nó đứng yên kìa! - Mạnh hơn lên, - gã trai nói ngắn gọn. Cau có - Học cách đi. - Lại đây! Lại đây với ta! - đứa con gái nói giọng căng thẳng. Egor đứng cách cô ta độ hai mét, nhưng có vẻ như cô nàng rất cần thấy cậu tự đi qua khoảng cách ấy. Rồi Egor hiểu ra rằng mình không còn sức chống cự nữa. Ánh mắt cô gái giữ nguyên, dính chặt vào sợi dây trói cao su vô hình, lời cô ta kêu gọi, và cậu bé chẳng thể nào điều khiển nổi mình. Biết là không nên bước - nhưng vẫn bước. Cô gái mỉm cười - hàm răng trắng đều sáng lóe lên. Nói: - Tháo khăn quàng ra. Cậu đã không còn cưỡng lại nổi. Đôi tay run rẩy gỡ chiếc mũ áo khoác, giằng chiếc khăn mà không tháo vòng cuốn. Bước đến trước đôi mắt đen đang gọi. Có điều gì đó xảy ra với gương mặt đứa con gái. Hàm dưới trễ ra, răng nghiến trèo trẹo. Những chiếc răng nanh dài, đã không còn là răng người nữa, sáng lóa. Egor bước thêm bước nữa. Mời các bạn mượn đọc sách Tuần Đêm của tác giả Sergey Lukianenko & Thụy Anh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kết Thúc Vòng Thiêng - Rostislav Kinjalov
Cho đến ngày nay nền văn minh Olmec cổ ít được người biết đến, nhất là ở Việt Nam. Trong cuốn tiểu thuyết lịch sử “Kết thúc vòng thiêng” giáo sư dân tộc học người Nga R. Kinjalov đã vẽ lại bức tranh cổ xưa sinh động của người Olmec huyền bí, một dân tộc da đỏ đã sống ở Mexico cách đây hơn 3.200 năm. Dựa vào những chứng cứ lịch sử-khảo cổ, Kinjalov giới thiệu với chúng ta cuộc sống của một dân tộc vào loại cổ xưa nhất của hành tinh. Trong cuốn sách này bạn đọc sẽ thấy được sinh hoạt của người Olmec cổ: điều kiện thiên nhiên, tổ chức xã hội, tình yêu, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, quyền lực và tham vọng của những người cầm quyền. Sức mạnh của thiên nhiên huyền bí luôn làm người Olmec kinh sợ, họ thờ đủ các thần: thần Độc cước – vị thần của bão tố; Thần Tâm đất – chủ nhân khủng khiếp của Âm phủ, động đất và núi lửa; Thần Cóc Vĩ đại – Đức Mẹ của các vị thần; Thần Mặt trời; Thần Nước; Thần Ngô trẻ – người cung cấp lương thực cho dân tộc Olmec v.v… Cũng như nhiều dân tộc da đỏ khác ở châu Mỹ, dân tộc Olmec dùng người sống để tế thần, một phong tục dã man mà chúng ta ngày nay không thể tưởng tượng nổi. Trong cuốn tiểu thuyết “Kết thúc vòng thiêng” chúng ta thấy hệ thống xã hội của người Olmec cổ phân cấp khá chặt chẽ với những đẳng cấp rõ ràng. Bên cạnh hệ thống chính quyền (Vua, các quan lại…) còn có hệ thống tín ngưỡng (các thầy Tư tế) giữ vị trí hết sức quan trọng trong cuộc sống của dân tộc. Theo quan niệm của người Olmec cổ, thế giới tồn tại theo chu kỳ 104 năm, gọi là vòng thiêng. Hết 104 năm các vị thần sẽ phán quyết hủy diệt hay kéo dài sự tồn tại của thế giới, và bắt đầu một vòng thiêng mới. Đồng thời tác giả cũng đưa bạn đọc vào cuộc hải hành hư cấu của một vị quan Ai Cập cổ đến vùng đất đỏ xa xôi bên kia đại dương để so sánh sự phát triển không đồng đều giữa các nền văn minh lúc bấy giờ, trong khi Ai Cập đang ở thời kỳ đồ đồng và đã chuyển sang thời kỳ đồ sắt thì dân tộc Olmec ở Mexico đang ở thời kỳ đồ đá. Với những chứng cứ khoa học xác thực, từ đầu đến cuối cuốn tiểu thuyết, tác giả dẫn bạn đọc đi hết cuộc phiêu lưu này đến cuộc phiêu lưu khác, để dần dần giải mã những bí ẩn của dân tộc Olmec cổ huyền bí. Nhà Xuất bản Trẻ hân hạnh giới thiệu cùng bạn đọc cuốn tiểu thuyết đầu tiên nói về dân tộc Olmec ở đất nước Mexico xinh đẹp, để các bạn có điều kiện tìm hiểu thêm về một nền văn minh cổ xưa. *** Sao-Lorenso. Mexico. Tình yêu không có tuổi, không ranh giới và bất tử! • D. Golsuorsi. “Mùa hè cuối cùng của Forsait.” Nhiều năm trôi qua từ khi vòng thiêng mới bắt đầu. Trong làng Tahcum-Tracang không ai dám gọi đến tên của người phụ nữ quái gở này, bà ta đi hết nhà này qua nhà khác tìm kiếm thứ gì đó không rõ. Người ta gọi bà là lão bà, còn những kẻ bất kính trong đám thanh niên cũng chỉ dám thì thầm “bà điên”. Dân làng cho rằng bà bị thần ác ám và họ sợ hãi một cách sùng tín khi bà xuất hiện, họ mời bà ngồi cạnh bếp lò, mời ăn, uống. Đôi khi bà nhận thức ăn, đôi khi không nhận và bà chỉ gạt những cánh tay nhiệt tình ra. Bà rất ít nói, không để ý đến ai, không nhìn thẳng vào mặt người đối thoại mà nhìn vào khoảng không, lời của bà thường đứt đoạn và khó hiểu. Bà lão mất trí vì đau khổ và thời gian, đó là bà Tiang thuộc tộc họ Socan. Bà không có nhà, không có người thân. Các con của ông chú do bà chăm sóc đã đi theo tiên tổ từ lâu, con của họ cũng đã mất. Cháu của họ thì xem bà như người xa lạ. Thực ra chúng không hiểu bà lão này là họ hàng thế nào với chúng. Đám con cháu của Tug-Anseng và Nam-Suc, vô số con trai và con gái của Cangah, không biết tên thật và số phận của bà. Mỗi tháng một lần bà lão bị nỗi lo xâm chiếm. Bà như thoát khỏi cơn mê, động tác trở nên rõ hơn và mạnh hơn, đôi mắt mờ đục rực sáng. Bà ra khỏi làng, và theo đường vòng để không gặp ai trên đường, đi đến hẻm núi mọc đầy cây non ăn sâu vào khu đồi của thành phố, nơi ngày xưa người ta đã thực hiện những nghi lễ của vòng thiêng và chôn chiếc đầu đá của Shang. Khối đá khổng lồ quá lớn nên không thể chôn kỹ, chiếc hố quá cạn và lớp đất lấp trên bức tượng không đủ dày nên nước mưa từ sườn đồi dần dần cuốn trôi lớp đất đắp, để lộ ra khuôn mặt của bức tượng với đôi mắt bất động nhìn lên bầu trời. Tiang cẩn thận dọn sạch cành khô, lá cây và dây leo tươi phủ trên khuôn mặt thân yêu và ngồi xuống cạnh đó. Trong những ngày này bà trò chuyện hàng giờ với bức tượng y như với người sống. “Hôm nay em ăn ngon lắm Shang à, – bà nói, – một cô gái mời em bánh ngô…, cô gái này giống em khi còn trẻ…, chàng nhớ không, chàng khen bánh ngô của em lắm mà, lúc đó chàng đã cười như bây giờ vậy… Xem này, đây là mảnh vỏ từ thân cây mà chúng ta đã ngồi lúc đó… Em giữ nó mãi mãi, em nhớ hết…, chúng ta yêu nhau biết chừng nào! Chỉ tiếc rằng chúng ta không có con; vì nếu có nó, anh đã có thể hãnh diện vì con trai của mình, em xin thề đó! Tất cả cũng chỉ vì lão Anaib-Ungir đáng nguyền rủa. Nhưng lão đã bị kiến ăn từ lâu rồi, ngay cả đống xương dơ bẩn của lão cũng đã mục trong rừng. Chỉ còn em ngồi đây tâm sự cùng anh, mặt trời vẫn chiếu sáng chúng ta…, chàng vẫn còn yêu em như ngày xưa chứ?”. Và cũng trong một buổi gặp như thế, trái tim chung thủy, cháy bỏng yêu thương của Tiang đã ngừng đập – để mãi mãi hòa nhịp cùng tượng đá ngàn năm. • Leningrad – Gumolosar, 1974 – 1977 Mời các bạn đón đọc Kết Thúc Vòng Thiêng của tác giả Rostislav Kinjalov.
Đường Chân Trời Đã Mất - James Hilton
Một câu chuyện đọc xong người đọc phải phân vân suy nghĩ. Một câu chuyện về một chiếc máy bay di tản bị cướp đi đưa bốn người về một tu viện Lama ở vùng núi cao Tây Tạng. Hay đúng hơn câu chuyện về một con người Conway, ba mươi tư tuổi, công tác tại lãnh sự quán Anh ở Baskul (Ấn Độ), một người có sức hấp dẫn kỳ lạ. Ai đã gặp anh một lần cũng phải nhớ mãi. Anh có một thời sinh viên sôi động, đại diện thể thao của Trường Đại học Oxford, đã giành hầu hết các giải của Nhà trường, khiến một giáo sư giàu tình cảm đã tặng anh danh hiệu Vinh quang: Conway Vinh quang. Cuộc chiến tranh 1914-1918 đã chen ngang vào cuộc đời anh. Cũng như hàng triệu người khác, anh bị nó lôi cuốn vào cuộc bắn giết, sợ hãi, điên dại phóng đãng... Anh ra khỏi cuộc chiến tranh không thương tật, nhưng thực tế thương tật ở bên trong. Sau chiến tranh anh trở về giảng dạy ở Trường Đại học Oxford hai năm, rồi đi làm công tác ở Bộ Ngoại giao vì anh biết nhiều ngôn ngữ Đông Phương. Anh là một con người thấy việc cần làm thì đem hết sức mình ra làm, chứ không vì cái tiếng anh hùng. Một con người không chuộng hình thức, người ta thường nghĩ anh biếng nhác, thực ra chỉ vì anh không muốn ganh đua, không muốn xô đẩy người khác để mình tiến lên. Do vậy, trên đường đời không bao giờ anh được món bở mà thường chỉ bị đẩy đi đến những nơi xa xôi hẻo lánh. Tuy nhiên, anh vẫn không thấy buồn, trái lại còn có phần vui vì như vậy đã tránh được cuộc sống đầy cạnh tranh, chen lấn của xã hội đương thời. Chính với tâm trạng trên, khi bị bắt cóc đưa lên một tu viện Lama xây dựng ở lưng chừng trời, bên mép một dãy núi hoang vu ở Tây Tạng, anh đã gặp Lama tu viện trưởng và đã bị ông thuyết phục đến mức muốn ở lại đây để làm tu sĩ. Và chỉ ít lâu sau anh được tu viện trưởng trước khi chết đã cho anh kế vị. Nhưng vì bổn phận đối với Mallinson, viên phó lãnh sự cùng đi, một thanh niên có gia đình thân thuộc, có người yêu ở London, nên anh này nhất thiết đòi về. Và có lẽ còn vì Lo-Tsen, một nữ tu sĩ đã nhiều tuổi lắm rồi, song trông cô vẫn còn trẻ, coi như mới chỉ mười bảy, mười tám tuổi, như lúc cô mới đến tu viện Lama. Conway đã yêu cô, một tình yêu không đòi hỏi được đáp lại, yêu cái thanh tú mảnh mai, và anh không ngờ Mallinson đã thuyết phục được Lo-Tsen thu xếp cùng trở về. Hai người cần có Conway là người có thể giúp đỡ họ vượt qua những khó khăn đầy rẫy trên đường. Vì bổn phận và vì yêu hai người, nên anh đã nhận lời đưa họ trở về… Conway không hề kể lại cho bạn bè nghe về câu chuyện trở về này, nên chỉ biết do ngẫu nhiên mà một người bạn anh đã gặp được anh đang nằm tại một bệnh viện của Hội truyền giáo ở Trùng Khánh: Lúc này anh đã mất hết trí nhớ. Bạn anh đã ở lại chăm sóc cho anh hồi phục được trí nhớ rồi đưa anh về London. Nhưng giữa đường, anh đã lẩn đi, dường như để tìm đường trở lại tu viện Lama, khiến bạn anh đã mất bao công sức đi hàng ngàn dặm đường, đi khắp nơi để tìm anh. Liệu anh có tìm được đường trở về tu viện Shangri-La ở Tây Tạng không? Đó là điều khó hiểu. ***  James Hilton là một tiểu thuyết gia người Anh đã viết một số tiểu thuyết bán chạy nhất, bao gồm Lost Horizon (1933) và Goodbye, Mr. Chips (1934), Random Harvest (1941). Trong tác phẩm Lost Horizon, ông hư cấu ra Shangri-La. Sinh ra tại Leigh, James Hilton là con trai của John Hilton, hiệu trưởng của Trường Chapel End ở Walthamstow. Ông được đào tạo tại Leys School, Cambridge. Hilton đã viết hai cuốn sách nổi tiếng nhất của mình, Lost Horizon (1933) và Goodbye, Mr. Chips (1934), trong khi sống trong một ngôi nhà liền kề khá bình thường trên Oak Hill Gardens, Woodford Green. Ngôi nhà nay vẫn còn, với một tấm bảng màu xanh đánh dấu cư trú của Hilton. Ông đã kết hôn hai lần, lần đầu tiên đến Alice Brown và sau đó đến Galina Kopineck. Cả hai cuộc hôn nhân đã kết thúc bằng ly hôn. Ông qua đời tại Long Beach, California do ung thư gan. Tác phẩm: Catherine Herself, 1920 Storm Passage, 1922 The Passionate Year, 1924 Dawn Of Reckoning (Rage In Heaven), 1925 Meadows Of The Moon, 1926 Terry, 1927 The Silver Flame (Three Loves Had Margaret), 1928 Murder at School (U.S. title: Was It Murder?), xuất bản với bút danh Glen Trevor, 1931 And Now Goodbye, 1931 Contango (Ill Wind), 1932 Knight Without Armour (Without Armor), 1933 Lost Horizon, 1933 Goodbye, Mr. Chips, 1934 We Are Not Alone, 1937 To You, Mr Chips, 1938 Random Harvest, 1941 The Story Of Dr. Wassell, 1944 So Well Remembered, 1945 Nothing So Strange, 1947 Twilight Of The Wise, 1949 Morning Journey, 1951 Time And Time Again, 1953 Mời các bạn đón đọc Đường Chân Trời Đã Mất của tác giả James Hilton.
451 Độ F - Ray Bradbury
451 độ F xứng đáng được xem là một kiệt tác kinh điển có thể thay đổi cuộc đời bất kỳ ai đọc nó. Tác giả Ray Bradbury là một trong những nhà văn lừng danh nhất của thế kỷ XX, tiểu thuyết 451 độ F ban đầu có tên là Lính phóng hỏa (The Fireman), dị bản đầu tiên có nhõn 25 nghìn chữ, được đăng trên tạp chí Galaxy Science Fiction. Hơn ba năm sau, qua một trận ốm nặng, nhà văn Ray Bradbury mới bổ sung thêm rất nhiều cho lần xuất bản sau đó. Ray Bradbury kể rằng đã dành toàn bộ hơi sức mình và “từ một vài động cơ ẩn mật nào đó bên  trong” để tạo dựng nên 451 độ F, một câu chuyện giả tưởng phong phú đến bất ngờ bởi tính dự báo về một xã hội hiện đại đầy những lo âu và bất ổn trong tương lai. Khắc họa xã hội giả tưởng thông qua anh chàng Montag “với cái mũ sắt tượng trưng mang số 451 trên cái đầu phớt lạnh và đôi mắt bừng lửa màu cam”, thế giới tiểu thuyết 451 độ F hiện lên đầy quái dị quanh việc “đốt là một cái thú”, nung cháy bầu trời buổi tối thành màu đỏ - vàng - đen, thiêu cháy làm cho rụi hẳn những mảnh vụn và tàn dư than củi của lịch sử. Ở xã hội mà lính cứu hỏa lại chính là “người châm mồi cho đám cháy” đó, nơi mà truyền hình phù phiếm thống trị, tri thức nông cạn, giải trí “ăn liền” được tung hê, nơi mà “không có sách thì thế giới vẫn ngon lành”, 451 độ F đã rung lên một hồi chuông cảnh báo về sự xuống cấp văn hóa trong một xã hội mà ý tưởng sáng tạo bị ruồng bỏ đến thản nhiên và tội nghiệp. Gấp gáp và sống động, nhà văn Ray Bradbury dường như muốn tất cả độc giả cùng tham gia và rơi vào “độ nóng” của từng mạch truyện. Nơi mà con người chìm mê trong công nghệ, những tình cảm thân thuộc bị xói mòn, nơi mà người ta kết nối với nhau qua sóng chứ không phải là từ những tín hiệu của những cái ôm.  Sự xuất hiện những con “chó máy” vô cảm trong tiểu thuyết khá thú vị, nó làm đúng chức năng, tự nhắm mồi, tự về nhà, tự tắt, “nó chỉ là cáp đồng, pin và điện” khiến không ít người phải giật mình vì tiện ích của đời sống hiện đại. Gấp lại 451 độ F, hẳn không ít người vẫn tủm tỉm đến bóng dáng cô nàng Clarisse “nhỏ nhắn và trắng như sữa”, đi lích rích trong đêm khuya, thích ngửi mùi và nhìn ngắm các thứ, đôi khi cô gái ấy đi suốt đêm, “cứ đi hoài và ngắm mặt trời mọc”.  Thời niên thiếu của mỗi người, chẳng đã từng đôi bận điên rồ đến ngọt ngào như thế hay sao. 451 độ F sắc nhọn, tinh tế, thực tiễn và ấm áp đến những dòng chữ cuối cùng là vậy. Được Ray Bradbury viết vào năm 1963, 451 độ F qua hơn 60 năm vẫn làm chao đảo những độc giả khó tính, trước một “kiệt tác tiên tri”, đáng báo động với chính thế giới của chúng ta. *** Ray Bradbury Douglas là một nhà văn chuyên về sáng tác các tác phẩm kinh dị, khoa học viễn tưởng, và bí ẩn người Mỹ. Nổi tiếng với cuốn tiểu thuyết Fahrenheit 451 (1953) và tập hợp những câu chuyện khoa học viễn tưởng như The Martian Chronicles (1950) và The Illustrated Man (1951), Ray Bradbury là một trong những nhà văn nổi tiếng nhất thế kỷ 20 và 21 của nước Mỹ. Nhiều tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành phim và chương trình truyền hình. Bradbury sinh ngày 22 tháng 8 năm 1920 ở Waukegan, Illinois, cha mẹ là Esther (Moberg) Bradbury, một người Mỹ gốc Thụy Điển, và Leonard Spaulding Bradbury,[8] một người sửa chữa và bảo dưỡng đường dây điện và điện thoại. Bradbury có quan hệ với học giả Shakespeare Mỹ Douglas Spaulding. Ông cũng là hậu duệ của Mary Bradbury, người đã bị xử tại các cuộc xét xử phù thủy Salem năm 1692. Bà đã kết hôn với Captain Thomas Bradbury của Salisbury, Massachusetts. Thời niên thiếu, Ray đi cùng cha đến Los Angeles trong thời kỳ suy thoái. Thời điểm này, cuốn tiểu thuyết giả tưởng của Edgar Rice Burroughs "Tarzan" đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cậu. Cậu đã đi lang thang khắp Hollywood, bám theo những người nổi tiếng để xin chữ ký. Ray không đi học đại học, ông dành thời gian ở các thư viện để tự học và bắt đầu viết cho các tạp chí. Năm 1950, Bradbury cho ra mắt cuốn sách đầu tiên The Martian Chronicles là câu chuyện giả tưởng về những Earthlings chạy trốn khỏi một hành tinh đang xung đột với cư dân trên Sao Hỏa. Ray sáng tác ra những tác phẩm nổi tiếng khác như Dandelion Wine, I Sing the Body Electric và From the Dust Returned. Bradbury được ghi nhận sáng tác 27 quyển tiểu thuyết và hơn 600 câu chuyện ngắn. Các tác phẩm của ông đã bán hơn 8 triệu bản trên toàn cầu và chuyển thể sang hơn 36 ngôn ngữ. Ông bị đột quỵ vào năm 1999 và phải ngồi xe lăn suốt quãng đời còn lại. Bradbury qua đời tại Los Angeles, California ở tuổi 91 sau một thời gian bệnh tật kéo dài.[20][21] Ông có bốn người con. Vợ của ông đã qua đời vào năm 2003.   Mời các bạn đón đọc 451 Độ F của tác giả Ray Bradbury.
Vĩnh Biệt Mùa Hè - Nguyễn Đông Thức
Bộ tứ 4H (Hân, Hằng, Hoa, Hạ) của lớp 12A đã “làm mưa làm gió” không chỉ trên thị trường sách mà cả trong điện ảnh và âm nhạc trên dưới 20 năm. Ca khúc Vĩnh biệt mùa hè của nhạc sĩ Thanh Tùng viết năm 1992 một thời là ca khúc phổ biến của giới học sinh, sinh viên, nhất là các bạn năm cuối cấp với những ca từ thiết tha đầy nỗi nhớ: “Mùa hè bâng quơ, Bâng quơ nỗi nhớ, Những chiếc lá non vươn trên cành cây khô… Mùa hè đi qua rồi, Tình yêu cũng qua rồi…” Không chỉ có vậy, tác phẩm đã được hãng phim Giải phóng dựng thành phim nhựa năm 1992 và sau đó đạo diễn Bùi Thạc Chuyên chuyển thể thành phim truyền hình dài 4 tập 12A và 4H. Câu chuyện về 4 cô học trò Hằng, Hân, Hoa và Hạ. Hằng xuất thân là con nhà giàu, xinh đẹp, thông minh, học giỏi. Cứ ngỡ rằng cuộc sống sẽ trải thảm dưới chân cô. Thế nhưng việc người mẹ bỏ nhà đi theo tiếng gọi của tình yêu đã đẩy Hằng vào nỗi cô đơn đến tột độ. Và cô ngã vào vòng tay của thầy Minh – một người đàn ông đầy thủ đoạn. Để rồi khi cha cô đối mặt với vòng tù tội do có liên quan đến vụ án tiêu cực thì Hằng nhận ra mình chẳng còn gì: không mẹ, không cha, và người tình cũng cao chạy xa bay. Và nếu cô không may mắn gặp được Đoàn Hùng – người thanh niên xung phong năm xưa thì chưa biết cô sẽ trôi về đâu. Hạ là con gái của gia đình có cha mẹ làm bác sĩ. Cô học trò giỏi văn, bí thư chi đoàn lớp có một mối tình đẹp đẽ và thơ mộng với Long – con trai một sĩ quan chế độ cũ. Vì sự không “môn đăng hộ đối” này mà mẹ Hạ đã quyết liệt ngăn cản. Mọi thứ trong Hạ dường như vụn vỡ khi cô phát hiện ra thủ đoạn mẹ mình đã dùng để chia rẽ hai người. Hân giàu tình cảm, Hoa hồn nhiên. Chính vì vậy mà có lẽ cuộc đời đã dành cho hai cô gái này những ưu ái hơn. Hân tiếp tục học vào đại học, còn Hoa được mẹ giao lại cho gian hàng ở ngoài chợ. Bên cạnh 4 cô gái là Thiện chính trực, dũng cảm bảo vệ lẽ phải, Long giàu nghị lực. Đối lập là Ngôn – một học sinh cá biệt, du côn và kết thúc đời học sinh của mình bằng những nằm tù dài đăng đẳng. Và thầy Minh – một kẻ thủ đoạn. Câu chuyện dẫn dắt người đọc đi qua năm tháng học trò, có những giây phút hồn nhiên đùa nghịch, và cũng có những nỗi buồn đau của đời thường. Và kết thúc với chút buồn man mác. “Hân bước vào sân trường. Khoảng sân giờ đây bỗng rộng mênh mông, trống vắng đến lạnh lùng, đầy những lá rụng và hoa tàn.Mùa hè đang đi qua. Cái mùa hè cuối cùng của đời học sinh trong một năm học đầy biến động….Lần đầu tiên trong cuộc đời, Hân bắt đầu ý thức được sự tạm bợ và phù du của kiếp người. Cô cảm thấy buồn man mác. Tại sao người lớn cứ sống như vậy, khác hẳn những điều mà người trẻ được dạy dỗ, để cuối cùng không còn ai biết tin vào ai nữa. Mùa hè đã vĩnh viễn đi qua” *** Nhà văn Nguyễn Đông Thức sinh ngày 18 tháng 10 năm 1951 tại Từ Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Hiện nay ở quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Tốt nghiệp đại học. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1988). Sau ngày miền Nam giải phóng, Nguyễn Đông Thức tham gia thanh niên xung phong và làm báo, viết văn. Hiện nay anh công tác tại báo Tuổi Trẻ thành phố Hồ Chí Minh. Tác phẩm chính đã xuất bản Ngọc trong đá (tiểu thuyết, 1986) Mưa khuya (truyện ngắn, 1987) Tình yêu thường không dễ hiểu (truyện ngắn, 1987) Trăm sông về biển (tiểu thuyết, 1988) Con gái vốn phức tạp (truyện ngắn, 1988) Mối tình đầu tiên và cuối cùng (truyện ngắn, 1989) Bản án trước khi chào đời (truyện ngắn, 1989)... Vĩnh biệt mùa Hè Vĩnh biệt facebook ...   Giải thưởng Giải A cuộc thi sáng tác do thành đoàn thành phố Hồ Chí Minh với tác phẩm Một bông hồng cho cô bộ đội. Giải nhì cuộc thi sáng tác do thành đoàn Hồ Chí Minh cho tác phẩm Truyện rất khó viết. Giải ba cuộc thi sáng tác do Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh cho tác phẩm Mưa khuya. Giải nhì cuộc thi sáng tác do báo Sài Gòn giải phóng cho tác phẩm Hạnh phúc. Mời các bạn đón đọc Vĩnh Biệt Mùa Hè của tác giả Nguyễn Đông Thức.