Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuộc Tội

Vào một ngày hè nóng nhất năm 1935, cô bé mười ba tuổi Briony Tallis bất chợt trông thấy chị gái Cecilia trút bỏ áo quần rồi lao mình xuống bể đài phun nước trong khu vườn rộng trước nhà. Cùng chứng kiến cảnh ấy, là Robbie Turner, người bạn của nàng từ thuở nhỏ, và cũng như nàng vừa trở về từ đại học Cambridge.  Đến cuối ngày hôm ấy cuộc đời của cả ba người đã vĩnh viễn thay đổi. Robbie và Cecilia sẽ vượt qua một biên giới mà họ chưa từng hình dung rằng có tồn tại, và trở thành nạn nhân của trí tưởng tượng của cô bé mười ba tuổi kia. Còn Briony, em đã chứng kiến những chuyện bí ẩn và phạm phải một tội ác mà để chuộc lại thì có lẽ cần nhiều hơn một đời người.  Chuộc tội được làm nên bằng từng chi tiết được khắc họa tỉ mỉ đến tinh xảo, những nhân vật và tâm hồn nhân vật được xây dựng cá biệt nhưng thống nhất cao độ, những khám phá cơ hồ thanh tân về sự dối trá của vẻ bề ngoài và sự ngây thơ ẩn tàng diệt hủy, tất cả đặt trong một kết cấu độc nhất vô nhị - dàn trải mà vẫn tập trung, phi tuyến tính nhưng hoàn toàn logic. Vẫn những chủ đề quen thuộc như tình yêu và tội lỗi, giận dữ và thứ tha, nhưng Chuộc tội đã được tạo tác tuyệt vời đến mức không gì trong cuốn sách đem lại cho người đọc cảm giác cũ mòn. Phảng phất u tối nhưng quyến rũ kỳ lạ, cho đến nay đó thực sự là tác phẩm viên mãn nhất của McEwan, xứng đáng với giải thưởng cao quý National Book Critics Circle Award dành cho thể loại tiểu thuyết vào năm 2002.   "Một tiểu thuyết tuyệt tác" - Independent "Những khám phá xuất sắc về dòng chảy của tội lỗi, nỗi hổ thẹn và sự giận dữ..." - Scotsman *** Ian McEwan sinh ngày 21/6/1948 tại Aidershot, Anh. Ông từng học ngành Văn học Anh tại Đại học Sussex và tốt nghiệp cử nhân năm 1970, sau đó lấy tiếp bằng Thạc sĩ Văn học Anh tại Đại học East Anglia. Các tác phẩm của McEwan được giới phê bình thế giới đánh giá cao. Ông đã giành giải thưởng Somerset Maugham Award năm 1976 cho tập truyện ngắn First Love, Last Rites; giải Whitbread Novel Award (1987) và Prix Femina Etranger (1993) cho tác phẩm The Child in Time; đồng thời giành được cả giải Germany’s Shakespeare Prize vào năm 1999. Ông đã nhiều lần lọt vào danh sách đề cử chốt của giải Man Booker Prize và đến năm 1998 đã giành được giải thưởng cao quý này cho tác phẩm Amsterdam. Cuốn tiểu thuyết Atonement đã giành được giải WH Smith Literary Award (2002), giải National Book Critics’ Circle Fiction Award (2003) của giới phê bình Anh, giải Los Angeles Times Prize dành cho thể loại hư cấu (2003) và giải Santiago Prize dành cho Tiểu thuyết Châu Âu (2004). Năm 2000, ông cũng được trao giải CBE, giải thưởng cao quý của Hoàng gia Anh dành cho những người có cống hiến xuất sắc. Năm 2006, cuón tiểu thuyết Saturday của ông đã giành được giải James Tait Black Memorial Prize. Còn tại lẽ trao giải British Book Awards 2008, Trên bãi biển Chesil đã giành được giải Book of the Year (Cuốn sách của năm) đồng thời đem lại cho tác giả của nó danh hiệu Author of the Year (Tác giả của năm). McEwan đã kết hôn hai lần. Người vợ thứ hai của ông, Annalena McAfee, từng là biên tập viên cho mục Bình luận của tờ The Guardian danh tiếng. Ngoài sự nghiệp, ông còn khá nổi tiếng trên mặt báo khi vào năm 1999 người vợ đầu tiên của ông bắt cóc đứa con trai 13 tuổi khi tòa trao quyền giám hộ con chỉ cho mình ông. Tiểu thuyết Chuộc tội cũng từng bị cáo buộc là đạo văn từ cuốn No Time for Romance của Lucilla Andrews. Tuy nhiên McEwan công khai khẳng định mình vô tội trên tờ The Guardian, lý do là trong ghi chú cuối tiểu thuyết của mình, ông đã nêu rõ tác phẩm của Andrews. Bộ phim cùng tên dựng lại từ tác phẩm Chuộc tội của McEwan đã được đề cử bảy giải Oscar quan trọng và giành được giải Nhạc nền xuất sắc nhất tại lễ trao giải Oscar lần thứ 80 năm 2008. Cùng năm đó, bộ phim cũng đồng thời giành được giải Phim hay nhất ở cả giải Quả cầu Vàng và giải British Academy Film Awards của Viện Điện ảnh Anh Quốc. Hiện Website chính thức của tác giả tại địa chỉ www.iannicewan.com. *** Review Thu Hoài - Trạm Đọc: Bất cứ lúc nào bàn về tội ác ấu dâm, người ta cũng chỉ nói đến nỗi đau thể chất và tinh thần của người bị hại, thế còn tinh thần của những người chứng kiến thì sao? Khi mà xã hội ngoài kia đang sôi sục về những vụ ấu dâm thì tôi cũng đọc được một câu chuyện ấu dâm khác trong thời Thế chiến thứ Hai, khi con người ta còn nhiều nỗi lo hơn so với cái xã hội rảnh như bây giờ. Bất cứ lúc nào bàn về tội ác ấu dâm, người ta cũng chỉ nói đến nỗi đau thể chất và tinh thần của người bị hại, thế còn tinh thần của những người chứng kiến thì sao?  Cấu trúc truyện lồng trong truyện trong cuốn sách Chuộc tội của Ian McEwen kể về lời khai của một cô bé mười ba tuổi khi là nhân chứng duy nhất trong vụ cưỡng hiếp người chị họ, kèm theo nỗi đau tinh thần đã kéo dài hơn sáu mươi năm, và một lời thú tội muộn màng. Mùa hè 1935, Robbie Turner bị bắt vì tội cưỡng hiếp cô bé Lola mười lăm tuổi,  một người họ hàng của gia đình Tallis. Nhân chứng và lời khai duy nhất của vụ án là con gái út mười ba tuổi, Briony Tallis, người đã chắc chắn khẳng định hung thủ là Turner, khi cô tình cờ bắt gặp cảnh tượng khủng khiếp ấy trong đêm tối tại khu vườn gần nhà. Turner là con trai người hầu và người giúp việc của gia đình Tallis, đồng thời cũng là người bạn ấu thơ của Cecilia Tallis. Qua lời tố cáo của Briony, Turner cũng là người đã bắt Cecilia cởi bỏ đồ trước mặt hắn, viết bức thư dâm đãng gửi và tra tấn Cecilia trong thư viện. Trong thời chiến tranh, để huy động hết lực lượng quân số, những người mang trọng tội như Turner đã được cho phép đi lính thay vì ngồi trong tù của chính phủ Anh.  Đọc đến đây, bạn có thể nói “Đáng đời hắn, những kẻ vô nhân tính như hắn đáng phải đền tội” hay những câu tương tự như vậy. Tôi cũng phần nào đồng cảm với bạn. Nhưng lời khai của một đứa trẻ tuổi vị thành niên có đáng tin không? Nếu là thời nay chắc cảnh sát và truyền thông còn phải mổ xẻ rất nhiều tình tiết trong lời khai ấy. Nhưng khi ấy, cảnh sát và quân đội Anh còn phải lo về thuốc súng đạn dược trong cuộc chiến tranh với Đức, ai rảnh đâu đi điều tra lời nói của một đứa bé. Họ thậm chí còn mừng thay khi có một nhân chứng, và nhân chứng ấy lại vô cùng quả quyết, chắc chắn về những gì mình nhìn được. Briony có lẽ còn xứng đáng trở thành anh hùng trong lòng các cô gái trẻ ấy chứ.  Ấy vậy mà, người “anh hùng” của chúng ta, Briony lại sống trong những năm tháng đau khổ và dằn vặt suốt phần đời còn lại của mình. Năm năm sau, cô trở thành y tá thực tập trong bệnh viện London thay vì đi học tại Cambridge. Những lần chứng kiến thời khắc cuối cùng của người lính, cô thường nghĩ đến số phận của Robbie ngoài chiến trường. Cô cũng đã viết rất nhiều bức thư gửi chị gái Cecilia, người đã từ bỏ gia đình sau khi Robbie bị bắt và trở thành y tá, nhưng chưa bao giờ nhận được hồi âm. Cô đã lo sợ nếu không gặp được chị gái, cô sẽ không bao giờ có thể nói được lời xin lỗi, vì sự thật mà cô tiết lộ vô cùng đau lòng. Hung thủ mà Briony nhìn thấy năm năm trước hóa ra lại không phải là Robbie Turner.  Đối với cô khi ấy, Robbie là một con quỷ dâm dục nhưng trước đó cũng là người mà cô vô cùng cảm mến. Briony đã từng liều mình nhảy xuống hồ chỉ để xem liệu Robbie có cứu mình không, và để nói lời yêu với anh. Nhưng hỡi ôi, một cô bé ngây thơ và nông nổi trong thâm tâm không muốn người mình yêu ở bên cạnh chị cô nên đã sẵn sàng nói dối dù đã mười mươi nhìn thấy hung thủ là ai, một lời nói dối đủ làm thay đổi cuộc đời của cả ba con người. Trong suốt những năm tháng làm y tá, Briony vẫn viết, nhưng không còn là những tiểu thuyết mộng mơ như thuở nhỏ nữa. Ngồi cô độc đánh máy trong những đêm lạnh tại bênh viện, Briony đã viết một lời thú tội chân thành không màu mè, hoa mỹ cho những người đã tin vào những lời nói dối năm xưa của cô. Lời thú tội đó sau cùng trở thành cuốn tiểu thuyết cuối đời của cô, cuốn sách mang tên Chuộc Tội.  Nhưng rốt cuộc đó vẫn chỉ là sự hèn nhát sau cuối của Briony, khi tất cả những người liên quan đều đã chết, họ mãi không được biết sự thật. Dù có viết bao nhiêu cuốn sách cũng không thể bù đắp lại được cuộc đời hạnh phúc cho Robbie và Cecilia. Vở kịch đầu tiên của Briony xuất hiện ở cuối truyện giống như nhắc lại cuộc đời hai con người ấy suy cho cùng cũng chỉ là vở kịch mà người khác dựng lên.  Briony đã nhận sai, nhưng vẫn tiếp tục làm sai, vẫn chỉ là con người hèn nhát không giống như trong cuốn tiểu thuyết kia.  Briony đã đi đến cuối đời bằng nỗi tuyệt vọng và tự lừa dối chính mình bằng ảo tưởng hạnh phúc. Không có gì sai khi lên tiếng trước một tội ác, chỉ là đừng như Briony, hãy làm người hùng thật đúng cách để không bao giờ phải nhận lấy đau khổ khi đứng trước sự thật mà thôi. *** Vở kịch - mà vì nó Briony đã thiết kế áp phích, tờ chương trình và vé, dựng quầy bán vé từ một bình phong xiêu vẹo quây lại và lót hộp thu tiền bằng giấy kếp đỏ - được em viết trong hai ngày sáng tác vũ bão, khiến em bỏ mất một bữa sáng và một bữa trưa. Khi mọi chuẩn bị đã chu tất, em chỉ còn việc thưởng ngoạn bản thảo hoàn chỉnh và đợi các em họ từ phương Bắc xa xôi đến. Sẽ chỉ có một ngày duy nhất để diễn tập trước khi anh trai em về. Lúc ớn lạnh xương tủy, khi buồn đau bén ngọt, vở kịch kể một câu chuyện của trái tim mà thông điệp được của nó, được chuyển tải trong phần mào đầu có vần điệu là tình yêu không được dựng xây trên nền tảng lý trí thì rồi sẽ lụi tàn. Nỗi đam mê bồng bột của nhân vật chính Arabella dành cho một tên bá tước ngoại quốc gian ác đã bị vận rủi trừng phạt: nàng mắc phải bệnh tả khi bốc đồng lao đến một thị trấn ven biển cùng kẻ ngỡ là sẽ cưới ấy. Bị hắn và hầu như hết thảy mọi người ruồng bỏ, nằm liệt giường trên một căn phòng gác xép, nàng khám phá ra tự trong mình khiếu hài hước. Số phận đem lại cơ hội thứ hai cho nàng xuất lộ dưới hình hài một vị thầy lang bần hàn - thực ra là chàng hoàng tử vi hành tự nguyện lao động giữa những người cùng khổ. Được chàng chữa lành bệnh, Arabella lần này chọn lựa một cách sáng suốt, và được đáp đền bằng cuộc đoàn tụ với gia đình và lễ cưới với chàng hoàng tử-thầy lang trong “một ngày xuân ngập tràn nắng và gió”. Bà Tallis đọc bảy trang vở kịch Những gian nan của nàng Arabella trong phòng ngủ, tại bàn trang điểm, với vòng tay của tác giả choàng qua vai suốt thời gian ấy. Briony chăm chú theo dõi từng dấu hiệu biến đổi cảm xúc trên khuôn mặt mẹ, và Emily Tallis chiều lòng con bằng vẻ mặt khi thảng thốt, lúc khúc khích hân hoan, rồi cuối cùng, nụ cười khích lệ và những cái gật đầu lịch duyệt, tán thành. Bà vòng tay ôm con gái vào lòng - ôi, cái cơ thể nhỏ nhắn mịn màng ấm nóng bà nhớ từ khi còn đỏ hỏn này, vẫn còn chưa lìa khỏi bà, chưa lìa hẳn - và bảo vở kịch thật “tuyệt diệu”, rồi ngay lập tức thì thầm vào vành tai đang căng ra của con gái đồng ý cho phép trích dẫn từ này lên tấm áp phích sẽ treo trên giá dựng ở tiền sảnh cạnh quầy vé. Khi đó Briony cơ hồ chưa biết, nhưng lời nhận xét ấy chính là cực điểm thành công của công trình này. Không gì đem lại cảm giác thỏa nguyện hơn thế, tất cả còn lại chỉ là mộng mơ và thất vọng. Có những khoảnh khắc chiều hè chạng vạng, khi ánh sáng phòng lụi tắt, vùi mình trong sự ảm đạm ngọt ngào của chiếc giường bốn cọc màn, em khiến tim mình rộn lên bằng những tưởng tượng lung linh, khao khát, mang trong chúng những vở kịch ngắn nho nhỏ, từng vở một đều có vai chính là Leon. Ở vở này, khuôn mặt to, hiền lành của anh nhăn lại vì đau đớn khi Arabella rơi vào cảnh cô đơn và quẫn bách. Ở vở kia, kìa anh đó, ly cocktail trên tay tại một quán bar thành phố thời thượng, đang lớn tiếng huênh hoang với đám bạn: Phải, em gái tớ đấy, văn sĩ Briony Tallis, các cậu hẳn đã nghe tiếng rồi. Vở thứ ba, anh đắc chí đấm tay vào không khí khi sân khấu hạ màn, mặc dù chẳng có tấm màn nào hết, cả khả năng tồn tại một tấm cũng không. Vở kịch em viết không phải để dành cho mấy đứa em họ, nó dành cho anh của em, để chào mừng anh trở về, để khơi dậy ở anh lòng ngưỡng mộ và hướng anh tránh xa khỏi hàng loạt cô bạn gái kế tiếp nhau một cách thiếu suy nghĩ, đến hình mẫu người vợ chân chính, người vợ sẽ thuyết phục anh về sống ở vùng quê, người vợ sẽ dịu dàng đề nghị Briony làm phù dâu cho lễ cưới. Em là đứa trẻ bị ám ảnh bởi nỗi khát khao biến thế giới thành nơi trật tự tuyệt đối. Trong khi phòng chị em là mớ hổ lốn những sách không gấp, áo quần không xếp, giường không dọn, gạt tàn không đổ, thì phòng Briony là một thánh đường cho vị thần thích kiểm soát trong em: mô hình trang trại đồ chơi trải ra trên bậu cửa sổ sâu vào phía trong, gồm những súc vật quen thuộc, nhưng tất cả đều hướng về một phía - chủ nhân của chúng - như thể toan cất lời đồng ca, và ngay cả đàn gà mái trên sân trại cũng được quây lại gọn ghẽ. Mà thực ra, phòng Briony là căn phòng ngăn nắp duy nhất ở tầng trên trong nhà. Các em búp bê lưng được đặt thẳng đứng trong biệt thự nhiều phòng của chúng dường như tuân theo một chỉ thị nghiêm ngặt là không được phép chạm vào tường; vô vàn các con giống đồ chơi to cỡ ngón tay cái trên bàn trang điểm - những chàng cao bồi, những thợ lặn biển sâu, những chú chuột hình người - được sắp xếp theo hàng lối ngay ngắn và cách nhau đều đặn như một đạo dân quân đang chờ lệnh. Thích vật thu nhỏ là một khía cạnh của tinh thần ngăn nắp. Một khía cạnh khác là đam mê bí mật: trong chiếc tủ đánh véc ni quý giá có một ngăn kéo bí mật chỉ mở ra được bằng cách nhấn vào thớ gỗ của cái mộng đuôi én khớp lại một cách khéo léo, ở đó em cất giấu cuốn nhật ký khóa bằng móc gài, và cuốn sổ viết bằng thứ mật mã do em tự chế ra. Trong cái két đồ chơi mở bằng mật mã sáu số, em lưu thư từ và bưu thiếp. Một hộp thiếc cũ đựng tiền nhỏ xíu được giấu dưới một tấm ván sàn cạy lên được dưới gầm giường em. Trong hộp là kho báu em tích trữ được trong bốn năm qua, bắt đầu từ lần sinh nhật chín tuổi: một quả sồi đôi đột biến, viên quặng pyrit, một bùa làm mưa mua tại hội chợ giải trí, một cái sọ sóc nhẹ bẫng như chiếc lá. Nhưng ngăn kéo bí mật, nhật ký khóa cài và hệ thống mật mã không che được cho Briony một sự thật giản dị: em chẳng hề có bí mật nào. Khát khao vươn tới một thế giới trật tự hài hòa tước khỏi em khả năng bốc đồng làm điều sai trái. Phá hỏng và hủy diệt là những thứ quá hỗn loạn không phù họp với sở thích của em, và bản tính em cũng không phải là người ác nghiệt. Thân phận thực tế là đứa trẻ duy nhất trong nhà, cộng với việc ngôi nhà gia đình Tallis khá hẻo lánh, đã khiến em, ít ra là trong suốt những ngày nghỉ hè dài dặc, không tham dự vào các trò con gái với đám bạn. Không gì trong cuộc sống em đủ độ hấp dẫn hay đáng xấu hổ đến mức phải giấu đi; không ai biết về cái sọ sóc dưới gầm giường, mà cũng chẳng ai buồn biết. Không gì trong số những điều vừa kể là nỗi ưu phiền gì đặc biệt; có chăng chỉ phảng phất vậy khi hồi cố lại, mà khi đó, giải pháp đã được tìm ra. Năm mười một tuổi, em viết câu chuyện đầu tay - một chuyện tình xuẩn ngốc, mô phỏng đến quá nửa tá truyện dân gian và thiếu, sau này em nhận ra, sự hiểu biết thiết yếu về cách thế giới vận hành để buộc độc giả phải ngưỡng phục. Nhưng thử nghiệm vụng về đầu tiên này mở ra cho em biết trí tưởng tượng, chỉ riêng nó thôi, đã là cả một nguồn sản sinh bí mật: một khi em bắt đầu một câu chuyện, sẽ không ai biết gì cả. Ngụy tạo thế giới bằng ngôn ngữ là việc quá không chắc chắn, quá yếu ớt, quá xấu hổ không thể để ai biết được. Ngay cả viết ra những cô nói, những và rồi cũng khiến em nhăn mặt, và thấy mình thật ngốc nghếch khi tỏ vẻ hiểu cảm xúc của một sinh vật tưởng tượng. Tự phơi bày chính mình là điều không thể tránh khỏi khi em miêu tả sự yếu mềm của nhân vật; độc giả buộc phải ngờ rằng em đang miêu tả chính em. Em còn có tư cách nào khác nữa chứ? Chỉ khi câu chuyện kết thúc, mọi số phận được dàn xếp ổn thỏa và toàn bộ vấn đề đã hoàn toàn khép lại để giống như, ít nhất ở khía cạnh này, mọi câu chuyện có kết thúc khác trên thế giới, thì em mới cảm thấy yên tâm, và sẵn sàng đục lỗ trên lề, dùng dây đóng các chương lại, vẽ bìa bằng màu hay chì đen, rồi mang tác phẩm hoàn tất đến khoe với mẹ, hoặc cha, khi ông có nhà. Mời các bạn đón đọc Chuộc Tội của tác giả Ian McEwan.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bí Ẩn Thanh Minh Thượng Hà Đồ
Đằng sau mỗi món đồ cổ, là tầng tầng lớp lớp lịch sử và văn hóa truyền thừa bao đời; Đằng sau mỗi món đồ giả, là mánh lới tính toán tinh vi cùng cạm bẫy khó bề tưởng tượng. Hứa Nguyện rửa được nỗi oan cho ông nội, nổi lên như một anh hùng đánh hàng giả trên thị trường cổ ngoạn, song lòng vẫn canh cánh mối thù gia tộc với Lão Triều Phụng - bàn tay đen đứng sau bi kịch bao đời nhà họ Hứa. “Tình cờ” thay, mọi manh mối về kẻ cầm đầu dòng chảy ngầm lớn nhất giới cổ vật này đều dẫn gã đến với quốc bảo Trung Hoa - Thanh minh thượng hà đồ. Một lần nữa Hứa Nguyện đơn thương độc mã dấn thân trên con đường trừ giả giữ thật mà không lường đến những gì mình sẽ phải đương đầu. Lôi Lão Triều Phụng ra ánh sáng, bảo vệ Minh Nhãn Mai Hoa trước nguy cơ lụi bại, giữ vững tôn chỉ của người giám định… ngần ấy nhiệm vụ hệ trọng dường như quá sức với một kẻ đang nôn nóng báo thù như gã. Bởi trong khi con người giám định cổ vật, cổ vật cũng giám định con người… *** Nửa đêm trộm mộ “ăn trên chiếu” Chơi đồ cổ quan trọng nhất là gì? Người nói là mắt nhìn, kẻ lại bảo là quan hệ, thực ra đều không chính xác. Ngành này xét đến cùng phải chú trọng hai chữ: “duyên phận”. Thế nên người chơi đồ cổ thế hệ trước phần nhiều đều tin số mệnh, cho rằng số đã có ắt có, số không có thì đừng cố. Nếu không có duyên với một món đồ mà cứ cố giành về tay, gọi là đi ngược ý trời, sẽ dẫn tới hậu họa khôn lường, món đồ ấy không còn là hàng tốt nữa, mà trở thành vật dữ cắn chủ, nhẹ thì thân bại danh liệt, nặng thì nguy tới tính mạng. Có điều đây đều là cách nói từ xưa, được quy vào mê tín dị đoan. Thời bây giờ ai cũng tiếp thu mấy chục năm giáo dục theo chủ nghĩa duy vật, chẳng tin mấy lời đó nữa. Hễ có tiền đưa tới tay thì bất chấp quy củ cách thức, ta cứ thế xông lên phá vỡ đạp bằng, chẳng sợ gì sất. Thần tài ngồi trên, yêu ma quỷ quái cũng phải đứng sang một bên. Ví như mấy người ngồi cùng xe với tôi hiện giờ, rõ ràng không phải hạng con buôn cổ hủ trọng truyền thống. Tôi đang ngồi trong một chiếc van Toyota chín chỗ cũ nát, ngoài lái xe ra tổng cộng có năm người. Bên trong xe lặng phắc như tờ, chẳng ai bắt chuyện, cũng chẳng ai hàn huyên. Bốn người kia đều ngồi im tại chỗ, trưng ra vẻ mặt hờ hững khó gần. Chỉ khi xe thình lình xóc nẩy lên, họ mới đảo mắt thật nhanh, vờ như vô tình liếc nhau một cái sắc lẻm. Tôi cảm giác được họ không giống mình. Tôi là chủ một tiệm đồ cổ nhỏ trong thành phố, còn họ là con buôn cổ vật chuyên thu mua đồ cũ từ nông thôn. Những người này quanh năm suốt tháng lê la dưới quê, qua lại với đám nông dân vừa chất phác vừa gian xảo nên người cũng thoang thoảng mùi bùn đất và sát khí. Bọn họ là ai? Xe chạy đi đâu? Tôi hoàn toàn không biết. Cửa xe đóng kín, bên ngoài đêm tối như mực, không trông rõ được cảnh vật. Chỉ có tiếng động cơ chạy ì ì cho thấy chúng tôi đang tiến tới một mục tiêu nào đó. Tôi cũng chẳng buồn nghĩ nhiều, dựa đầu vào cửa kính lạnh lẽo, huyệt Thái Dương tì vào chốt cửa, gà gật ngủ. Xe chạy lắc lư tròng trành dữ dội, trong lúc mê man, tôi chợt có một ảo giác lạ lùng: thùng xe chẳng khác nào cỗ áo quan khổng lồ vừa đóng đinh, kín mít không lọt một tia sáng. Tôi nằm trong, bên ngoài có mười sáu người khiêng quan tài băng qua nghĩa địa, bước xuống lối vào mộ, tiến về phía huyệt mộ cuối cùng... Phải rồi, quên chưa tự giới thiệu. Tôi tên Hứa Nguyện, hơn ba mươi, là một tay buôn cổ vật cò con dưới chân hoàng thành. Tôi có một cửa tiệm nhỏ ở Lưu Ly Xưởng, buôn bán kim thạch ngọc khí, gọi là Tứ Hối Trai. Tứ hối là gì? Chính là hối người, hối việc, hối lỗi, hối lòng. Đây là lời trăng trối của bố tôi, dạo Cách mạng Văn hóa, ông bị hãm hại phải nhảy xuống hồ Thái Bình tự tử, chỉ để lại tám chữ này. Song đằng sau đó còn ẩn giấu một câu chuyện dài. Tổ tiên tôi là một chi trong “Minh Nhãn Mai Hoa” gồm năm gia tộc lâu đời trong ngành cổ vật, mỗi nhà sở trường giám định một loại đồ cổ, có địa vị cực cao trong giới sưu tầm. Sau giải phóng, Minh Nhãn Mai Hoa cải tổ thành Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa, vẫn có sức ảnh hưởng không nhỏ. Hứa Nhất Thành, ông nội tôi là chưởng môn Minh Nhãn Mai Hoa thời Dân Quốc, xuất thân Bạch môn, về sau vì đánh cắp đầu Phật ngọc ở minh đường Võ Tắc Thiên tuồn cho người Nhật nên bị coi là Hán gian đem xử bắn. Từ đó nhà tôi cũng sa sút không gượng dậy nổi, rút lui khỏi Minh Nhãn Mai Hoa. Vào ngày sinh nhật ba mươi tuổi, do sự thúc đẩy của những người cố ý, tôi đã rơi vào vòng xoáy này. Trải qua một phen bôn ba trắc trở, cuối cùng xem như tôi cũng giải oan được cho ông nội, đưa đầu Phật về nước, kết thúc mối dây dưa ngàn năm giữa nhà họ Hứa và đầu Phật ngọc. Sau khi xong việc, tôi quay về Tứ Hối Trai, tiếp tục buôn đồ cổ, sống lặng lẽ. Đột nhiên nghe phanh két một tiếng, người tôi đổ nhào về phía trước, sực tỉnh khỏi dòng ký ức. Xe đã dừng lại, tôi mở mắt ra, lắc lắc đầu. Ngờ đâu vừa quay đầu sang, tôi chợt thấy một gương mặt trắng bệch với đôi mắt cực kỳ quái dị hiện lên giữa bóng tối bên ngoài xe, một bên to tướng như mắt trâu, lòng đen ít lòng trắng nhiều, bên kia lại nhỏ xíu, thi trừng mắt với rùa chưa chắc đã thắng nổi. Cặp mắt một to một nhỏ này, trông như lúc nào cũng đang ngắm bắn. Tôi giật thót mình, vô thức rụt người lại, suýt nữa ngã nhào khỏi ghế. Bốn kẻ cùng xe cười nửa miệng, lộ vẻ khinh bỉ. Bấy giờ tôi mới nhớ ra, gương mặt này hẳn là của tài xế. Chẳng để tôi nghĩ nhiều, cửa xe đã bị kéo đánh “xạch”, tài xế ló đầu vào, đảo tròn con mắt to rồi làm động tác mời, giọng khàn khàn, “Tôi tên Mắt Trố, làm chân chạy bàn, mời các vị theo tôi.” Tôi vội điều hòa hơi thở, theo bốn người kia xuống xe. Vừa đặt chân xuống đất đã thấy mùi cỏ dại và cành thông xộc vào mũi man mát. Khỏi cần hỏi cũng biết, đây là mùi đặc trưng của chốn đồng không mông quạnh, hơn nữa còn là nơi hết sức hoang vu. Tôi nhìn quanh, lờ mờ thấy mấy ngọn núi đằng xa, trông như thú dữ mai phục trong đêm, có thể nhào tới bất cứ lúc nào. Mắt Trố bảo bọn tôi theo sát sau y. Mây đen đang bao phủ bầu trời, che khuất mặt trăng, chỉ có ngọn đèn pin loang loáng thoắt sáng thoắt tối trong tay Mắt Trố soi đường. Cây đèn pin của y có vẻ rất được chăm chút, bóng đèn bọc một khoanh giấy bìa cứng, như vậy cột sáng chỉ tập trung vào phía trước, không chiếu sang hai bên, nên cách hơi xa sẽ không thấy được. Chúng tôi bước thấp bước cao trên triền núi theo y chừng hơn mười phút, rẽ ngoặt liên tục, còn băng qua hai khoảng rừng. Rốt cuộc một người không kìm được lên tiếng hỏi, “Anh đưa chúng tôi đến đâu đây? Cỗ ở đâu vậy?” Mắt Trố quay lại nhe răng cười đáp, “Nôn nóng làm gì, chủ đâu có rời chiếu cỗ được.” Nói đoạn còn cười khà, tiếng cười như quạ. Y vừa cười, nhiệt độ xung quanh chợt hạ xuống, lạnh buốt cả người. Kẻ kia không dám hỏi thêm nữa, đành “hừm” một tiếng rồi đi tiếp. Đám chúng tôi đi chừng hơn nửa tiếng thì tới một khe núi vắng. Khe núi bị hai dãy núi cao ngất kẹp vào giữa, tạo nên một bình nguyên dưới chân núi. Từ đằng xa loáng thoáng nghe thấy tiếng nước chảy róc rách, hẳn là dòng suối từ trên núi chảy xuống, uốn quanh chỗ này, cắt khe núi thành hình tam giác. Khe suối là đáy, hai dãy núi sừng sững hai bên. Địa hình này trong phong thủy gọi là hai rồng xuống nước, là đất lành hợp xây mồ mả. Mắt Trố tiến vào khe núi thì dừng chân, rọi đèn pin về phía trước. “Bên này.” Chúng tôi nhìn theo ánh đèn, thấy thấp thoáng đằng xa một người trẻ tuổi mặc đồ rằn ri đang ngồi trước mặt là một cái hố rộng chừng nửa mét, mép hố còn gác ba chiếc xẻng cán thép và cả đống đất mới đào. Khỏi cần hỏi cũng biết ở nơi đất báu phong thủy thế này đào sâu ba thước ắt có mồ mả, có mồ mả tất có trộm mộ đánh hơi được kéo đến. “Đào tới đâu rồi?” Một tên mặt sẹo đi cùng tôi hỏi. Mắt Trố di chân xuống đất, hể hả đáp, “Tìm ra vị trí mộ rồi, vừa rồi chúng tôi mới đào đến vách sau, chỉ một nhát nữa là tới cửa thôi, đợi các vị đến mở chiếu đấy.” Mấy người đi cùng tôi đến trước hố đất, gạt lớp đất mới đào ra, vẻ mặt không ai giống ai. Nghe nói trộm mộ lâu năm chỉ cần nhìn đất là biết niên đại mộ. Có điều tôi chẳng có tài ấy, chắc hẳn mấy kẻ đi cùng cũng chẳng khá hơn. Chúng nhìn đất chỉ để yên tâm chứ đâu nhận ra cái gì. Kiểm tra đất xong, Mắt Trố cười khì, “Các vị may thật đấy, món lần này là thịt kho của bếp trưởng. Nếu không có gì thắc mắc thì lên món nhé?” Cả năm chúng tôi đồng loạt gật đầu, đứng tránh ra một quãng. Mắt Trố soi đèn pin về phía kia, hô “mở bát”, tức thì tên chạy bàn mặc đồ rằn ri đứng dậy, cầm chùy sắt và xẻng lên. Dáng gã gầy gò, lách vào hầm dễ như bỡn. Mắt Trố rút trong ngực áo ra một chai rượu trắng hàng chiết lẻ và năm cái chén, lần lượt đưa cho năm chúng tôi, “Trong núi sương dày lạnh giá, làm ít rượu trắng cho ấm người, phải chờ một lúc nữa cơ.” Không nói thì thôi, y vừa nói tôi liền thấy gió lạnh bốn bề, sương mù bảng lảng, vô thức liếc nhìn vào cánh rừng tối om. Mắt Trố đưa chén tới trước mặt tôi cười, “Chú em lần đầu ăn trên chiếu à?” Thấy tôi cười ngượng, y nói, “Ăn quen bén mùi, anh em mình vất vả một tí, nhưng chắc ăn hơn, có phải không?” Tôi gật đầu lia lịa, đón lấy chén rượu uống cạn, rượu trắng cay nồng như ngọn lửa cháy lan theo cổ họng xuống tận dạ dày, song mắt tôi vẫn dán vào đống bùn đất đang không ngừng đùn ra từ cửa hầm, lòng quặn lên. “Ăn trên chiếu” như lời Mắt Trố là một hoạt động khá kín đáo trong giới đồ cổ, trước đây tôi chỉ nghe nói, không ngờ hôm nay cũng được tận mắt chứng kiến. Phần lớn đồ cổ đến từ hai nguồn: một là đồ gia truyền đời đời lưu giữ, hai là đồ tùy táng bị đào ra. Loại trước được truyền đời rõ ràng, nhưng loại sau hơi khó phân định thật giả. Anh bảo món đồ này đào được trong mộ ra, bằng chứng đâu? Lỡ lừa gạt người ta thì sao? Phải biết có những món đồ cổ bản thân nó hoàn toàn không đáng tiền, tất cả giá trị đều nằm ở xuất xứ. Cùng một hạt dưa, mua từ hàng tạp hóa thì chẳng đáng một xu, nhưng nếu từ trong bụng xác nữ ở gò Mã Vương thì nghìn vàng chưa mua nổi. Thế là có kẻ nảy ra một cách, thăm dò xác định vị trí mộ đâu vào đấy, đào đường hầm đến cạnh mộ rồi để đó, mời vài người mua đến hiện trường, mở cửa mộ ngay trước mặt họ, đào lên bán sang tay luôn. Người mua chính mắt thấy đồ được đào dưới mộ lên, dĩ nhiên khỏi cần lo hàng giả. Trò này trong ngành đồ cổ gọi là “ăn trên chiếu”, không phải chiếu rượu, mà là chiếu cói, chiếu cói để làm gì? Thời xưa người ta dùng chiếu cói bọc xác chết, nên nó ý chỉ mồ mả. Những người mua như chúng tôi gọi là “khách”, trộm mộ thì gọi là “chạy bàn”, dĩ nhiên “chủ” chỉ người chết trong mộ. Bởi vậy vừa rồi Mắt Trố nói “chủ không rời được chiếu cỗ” khiến mấy người kia sợ quá nín thít. Mời bạn đón đọc Bí Ẩn Thanh Minh Thượng Hà Đồ của tác giả Mã Bá Dung & Tố Hinh (dịch).
Tiệm Bá Nghệ Tada Trước Ga Mahoro
Tada Keisuke, một nhân viên bán ô tô quyết định bỏ nghề, mở tiệm bá nghệ. Gyoten Haruhiko, một nhà nghiên cứu bệnh lý bỗng nhiên bỏ việc, lang bạt nay đây mai đó. Hai người bạn cấp ba chung lớp chưa một lần trò chuyện và chẳng khác nào hai đường thẳng song song ấy chỉ vì một lần trùng phùng nơi trạm xe buýt mà bước vào cuộc sống của nhau. Để rồi, ngày ngày họ rong ruổi khắp những con phố ở Mahoro trên chiếc xe tải nhẹ, làm đủ loại việc vặt mà khách yêu cầu; dắt chó đi dạo, thăm nom người ốm, quét dọn vườn tược, sửa chữa chuồng chó… Hai con người với hai tâm hồn cô độc chưa bao giờ cố để hiểu nhau, càng chẳng đòi hỏi gì ở đối phương, chỉ lặng lẽ sống như vậy qua ngày. Bởi họ biết rằng, một ngày nào đấy, hạnh phúc nhất định sẽ lại tìm đến mình dưới một hình hài nào đó thật khác. *** Miura Shion Cô sinh năm 1976 tại Tokyo, là con gái một học giả cổ điển nổi tiếng của Nhật Bản, vì vậy tình yêu với sách của tác giả được nảy sinh từ khi còn rất trẻ . Khi còn là sinh viên năm cuối khoa Văn Thư tại Đại học Waseda, cô bắt đầu tìm kiếm cho mình một vị trí biên tập, một công ty văn học đã nhận ra được tài năng viết lách của cô và thuê cô để bắt đầu viết một cột nhận xét sách trực tuyến ngay cả trước khi cô tốt nghiệp. Cô đã giành được nhiều giải thưởng lớn như:  Giải thưởng Naoki lần thứ 135.   Giải thưởng Oda Sakunosuke và Giải thưởng Nhà sách Nhật Bản năm 2012.   Một số các phẩm của cô đã được chuyển thể cho phim ngắn hoặc phim truyền hình. Sách của cô đã được dịch sang tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Đức và tiếng Ý. Tác phẩm: Bước Chạy Thanh Xuân Người Đan Chữ Xếp Thuyền Tiệm Bá Nghệ Tada Trước Ga Mahoro Những Vị Khách Của Tiệm Bá Nghệ Tada ... *** Bà Soneda đã tiên đoán như vậy “Sang năm là mầy bận rộn lắm đó con.” Vào buổi chiều một ngày cuối năm nọ, bầu trời quang đãng, bà Soneda đã buông một câu như vậy. Phòng khách của bệnh viện yên ắng quá đỗi. Ngoài khung cửa là bãi cỏ khô và những lùm cây rụng lá. Hai chiếc ti vi cỡ lớn đều giảm âm lượng xuống mức tối thiểu, một chiếc đang phát lại phim truyền hình dài tập, chiếc khác thì chiếu trận đua ngựa. Các ông già bà cả tập trung ngoài phòng khách thích ngồi bàn nào thì ngồi bàn đó, tự chia làm hai tốp rồi dán mắt vào một trong hai chiếc ti vi. Thi thoảng đâu đó sẽ vang lên những tiếng thọc tay vào gói bánh kiều mạch mang từ phòng bệnh tới hay tiếng bánh xe lăn kêu ken két. “Chả có nhẽ lại buôn may bán đắt nhỉ?” Tada Keisuke vừa cắt nhỏ bánh bông lan mật ong mua tới làm quà ra cho vừa miệng, vừa hỏi lại. Bà Soneda thì còn đang bận gườm chiếc bánh bằng cặp mắt sáng quắc như hổ rình mồi. Tada chỉ cắt ra hai miếng để vào đĩa giấy trên bàn rồi cất phần còn lại vào trong hộp nhựa, miệng căn dặn bà già: “Mẹ không thể ăn hết cả cái cùng lúc đâu! Đợi đến giờ ăn vặt rồi chia cho các bạn cùng phòng nhé.” Hắn rót trà nóng mua ở máy bán hàng tự động vào cốc giấy rồi đưa cho bà già. Bà nhúng bánh bông lan vào trà cho mềm ra rồi khởi sự ăn. “Buôn bán thì chả khác gì năm nay đâu! Mầy bận là bận chuyện của mầy ấy!” Bà già lại nói. “Không khéo mất luôn con vợ cũng chẳng biết chừng!” Vợ thì con bỏ từ đời rồi bà ơi! Tada nghĩ thầm trong bụng, song cũng chỉ im lặng nghe bà già nói tiếp. “Tiếp nhé, rồi mầy còn sẽ bắt đầu một cuộc thiên di, khóc khóc cười cười nữa cơ.” “Thiên di? Đi đâu cơ?” “Một nơi rất xa, rất xa. Xa như trong thẳm sâu trái tim mầy vậy.” Kể từ sau cái hồi bị bác sĩ phán rằng: “Những con ma xuất hiện vào ban đêm ấy thực chất chỉ là tâm cảnh của bà thôi, chúng được sinh ra từ trong lòng bà, bà Soneda à...” thì bà già đã không còn mấy lòng tin vào con tim mình nữa. Nên hẳn nơi mà bà nhắc đến phải xa cỡ nước ngoài, nơi người ta nói thứ ngôn ngữ hắn nghe không hiểu một chữ. “Ái chà, bà Kiku lại đang tiên tri kìa.” Nghe một giọng khàn đột ngột cất lên sau lưng, Tada ngoái lại. Ông lão hắn hay thấy trong bệnh viện với cây treo túi truyền dịch kiêm gậy batoong đang đứng đó. “Như nào rồi? Như nào rồi?” Ông lắc đầu, bỏ về phía chiếc ti vi. Bà già tiếp tục xì xụp hớp hết cốc trà. “Tóm lại là mầy sẽ bận bịu lên đấy, và không còn đến chỗ này mấy nữa.” “Kìa mẹ, chẳng có chuyện như vậy đâu!” Những lời sau đó nghẹn lại nơi cuống họng Tada. Hắn đã không thể thốt ra nổi một câu rằng: “Con sẽ lại đến.” Để xua đi giây phút ngượng ngập, hắn đề xuất: “Mình quay về phòng thôi nhỉ?” Nghe hắn nói vậy, bà Soneda chỉ lẳng lặng gật đầu. Bà già lững thững bước trên hành lang, Tada kiên nhẫn bước theo. Bà đã ngót nghét chín mươi đâm lưng còng xuống chỉ còn cao đến thắt lưng Tada. Phòng bệnh của bà là phòng cho sáu người, mỗi bên kê ba giường, giường của bà nằm ở giữa một bên. Tada lại giúp bà thật cẩn thận, cẩn thận, trèo lên giường. Bà già ngồi quỳ gối trên đó, cuộn người lại nom chẳng khác gì miếng bánh giầy Đại Phúc nhỏ bé. Tada đặt hộp nhựa đựng bánh bông lan lên chiếc tủ thép đầu giường rồi tính chào tạm biệt. Vừa lúc một y tá bước vào, khẽ gật đầu chào hắn, và thế là hắn để lỡ mất cơ hội chuồn cho nhanh của mình. Y tá vui vẻ bắt chuyện với bà lão. “Ôi! Bà Soneda có anh con trai ngoan quá. Anh lại đến thăm bà đấy à?” Đoạn cô ghé vào tai cụ già nằm giường trong cùng không rõ là ông lão hay bà lão, hét thật to: “Bác đau lưng ạ? Để cháu đổi tư thế cho bác nhé?” Rồi kéo roẹt tấm rèm ngăn hai giường lại. Có vẻ như ở phía bên kia rèm, cô y tá đang lật người cho cụ già, tránh để cụ bị loét lở vì nằm liệt. Tóc bà Soneda đã bạc trắng, còn lưa thưa có vài sợi. Tada cứ đứng đó hồi lâu nhìn xuống cái xoáy trên đầu bà, cuối cùng hắn nói. “Thế mẹ nhé, mẹ đón năm mới vui vẻ.” “Ừ.” Bà nói như đang thì thầm. Lúc nào chia tay bà cũng trở nên lầm lì ít nói. Tada bước vội ra ngoài hành lang, lúc đi khỏi cửa, hắn còn ngoái lại, bà lão vẫn cứ y chiếc bánh Đại Phúc ở trên giường, cúi gằm mặt xuống. Nếu thật sự là một “đứa con ngoan” thì đã chẳng để mặc bà mẹ già ốm o của mình lủi thà lủi thủi trong bệnh viện đón năm mới, càng chẳng để một người dưng nước lã tới thăm bà thay cho mình. Tuy nghĩ vậy nhưng Tada cũng hiểu chính vì bản thân hắn là một người xa lạ cho nên mới có thể nói ra những lời đãi bôi một cách vô tư như thế. Đến khi leo lên chiếc xe tải nhẹ màu trắng đậu trong bãi, hắn mới có thể thở phào nhẹ nhõm. Cho dẫu những bức tường kia có được sơn bằng màu kem tươi sáng cỡ nào chăng nữa, thì bầu không khí bên trong bệnh viện vẫn khiến tâm trạng người ta u sầu ủ dột chẳng rõ tại làm sao. Tada xoay chìa khóa khởi động xe, và trong lúc chờ hệ thống sưởi hoạt động, hắn đốt một điếu thuốc lá. Hỗn hợp mùi amoniac và thuốc sát trùng vẫn còn đẫm trong cuống mũi hắn. Hắn mở hé cửa sổ xe, đẩy tất cả theo làn khói thuốc thoát ra ngoài. Rút điện thoại khỏi túi áo khoác, hắn gọi vào một dãy số. Phải đến lần gọi thứ năm, hắn mới nghe được giọng một phụ nữ trung niên bắt máy. “Cửa hàng xây dựng Soneda xin nghe.” “Tôi là Tada bên tiệm bá nghệ, cho hỏi anh Masatoshi có đó không ạ?” “Ảnh đi ra ngoài rồi, cậu thăm bệnh xong rồi đó hả?” “Vâng, vừa mới xong.” “Cảm ơn cậu nhé. Tôi sẽ báo lại với chồng tôi.” Ê chị, cẩn thận đi thì hơn, năm sau có lẽ hai người sẽ ly hôn đấy.Hắn còn chẳng kịp nói những lời này thì điện thoại đã bị ngắt cái rụp. Thôi bỏ đi, hắn nghĩ, rồi gập điện thoại lại. Đương nhiên lời bà Soneda cũng có phải lời sấm truyền gì đâu, chỉ là chút thở than của người già thôi mà. Ngày mai hắn sẽ có năm đơn treo cây nêu ngày Tết, một đơn tổng vệ sinh nhà cửa. Tada lái con xe tải nhẹ, quay trở về văn phòng làm việc của mình nằm ở trước ga Mahoro. Mời bạn đón đọc Tiệm Bá Nghệ Tada Trước Ga Mahoro của tác giả Shion Miura & Phong (dịch).
Chiếc Vòng Thạch Lựu
Chiếc vòng thạch lựu, dịch giả Đoàn Tử Huyến. Tình yêu không vụ lợi là đây, đây là 1 trong những tác phẩm tình yêu hiếm hoi mình yêu thích   "Một trong những truyện ngát hương thơm và đầy day dứt về tình yêu - và buồn thảm nhất - đó là truyện Chiếc vòng thạch lựu của Cuprin" (Pauxtopxki) Chiếc vòng thạch lựu là thiên truyện tình hay nhất của nhà văn A. Cuprin, một mối tình trong sáng, mãnh liệt, cao cả, đẹp và buồn, sẵn sàng hi sinh bản thân bởi tình yêu, câu chuyện nhẹ nhàng đầy tính chất nhân văn. K. Pautovski từng nói về Cuprin rằng: "Chúng ta cần phải biết ơn Cuprin vì tất cả - vì tấm lòng nhân hậu sâu sắc của ông, vì tài năng vô cùng tinh tế của ông, vì tình yêu đối với tổ quốc và niềm tin không gì lay chuyển nổi vào hạnh phúc của dân tộc mình, và cuối cùng, vì khả năng không bao giờ mất đi ở ông, cái khả năng cháy lên từ những lần tiếp xúc dù ngắn ngủi nhất với chất thơ của cuộc sống, và viết về điều đó một cách thoải mái nhẹ nhàng." *** Aleksandr Kuprin là một trong những nhà văn Nga xuất sắc hồi cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20. Ở Việt Nam, ông được độc giả biết đến qua tác phẩm "Chiếc vòng thạch lựu" và "Người tình của vua Sô lô mông" (Суламифь). Aleksandr Ivanovich Kuprin (1870 - 1938) là một trong những đại diện cuối cùng của thế hệ bạc (Sliver Age) của dòng văn học Nga lãng mạn trước Cách mạng. Văn của ông có giọng điệu riêng và chiếm vị trí đặc biệt trong lòng độc giả Nga, ông được gọi một cách yêu quý là “Nhà văn của dân nghèo”.  Trong hơn 40 năm lao động sáng tác, ông đã để lại cho văn học Nga và thế giới một di sản đồ sộ với khoảng 300 tác phẩm lớn nhỏ. Các tác phẩm của ông bao quát nhiều lĩnh vực trong đời sống Nga cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Ông tập trung viết về cuộc sống đời thường, chủ đề tình yêu vẫn chiếm vị trí trung tâm. Các mối tình trong truyện của ông giản dị, không có kết thúc quá bi thảm, nhưng đa số đều không trọn vẹn, và đôi khi rất bất ngờ, để lại trong tâm trí người đọc một câu hỏi tuy chỉ thoáng qua nhưng day dứt. *** Vào giữa tháng tám, vừa mới bắt đầu có trăng non, thời tiết bỗng trở nên tồi tệ, như thường vẫn gặp ở vùng duyên hải bắc biển Đen. Khi thì một màn sương mù dày đặc suốt mấy ngày liền nặng nề bao trùm khắp mặt đất và mặt biển, và lúc đó chiếc còi lớn trên ngọn hải đăng ngày đêm rống lên như một gã trâu điên; khi thì ngày này sang ngày khác mưa phùn dai dẳng không dứt, biến các con đường đất sét lớn nhỏ thành bãi lầy đặc sệt, làm những cỗ xe ngựa chở khách và chở hàng thụt xuống mãi không lên được. Lại có khi một cơn bão tuyết hung dữ từ đồng cỏ hướng tây bắc tràn về, các ngọn cây ngả nghiêng, nằm rạp xuống rồi lại đứng thẳng lên như những cơn sóng biển trong dông tố; đêm đêm, mái nhà bằng sắt tây của các nhà nghỉ ngoại thành rung lên kêu loảng xoảng chắng khác gì có người đi ủng đế sắt chạy trên đó; những khung cửa sổ, của chính bị giật liên hồi; gió hú man dại trong các ống khói lò sưởi. Đã có mấy chiếc xuồng máy đánh cá bị lạc ngoài khơi, và hai chiếc vĩnh viễn không bao giờ về nữa; phải một tuần sau, sóng mới đánh dạt mấy xác người lên bờ ở những chỗ khác nhau. Những người trong khu nhà nghỉ ngoại ô cạnh bờ biển - phần lớn là dân Hi Lạp và Do Thái, yêu đời và cả lo như tất cả những người sống ở phương Nam - vội vã trở về thành phố. Dọc theo con đường cái lớn lầy lội, những đoàn xe bốn bánh chở hàng kéo dài tưởng như vô tận; trên xe chất đầy các vật dụng trong nhà - nệm giường, đi văng, hòm xiểng, bàn ghế, chậu rửa mặt, ấm xamôva. Vừa buốn, vừa thương hại, vừa khó chịu khi nhìn đoàn xe lôi thôi lốc thốc đến tồi tàn, bẩn thiửu và thê lương này qua màn mưa đục; nhìn đám hầu phòng và đầu bếp gái ngồi đè lên những tấm vải bạt ướt phía trên xe, tay giữ khư khư mấy chiếc bàn là, hộp sắt tây hoặc làn giỏ; nhìn những con ngựa kiệt sức, mình đẫm mồ hôi, thỉnh thoảng dừng lại, đầu gối run rẩy, hơi nước bốc lên như khói, cặp sườn thở gấp phập phồng; nhìn những người đánh xe quấn kín mình trong các tấm vải bố và chửi nhau đến khản cả giọng. Nhưng còn đáng buồn hơn nữa khi nhìn những ngôi nhà nghỉ đột ngột trở nên hoang vắng với những bồn hoa bị dẫm nát, những cửa kính bị vỡ toang, những con chó không chủ và đủ các thứ rác rưởi của đám người đi nghỉ bỏ lại - tàn thuốc lá, giấy lộn, mảnh gốm, vỏ diêm và ve lọ đựng thuốc ngổn ngang khắp nơi.   Mời các bạn đón đọc Chiếc Vòng Thạch Lựu của tác giả Aleksandr Kuprin.
Trăng Huyết
Thư gửi bạn đọc Trăng Huyết Trong mùa hè năm 2004, một người bạn Việt Nam trẻ tuổi của tôi hiện học tại Anh đã đọc Trăng Huyết, bản phóng tác bằng tiếng Việt. Cô đối chiếu các phần của cuốn ấy với cuốn tiểu thuyết nguyên bản SAIGON của tôi, là cuốn hình thành cái lõi cốt yếu của tác phẩm khuếch đại và mới của người bạn đồng tác giả Nguyễn Ước. Vì tôi không biết và không đọc được tiếng Việt nên lúc ấy, tôi không có ý niệm về những gì Nguyễn Ước đã làm đối với bản văn của tôi. Trước khi thực hiện tác phẩm ấy, anh không tham khảo ý kiến tôi, cũng không tìm cách xin phép tôi cho tới khi anh đã hoàn tất. Thậm chí khi viết thư này, tôi vẫn không biết thật cặn kẽ những gì chứa đựng trong 400 trang mà anh thêm vào — ngoài việc biết rằng những thay đổi trong giai đoạn sau năm 1945 thì nhiều hơn trong phần đầu của cuốn truyện. Trước đây, tôi biết qua lời của chính Nguyễn Ước giải thích với tôi rằng anh nồng nhiệt tin tưởng cuốn tiểu thuyết của tôi với những đoạn thông tin và diễn dịch do anh thêm vào là “bộ tiểu thuyết Chiến tranh và Hoà bình mà người dân Việt Nam đang trông đợi”. Trong lần liên lạc thứ nhất, anh nói với tôi rằng anh cảm thấy nó có sức mạnh “hòa giải và giải phóng” người dân Việt Nam khỏi những xung khắc thời quá khứ. Nhận thấy mình xúc động bởi niềm xác tín đó, tôi bất giác quyết định không chống lại cũng như không phản đối tức thời việc Nguyễn Ước đã làm. Tuy thế, tôi cảm thấy nhẹ nhỏm khi người bạn sinh viên Việt Nam trẻ tuổi tại Anh ấy nói với tôi rằng cô rất xúc động qua những gì cô đã đọc. Cô nói, “Tôi xin cám ơn ông đã viết cuốn sách này. Tôi đã biết được rất nhiều về xứ sở và dân tộc của tôi mà trước đây tôi chưa hề biết. Tôi nghĩ rằng giá trị lớn lao nhất của cuốn truyện này là nó bảo tồn ký ức lịch sử cho những thế hệ mới của người Việt trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Tôi cho rằng đây là cuốn tiểu thuyết rất quan trọng cho dân tộc Việt Nam — và cũng cho mọi người khác nữa.” Vào năm 2005 này, ba mươi năm sau ngày Sàigòn thất thủ, dường như thế giới của chúng ta đang là chốn nguy hiểm hơn bao giờ hết. Cuộc chiến tranh cay đắng ở I-rắc do người Mỹ khởi động xâm lăng đầu năm 2003 đang ngày càng bị so sánh với cuộc chiến tranh Việt Nam trong hai thập niên 1960 và 1970. Dù sao, khủng bố và giết chóc vì lý do tôn giáo và chính trị đang lan rộng toàn cầu hơn bao giờ hết. Dường như toàn thể hành tinh của chúng ta hiện sống với trạng thái đề phòng hằng ngày sẽ có thêm một hành động “khủng bố” tập thể nữa. Trong tình huống ấy, điều quan yếu là những người mà số lượng ngày càng nhiều thêm trên thế giới, đang mãnh liệt khao khát chấm dứt vĩnh viễn toàn bộ chiến tranh và tàn sát, nên tin rằng có những lý do để cảm thấy mình được khích lệ. Đối với tất cả chúng ta, điều quan trọng là có những nền tảng để tin tưởng vào một tương lai tốt đẹp hơn và để không bị ám ảnh bởi sợ hãi. Ở cấp độ cao nhất, mục đích tái bản cuốn trường thiên tiểu thuyết khuếch đại [Trăng Huyết] này về những cuộc chiến lâu dài và cay đắng tại Việt Nam trong hậu bán thế kỷ 20 là để nhắc nhở chúng ta thảm kịch kinh hoàng và vô ích của mọi cuộc chiến, cách riêng các cuộc chiến xuẩn động. Cả Việt Nam lẫn I-rắc đều rơi vào bản liệt kê buồn bã đó. Mọi người đều đau khổ trong các thời kỳ bi thảm như thế và chẳng một ai thật sự chiến thắng. Chiến tranh biến hết thảy chúng ta thành nạn nhân. Lúc này, điều quan yếu cho thế giới của chúng ta là tiến tới một trạng thái sinh tồn trong đó chúng ta có thể giải quyết mọi vấn đề giữa các dân tộc và các quốc gia mà chẳng cần tới bạo động và giết chóc. Cũng quan yếu không kém là việc chữa trị những vết thương khủng khiếp về tâm lý và thể lý của quá khứ, để giúp tạo dựng một tương lai hòa bình và tốt lành hơn cho tất cả chúng ta. Khi cuốn SAIGON được xuất bản lần đầu năm 1982, tôi ngạc nhiên và vui thích thấy nó trở thành sách bán chạy ở tầm quốc tế tại 15 nước, nói chín ngôn ngữ khác nhau. Thật rất hài lòng khi tại Việt Nam và Hoa Kỳ, nó được dùng trong lớp học để dạy dỗ các sinh viên sĩ quan trẻ tuổi của hải quân và quân đội — Đại học Quốc phòng của Quân đội Nhân dân tại Hà Nội và Học viện Hải quân Hoa Kỳ tại Anapolis. Nguyễn Ước đọc cuốn tiểu thuyết ấy lần đầu tiên bằng tiếng Anh lúc anh tới được trại tị nạn ở Indonesia sau khi trốn khỏi Việt Nam bằng thuyền vào cuối thập niên 1980. Anh kể rằng anh đã khóc khi đọc nó hết phần này sang phần khác. Mãi về sau, anh quyết định dịch và tự chủ xướng việc khuếch đại vì anh cảm thấy cuốn truyện ấy, với sự thêm vào các sự kiện lịch sử cùng hư cấu nào đó của anh như một kẻ trong cuộc, sẽ khiến độc giả người Việt nhận ra rằng sự thật giải phóng chúng ta và hoà giải chúng ta. Như đã nêu rõ, tôi quyết định cứ tin vào sự bảo đảm mà Nguyễn Ước đã viết cho tôi, rằng anh không phản bội hình thức và dự phóng trong cuốn tiểu thuyết nguyên bản của tôi. Tôi phải bảo lưu quyền thẩm định đầy đủ và có cân nhắc cho tới một thời điểm tôi biết chính xác từng chữ những gì anh đã viết. Trong lúc này tôi đang đi theo con đường riêng của mình để SAIGON được dịch riêng biệt ra tiếng Việt, đúng chính xác những gì tôi viết mà không có bất cứ thêm thắt nào, và để cho nó được xuất bản công khai bởi một nhà xuất bản của người Việt tại Việt Nam. Như tôi đã viết vào tháng Chạp năm 2004, hiện ở Hà Nội đang có những thảo luận bước đầu về việc đó, nhân danh tôi, và chưa có kết quả rõ ràng. Tuy thế, tôi không biêt việc xuất bản ấy sẽ xảy ra sớm hay muộn — hoặc quả thật bao giờ. Rõ ràng Nguyễn Ước đã hết lòng với đam mê, lý tưởng và nghị lực để viết nên Trăng Huyết. Nếu anh ấy có lý và cuốn sách này có thể đóng góp đầy ý nghĩa để chữa trị và hòa giải các vết thương quá khứ, thì bằng những cách thức nhỏ bé, một tương lai hoà hợp hơn sẽ bắt đầu để làm nổi bật dân tộc Việt Nam — và việc đó chắc chắn dẫn tới kết quả là sẽ làm xúc động người dân của các quốc gia khác. Lúc ấy, mọi nỗ lực cần cù của Nguyễn Ước sẽ đáng giá. Dù xảy tới tình huống nào đi nữa, tôi vẫn ca ngợi hoài bảo, sự tự phát, những lao động tận tụy của anh và mong anh ấy gặp may mắn. Sự ngưỡng mộ và mến cảm của tôi đối với Việt Nam và dân tộc can trường cùng độc đáo ấy ngày càng tăng kể từ khi tôi bắt đầu nghiên cứu và viết cuốn SAIGON. Sự tái tục dính líu tới Việt Nam được gây ra bởi sự xuất hiện nổi bật của Trăng Huyết và việc tái bản tại Anh ấn bản mới cuốn SAIGON bằng tiếng Anh vì thế đang là nguồn khoái cảm lớn lao cho tôi. Vậy tôi xin cám ơn tất cả những ai quan tâm và chúc cho tất cả những ai đang đọc các trang này một hoà bình lâu dài và sự hòa hợp ngày càng tăng trong cuộc sống hằng ngày. Mời các bạn đón đọc Trăng Huyết của tác giả Anthony Grey & Nguyễn Ước.