Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vùng Trời

Hảo ra bến xe vừa kịp chuyến đầu tiên chạy Hải Phòng. Hai hàng ghế trên đã có người ngồi chật. Thấy cô gái ló đầu ở cửa sổ, một anh đeo kính nhỏm dậy, muốn nói gì. Có lẽ anh định nhường chỗ. Nhưng Hảo đã chạy vội về phía sau. Cô lên xe đặt chiếc túi du lịch vào gầm ghế, rồi vui vẻ ngồi xuống một chỗ còn trống Đệm xe ngồi khá êm ái. Có lẽ không phải là chiếc xe đã đưa Hảo từ Hải Phòng ra đây một tuần trước. Nhưng rồi Hảo nhận ra chiếc bọc đệm bằng ni lông màu đỏ và nhất là cái cửa kính vỡ được thay bằng một tấm tôn sơn xanh, vẫn chính là nó. Sao hôm nay nhìn nó lại có vẻ sang trọng, cô gái tự hỏi mình. Một buổi sáng đầu mùa thu trong trẻo và yên tĩnh. Những dãy nhà của thị xã nhỏ ở miền biển này còn ngái ngủ. Một vài cánh cửa vừa hé ra đã vội khép lại. Hàng cây bên đường được sương đêm rửa đi lớp bụi hồng của những chiếc xe hơi chạy suốt ngày, bám trên những chùm lá. Mặt trời không biết còn chìm dưới biển hay khuất ở chân mây màu xám đục giống như tấm kính mờ. Gió sớm lành lạnh từ sông Bạch Đằng thổi về từng đợt. Cô gái vẫn còn cảm thấy ngây ngất với mỗi làn gió ở đây. Nó mang theo mùi hương ngan ngát, vị đậm đà và hơi thở mãnh liệt của biển. Nó không chịu đi qua mà không để lại dấu vết. Nó làm xanh thêm màu xanh của lá, xám thêm màu xám của con đường nhựa, sẫm thêm màu rêu trên những mái nhà... Và nhất là nó để lại dấu vết ở những con người. Đó là cái chất men rạo rực, kích thích làm cho người ta cảm thấy cơ thể mình cũng căng lên như một cánh buồm lộng gió. Cô bạn ở phòng phân tích mẫu vật ban nãy tỏ ra băn khoăn vì không tiễn được Hảo ra xe. Sáng nay, Loan phải lên ty họp sớm. Kể ra nó và cả cái phòng của nó đã thừa chu đáo đối với mình. Sự chu đáo đó làm cho Hảo phải ân hận khi nhớ lại những lần bạn về Hà Nội đến thăm mình. Hảo vừa tốt nghiệp khoa sinh vật tại trường Đại học Tổng hợp và đang ở thời kỳ chờ đợi sắp xếp công tác. Cô xuống Quảng Yên chơi với một người bạn học cũ và cũng là để thăm hỏi tình hình. Hảo đã nhận thấy không khí làm việc khá dễ chịu. Cô bạn ra trường trước Hảo một năm, ngày hai buổi ngồi ở phòng phân tích, trông ra dáng một nhà nghiên cứu. Không có những khó khăn và thay đổi lớn so với lúc ở trường. Mọi người hay nhắc tới những chuyến đi biển. Đó là những chuyến đi tới những hòn đảo mang những cái tên tuyệt đẹp: Minh Châu, Cô Tô, Ngọc Vừng... Nghe anh chị em kể chuyện các đảo, Hảo phát ghen lên với những người đã được đặt chân tới đó. Chỉ mới ở có ít ngày, Hảo đã thấy rất mê sông biển và phong cảnh vùng này. Những khu rừng xanh mướt quanh năm. Những cây thông thơm ngát có những chùm lá vươn lên cao như những bàn tay đẹp của cô gái múa. Những con sông cuồn cuộn đổ ra biển, đem phù sa từ đất liền tạo thêm bờ bãi mới. Cô gái đã ngồi hàng giờ nhìn những cây sú hoang dại đứng dầm chân trên bùn đỏ và những con cáy, con còng chạy ngang, chạy dọc say sưa nghĩ đến công việc mình sẽ làm sau này. Một chân trời xán lạn, xanh rờn sóng nước đang mở ra trước mắt. Trong khi mọi người kể cho Hảo nghe về cái hay của biển và đảo, có những người đã để lộ ra một điều: đó là sự ngại ngùng đối với sóng gió. Họ đã coi những chuyến đi biển như vậy là không thể tránh được vì nghề nghiệp của mình. Chính cái thái độ ấy đã kích thích Hảo. Mình sẽ không sợ những khó khăn, không tìm cách né tránh nó, không coi nó là cái gì mà mình chịu đựng. Mình sẽ không ở trong buồng kính như cái Loan và các bạn cùng phòng nó đâu. Mình sẽ xin đi... Tốt nhất là về một trong những đoàn điều tra mà Hảo nghe nói đang được tổ chức. Ở phòng thí nghiệm cũng hay nhưng ít nhất, trước khi vào phòng thí nghiệm, mình phải đi đã. Mình sẽ tự tìm đến với những khó khăn. Và chính ý nghĩ ấy đã đem niềm vui cho Hảo sớm nay khi cô gái lên đường trở về. Anh thanh niên đeo kính ngồi ở hàng ghế phía trước quay lại bà có bồ na ngồi bên Hảo, hỏi mua ít quả đã mở mắt. Bà bán na đang chọn, thì một anh mặc quần áo xanh công nhân nói chen vào: - Mua na mở mắt của bà ấy để bà ấy bóp mắt cho à? Hảo quay lại nhìn anh áo xanh, lo câu nói của anh dẫn đến chỗ to tiếng. Nhưng bà bán na có bộ mặt ngắn ngủn và cái lưng rất dài, không hề tỏ vẻ tức giận. - Chú em đừng nói càn. Ngoan rồi chị làm mối cho cô khí tượng ở Hà Nội mới về ở ngay nhà chị, đẹp như huê. - Người Hà Nội mà về cái đất nhà bà ngày mấy lần gánh nước leo dốc sỏi thì cũng mất "phom" Hà Nội đi rồi. Nhiều tiếng cười, trong đó nổi bật lên những tiếng hơ hơ hơ hơ... của anh chàng đội mũ cát, mặc áo sơ mi trứng sáo. Anh bắt đầu gom chuyện bằng giọng nói hiền lành: - Tôi sợ nhất đi xe đạp ở thị xã này. Đường chẳng có ma nào. Mình một bên đường, cô ấy một bên đường. Thế mà trông thấy mình là cô ấy lao sang đâm thẳng vào mình, quẹo cả ghi đông. Từ khi Hảo bước lên xe, nhiều người bỗng nhiên hoạt bát hẳn lên. Mấy anh thanh niên đều như muốn giới thiệu mình là người Hà Nội hoặc Hải Phòng. Hảo không khó chịu chút nào, cô cười theo họ rất hồn nhiên. Xe bắt đầu chuyển bánh. Những chùm lá tre lòa xòa hai bên đường cọ vào mấy chiếc xe đạp xếp trên mui. Những tiếng lạo xạo khô ráp như tiếng thóc đổ vào bổ. Anh áo xanh công nhân đã ngồi vào vị trí của mình ở cuối xe với cặp vé trong tay. Anh là người phụ lái. Những câu chuyện ngổ ngộ vẫn không dứt. Chốc chốc lại rộ lên những chuỗi cười trong đó vẫn bay lên những tiếng hơ hơ hơ hơ... của cái anh chàng chắc là tính nết phổi bò. Bác lái xe già sùm sụp chiếc mũ cát-két trên đầu, mặt mũi cau có. Bác đưa mắt nhìn vào gương phía trước xem anh chàng vô duyên đang nói là ai. Chỉ có một cô gái mà cánh thanh niên này đã bốc đồng cả lên. Đường ra sông Rừng vắng vẻ mà bác bỗng ấn những hồi còi. *** Nhà văn Hữu Mai, tên thật là Trần Hữu Mai (1926 – 2007), được sinh ra ở Thanh Hóa trong một gia đình viên chức nhỏ. Là nhà văn mặc áo lính, các sáng tác của Hữu Mai luôn viết về đề tài lực lượng vũ trang, chiến tranh cách mạng. Khoảng 60 năm cầm bút, Hữu Mai để lại hơn 60 đầu sách đã xuất bản, trong đó hầu hết viết về đề tài lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng. Sinh ra trong giai đoạn chiến tranh, Hữu Mai trước hết là một chiến sĩ, chiến đấu vì độc lập, tự do, thống nhất đất nước. Là chiến sĩ cầm bút, các trang văn của Hữu Mai đã ghi lại một thời đại lịch sử của dân tộc. Viết tiểu thuyết lịch sử, hồi ký, kịch bản phim, hay về nhân vật có thật trong lịch sử nhưng ngòi bút của ông không dừng lại ở việc phản ánh, ghi chép, kể lại. Tác phẩm của ông vừa có sức hấp dẫn của văn chương, vừa nói lên cái cao hơn sự thật khắc nghiệt, ấy là con người, dân tộc trong chiến tranh. Tiểu thuyết "Vùng trời" (ba tập) là bộ tiểu thuyết dày dặn nhất, công phu nhất về đề tài bộ đội không quân trong chiến tranh phá hoại của nhà văn Hữu Mai. Mời các bạn đón đọc Vùng Trời của tác giả Hữu Mai.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chung Vô Diệm - Tô Chẩn
Sách Nói Chung Vô Diệm Chung Vô Diệm là Vương hậu của Tề Tuyên vương, quân chủ nước Tề thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Bà nổi tiếng là người đàn bà có tài, trí tuệ vô song, giúp chồng là Tề Tuyên vương quản lý rất tốt nước Tề. Tuy nhiên dung mạo của bà tương truyền là cực kì xấu xí, được mệnh danh là một trong Ngũ xú Trung Hoa. *** Một hôm, Tuyên Vương đang uống rượu giữa bầy cung nga xinh đẹp, vui chơi ở Tiệm Đài. Chung vô Diệm xin vào yết kiến, tự xưng là người con gái không lấy được chồng của nước Tề, nghe nói Tề Vương là người hiền minh, xin vào hậu cung lo việc quét tước cho vua. Các cung nữ nghe xong bụm miệng cười, Tuyên Vương nghe tâu cũng tức cười nhưng vì lòng hiếu kỳ, ra lệnh cho vào yết kiến. Tuyên Vương hỏi: "Xú phụ! Ngươi sao không chịu ở yên nơi quê hương mà tự tiến tới vua phải chăng ngươi có tài nghệ cao kì?". Vô Diệm đáp: "Không dám nói kì tài cao nghệ, chỉ học được thuật ẩn hình, xin vì đại vương hiến chút nghề mọn để giúp vui". Nói xong liền ẩn mình, không ai thấy nữa. Hôm sau Triệu Vương lại triệu đến làm trò. Vô Diệm không nói, chỉ trừng mắt, cắn răng, giơ tay, vỗ gối... làm 4 động tác và kêu liên tiếp 4 tiếng "hiểm". Tuyên Vương hỏi ý nghĩa ra sao? Vô Diệm nói rằng: "Nay nước Tề có sự uy hiếp của Tần ở phía Tây, Sở phía Nam, đó là nguy hiểm thứ nhất. Đại vương làm nhọc sức dân, hao tốn tiền của, lập Tiệm đài hoa lệ, đó là điều nguy hiểm thứ hai. Trong triều thì biếm người hiền, dùng kẻ nịnh, đó là điều nguy hiểm thứ ba. Đấng quân vương đam mê tửu sắc, không sửa sang chính trị trong nước, đó là điều nguy hiểm thứ tư. Thiếp trừng mắt vì đại vương xét cái biến phong hoả, cắn răng là thay đại vương trừng trị cái miệng chống can gián, giơ tay là vì đại vương đuổi kẻ bề tôi xàm nịnh, vỗ gối là xin đại vương dẹp bỏ cái đài ăn chơi." Tề Tuyên Vương nhận lời can gián, từ đó bỏ yến nhạc, phá Tiệm đài, trừ tôi nịnh, làm cho binh mã mạnh, kho lẫm đầy... lập Chung Vô Diệm làm Vương hậu, và với sự phụ tá của bà, nước Tề trở nên cường thịnh. *** Khi Chung hậu đã lên tới trên núi rồi, thấy binh nước Ngô, nước Hàn trùng trùng điệp điệp, thế chẳng khác như cọp như beo, còn binh mình thì ít ắt khó bề chống đương, bèn sanh ra một kế, lấy giấy cắt ra năm tấm hình nhân, thảy đều cưỡi ngựa cầm đao thương, chẳng khác như thiên thần ác sát. Làm xong tức thì niệm tiên chú, rồi thổi lên trên không, thấy nổi lên một trận cuồng phong, hoá ra nhân mã thiên thiên vạn vạn, thảy đều đi theo Chung hậu, đặng thỉnh lịnh giao phong. Đây nói về Trương Xa và Thần Lôi nguyên soái, bị Xuân vương trá bại, dẫn lên trên núi Lai Vô, theo đuổi đã cùng đường mà không thấy tăm thấy dạng, hai người còn đang bàn soạn, kế thấy quân kỳ bài báo rằng: - Phía nam có một toán quân, có hai cây cờ long phụng. Đạo Tông nói: - Bữa hôm qua Điền Nguyên đã bại trận, nay còn có binh nào ở đây? Hay cùng nó giao phong trừ cho xong mối hoạ. Trương Xa vâng lời, đốc quân hiệu tập đi thẳng tới phía Nam. Lúc ấy đạo binh Tề vừa đi đến, Chung hậu ngồi trên lưng ngựa ngó thấy tướng Ngô, mặt xanh tợ chàm, hai chòm lông mày đỏ lói, đầu đội mão con rái, mình mặc áo hồng bào, thời đã biết Thần Lôi nguyên soái bên nước Ngô, liền chỉ mặt nói rằng: - Đạo Tông! Như ngươi muốn sống thì phải trở về núi cho mau, kẻo uổng công tu luyện bấy chầy, nay xuống hồng trần mà bỏ hết. ... Mời các bạn đón đọc Chung Vô Diệm của tác giả Tô Chẩn.
Chỉ Còn Lại Tình Yêu - George Sand
Chỉ còn lại tình yêu là tác phẩm hay nhất của George sand, cùng thời Chỉ còn lại tình yêu là tác phẩm hay nhất của George Sand, cũng đồng thời là một trong những cuốn truyện hay nhất của văn học Pháp George Sand trước hết là một con người nổi loạn. Xuất thân quý tộc, học trường dòng, lấy chồng cũng thuộc tầng lớp quý tộc. Nhưng bà đã dứt khoát chối bỏ cái thế giới nhỏ hẹp, tù đọng của mình để dấn thân vào dòng đời ào ạt của tình yêu và sáng tạo. Bà đẹp. Một sắc đẹp "chết người". Đó cũng là một trong những lý do dẫn đến việc bà có rất nhiều người yêu. Năm 1822, cô gái Amantine - Aurore - Lucile Dupin - tên thật của George Sand, kết hôn với bá tước Casimir Dudevent, một địa chủ quý tộc vùng Nohant. Năm đó bà 18 tuổi. Năm sau sinh con đầu lòng. Và năm sau nữa, "cô gái một con" đã làm xiêu lòng viên quan tòa trẻ tuổi hòa hoa phong nhã Aurélien de Sèze trong một chuyến đi chơi vùng núi Pyrénées. Từ đó cho đến năm 1866, bà lên Paris, sống ly thân với chồng, và trải qua hơn hai chục mối tình khác. Người tình của bà, hầu hết là những nhân vật lừng danh trong giới tri thức: Prosper Mérimée, Alfred de Musset, cả hai đều là nhà văn lớn của nước Pháp; Dranz Lisze, nhà soạn nhạc nổi tiếng Hungary; Frédérich Chopin, nhạc sĩ thiên tài người Pháp gốc Ba Lan v.v... Theo nhiều nhà nghiên cứu, không phải tình yêu, tình bạn và sự giúp đỡ hào hiệp của bà không có một ảnh hưởng nhất định đối với tài năng sáng tạo của những người đó. Và ngược lại, họ cũng góp phần không nhỏ vào sự nghiệp của bà. Bà viết nhiều, từ năm 1827 đến 1876 là năm bà mất, tính ra đã có tới 54 tác phẩm ra đời. Không giống với phần lớn các tác giả đương thời, văn chương của bà giản dị, trong sáng, đầy vẻ đẹp thuần phác của con người hòa quyện trong vẻ đẹp thiên nhiên. Với những tác phẩm như Ao ma, Cô bé Fadette bà có thể được xếp vào những người đi đầu của nền văn học hiện thực mang tính chất xã hội sâu sắc của Pháp. Chỉ còn lại tình yêu là tác phẩm hay nhất của George Sand, cũng đồng thời là một trong những cuốn truyện hay nhất của văn học Pháp. Bà viết cuốn này năm 1832, lúc mới 28 tuổi, đang yêu say đắm Jules Sandeau, chủ nhiệm một tờ tạp chí lớn ở Paris. Bút hiệu George Sand chính thức ra đời từ cuốn này và là một kỷ niệm của mối tình với Jules Sandeau. Một chuyện tình. Hay nói cho thật đúng là cuốn truyện viết về chung thủy, trung hậu và sự lừa lọc, phản bội trong tình yêu. Indiana, nhận vật chính là một cô gái xinh đẹp, ngây thơ trong trắng như đóa hoa huệ mới nở buổi sớm mai. Nàng khao khát tình yêu và đã rơi vào bàn tay một tên sở khanh độc ác. Nếu cuối cùng nàng thoát khỏi sự sa đọa và lấy lại được niềm vui sống là nhờ có tình yêu chân chính của một chàng trai vốn đã yêu nàng, sẵn sàng vì nàng mà hy sinh hạnh phúc của mình. Từ khi tác phẩm ra đời cho đến nay, hơn một thế kỷ đã trôi qua. Tuy vậy, ta vẫn gặp trong Chỉ còn lại tình yêu những nhân vật, những tình huống, những trạng thái tâm lý hết sức gần gũi. Điều đó chứng tỏ sức sống bền chắc trong tư tưởng, tình cảm, và bút pháp của George Sand. Nhưng đồng thời cũng cho ta thấy rằng tình yêu, vẫn là cái gì muôn thưở, không bao giờ cũ đối với con người. NHÀ XUẤT BẢN PHỤ NỮ *** George Sand, tên thật là Amantine Aurore Lucile Dupin, sinh ngày 1/7/1804, mất ngày 8/6/1876. Bà là tiểu thuyết gia nổi tiếng người Pháp. Trong hơn bảy mươi năm cuộc đời mình, nữ văn sĩ thiên tài đã sống một cuộc sống mãnh liệt, hết sức phóng túng nhưng cũng đầy sáng tạo. Bà là một ngoại lệ của văn học Pháp thế kỉ 19, một cá tính hấp dẫn khiến ngưới ta khó lòng cưỡng nổi. Cha của George Sand, Maurice Dupin là một người thuộc dòng dõi quý tộc, còn mẹ của bà, Sophie-Victoire Delaborde xuất thân từ tầng lớp bình dân. Cha mất sớm, George Sand sống với bà, rồi sau đó vào tu viện. Năm 1821, ở tuổi 17, bà kết hôn với Nam tước Casimir Dudevant và có hai con là Maurice (1823–1889) và Solange (1828–1899). Năm 1835, cuộc hôn nhân này tan vỡ và George Sand có nhiều mối tình khác với không ít các nhân vật nổi tiếng, trong đó có Alfred de Musset, nhà thơ lớn của Pháp và Frédéric Chopin, nhạc sĩ thiên tài Ba Lan. Bà cũng là bạn thân của nhà văn Gustave Flaubert. Tác giả của Bà Bovary từng nhận xét: "Phải quen nàng như ta đã từng quen mới biết được hết thảy những gì là nữ tính trong trái tim con người vĩ đại này." George Sand mất tại Nohant ngày 8 tháng 6 năm 1876. Tưởng nhớ đến bà, Victor Hugo viết: Ta khóc thương một người phụ nữ mất đi, ta suy tôn một nữ thánh bất tử. *** Gửi J. Nero Tháng Giêng năm ngoái, vào một ngày ấm áp và nắng đẹp, tôi đi Saint Paul để lang thang trong những khu rừng hoang vắng trên đảo Bourbon và mơ mộng. Ở đây, tôi nghĩ đến bạn, bạn của tôi ạ. Những khu rừng nguyên thủy ấy vẫn giữ cho tôi kỷ niệm về những chuyến đi và những công trình nghiên cứu của bạn; đất vẫn lưu giữ dấu chân bạn. Tôi lại tìm thấy ở khắp nơi những kỳ quan mà tôi đã đọc trong những chuyện kể thần diệu của bạn và xưa kia đã làm tôi say mê, và để cùng nhau chiêm ngưỡng những kỳ quan đó, tôi lại kêu gọi bạn ở châu Âu già lão, nơi bạn sống mai danh ẩn tích một cách nhũn nhặn và êm đềm. Một con người hạnh phúc, không một người bạn quỷ quyệt nào sẽ phơi bày trước thế giới trí tuệ và tài năng củ bạn. Tôi đến một chỗ hoang vắng ở khu vực cao nhất đảo, được gọi là Mũi Khét của Saint Paul. ... Mời các bạn đón đọc Chỉ Còn Lại Tình Yêu của tác giả George Sand.
Mang Xuống Tuyền Đài - John Grisham
Nguyên tác: The Chamber Tác giả: John Grisham Dịch giả: Hoàng Hải Thủy Làng Văn, Canada, xuất bản 1998 Truyện The Chamber – Mang Xuống Tuyền Ðài – làm tôi cảm động. Truyện tả tình gia đình, tình ông cháu, tình cô cháu. Truyện xẩy ra trong một tỉnh miền Nam Hoa Kỳ, nơi trước năm 1960 có nạn kỳ thị Ðen Trắng rất nặng. Ông già Cayhall bị giam trong tù, bị xử án tử hình vì tội đặt bom làm chết người, án tử sắp được thi hành. Adam, một luật sư trẻ tuổi vừa ra trường, cháu nội của ông già Cayhall, về tỉnh này để cứu ông nội khỏi bị người ta giết. Ông bố của Adam tự tử chết, bà mẹ của Adam đi lấy chồng khác, Adam có bà cô ruột là cô Lee ở thành phố có nhà tù giam ông già Cayhall. Cô Lee Cayhall sống ly thân với ông chồng chủ ngân hàng, vợ chồng cô có anh con trai nhưng anh này là dân Gay, tiếng Sài Gòn xưa gọi là Pê Ðê, anh sang Hà-lan làm bồi nhà hàng và sống như vợ chồng với một gã đàn ông. John Grisham không tả rõ, tôi đọc và dịch The Chamber, tôi thấy và tôi cảm động vì mối tình của Cô Cháu Lee- Adam. Cô Lee muốn có anh con đàng hoàng như Luật sư Adam, Adam cô đơn ao ước có bà mẹ đẹp, hiền như cô Lee. Mời quí vị đọc đoạn truyện tả khi Adam còn nhỏ, ông bố Adam tự tử, cô Lee đến dự tang lễ và thăm chị dâu và hai cháu: Adam cháu trai, Carmen cháu gái. *** Sau hai mươi ba năm, Adam Hall trở lại nơi ra đời. Chàng không thấy xúc động mà cũng chẳng cảm thấy được hân hoan chào đón hay bị xua đuổi. Tuy không có gì để ngán sợ nhưng Adam vẫn lái xe với tốc độ hết sức khiêm tốn, để cho tất cả những xe chạy sau qua mặt. Con đường chàng đi dài như vô tận giữa những cánh đồng mênh mông của vùng đồng bằng sông Mississippi. Trên một quãng đường dài 5 cây số, xe chàng chạy cùng chiều với một con dê lướt mình trên đồng cỏ mượt, qua ấp Walls, thị trấn thứ nhất đáng gọi là thị trấn trên xa lộ 61. Qua nghiên cứu, chàng biết con đường này là một trong những trục lộ chính mà hàng trăm ngàn người da đen nghèo khổ đã đi từ miền Nam lên miền Bắc, đến những thành phố Memphis, St. Louis, Chicago, Detroit…, những nơi họ có thể tìm được việc làm và nơi cư ngụ. Chính ở những dãy nhà tồi tàn, lụp xụp, những tiệm rượu đầy màu sắc dọc theo xa lộ này mà nhạc Blues đã ra đời và phát triển lên miền Bắc. Tại đây nó hoà đồng với nhạc Thánh ca và nhạc Đồng quê để rồi cả ba kết hợp và sản sinh ra nhạc Rock and Roll. Vừa lái xe, Adam vừa nghe băng nhạc của ban nhạc Muddy Waters khi xe chàng chạy ngang quận Tunica, một quận lị có tiếng nghèo nhất nước. Âm nhạc không làm chàng dễ chịu hơn được bao nhiêu. Sáng nay ở nhà cô Lee, chàng không ăn sáng, nói rằng không đói nhưng thực ra gan ruột chàng như thắt lại, không thể ăn được. Càng đến gần nhà tù Parchman, gan ruột chàng càng thắt chặt hơn. Rồi cuối cùng Adam cũng đến nơi phải đến. Trông bên ngoài không có vẻ gì là nhà tù. Không thấy có những bức tường cao, những hàng rào thép gai, vọng gác, lính canh, không có những đám tù nhân hung ác hộc lên, hú lên khi có người lạ đi ngoài hàng rào. Chỉ có hàng chữ xi-măng đắp trên vòm cổng: “Khám đường bang Mississippi”. ... Mời các bạn đón đọc Mang Xuống Tuyền Đài của tác giả John Grisham.
Vết Chân Tự Ngã Trên Đường Về Không - Nhụy Nguyên
Cõi nhân gian âu là sự phóng chiếu của tâm thức nghiệp báo, song cũng là sự hiện tướng trong màn hình chân như. Khoa học hiện đại thật sự ngạc nhiên khi nhìn thấy lỗ hổng thời gian và đang dần hoài nghi về không gian, như chính thời-không từng xuất hiện và biến mất trong giấc mơ qua sự thể nghiệm ở mỗi chúng ta. Trần ai huyễn mộng - chân lý này phải bậc triệt ngộ mới thể nhập thông qua thiền-tuệ, ngoài ra không cách gì chứng biết dẫu khoa học có phát triển đến ngưỡng như những nền văn minhtrước trái đất từng hoại diệt chăng nữa. Con người sinh ra hữu ý hay vô tình đều đã nương vào ánh sáng mặt trời mà lớn lên như chính niềm ân sủng vô biên của Phật pháp. Đức Phật là bậc thấu triệt quy luật vận hành của vũ trụ nhân sinh và thuyết lại y nguyên không chút sáng tạo. Mà trước hết Kinh điển luôn dạy những căn cốt của triết lý nhân sinh. Ấy là nhân quả báo ứng tơ hào không sai, luân hồi lục đạo xoay vần theo nghiệp báo; ai nỗ lực hành pháp đúng theo lộ trình Giới - Định - Tuệ, dẫu họ ở địa vị thấp hèn nhất vẫn đồng cơ hội chạm đến chiếc chìa khóa mở Kho tàng Phước-Trí vốn sẵn nơi Tâm; xem như bảo vệ thành công Luận án kiếp người. Trong nỗ lực bước đầu chập chững hành theo Kinh điển, vẫn biết những gì chia sẻ ra trong cuốn sách nhỏ này, xét riêng về bản thân là tự chướng ngại và đang tiếp tục làm tổn thương người khác. Với lòng chân thành hết mực, cúi mong quý bạn đọc thứ tha cho những dấu vết tự ngã sâu nặng của tác giả ẩn hiện trong từng dòng chữ lẽ ra im lặng vẫn hơn. *** Nhà văn Nhụy Nguyên tên thật là Trần Nguyên Sỹ Quê quán: Phù Lưu - Lộc Hà - Hà Tĩnh Hiện công tác tại Tạp chí Sông Hương Tác giả từng viết đều ở các thể loại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, tùy bút, tiểu luận. *** Thời mạt quá trọng nghi lễ, khiến cho việc hành chuyên môn giảm xuống. Không ai muốn phủ nhận việc thi hành một số lễ trước lúc người quá cố về chín suối. Người có đạo lực, họ có thể hướng dẫn linh hồn vững tin bước vào con đường sáng ở kiếp sau. Việc tụng kinh sẽ động viên hương linh thêm phần chính niệm. Đến là bậc chứng Thành nếu siêu độ thì người được nhận cũng chỉ sinh lên cõi trời Đao Lợi là cùng. Như tôi chưa hề soi thấu kiếp mình, việc tụng kinh sám hối giùm ai với tâm vọng động ngã chấp không chừng lại khiến linh hồn thêm phần hoang mang lầm lạc. Suốt đời tâm hiểm, lúc chết đâu dễ “nhờ ai” có thể giải nghiệp! Có chăng ở phút hấp hối, nếu họ nhận diện lỗi lầm, hướng nương theo Hương bát nhã, tịnh tâm niệm Phật và được nhiều người cùng hộ niệm may ra Phật lực hút khỏi Ta bà. Ở Tây Tạng hiện vẫn tồn tại tục điểu táng, có khi họ chặt khúc người chết cho chim ăn; ở sông Hằng có tục thủy táng (để người tu thấy được sự vô thường của xác thân). Ngay trong nước, cùng sự chết song ở một số nơi thuộc miền Bắc thường đưa đám trong vòng ba ngày kể cả ngày mất, còn ở phía Nam có nơi người chết để vài tuần, thối rữa… trên mặt đất! Phật giáo khai thị chí lý điều này: chỉ cần thật yên tĩnh trước, trong và sau lúc mất ít nhất 8 tiếng, sau đó mới đụng chạm đến người quá cố; tốt hơn thì trước lúc mất khuyên họ đừng tơ vương cõi trần quyến thuộc mà trụ tâm niệm Phật cầu vãng sinh Cực lạc. Làm trọn điều này còn lo chi đến ngày giờ tốt xấu. Sao khổ chủ đợi cho kỳ được ngày giờ tốt nhất mới táng người quá cố thân yêu, trong lúc người dương hoàn toàn có thể giúp bằng cách làm thật nhiều việc thiện hồi hướng cho người âm. Đó là điều có ích nhất mà họ sẽ nhận được từ chúng ta. Trong xã hội phong kiến Ấn Độ, nguyên thủy Phật không đề xướng đi cúng mà chỉ đến giảng pháp, thụ trai tại gia nếu được mời. Phát sinh việc này cũng chưa hẳn sai.  ... Mời các bạn đón đọc Vết Chân Tự Ngã Trên Đường Về Không của tác giả Nhụy Nguyên.