Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đường Vào Hiện Sinh - Krishnamurti

Đường Vào Hiện Sinh

Đường Vào Hiện Sinh

Tác giả: Jiddu Krishnamurti

Tác giả: Jiddu Krishnamurti

Nhà xuất bản: Lao Động

Nhà xuất bản: Lao Động

Người dịch: Thích Thiện Sáng (Thanh Lương)

Người dịch: Thích Thiện Sáng (Thanh Lương)

Người đọc: Tuấn Anh, Kiều Hạnh

Người đọc: Tuấn Anh, Kiều Hạnh

Jiddu Krishnamruti sinh năm 1895 tại Ấn Độ, ở độ tuổi 13 được Hội Thông Thiên Học nhận về và xem ông là phương tiện truyền bá chân lý cho bậc "đạo sư của thế giới" mà sự sắp xuất hiện của ngài đã luôn được họ công bố. Krishnamurti nhanh chóng nổi bật là một bậc đạo sư có quyền lực, không thoả hiệp và không thể xếp loại, vì những cuộc nói chuyện và tác phẩm của ông không hề có liên kết gì với bất kỳ tôn giáo cá biệt nào và cũng không thuộc về Đông phương hay Tây phương mà là cho toàn thể thế giới. Kiên quyết chối từ hình ảnh cứu thế, năm 1929 ông đột ngột giải tán tổ chức lớn lao có nhiều tiền bạc được tạo dựng xung quanh ông và tuyên bố chân lý là một "lãnh địa không có đường vào" mà không một tôn giáo, triết học hay tông phái chính thức nào có thể tiếp cận đến được.

Jiddu Krishnamruti sinh năm 1895 tại Ấn Độ, ở độ tuổi 13 được Hội Thông Thiên Học nhận về và xem ông là phương tiện truyền bá chân lý cho bậc "đạo sư của thế giới" mà sự sắp xuất hiện của ngài đã luôn được họ công bố. Krishnamurti nhanh chóng nổi bật là một bậc đạo sư có quyền lực, không thoả hiệp và không thể xếp loại, vì những cuộc nói chuyện và tác phẩm của ông không hề có liên kết gì với bất kỳ tôn giáo cá biệt nào và cũng không thuộc về Đông phương hay Tây phương mà là cho toàn thể thế giới. Kiên quyết chối từ hình ảnh cứu thế, năm 1929 ông đột ngột giải tán tổ chức lớn lao có nhiều tiền bạc được tạo dựng xung quanh ông và tuyên bố chân lý là một "lãnh địa không có đường vào" mà không một tôn giáo, triết học hay tông phái chính thức nào có thể tiếp cận đến được.

Trọn phần còn lại của đời minh, Krishnamurti khăng khăng nhất mực bác bỏ địa vị đạo sư mà người ta đã cố gán cho ông. Ông vẫn tiếp tục thu hút thính giả đông đảo khắp thế giới nhưng không hề đòi hỏi quyền lực nào, không hề muốn có đệ tử, và luôn luôn nói chuyện như là một cá nhân với một cá nhân. Cốt lõi giáo lý của ông là sự nhận thức rõ ràng rằng những cuộc thay đổi nền tảng trong xã hội có thể được phát sinh chỉ bởi một sự chuyển hoá thức tâm cá nhân. Sự cần thiết phải có sự tự tri và tự thấu hiểu chính mình những ảnh hưởng có tính giới hạn, chia rẽ của những quy định tôn giáo và quốc gia không ngừng được nhấn mạnh.

Trọn phần còn lại của đời minh, Krishnamurti khăng khăng nhất mực bác bỏ địa vị đạo sư mà người ta đã cố gán cho ông. Ông vẫn tiếp tục thu hút thính giả đông đảo khắp thế giới nhưng không hề đòi hỏi quyền lực nào, không hề muốn có đệ tử, và luôn luôn nói chuyện như là một cá nhân với một cá nhân. Cốt lõi giáo lý của ông là sự nhận thức rõ ràng rằng những cuộc thay đổi nền tảng trong xã hội có thể được phát sinh chỉ bởi một sự chuyển hoá thức tâm cá nhân. Sự cần thiết phải có sự tự tri và tự thấu hiểu chính mình những ảnh hưởng có tính giới hạn, chia rẽ của những quy định tôn giáo và quốc gia không ngừng được nhấn mạnh.

Krishnamurti đã luôn luôn vạch ra cho thấy sự mở rộng tâm hồn, vì "khoảng không bao la trong trí não đó sẽ có thứ năng lực không thể tưởng được". Điều này dường như đã là suối nguồn cảm hứng sáng tạo của riêng ông và là chìa khoá cho ảnh hưởng của ông đối với một công chúng rộng lớn đa dạng như thế.

Krishnamurti đã luôn luôn vạch ra cho thấy sự mở rộng tâm hồn, vì "khoảng không bao la trong trí não đó sẽ có thứ năng lực không thể tưởng được". Điều này dường như đã là suối nguồn cảm hứng sáng tạo của riêng ông và là chìa khoá cho ảnh hưởng của ông đối với một công chúng rộng lớn đa dạng như thế.

Krishamurti tiếp tục nói chuyện khắp nơi trên thế giới cho đến khi ông mất năm 1986 ở tuổi 90. Những cuộc nói chuyện và đàm thoại, những bài viết, nhật ký và thư từ của ông đã được lưu trữ giữ gìn trong 60 quyển sách và hàng trăm băng đĩa. Quyển sách này được kết tập từ khối lượng giáo lý đồ sộ đó, đặc biệt thích hợp và khẩn thiết cho cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

Krishamurti tiếp tục nói chuyện khắp nơi trên thế giới cho đến khi ông mất năm 1986 ở tuổi 90. Những cuộc nói chuyện và đàm thoại, những bài viết, nhật ký và thư từ của ông đã được lưu trữ giữ gìn trong 60 quyển sách và hàng trăm băng đĩa. Quyển sách này được kết tập từ khối lượng giáo lý đồ sộ đó, đặc biệt thích hợp và khẩn thiết cho cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

Đến với ĐƯỜNG VÀO HIỆN SINH, ta sẽ cảm nhận một trạng thái ngây ngất xuất thần khi đọc nó, dù chỉ trong một giây phút ngắn ngủi cũng sẽ mở ra cho ta một chân trời bao la chưa tùng có, mà trước đó ta chưa từng được tận hưởng khi sống trong thế giới hiện tại.

Đến với ĐƯỜNG VÀO HIỆN SINH, ta sẽ cảm nhận một trạng thái ngây ngất xuất thần khi đọc nó, dù chỉ trong một giây phút ngắn ngủi cũng sẽ mở ra cho ta một chân trời bao la chưa tùng có, mà trước đó ta chưa từng được tận hưởng khi sống trong thế giới hiện tại.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

AI CẬP SINH TỬ KỲ THƯ
Ai Cập sinh tử kỳ thư là cẩm nang chỉ dẫn cho linh hồn hướng tới sự bất tử của Ai Cập cổ đại. Trong đó, "Bản thảo của Ani" là cuốn bản thảo ghi chép hoàn chỉnh nhất nội dung của Ai Cập sinh tử kỳ thư. Theo như những gì ghi chép trong cuốn sách, cuộc hành trình mà linh hồn phải trải qua để được bất tử sau khi chết thật ly kỳ và lắm gian nan. Sau khi người ta ta chết đi, linh hồn của họ sẽ trở về cõi âm, sau đó đi qua từng con đường nhỏ âm u dưới sự hướng đạo của thần chỉ dẫn và chiến thắng các loài ma quỷ đáng sợ. Trong quá trình tôi luyện này, chính linh hồn cũng không ngừng trưởng thành, họ dần dần hồi phục được các khả năng như khi còn sống , đồng thời cũng có được các phép màu thần thông... Ai Cập sinh tử kỳ thư là cẩm nang chỉ dẫn cho linh hồn hướng tới sự bất tử của Ai Cập cổ đại. Trong đó, "Bản thảo của Ani" là cuốn bản thảo ghi chép hoàn chỉnh nhất nội dung của Ai Cập sinh tử kỳ thư. Theo như những gì ghi chép trong cuốn sách, cuộc hành trình mà linh hồn phải trải qua để được bất tử sau khi chết thật ly kỳ và lắm gian nan. Sau khi người ta ta chết đi, linh hồn của họ sẽ trở về cõi âm, sau đó đi qua từng con đường nhỏ âm u dưới sự hướng đạo của thần chỉ dẫn và chiến thắng các loài ma quỷ đáng sợ. Trong quá trình tôi luyện này, chính linh hồn cũng không ngừng trưởng thành, họ dần dần hồi phục được các khả năng như khi còn sống , đồng thời cũng có được các phép màu thần thông... Ai Cập sinh tử kỳ thư - Đồ giải được biên soạn dựa theo tác phẩm nổi tiếng nói trên của người Ai Cập. Tác giả đã tiến hành giải thích những lời kinh sâu xa, khó hiểu, làm rõ mối quan hệ của từng nội dung, đồng thời xâu chuỗi chúng lại thành một câu chuyện hoàn chỉnh. Nét đặc sắc của cuốn sách là đã sử dụng khá nhiều hình minh họa quý giá trong "Bản thảo của Ani", tiến hành giải thích theo trình tự của lời kinh để ý nghĩa rõ ràng và người đọc có thể nắm bắt các nội dung một cách dễ dàng hơn. Ai Cập sinh tử kỳ thư - Đồ giải được biên soạn dựa theo tác phẩm nổi tiếng nói trên của người Ai Cập. Tác giả đã tiến hành giải thích những lời kinh sâu xa, khó hiểu, làm rõ mối quan hệ của từng nội dung, đồng thời xâu chuỗi chúng lại thành một câu chuyện hoàn chỉnh. Nét đặc sắc của cuốn sách là đã sử dụng khá nhiều hình minh họa quý giá trong "Bản thảo của Ani", tiến hành giải thích theo trình tự của lời kinh để ý nghĩa rõ ràng và người đọc có thể nắm bắt các nội dung một cách dễ dàng hơn.“Ani đứng trước một cái cân khổng lồ bằng vàng, nơi mà vị thần có cái đầu chó – Anubis – đang cân trái tim của chàng với một cái lông đà điểu thuần khiết”. Ani là một nhân vật có thật, một người thơ lại ở thành phố Thebes, Ai Cập sống vào khoảng thế kỷ 13 TCN. Và những gì được mô tả ở trên là một cảnh tượng trong cuốn Ai Cập sinh tử kỳ thư (Sách của người chết) của chàng, một cuộn giấy cói dài 24 mét được viết để giúp chàng đạt tới sự bất tử. Loại “điếu văn” này vốn chỉ được viết cho các Pharaoh, nhưng cùng với thời gian, người Ai Cập bắt đầu tin rằng kể cả người thường cũng có thể đến được kiếp sau nếu họ hoàn thành được cuộc hành trình. Hành trình thần thánh của Ani bắt đầu từ cái chết của chàng. Thân thể chàng được một nhóm tu sĩ đem đi “ướp xác”, bằng cách lấy mọi cơ quan nội tạng ra khỏi cơ thể, chỉ trừ lại trái tim, nơi tập trung cảm xúc, trí nhớ và sự thông thái. Sau đó, cơ thể được nhồi bằng một thứ muối gọi là natron và được gói lại trong 1 tấm vải tẩm nhựa thông. Ngoài ra, tấm vải bọc còn được yểm và bên trên trái tim còn đặt thêm một lá bùa hình con bọ hung, thứ mà sau mày sẽ cần dùng tới. Mục đích của quá trình kéo dài 2 tháng này là để bảo quản thi hài của Ani ở dạng hoàn hảo nhất để linh hồn của chàng về sau có thể nhập trở lại. Nhưng trước hết, linh hồn đó phải qua được “duat”, hay gọi là “âm phủ”. Đây là một vương quốc với các hang động rộng lớn, hồ lửa và những cánh cổng thần kì, tất cả đều được gác bởi những con quái vật đáng sợ như rắn, cá sấu, và những quái vật nửa người, có tên, ví dụ, như “kẻ tắm máu”. Để khiến mọi thứ kinh khủng hơn, Apep, vị thần hủy diệt hình con rắn khổng lồ, luôn nấp trong bóng tối, chờ cơ hội nuốt linh hồn của Ani. May mắn thay, Ani đã chuẩn bị trước các pháp thuật, ghi trong cuốn sách của mình. Như những người Ai Cập khác, Ani ghi trong cuộn giấy của mình những thần chú, lời kinh và mật mã mà chàng nghĩ rằng linh hồn chàng sẽ cần đến. Với những vũ khí này, người hùng của chúng ta vượt qua mọi trở ngại, đẩy lùi những cuộc tấn công của quái vật và khéo léo tránh được Apep, đến được tới Sảnh của Ma’at, nữ thần của sự thật và công lý. Ở đây, Ani đối mặt với thử thách cuối cùng. Chàng bị phán xét bởi 42 vị thần, những người sẽ phán xét xem liệu chàng đã sống một cuộc đời ngay thẳng hay chưa. Ani tới chỗ từng người, gọi họ bằng tên riêng, và nói ra một tội chàng chưa từng phạm phải. Trong những lời thú nhận hay khẳng định mình vô tội này, chàng tuyên bố rằng chưa từng làm ai khóc, không phải là kẻ rình mò, và chưa từng làm ô uế nguồn nước. Ani thực sự có một cuộc đời hoàn hảo đến như vậy? Không hẳn, nhưng đây là lúc lá bùa bọ hung phát huy tác dụng. Lá bùa có ghi dòng chữ “Đừng làm chứng chống lại ta”, như vậy trái tim chàng sẽ không phản bội lại chàng bằng việc gợi lại lần chàng nghe lỏm người hàng xóm cãi nhau hay rửa chân ở dòng sông Nile. Giờ mới là giây phút quyết định của Ani, cuộc “cân trái tim”. Nếu trái tim chàng nặng hơn chiếc lông vũ, tức là nó đã bị kéo xuống bởi những điều sai trái của Ani, nó sẽ bị cắn xé bởi con quái vật Ammit, nửa cá sấu, nửa báo và nửa hà mã, và Ani sẽ bị biến mất mãi mãi. Nhưng Ani đã gặp may. Trái tim chàng được phán là thuần khiết. Ra, vị thần mặt trời, đưa chàng tới chỗ Osiris, vị thần âm phủ, người cuối cùng sẽ cho phép Ani bước sang thế giới bên kia. Trên cánh đồng lau bất tận và tươi tốt, Ani gặp lại cha mẹ đã chết của mình. Nơi đây, không có nỗi buồn, đau đớn hay giận dữ, chỉ có công việc phải hoàn thành. Như những người khác, Ani phải trồng trọt trên mảnh đất của mình, việc này chàng được trợ giúp bởi con búp bê Shabti đặt trong mộ của chàng. Ngày nay, cuộn giấy của Ani được trưng bày ở bảo tàng Anh, nơi ở của nó kể từ năm 1888. Chỉ có mình Ani biết được điều gì đã diễn ra sau khi chàng chết. Nhưng nhờ có Cuốn sách của chàng, ta có thể tưởng tượng ra chàng vẫn mãi mãi canh tác trên cánh đồng của mình. “Ani đứng trước một cái cân khổng lồ bằng vàng, nơi mà vị thần có cái đầu chó – Anubis – đang cân trái tim của chàng với một cái lông đà điểu thuần khiết”.Ani là một nhân vật có thật, một người thơ lại ở thành phố Thebes, Ai Cập sống vào khoảng thế kỷ 13 TCN. Và những gì được mô tả ở trên là một cảnh tượng trong cuốn Ai Cập sinh tử kỳ thư (Sách của người chết) của chàng, một cuộn giấy cói dài 24 mét được viết để giúp chàng đạt tới sự bất tử. Loại “điếu văn” này vốn chỉ được viết cho các Pharaoh, nhưng cùng với thời gian, người Ai Cập bắt đầu tin rằng kể cả người thường cũng có thể đến được kiếp sau nếu họ hoàn thành được cuộc hành trình.Hành trình thần thánh của Ani bắt đầu từ cái chết của chàng. Thân thể chàng được một nhóm tu sĩ đem đi “ướp xác”, bằng cách lấy mọi cơ quan nội tạng ra khỏi cơ thể, chỉ trừ lại trái tim, nơi tập trung cảm xúc, trí nhớ và sự thông thái. Sau đó, cơ thể được nhồi bằng một thứ muối gọi là natron và được gói lại trong 1 tấm vải tẩm nhựa thông. Ngoài ra, tấm vải bọc còn được yểm và bên trên trái tim còn đặt thêm một lá bùa hình con bọ hung, thứ mà sau mày sẽ cần dùng tới. Mục đích của quá trình kéo dài 2 tháng này là để bảo quản thi hài của Ani ở dạng hoàn hảo nhất để linh hồn của chàng về sau có thể nhập trở lại. Nhưng trước hết, linh hồn đó phải qua được “duat”, hay gọi là “âm phủ”.Đây là một vương quốc với các hang động rộng lớn, hồ lửa và những cánh cổng thần kì, tất cả đều được gác bởi những con quái vật đáng sợ như rắn, cá sấu, và những quái vật nửa người, có tên, ví dụ, như “kẻ tắm máu”. Để khiến mọi thứ kinh khủng hơn, Apep, vị thần hủy diệt hình con rắn khổng lồ, luôn nấp trong bóng tối, chờ cơ hội nuốt linh hồn của Ani. May mắn thay, Ani đã chuẩn bị trước các pháp thuật, ghi trong cuốn sách của mình. Như những người Ai Cập khác, Ani ghi trong cuộn giấy của mình những thần chú, lời kinh và mật mã mà chàng nghĩ rằng linh hồn chàng sẽ cần đến. Với những vũ khí này, người hùng của chúng ta vượt qua mọi trở ngại, đẩy lùi những cuộc tấn công của quái vật và khéo léo tránh được Apep, đến được tới Sảnh của Ma’at, nữ thần của sự thật và công lý. Ở đây, Ani đối mặt với thử thách cuối cùng. Chàng bị phán xét bởi 42 vị thần, những người sẽ phán xét xem liệu chàng đã sống một cuộc đời ngay thẳng hay chưa. Ani tới chỗ từng người, gọi họ bằng tên riêng, và nói ra một tội chàng chưa từng phạm phải. Trong những lời thú nhận hay khẳng định mình vô tội này, chàng tuyên bố rằng chưa từng làm ai khóc, không phải là kẻ rình mò, và chưa từng làm ô uế nguồn nước. Ani thực sự có một cuộc đời hoàn hảo đến như vậy? Không hẳn, nhưng đây là lúc lá bùa bọ hung phát huy tác dụng. Lá bùa có ghi dòng chữ “Đừng làm chứng chống lại ta”, như vậy trái tim chàng sẽ không phản bội lại chàng bằng việc gợi lại lần chàng nghe lỏm người hàng xóm cãi nhau hay rửa chân ở dòng sông Nile. Giờ mới là giây phút quyết định của Ani, cuộc “cân trái tim”. Nếu trái tim chàng nặng hơn chiếc lông vũ, tức là nó đã bị kéo xuống bởi những điều sai trái của Ani, nó sẽ bị cắn xé bởi con quái vật Ammit, nửa cá sấu, nửa báo và nửa hà mã, và Ani sẽ bị biến mất mãi mãi. Nhưng Ani đã gặp may. Trái tim chàng được phán là thuần khiết. Ra, vị thần mặt trời, đưa chàng tới chỗ Osiris, vị thần âm phủ, người cuối cùng sẽ cho phép Ani bước sang thế giới bên kia. Trên cánh đồng lau bất tận và tươi tốt, Ani gặp lại cha mẹ đã chết của mình. Nơi đây, không có nỗi buồn, đau đớn hay giận dữ, chỉ có công việc phải hoàn thành. Như những người khác, Ani phải trồng trọt trên mảnh đất của mình, việc này chàng được trợ giúp bởi con búp bê Shabti đặt trong mộ của chàng.Ngày nay, cuộn giấy của Ani được trưng bày ở bảo tàng Anh, nơi ở của nó kể từ năm 1888. Chỉ có mình Ani biết được điều gì đã diễn ra sau khi chàng chết. Nhưng nhờ có Cuốn sách của chàng, ta có thể tưởng tượng ra chàng vẫn mãi mãi canh tác trên cánh đồng của mình.
NHỮNG GIẤC MƠ CỦA EINSTEIN
Những giấc mơ của Einstein là cuốn sách kết hợp giữa bút pháp văn chương trong sáng với kiến thức khoa học sâu sắc, dẫn độc giả truy nguyên về nguồn cội của Thuyết tương đối của Einstein. Để rồi từ đó, nhìn nhận được bản chất của thời gian, sự sống, cũng như ý nghĩa của tồn tại.Mỗi đêm có một giấc mơ, và mỗi giấc mơ đó dẫn đến một thế giới khác nhau. Trong thế giới đó, thời gian được đánh giá theo nhiều chiều cạnh riêng biệt. Quá khứ là gì mà một cơn gió thoảng cũng làm đổi thay biết bao điều? Hiện tại sẽ được cảm nhận ra sao, sự ngưng đọng với những người cô độc, hay chảy trôi tiếp tục của người may mắn? Và tương lai nữa, nếu nó được biết trước thì phỏng hiện tại có ý nghĩa gì? Thời gian trôi nhanh, hay chậm có đáng để quan tâm chăng. Khi mà có người thì vội vàng đi trong từng giây phút cuộc đời, người thì chậm rãi nhịp sống; người thì mơ ước sự bất tử, người thì tìm sự kết thúc. Nhưng Những giấc mơ của Einstein với những thế giới mộng tưởng đó chỉ cho con người thấy rằng “mỗi thời gian đều có thực, song chân lý lại chẳng giống nhau”. Tất cả chỉ là tương đối. Trong một cảm nhận thời gian, lại có những lý lẽ riêng cho đời sống của con người.  “Những giấc mơ của Einstein đã vượt qua những thử thách đối với một cuốn sách kinh điển: khiến người ta phải ngay lập tức đọc lại và việc diễn giải cho cuốn sách không thể nào thay thế được việc đọc nó. Nó thật ngắn ngủi nhưng sẽ ở lại lâu dài trong tâm trí ta.” – Nature“Một cuốn sách đáng kinh ngạc nhất... đưa chúng ta đi xa hơn bất cứ nơi nào ta từng đến... độc đáo một cách trọn vẹn, tuyệt vời, chậm rãi, thông tuệ.” – Sunday Times“Một tác phẩm đẹp đẽ của trí tưởng tượng, khám phá lẽ tự nhiên của sáng tạo... mang bạn đến gần với Einstein tới mức như đã bước được vào trong thế giới của ông... Lightman là một tác giả tuyệt vời” – Minneapolis Star – Tribune“Một vương quốc siêu hình, kỳ diệu.” - New York TimesKỳ lạ và đầy suy tưởng, vừa khôi hài vừa gợi mở tư duy... tác phẩm đã đưa người đọc vào thế giới của giấc mơ bằng một thanh nam châm khổng lồ. cũng như trong tác phẩm của Calvino, các yếu tố tưởng tượng của câu chuyện đã được đặt trong một thứ văn xuôi xác thực, trong suốt. -The New York Times“Lightman là một người vẽ bằng ý niệm về thời gian... một khám phá đầy gợi mở về cảm giác khó lường của thời gian.” – Los Angeles Times
SỰ PHÁT TRIỂN SIÊU CÁ NHÂN
Cuốn sách Sự phát triển siêu cá nhân của Roberto Assagioli, là tác phẩm trình bày khá sâu sắc về một hiện tượng mới mẻ và phức tạp trên đây dưới góc độ nghiên cứu khoa học mà tôi muốn trình bày cảm nhận của mình về vấn đề con người tâm linh trong tác phẩm này. Đây là tác phẩm được tác giả, người cùng thời với Freud và Jung, nhưng đi xa hơn Jung, viết và giảng dạy từ năm 30 - 70 thế kỷ XX về sau được xuất bản và đã được một số nhà khoa học giới thiệu, đánh giá cao. Đó là tác phẩm ra đời hợp thời trong khi có sự khủng hoảng "thân phận con người". Cuốn sách Sự phát triển siêu cá nhân của Roberto Assagioli, là tác phẩm trình bày khá sâu sắc về một hiện tượng mới mẻ và phức tạp trên đây dưới góc độ nghiên cứu khoa học mà tôi muốn trình bày cảm nhận của mình về vấn đề con người tâm linh trong tác phẩm này. Đây là tác phẩm được tác giả, người cùng thời với Freud và Jung, nhưng đi xa hơn Jung, viết và giảng dạy từ năm 30 - 70 thế kỷ XX về sau được xuất bản và đã được một số nhà khoa học giới thiệu, đánh giá cao. Đó là tác phẩm ra đời hợp thời trong khi có sự khủng hoảng "thân phận con người". Con người chỉ biết hướng vào thế giới vật chất bên ngoài mà lãng quên thế giới bên trong, cái tâm linh với những cái thiêng liêng, cái cao cả, cái siêu việt, những cái dần dần mất đi và như vậy con người dần dần tự đánh mất mình, đây là điều tệ hại nhất đối với sự tồn tại của con người như nhận xét của chính tác giả. Ông muốn lập lại thế cân bằng của cả mặt hướng ngoại và hướng nội của đời sống con người.Tags:FacebookTwitterMới hơnCũ hơnĐăng bởi:☯ Dân tộc KING hoạt động với tiêu chí phi tôn giáo, phi lợi nhuận, phi chính trị. Mục đích của dantocking.com là cung cấp thông tin quý giá từ các bậc tiền nhân, để hậu thế có thể dễ dàng tìm đọc. Không có mục đích nào khác!
TAM THIÊN TỰ - ĐOÀN TRUNG CÒN
Tam thiên tự  三千字, hay   Tự học toản yếu  là một cuốn sách cổ, do Ngô Thì Nhậm soạn, dạy   chữ nho  cho   người Việt. Ban đầu, sách có tên là "Tự học toản yếu" sau người ta quen gọi là "Tam thiên tự". Tên sách nghĩa đen là "ba ngàn chữ", xếp 3.000 chữ nho và nghĩa tiếng Việt gần đúng của chúng, như một bài vè cực dài mỗi câu hai âm, khi đọc lên thì có vần dễ nhớ. Sách còn có những tên gọi khác do người đời sau khi hiệu đính, chỉnh sửa đã đặt, đó là: "Tam thiên tự giải âm" và "Tam thiên tự giải dịch quốc ngữ.  三千字, hay  là một cuốn sách cổ, do Ngô Thì Nhậm soạn, dạy  cho . Ban đầu, sách có tên là "Tự học toản yếu" sau người ta quen gọi là "Tam thiên tự". Tên sách nghĩa đen là "ba ngàn chữ", xếp 3.000 chữ nho và nghĩa tiếng Việt gần đúng của chúng, như một bài vè cực dài mỗi câu hai âm, khi đọc lên thì có vần dễ nhớ. Sách còn có những tên gọi khác do người đời sau khi hiệu đính, chỉnh sửa đã đặt, đó là: "Tam thiên tự giải âm" và "Tam thiên tự giải dịch quốc ngữ. Khoảng những năm 50 - 60, nhà in Trí Đức Tòng Thơ của Đoàn Trung Còn xuất bản cuốn sách "Tam thiên tự", nội dung cũng là 3.000 chữ Hán theo cuốn "Tam thiên tự" cổ nhưng dịch nghĩa và phiên âm bằng chữ quốc ngữ; tuy nhiên đây không phải bản quốc ngữ đầu tiên, bản quốc ngữ đầu tiên là cuốn "Tam thiên tự giải dịch quốc ngữ" in bằng ván gỗ khắc từ đầu thế kỉ XX. Trước có bản "Tam thiên tự giải âm" xưa hơn nhưng bản có từ trước khi chữ quốc ngữ phổ biến nên không có phiên âm từng chữ, chỉ một số chữ khó là có chú âm, còn lại đều chỉ dùng một chữ Nôm để giải nghĩa nôm na.