Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thời Xa Vắng

Công cuộc đổi mới đất nước vừa được mở ra thì ngay lập tức văn học đã ghi được dấu ấn bất ngờ bằng tác phẩm Thời xa vắng của Lê Lựu. Ông viết từ mình, rút ruột mình ra mà kể chuyện mình, chuyện một người nhưng là chuyện của nhiều người, chuyện của một thế hệ, chuyện của một thời. Cái thời đó tác giả gọi là “Thời xa vắng” nhưng thật ra vẫn chưa qua. Đó là cái thời nhân vật Giang Minh Sài sống không phải là mình, nửa đời trước sống cho cái mình không có, nửa đời sau sống chạy theo cái không phải của mình. Nhân vật văn chương này đã được nhớ tên, được coi như một định ngữ chỉ một kiểu người, một kiểu sống, điều này rất ít có trong văn chương nhiều năm trước đó vốn chỉ có hình tượng nhân vật tập thể mà không thể gọi tên một nhân vật cụ thể nào. Thời xa vắng đã được đón đọc nồng nhiệt, ai đọc cũng thấy mình trong đó, và được giới phê bình coi là tác phẩm mở đầu cho một xu hướng của văn học đổi mới - xu hướng nhận thức lại thực tại. - Nhà LLPB Phạm Xuân Nguyên - Thời xa vắng là một tiểu thuyết tiêu biểu trong đời viết văn của nhà văn Lê Lựu. Tác phẩm ông chứa một dung lượng lớn chặng đường lịch sử 30 năm oai hùng của dân tộc, từ buổi lập nước đến lúc giải phóng toàn bộ đất nước. Lịch sử được khái quát bằng tiểu thuyết thông qua số phận của anh nông dân Giang Minh Sài: học giỏi, là niềm hy vọng, tự hào của cả gia đình và dòng họ. Nhưng cũng chính niềm tự hào đó cũng đã đặt lên vai cậu bé Sài một thứ áp lực vô hình, lúc nào cũng phải học phải làm theo những điều mà mọi người xung quanh cho là "tốt nhất". Lấy vợ cũng phải do cha mẹ chọn, ngủ với vợ cũng vì để tránh cái án kỷ luật làm ô nhục danh tiếng gia đì Là một người lính với vẻ ngoài thô mộc, khô khan nhưng thực chất bên trong con người Sài lại là một người đang vùng vẫy với niềm khao khát được yêu, được sống với cảm xúc thực sự của mình. Hơn nữa tác phẩm còn có nhiều tầng nhiều lớp với nhưng trăn trở rất đáng suy ngẫm của tác giả. *** Lê Lựu là một trong số những nhà văn ra đời và trưởng thành từ giai đoạn đất nước còn đang kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước. Ông sinh năm 1942 tại Hưng Yên và đến năm 1974 thì ông là hội viên trong Hội Nhà văn Việt Nam. Nhà văn khởi đầu sự nghiệp viết văn của mình từ những năm 60 của thế kỷ XX, và từ đó ông là một trong những nhà văn đã để lại ấn tượng trong giới văn học với những tác phẩm nổi bật như truyện ngắn Tết làng Ma (1964), tiểu thuyết Mở rừng (1977), tiểu thuyết Thời xa vắng (1986), tiểu thuyết Chuyện làng Cuội (1993), tiểu thuyết Sóng ở đáy sông (1994),… Và đặc biệt với tiểu thuyết Thời xa vắng đã tạo nên tên tuổi của Lê Lựu và làm khuấy động làn sóng văn học nước nhà, có thể nói Thời xa vắng là tác phẩm đạt đến đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn và nó đã trở thành một hiện tượng trong văn học thu hút nhiều nhà nghiên cứu phê bình bàn luận về nó. Vị thế của Lê Lựu được khẳng định qua tác phẩm này với một hướng khai thác đề tài mới mẻ, đánh đúng vào tình hình của con người – đất nước – dân tộc, và đặc biệt là dấu mốc lịch sử của đất nước lúc bấy giờ, lúc xã hội đang tiến hành công cuộc “đổi mới đất nước”. Tác phẩm Thời xa vắng được tác giả hoàn thành vào năm 1984 và xuất bản vào năm 1986, đúng vào thời điểm đất nước mới bắt đầu đi vào thời kì đổi mới đất nước sau khoảng thời gian của xã hội “bao cấp”. Và chính vì vậy, bối cảnh mà tác phẩm muốn đề cập đến là những năm tháng trước đó, những năm tháng đất nước trong giai đoạn “bao cấp”. Tác phẩm ra đời đã tạo nên tiếng vang lớn trong văn học nước nhà, có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình đất nước vận động phát triển của văn học từ sau năm 1975. Chính vì vậy năm 1990, tác phẩm này đã đạt giải A của Hội Nhà văn Việt Nam. Tác phẩm Thời xa vắng của Lê Lựu là một tiểu thuyết với nội dung chính xoay quanh câu chuyện về cuộc đời của nhân vật tên là Giang Minh Sài. Và tác phẩm này có thể khái quát chia thành hai phần chính dựa trên cuộc đời của nhân vật Sài. Phần thứ nhất, cuộc đời Sài trong bối cảnh đất nước còn chiến tranh. Lúc Sài 10 tuổi thì đã bị gia đình bắt ép lấy một cô vợ lớn hơn mình 3 tuổi là Tuyết. Tuy rằng ngoài mặt thì Sài chấp nhận mình có một cô vợ như thế, nhưng trong lòng Sài không hề công nhận cô ta là vợ của mình. Trong một lần cùng vợ giã ngô do sơ ý nên Tuyết giã vào tay Sài và cộng thêm nỗi uất ức bấy lâu trong lòng, Sài đã đánh vợ và đuổi cô đi. Gia đình Sài là một gia đình mang nặng những tư tưởng phong kiến và những hủ tục lạc hậu, mặc dù Sài không yêu vợ nhưng trước mặt mọi người thì Sài vẫn là một người chồng đúng mực. Sài là một người học giỏi, trong mắt mọi người rằng học giỏi thì phải cộng thêm đạo đức tốt, sống đúng chuẩn mực thì mới được gọi là một đội trưởng tốt và gương mẫu. Nhưng bên trong Sài phản kháng quyết liệt chống đối và tránh xa cô vợ của mình mặc cho người nhà tạo mọi điều kiện cho họ ở bên nhau. Thời gian như thế cứ trôi qua, cuộc sống của Sài với cô vợ vẫn cứ tiếp tục như không có gì và Sài vẫn không chấp nhận cô vợ của mình. Bước ngoặt cuộc đời Sài thay đổi khi anh gặp được tình yêu cuộc đời mình là Hương. Họ yêu nhau say đắm mãnh liệt, nhưng vì sĩ diện của gia đình nên Sài đã im lặng chạy trốn vào chiến trường chiến đấu nhằm trốn tránh cuộc sống ngột ngạt của gia đình và tình yêu đầu đời của mình. Khi Sài vào quân ngũ, anh lại là một người dẫn đầu về thành tích học tập giỏi và gương mẫu, tuy nhiên trong môi trường quân đội anh vẫn không có được sự tự do, cuộc sống của anh đều bị giám sát, sống phải theo ý định của mọi người nếu không thì sẽ bị xem là có “tư tưởng phản động”. Vì thế từ lúc vào quân ngũ, Sài đã sống theo ý định của mọi người chứ không theo ý định của mình. Phần thứ hai, cuộc đời của Sài từ lúc đất nước hòa bình. Khi Sài trở về với cuộc sống của một người bình thường, đồng thời với anh bây giờ một cuộc sống mới đã bắt đầu khi anh được phép ly hôn Tuyết. Từ đây anh được quyền lựa chọn tình yêu cho chính bản thân mình. Không ngờ rằng, khi anh quyết định cưới Châu làm vợ một cách vội vàng để che đậy đứa con trong bụng mà anh tưởng là của anh, cuộc đời lại đẩy Sài bước vào một bi kịch mới. Châu là một cô gái Hà Nội đã yêu một người trước đó, có con với hắn nhưng hắn không chịu cưới cô nên cô đành phải lừa Sài cưới cô như một tấm bình phong bảo vệ sĩ diện. Sài từ khi lấy vợ thì lao vào những thứ vặt vãnh mỗi ngày anh phải làm, mọi thứ nó lặp đi lặp đi hết ngày này qua tháng nọ. Quần quật suốt ngày với những thứ như: cơm, áo, gạo, tiền đè nặng trên vai để rồi anh dần lãng quên đi những người thân đã từng giúp đỡ và cưu mang anh vượt qua khó khăn. Cuộc sống với Châu ngày càng có nhiều đổ vỡ rạn nứt giữa hai người để rồi cả hai phải quyết định ra tòa ly hôn. Những tưởng rằng anh sẽ được nuôi đứa con đầu còn Châu nuôi đứa con thứ 2 nhưng nào ngờ một sự thật phũ phàng mà bấy lâu nay anh bị lừa dối, anh đã nuôi đứa con không phải là con ruột của mình mà là con của Châu với người yêu của cô ấy trước khi đến với anh. Mọi thứ của anh dường như đã mất tất cả chẳng còn điều gì thuộc về anh, rồi anh quay trở về ngôi làng Hạ Vị nơi được sinh ra và nuôi dưỡng, anh dốc sức để xây dựng quê hương mình phát triển hơn. Cuộc sống như thế trôi qua với niềm hạnh phúc của Sài khi nhìn thấy quê hương đất nước mình đang đổi mới từng ngày. Vậy tác giả lại đặt nhan đề cho tác phẩm là “Thời xa vắng” nhằm ngụ ý điều gì? Có lẽ ở đây tác giả muốn nói đến thời mà Sài đã trải qua. Cuộc đời Sài từ nhỏ cho đến khi trưởng thành, anh luôn sống theo ý nguyện của người khác, như đang bị siết chặt trong một sợi dây trói buộc anh không thể nào thoát ra được, anh chấp nhận số phận mình được vạch sẵn như vậy, sống theo những ý định mà bố mẹ muốn, làm việc gì cũng phải nghĩ đến sĩ diện của dòng họ gia đình sẽ ra sao. Anh gồng mình gánh chịu hết tất cả những thứ đó ràng buộc o ép anh, ngay cả khi có tình yêu đầu đời của mình anh cũng vì đã có vợ nên không dám sống hết mình với tình yêu ấy, cuộc tình không đi đến viên mãn làm cho cả hai phải đau khổ. Cuộc đời của Sài sau khi cưới Châu cũng như thế, sống với một người vốn không thuộc về anh lại làm cho cả hai đau khổ, cái thời đó đã qua khi Sài trở về làng quê xây dựng xóm làng, tất cả giờ chỉ còn lại là dĩ vãng, là quá khứ một thời mà có lẽ chính Sài cũng không muốn nhắc đến nữa, tất cả chỉ là quá khứ xa vắng. Với tác phẩm Thời xa vắng, trung tâm của toàn bộ câu chuyện tập trung ở hình tượng nhân vật Giang Minh Sài, trải dài theo suốt cuộc đời Sài từ khi 10 tuổi cho đến hơn 40 tuổi là cả tuổi trẻ của một con người sống gói gọn trong 13 chương (tính cả chương kết). Khi Sài được 10 tuổi, bỗng dưng bị bắt phải cưới một cô vợ lớn hơn mình 3 tuổi, lúc nào cô ta cũng có thể mách bố mẹ những chuyện của mình “tự nhiên có một con bé cứ theo nó kè kè để mách bố, mách mẹ nó, nào những lúc đi đùa nó bôi nhọ hết mặt mũi giả làm Tây đen ở đâu, lặn hụp xuống cái ao ngầu bùn của nhà chú Hào lúc nào”. Sài chỉ 10 tuổi thì làm sao có thể chống cự lại ý định của người lớn thế nên Sài đành phải chấp nhận sự thật đắng cay đó – có vợ lúc 10 tuổi. Nếu như lúc nhỏ Sài là một đứa trẻ bị gò ép như vậy thì khi anh trưởng thành, những cảm xúc, những suy nghĩ, tình cảm,…của cá nhân mình cũng không dám tự quyết định được. Không dám cưới Hương – tình yêu đầu tiên của anh, vì nghĩ đến bản thân mình đã có một người vợ rồi, gia đình sẽ mất sĩ diện với họ hàng làng xóm nên không dám quyết định một cách tự chủ tình cảm để rồi cuối cùng trong lúc uất hận thì Hương đã quyết định lấy một người yêu cô tha thiết mà cô không yêu anh ta. Thế rồi cả cuộc dời anh vỡ lỡ cũng chính bởi vì phần nào nguyên nhân Sài “yêu cái người khác yêu” và “yêu cái mà mình không có”. Lê Lựu xây dựng nên hình tượng nhân vật Sài với những nỗi đắng cay vậy một phần cũng muốn nhắn nhủ những thông điệp đến độc giả. Nguyên nhân vì đâu cuộc đời Sài rơi vào vòng luẩn quẩn đầy bi kịch như vậy, có thể giải thích bằng hai nguyên nhân chính làm nên bi kịch này. Thứ nhất là nguyên nhân khách quan, chính bối cảnh xã hội mà Sài đang sống cũng là nguyên trực tiếp làm nên bi kịch cuộc đời Sài như thế. Gia đình Sài cả bố mẹ và anh chị em đều mang nặng tư tưởng phong kiến lạc hậu, những hủ tục cổ hủ lỗi thời như nạn tảo hôn, tục cưới xin,…áp đặt lên Sài phải thực hiện theo:“Một nề nếp, một thói quen, một thông tục cha truyền con nối từ mấy đời nay: con cái không được quyền muốn sao được vậy vì như thế là trái với phép tắc gia phong”. Danh dự của gia đình, danh dự của ông đồ Khang,… Chính những thứ này đã đè nặng lên đôi vai của Sài, anh không thể sống nếu như mình làm khác đi những gì họ muốn và như vậy sẽ bị coi là “phản động” và không tốt. Như bao người khác ở làng Hạ Vị, Sài đành gò ép chính mình sống theo ý muốn của họ và “không dám là mình” và cũng không đủ can đảm “đạp lên dư luận mà sống”. Sống ở nhà lúc nhỏ Sài luôn bị bố, mẹ, anh, chị, dòng họ bắt phải sống như thế này, không được làm cái kia, ngay cả dân làng cũng thế, nếu mà Sài làm khác những gì họ muốn thấy thì lập tức Sài bị lên án gay gắt dữ dội. Cũng chính vì thế, Sài không muốn mất danh hiệu của một liên đội trưởng tốt gương mẫu trong mắt mọi người nên anh đã cố “yêu vợ” như chuẩn mực của một người đội trưởng phải có, ép buộc mình làm những điều mà bản thân không muốn để được mắt mọi người. Thứ hai là nguyên nhân chủ quan nằm ở chính con người của Sài, nếu như mọi người áp đặt Sài phải sống và làm theo ý của họ muốn mà Sài không phản kháng thì xem như Sài chấp nhận như vậy và sẽ không có bi kịch nào xảy ra, còn Sài ở đây nội tâm luôn có một ý chỉ phản kháng mạnh mẽ, bằng chứng là những lần phải đi cùng với Tuyết thì “Sài thường chạy đi trước hoặc tụt lại thật xa”, “bao giờ Sài cũng tìm cách rời khỏi “nhà ấy” nhanh chóng”. Hay những lần Sài bị bắt ép phải vào ngủ chung với vợ, anh thà nằm ngủ dưới đất chứ không bao giờ chịu nằm ngủ chung giường với người mà mình không hề yêu. Như vậy, trong thâm tâm của Sài thì anh luôn phản đối, chống lại những hủ tục phong kiến, chống lại sự áp đặt con người theo ý muốn của bố mẹ và xã hội, chống lại những gì mà mình không muốn,…Thế mà, Sài có ý chí phản kháng, chống lại những gì đã gò ép anh vậy rồi cuối cùng anh lại lặng lẽ chấp nhận tất cả chúng như một điều tất nhiên. Rõ ràng chính Sài nhu nhược, hèn nhát, không đủ can đảm để đứng lên phản kháng lại những thứ đang gò ép mình mà lại lặng lẽ bẻ bản thân sống sao cho đúng những gì mà người khác muốn. Ngay cả khi Sài sống trong môi trường quân ngũ cũng vậy, khi những nỗi niềm riêng anh ghi vào quyển nhật ký rồi bị đồng đội phát hiện và cho là nó chứa tư tưởng bất chính, và thế là từ đó Sài không dám viết nhật ký nữa mà anh vẫn tiếp tục cuộc đời gương mẫu như: học giỏi, chăm chỉ làm việc, học đại học,…luôn là người xuất sắc nhất trường. Thêm nữa, để được kết nạp Đảng thì Sài phải ép mình sống chung với Tuyết theo sự chỉ bảo của các vị thủ trưởng chỉ định, có như vậy thì Sài mới đủ tiêu chuẩn để được kết nạp vào Đảng, nếu không thì Sài không được kết nạp vì lý do “không yêu vợ”. Và cuối cùng là Sài vẫn phải làm theo ý của thủ trưởng muốn, và có một đứa con với Tuyết như việc ban ân huệ cho cô ấy để rồi cả cuộc đời của Tuyết phải chịu những khổ đau dằn vặt vì yêu người mà không yêu mình. Tác giả khắc họa nhân vật Sài không phải là một nhân vật hoàn toàn nhu nhược và thiếu dũng cảm, có thể thấy quá trình tự nhận thức của nhân vật bắt đầu được hình thành từ những cảm xúc, suy nghĩ, độc thoại mà tác giả chú ý khắc họa nhiều hơn. Trải dài suốt 13 chương của tiểu thuyết, chúng ta có thể bắt gặp những suy tư, trăn trở của Sài về cuộc đời, về tình yêu, về xã hội,… Qua đó, người đọc có thể hiểu được những suy nghĩ của Sài và nhận ra Sài đang khát khao những gì, đang muốn thoát khỏi sự tù túng như thế nào và nhận thức được mình cần phải àm gì để thay đổi hoàn cảnh hiện tại này. Đồng thời, mượn hình tượng nhân vật Sài tác giả muốn phản ánh chân thực những chuyển biến và thay đổi trong cách nhìn nhận, đánh giá lại thực tại vấn đề. Xã hội mà Sài sống có những tiêu cực của nó, nhưng không phải nó tiêu cực thì lên án gay gắt nó, mà thông qua đó tác giả muốn chúng ta nhìn nhận lại một thời đã qua, nó có những thiếu sót gì, có những gì chưa làm được thì cố gắng khắc phục và sửa chữa. Chẳng hạn như xã hội trước thời kỳ đổi mới có những hạn chế và tiêu cực của nó, chính vì vậy ở thời kỳ đổi mới đã sửa đổi những sai lầm và thiếu sót của xã hội giai đoạn trước. Nhìn nhận lại thời gian đã qua để định hướng cho hiện tại. Bên cạnh việc khắc họa nhân vật Sài là chủ yếu, tác giả còn tập trung khắc họa những nhân vật khác để làm nổi bật lên tính cách của họ. Chúng ta có thể thấy nhân vật Tuyết – người vợ đầu tiên của Sài lúc 10 tuổi, Tuyết cũng có những nổi khổ của riêng mình chứ không phải cá nhân Sài mới khổ. Cô yêu chồng mình nhưng hóa ra thứ mà cô nhận lại được chỉ là sự hờ hững, lạnh lùng, oán ghét, thậm chí là xua đuổi xem cô như là một chướng ngại vật cản đường. Rốt cuộc thì cô có lỗi gì để Sài ghét cô đến như vậy? Câu hỏi luôn trực diện trong suy nghĩ của Tuyết như một bi kịch day dứt cuộc đời cô. Qua đó có thể thấy thân phận người phụ nữ lúc bấy giờ qua đại diện là Tuyết, khát khao hạnh phúc gia đình nhưng lại sống trong đau đớn cả cuộc đời như vậy. Còn nhân vật Hương cũng như vậy, cô yêu Sài hết mực và cũng muốn xây dựng hạnh phúc gia đình với anh, nhưng Sài không thể lấy cô làm vợ và cũng không có một quyết định dứt khoát trong tình cảm của mình, anh chỉ im lặng để Hương chờ, chờ mãi để rồi cuối cùng cô phải lấy một người mà mình không yêu, như vậy Hương cũng không hạnh phúc và Sài cũng không hạnh phúc. Với các nhân vật như Hiểu, Hiền, anh Tính, chú Hà,… chúng ta có thể hiểu được rõ hơn về tính cách của nhân vật Sài được thể hiện qua điểm nhìn trần thuật của tác giả. Ngoài việc khắc họa nhân vật, Lê Lựu còn đề cập đến vấn đề về xã hội, vấn đề về tâm lý của con người trước thời đại. Cụ thể là tâm lý của dân chúng trong bối cảnh xã hội “bao cấp” và trong giai đoạn đổi mới. Xen kẽ những đoạn văn trong tác phẩm, tác giả có tái hiện nên bức tranh của dân làng Hạ Vị với tâm lý “đi làm thuê” mà không thích làm ruộng đồng. Đoạn trích dưới đây có thể thấy rõ nhà văn đã miêu tả khá chi tiết về việc dân làng chuyên “đi làm thuê”. “Không hiểu từ thuở nào làng chỉ quen đi làm thuê. Miếng cơm thiên hạ bao giờ cũng ngon nên người sức dài vai rộng thì đi tứ chiếng bằng đủ thứ nghề: hàn nồi và cắt tóc, đốt gạch và nung vôi, thợ nề, thợ đất, thợ lặn… Dăm bữa, nửa tháng vợ hoặc con đảo qua để làm cỏ, xáo xới rồi cũng lại vội vã ra đi. Đến mùa thu hoạch lại về. Hết mùa lại đi. Cứ thế. Khi về lại nhớ cơm thiên hạ. Khi đi lại cồn cào thương từ gốc cau, bụi chuối. Họ không yêu tha thiết với đồng ruộng nhưng không đủ sức dứt bỏ những gì quen thuộc từ thuở cha sinh mẹ đẻ ở cái nơi mà ai cũng quen gọi là quê Hương…Những người còn lại hoặc tuổi già yếu, con bận con mọn, hoặc không biết nghề, không quen đi xa, cái lực lượng sản xuất chủ yếu ấy cũng chỉ chòn chọt năm một vụ ngô, tháng mười cày bừa dối dả, tháng tư bẻ bắp chặt cây vội vàng để rồi lại nô nức kéo nhau sang bên kia sông, vào nội đồng làm thuê, sáng cắp nón đi, tối cắp nón về nói cười rả rích. Dường như số trời đã định cho làng này chỉ có việc đi làm thuê. Chen lấn, tranh cướp nhau từng người chủ, và ai được chủ tin thì coi đó là một diễm phúc có thể vênh váo, hãnh diện với kẻ khác, sẵn sàng hạch sách bắt bẻ người cùng xóm, cùng làng, cùng cánh thợ làm thuê một cách nghiệt ngã độc ác hơn cả người chủ thật. Bởi thế, cũng là tỉa ngô, rắc đỗ, ruộng nhà thì làm quáng quàng chỗ dầy, chỗ mỏng, hàng thưa hàng mau nhưng ruộng của chủ cứ đều tăm tắp. Ruộng nhà không bao giờ bón phân, cả làng không ai bón phân, cần quái gì chuồng lợn, chuồng xí. Đàn ông, đàn bà, cả người già trẻ con đều chạy toá ra đồng và lợn cũng thả rông hoặc có chuồng thì cũng chả cần phân ấy để làm gì. Chính những con người ấy lại đánh phân, rửa ráy quét dọn cả chuồng xí, chuồng lợn cho chủ rồi gánh ra đồng cứ của những người chủ tốt tươi sai quả, mấy hạt lại theo đà đâu đó, ca thán, và xỉ vả làng mình ngu si không biết đường làm ăn.” Qua đó, tác giả đang châm biếm giễu nhại một xã hội không có tinh thần vươn lên, cầu tiến trong cuộc sống mà chỉ sống lay lắt qua ngày này tháng nọ bằng việc làm thuê làm mướn trong khi có thể kiếm sống trên chính mảnh đất quê hương của mình. Nhà văn đã vạch trần tâm lý của nhân dân trong bối cảnh đất nước đang vượt qua giai đoạn khó khăn như thế. Đồng thời, nhà văn cũng phản ánh vấn đề của người nông dân lúc này rằng họ cảm thấy chưa có sự yên ổn và đi lên trong xã hội hiện tại, xã hội chưa đáp ứng được nhu cầu của họ và những phương pháp cải tiến xã hội lúc bấy giờ đã thất bại. Người nông dân khi chuyển đổi thời đại xã hội bước vào một đất nước mới, họ chỉ kịp trang bị cho mình hành trang tinh thần, còn hành trang về phương tiện, vật chất cũng như cách thức thì họ không có. Như vậy thì chưa đủ cho việc thích nghi với bối cảnh mới của thời đại của đất nước. Sài cũng vậy, khi Sài bước vào một đất nước chuyển mình từ bối cảnh chiến tranh sang hòa bình xây dựng và phát triển đất nước, anh chưa trang bị kịp cho mình những thứ cần thiết để thích nghi trong một môi trường mới, để rồi kết cuộc là cái giá mà anh phải trả là khá đắt cho sự thiếu sót đó được diễn tả qua cuộc hôn nhân giữa anh với Châu. Nhà văn phản ánh những hoàn cảnh, những thói quen, những tập quán nó đã là “thuộc di sản của xã hội cũ” đó là việc đi làm thuê mãi rồi trở thành thói quen. Tác giả xây dựng cốt truyện Thời xa vắng rất mạch lạc, cách xây dựng các tình tiết cốt truyện phát triển đơn giản, với tác phẩm Thời xa vắng Lê Lựu đã xây dựng và phát triển truyện truyền thống như tác phẩm đã có trước đó. Ở tác phẩm này nhà văn đặc biệt quan tâm đến xây dựng hình tượng nhân vật Sài để làm nổi bật lên tính cách và con người trong xã hội. Bên cạnh đó, nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm là một bút pháp tạo nên dấu ấn với độc giả, thông qua việc trần thuật lại những sự việc diễn ra trên khía cạnh góc nhìn khách quan của nhà văn từ điểm nhìn đa diện nhiều chiều khác nhau. Nhà văn đã xây dựng nên tính cách và diện mạo của Sài từ góc nhìn của những nhân vật khác như: Hương, Châu, anh Tính,… Dần dần qua cảm nhận của những nhân vật này thì hình ảnh của Sài sẽ được hoàn thiện dần một cách khách quan hơn. Qua tác phẩm Thời xa vắng của Lê Lựu, câu chuyện về cuộc đời bi đát của Sài được dựng nên trong bức tranh của xã hội đương thời với những đắng cay và đau đớn mà một đời người phải trải qua, nhà văn vừa thành công trong việc tái hiện những bi kịch đau khổ của con người đồng thời cũng tạo nên tiếng cười châm biếm mỉa mai với những vấn đề xã hội của thời đại. Vừa sâu lắng nhưng cũng vừa xót xa cho một thế hệ, một đời người. Lấy cảm hứng vừa bi vừa hài để lồng ghép vào nhau làm cho tác phẩm có sức cuốn hút hấp dẫn người đọc chiêm nghiệm những triết lý ẩn sau bức tranh của tác phẩm muốn đề cập đến. Với mỗi nhân vật nhà văn khắc họa là một nét điển hình đại diện cho một bộ phận hay một phương diện nào đó trong xã hội. Đó có thể là Hương hoặc Tuyết đại diện cho tầng lớp của những người phụ nữ trong xã hội, hay đó có thể là anh thủ trưởng và các chiến sĩ với môi trường quân ngũ đại diện cho tầng lớp những cán bộ chiến sĩ anh dũng bảo vệ xây dựng và phát triển đất nước với lòng nhiệt thành, hoặc đó là ông đồ Khang và mẹ của Sài là tầng lớp những người nông dân còn sót lại với tư tưởng của xã hội phong kiến cũ. Tất cả những tầng lớp đại diện này đang trong tiến trình bước vào xã hội mới và họ cần phải thay đổi để thích nghi với bối cảnh của xã hội mới. Thời xa vắng tạo được làn sóng mạnh mẽ trong văn học Việt Nam thời kỳ bắt đầu đổi mới xã hội. Nó không chỉ đề cập đến những vấn đề của con người mà còn mở rộng ra cả xã hội, cả thời đại. Ngoài những khía cạnh mà bài viết này đề cập đến thì còn những vấn đề khác ẩn sâu trong tác phẩm, đó là sự phát hiện bổ sung của độc giả với góc nhìn cảm nhận khác nhau của từng người. Mỗi khía cạnh sẽ cung cấp cho chúng ta một cách nhìn nhận đánh giá các vấn đề của xã hội một cách khách quan hơn. Chính vì ý nghĩa sâu sắc ẩn chứa trong nó và kết hợp với văn phong giản dị của tác giả, ngôn từ dễ hiểu thêm sinh động và chân thực, lôi cuốn là một thế mạnh giúp cho Thời xa vắng khẳng định được giá trị của nó trên văn đàn nói chung và trong lòng độc giả nói riêng. Và cho đến ngày nay, tác phẩm Thời xa vắng gắn với cái tên Lê Lựu vẫn còn nguyên những giá trị nghệ thuật và ý nghĩa của nó. Bài Review Sách được đóng góp bởi Cộng Tác Viên Lê Thị Hồng Thắm Mời các bạn đón đọc Thời Xa Vắng của tác giả Lê Lựu.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bóng tối và Ánh sao
Samuel Gerard là một bậc thầy võ thuật, một quý ông điển trai, giàu có, quyền lực, nhưng phía sau lớp vỏ bọc mạnh mẽ, đó vẫn là một cậu bé bơ vơ luôn canh cánh nỗi sợ bị chối bỏ. Anh chỉ sống với một nửa con người, cho đến khi gặp cô… Leda Etoile là cô gái mồ côi được một quý bà độc thân nhận về nuôi dưỡng. Sau khi bà qua đời, cuộc đời xô đẩy cô đến làm việc ở tiệm may váy nhiều thị phi và tai tiếng. Được giáo dục theo nếp sống thượng lưu nhưng mang dòng dõi thiếu minh bạch, cô như mắc kẹt giữa hai thế giới. Tinh tế, đoan trang, ngây thơ và trung thành, cô chỉ biết chấp nhận thực tại cho đến khi gặp anh... Trong cuộc vùng vẫy giữa quá khứ và hiện tại, giữa danh dự và dục vọng… Chính CÔ đã thắp sáng phần đen tối trong anh, giúp anh học cách yêu thương bằng cả thể xác lẫn tâm hồn. Còn ANH đem đến cho cô niềm tin, thổi bùng lên trong cô ngọn lửa của đam mê và hy vọng.  “Laura Kinsale đã phá vỡ tất cả những quy tắc của lối viết thuần túy trong văn chương lãng mạn để tỏa sáng.” - San Diego Union-Tribune *** Với văn phong trong trẻo, giản dị, thuần khiết mà tràn đầy tình cảm cùng sự miêu tả sâu sắc, tinh tế những cảm nhận, suy nghĩ trong tâm tư của nhân vật, Laura Kinsale đã viết nên một câu chuyện tình gây thổn thức rất nhiều đối với tôi. Bà đã, như tờ báo San Diego Union-Tribune đã bình luận về “Bóng tối và Ánh sao”, “phá vỡ tất cả những quy tắc của lối viết thuần túy trong văn chương lãng mạn để tỏa sáng.” Quả thật như vậy, bởi bằng cách xây dựng hình tượng nhân vật nam chính trong tác phẩm này, Laura Kinsale đã vượt ra khỏi cái lối mòn hình tượng nam chính thường thấy trong rất nhiều tác phẩm lãng mạn dã sử để mang đến cho câu chuyện của mình một Samuel Gerard rất mực con người, với nhiều uẩn ức, đớn đau và bóng tối bắt nguồn từ quá khứ kinh hoàng khi còn bé. Chàng trai ấy sở hữu vẻ ngoài của một thiên thần, với khuôn mặt và hình thể đẹp như tạc, mái tóc vàng và đôi mắt xám hút hồn, lớp vỏ bọc mạnh mẽ, cùng tiền tài và quyền lực. Nhưng trái ngược với hình ảnh thiên thần Gabriel tỏa sáng bên ngoài, Samuel Gerard lại mang trong mình phần tăm tối của bóng đêm. Anh đã từng là một cậu bé bơ vơ, không gia đình, không gốc gác, cả cái tên Samuel Gerard cũng là một cái tên tự cậu chọn lấy từ cuốn gia phả những dòng họ người Normandy. Anh đã từng là một cậu bé đã từng bị bán vào nhà chứa những đứa bé trai bị bắt làm điếm cho những ông già ấu dâm, đã từng bị cưỡng bức và lạm dụng tình dục. Cậu bé ấy may mắn được gia đình Hầu tước Ashland giải thoát khỏi chốn địa ngục đó và mang về nuôi. Lớn lên tại quần đảo Hawaii, bên cạnh tiểu thư Catherine “Kai” – con gái Hầu tước, và ông thầy Dojun người Nhật Bản, Samuel dành cả thời niên thiếu để trui rèn bản thân trở thành một bậc thầy võ thuật cừ khôi, một đấu sĩ sắt đá với trái tim là thanh đao, cố gắng chống lại cám dỗ của ham muốn và tình yêu với đàn bà – thứ được người thầy Dojun xem là điểm yếu của cậu. Vì cái quá khứ kinh hoàng luôn ám ảnh, cái quá khứ Samuel luôn xem là nhơ nhớp ấy, anh lớn lên với suy nghĩ mình luôn là đại diện cho bóng tối, là một con người không thể được yêu thương. Anh nhìn ra ở tiểu thư Catherine cái phần ánh sáng, thánh thiện mà anh không bao giờ có được, và quyết tâm sẽ kết hôn với Catherine để dùng cái ánh sáng ấy giúp mình chống đỡ lại phần tối tăm của con người mình. Anh tôn thờ ý tưởng có Catherine làm vợ, tôn thờ cái cảm giác như lẽ đương nhiên chuyện anh và cô sẽ trở thành vợ chồng – một mối quan hệ trong sáng, không nhục dục, không gây đau đớn và tổn thương. Nó trái ngược hoàn toàn với những gì anh cảm nhận được khi gặp Leda Étoile – cô gái thường dân mang nửa dòng máu Pháp, tao nhã, duyên dáng, được giáo dục trong môi trường quý tộc, nhưng cũng giống như Samuel, không thuộc về bất cứ nơi đâu. Càng gặp Leda, Samuel càng bị nàng ám ảnh: mùi hương của nàng, hình ảnh cái hông nàng, dáng hình tràn đầy nữ tính của nàng. Có lẽ tình yêu đã nảy nở giữa một quý ông sống với cái phần tăm tối của mình và ánh sao (“étoile” trong tiếng Pháp có nghĩa là “ngôi sao”) rồi đây sẽ soi rọi cuộc đời anh ngay từ cái khoảnh khắc anh nhặt giùm nàng cây kéo trong tiệm vải. Nhưng vì những gì Samuel cảm thấy với Leda, đối với anh lại là điểm yếu của anh, là cái cám dỗ anh luôn hãi sợ sẽ kéo mình xuống vực thẳm, nên Samuel cùng lúc vừa muốn Leda, lại vừa muốn đẩy nàng ra xa khỏi tâm trí. Và anh đã làm khá nhiều chuyện sai lầm, đã nói khá nhiều lời gây tổn thương, đã hành xử khá nhiều lần lạnh nhạt với Leda, khi anh vẫn chông chênh trên con đường nhận thức và học hỏi được rằng, anh xứng đáng được yêu thương, và anh có thể được yêu thương, bởi người một người phụ nữ bình thường nhưng quý giá hơn tất thảy: Leda. Leda không phải là mẫu mực của một nữ anh hùng trong dòng tiểu thuyết lãng mạn dã sử với khí chất mạnh mẽ, khác biệt, hơn người. Nhưng ở nàng có những phẩm chất cùng sự can đảm tiềm tàng, phù hợp với chuẩn mực phụ nữ thời Victoria: chung thủy, kiên trung, sẵn sàng đấu tranh, bằng tình yêu và lòng tận tâm của mình dành cho nam chính, để cứu lấy mối quan hệ giữa anh và nàng, và để cả hai có được hạnh phúc thật sự. Tôi đọc và thấy thương cho Samuel, những đoạn khi anh chàng, vẫn là một cậu bé của quá khứ lẩn khuất bên trong dáng hình người đàn ông trưởng thành, không biết phải đối mặt hay xử trí như thế nào trước sự cuốn hút về thể xác và tâm hồn mà anh cảm nhận được với Leda. Và tôi cũng thương cho Leda, cho người con gái luôn phải đối mặt với những cơn bốc đồng, những lời nói nhát gừng, những cử chỉ gây đau đớn mà Samuel thể hiện; cho nỗi buồn, niềm tủi thân mà nàng phải nếm trải vì sự giằng xé của Samuel. Leda nói đúng, nếu nàng không yêu Samuel nhiều đến thế, không tận tụy vì chàng đến thế, thì có lẽ, nàng đã bỏ chàng ra đi từ lâu lắm rồi… Và chính nhờ những mâu thuẫn, giằng xé, hiểu lầm đó, mà cái kết có hậu lại càng thêm ngọt ngào và ngập tràn hạnh phúc. – Nguyễn Việt Ái Nhi Review *** 1887 Ở một nơi tối tăm và tịch mịch, anh ngừng việc suy nghĩ. Anh để những tiếng người ồn ào lắng xuống, để âm thanh của cơn gió nhẹ thổi qua những tấm rèm lấp đầy tâm trí. Anh nhìn bóng phản chiếu lờ mờ của chính mình trong gương cho tới khi khuôn mặt đó biến thành của một người xa lạ, một tập hợp các đường nét không biểu cảm trong cặp mắt màu bạc và cái miệng cứng nhắc… và sau đó không còn là người lạ nữa, chỉ là một chiếc mặt nạ khắc khổ… rồi thậm chí xa hơn thế: không còn nhận dạng mà thay bằng những hình thù cơ bản. Chỉ có quang phổ của bóng tối và ánh sáng, một thực thể hữu hình và vô hình. Với thực tế trước mắt, anh dự định thay đổi thành một người khác. Để giấu đi màu tóc vàng, anh mượn một món đạo cụ từ nhà hát kịch kabuki[1] - chiếc mũ trùm đầu màu đen mà các kuroko[2] đôi khi họ kín đáo bước lên sân khấu để thay đổi bối cảnh. Để che diện mạo thật, anh không vẽ mặt hay bôi nhọ nồi vì như thế chưa đủ - khó tẩy trang nhanh và quá dễ bị nhận ra. Thay vào đó, anh bịt một chiếc khăn che mặt màu than chì chỉ để hở đôi mắt làm từ loại vải mềm như chiếc áo choàng màu xám đen anh buộc quanh thắt lưng. Bên trong bộ trang phục tối màu anh mang theo thiết bị dùng để trèo tường, để phóng điện, để trốn chạy hay sát thương, để giết người. Anh chọn đi tabt[3] mềm thay cho giày vì nó giúp bước đi nhẹ nhàng và thật chân hơn. Đất… nước… gió… lửa… và khoảng không. Anh ngồi khoanh chân trên sàn. Bằng đôi tai, anh lắng nghe tiếng gió dịu dàng nhưng không ai đủ sức chặn lại. Bằng những đốt xương, anh cảm nhận toàn bộ sức mạnh to lớn của mặt đất phía dưới. Bằng tâm trí, anh chấp nhận sự trống rỗng. Bất động, anh hòa lẫn vào bóng đêm: vô hình trong gương, tan vào cơn gió. Với những ngón tay đan vào nhau, anh triệu hồi quyền lực của ý chí để thay đổi thế giới như nó vốn hiện hữu. Anh đứng dậy và biến mất. Mời các bạn đón đọc Bóng tối và Ánh sao của tác giả Laura Kinsale.
Bông Hồng Yểu Mệnh
Tác phẩm xoay quanh hai nhân vật chính: Louisa (39 tuổi) và Paul (18 tuổi). Hai con người đều mang trong mình những giằng xé nội tâm. Paul bị ám ảnh khi chứng kiến cái chết của cha mình, ở trường học cậu hay bị bạn bè bắt nạt cho đến khi cậu gặp Daniel (hơn Paul 1 tuổi và không biết chữ, con của một tên trộm). Giữa hai người nảy sinh tình bạn thân thiết. Nhưng đứng trước ngã rẽ cuộc đời, Paul muốn có cuộc sống mới, học đại học và trở thành giáo viên; còn Daniel lại không muốn Paul chọn con đường đó. Trong một lần cả hai đi ăn trộm, Paul đáng lẽ có thể ngăn chặn Daniel giết người, nhưng vì ích kỷ cá nhân Paul đã không làm vậy. Cậu trở thành nhân chứng trong vụ án của Daniel. Lo sợ cha Daniel sẽ hại mình, Paul tham gia vào chương trình bảo vệ nhân chứng, cậu đến làm vườn ở Kelstice. *** Review sách Bông Hồng Yểu Mệnh: Nếu bạn đang mong chờ một cuốn sách trinh thám gay cấn với tình tiết gấp gáp, li kỳ, những pha suy đoán xuất sắc, rượt đuổi ngoạn mục, có lẽ "Bông hồng yểu mệnh" không phải là sự lựa chọn phù hợp."Một đám mây mơ hồ mang bóng hình anh, trôi thấp đến mức cô tưởng như có thể chạm vào và kéo xuống"... "cô nhìn thấy anh thay vì chính mình trong tất cả các vũng nước trên đường và trong các tấm kính". Đó là những dòng chữ đã gây ấn tượng mạnh mẽ với tôi ngay từ trang đầu tiên, cho tôi kiên nhẫn và niềm tin để đọc đến hết dù bạn bè của tôi đã đưa ra những ý kiến trái chiều. Tôi thích cách miêu tả tâm lý như thế của Erin Kelly - thực sự giàu hình ảnh. Hai nhân vật chính là những người mang trong lòng mình quá nhiều ký ức, những ký ức ám ảnh đến vỡ vụn tâm hồn. Louisa, thường xuyên thực hiện "nghi lễ trừ tà" với ám ảnh chính mình, ở tuổi 19 đã giết chết Adam, người cô yêu mãnh liệt và cuồng dại. Paul, chàng trai trẻ được sinh ra sau cả khi cô "giết chết" Adam cũng đã có cuộc sống vô định, vật vờ khi tận mắt chứng kiến cái chết kinh hoàng của cha và một thời gian dài làm bạn, sống như cái bóng và không thể thoát ra khỏi một tên tội phạm, chẳng có sự quan tâm của người thân. Cả Louisa và Paul đã vật lộn, vẫy vùng và chìm nghỉm trong vực thẳm, trong hố sâu mà cả 2 đã tự đào cho riêng mình. Hai nhân vật gặp nhau, đến với nhau như sự sắp xếp tình cờ của số phận. Họ tìm thấy sự bình yên tại khu vườn cổ, một khu vườn thật kỳ diệu. Họ đồng cảm cùng nhau khi chưa biết chút gì về quá khứ của nhau. Và cả 2 bị cuốn vào những rắc rối của nhau trong hiện tại.Tuy không đánh giá là một cuốn sách thật xuất sắc, nhưng nếu bạn thích những đoạn miên man, đắm chìm trong tâm lý nhân vật, nếu bạn yêu cái đẹp của ngôn từ, sự hoàn hảo của khu vườn cổ, có lẽ bạn cũng sẽ giống tôi, chẳng tiếc thời gian bỏ ra để thả hồn mình vào trang sách.Nhưng có lẽ, với tôi, nếu tác giả tiết chế một vài đoạn, sử dụng những chi tiết chọn lọc mang tính chất đại diện, đặc trưng thì có lẽ tác phẩm sẽ trọn vẹn và thu hút hơn. Hồng Khánh, 22.9.2018. *** Tháng Chín năm 2009 Ngay khi vừa thức dậy, Louisa đã biết, tối nay mình sẽ phải làm việc này. Cảm giác như có một cơn bão đang thành hình mà chỉ riêng cô cảm nhận được. Nó lơ lửng trong không trung suốt cả ngày. Các dấu hiệu cùng nhau xuất hiện: tiếng nhạc trở nên không thể chịu đựng nổi, những đoạn đối thoại vô thưởng vô phạt giờ đây cứ vang lên trong đầu cô như tiếng “tích tắc” từ một quả bom hẹn giờ, còn ký ức thì như những con bọ chét lẫn trong chăn đệm cắn cô vào ban đêm. Và rồi, sáng hôm đó, cô đã gặp lại anh. Một đám mây mơ hồ mang bóng hình anh, trôi thấp đến mức cô tưởng như có thể chạm vào và kéo xuống. Nỗi sợ hãi xâm chiếm lấy cô cho đến khi hình bóng đó bị gió thổi tan đi. Kể từ lúc ấy, cô hoàn toàn lạc lối: cô nhìn thấy anh thay vì chính mình trong tất cả những vũng nước trên đường và trong các tấm kính. Trong tiếng nói cười của người qua kẻ lại trên đường, cô chỉ nghe âm vang giọng nói của anh. Mọi vật trong vườn như đang chuyển động và lớn lên để hình thành chữ cái trong tên anh: cái thang đang dựa vào tường tạo thành chữ A, những đường ngoằn ngoèo mà ai đó rạch ra trên nền sỏi của mảnh đất trồng hoa giống như chuỗi những chữ M vô tận. Riêng đống đổ nát trước mắt là không đổi dạng, ba ống khói còn lại chọc thẳng lên trời như những thân cây bị sét đánh trúng. Trưa đến, khi nắng chiếu qua những ô cửa sổ không kính, tạo thành những vạch chia giờ, nhìn như chiếc đồng hồ cổ khổng lồ. Louisa biết, điều gì sẽ xảy ra khi đêm xuống, nên cô muốn ngày sẽ kéo dài mãi mãi; nhưng tất cả những công việc và những cuộc trò chuyện trong ngày chỉ như một vệt nhòe và trôi qua quá nhanh. Cô là người đến khu vườn đầu tiên và cũng là người cuối cùng rời đi. Cô kiểm tra xem cánh cửa vào nhà kính đã đóng chưa, nhanh chóng phân biệt từng chiếc chìa khóa giống hệt nhau trong chùm chìa, rồi khóa căn cabin lại. Cô lần theo đường cáp dày tìm công tắc ngoài trời, ấn nhẹ và cả không gian chìm trong bóng tối. Trăng còn sáng mờ mờ, cô thắp đuốc lên và men theo con đường chỉ mình cô biết. Cô băng qua khoảng đất đang phủ bạt. Khoảng đất này sẽ sớm trở thành bãi đỗ xe mới. Cô đi tiếp qua những bụi cây rậm rạp và cuối cùng đứng đối diện với bức tường. Cảm xúc đang dồn nén trong lòng khiến cô thấy nôn nao. Cô tự nhủ với bản thân rằng, đây sẽ là lần cuối cùng. Lần cuối của lần cuối cùng. Đã có quá nhiều lần cuối cùng rồi. Khi vào bên trong, Louisa theo thói quen nhấn công tắc ấm đun nước, rồi lại tắt nó đi ngay trước khi nước kịp sôi: cô không định uống trà tối nay. Cô đang bận rộn với nghi lễ. Trước tiên phải thắp đèn, rồi sau đó là châm nến. Một vài chiếc nến lớn đã cháy đến gần bấc nên cô buộc phải thò tay vào trong ống đèn, ngọn lửa mới thắp liếm vào mu bàn tay khiến cô bỏng rát. Cô kiểm tra lại các cửa sổ thêm lần nữa, kéo tấm rèm cửa màu vàng xuống để không ai bên ngoài nhìn vào được. Dù sao thì ai đang theo dõi cô chứ? Cô ngồi bên mép giường chừng một, hai phút, đợi lò sưởi làm căn phòng ấm lên, cho bản thân một cơ hội để rút lui. Nhưng rồi cô lại quỳ xuống, mò mẫm tìm chai rượu dưới gầm giường. Ngón tay cô run run chạm vào mặt thủy tinh mát lạnh, phần tiếp xúc với cổ chai và nút chai hơi dinh dính, gợn gợn một lớp bụi mỏng. Louisa nhíu mày. Đã bao lâu rồi cô mới làm việc này? Từ mùa xuân? Đúng, cô chợt nhận ra mình đã cố kháng cự nó trong suốt mùa hè. Thảo nào sự cám dỗ lại thôi thúc cô mãnh liệt đến vậy. Cô có thể quên anh trong suốt những tháng ngày công việc ngập đầu ngập cổ, khiến cô ngủ li bì hàng đêm do kiệt sức. Nhưng giờ là tháng Chín, thời điểm giao mùa trong năm, buổi đêm kéo đến nhanh hơn. Dù có dậy sớm hay làm việc chăm chỉ đến mức nào, cô cũng không thể trốn chạy sự thực rằng mình buộc phải ra về sớm hơn vào mỗi tối, và mỗi ngày qua đi lại mang đến thêm những phút giây yên lặng mơ hồ. Khoảng thời gian trống rỗng đó cứ chồng chất lên nhau khi một tuần trôi qua. Và đối với cô, chỉ một giờ tĩnh lặng, tối tăm đã là quá đủ. Cô mở nút chai và tu một hơi, cảm nhận rõ cổ họng bỏng rát. Giờ thì nghi lễ trừ tà có thể bắt đầu. Không còn nhiều vodka lắm, nhưng như vậy là đủ, nó tiếp thêm can đảm để cô uống whiskey. Chưa chi chân cô đã muốn không vững, cô leo lên giường và với tay lên cái tủ treo tường. Cánh tủ hẹp, giấu đi không gian sâu chừng hai, ba feet, cô thọc tay đến tận bả vai khi mò mẫm giữa những chồng túi và hộp được sắp xếp cẩn thận. Cuối cùng, cô cũng chạm tay vào đúng chiếc túi mình cần. Cô lôi nó ra mạnh đến mức ngã lăn ra giường, cái túi nylon đập lên bụng, một chai whiskey lăn ra. Cô dốc những thứ còn lại trong túi ra như thể một đứa trẻ đang dốc ngược chiếc tất Giáng sinh, dù cô biết sẽ không có bất ngờ nào. Cô trải đều mọi thứ lên giường, tự hỏi mình nên bắt đầu từ đâu, cô nhận thấy mạch ở cổ họng, cổ tay và lồng ngực đang tăng. Cô bắt đầu với chai nhỏ màu xanh tinh dầu hương cỏ, mở nắp và hít một hơi. Còn chừng một phần tư. Cứ mỗi năm trôi qua mùi hương lại nhạt dần, nhưng nó là của anh, anh đã dùng nó nên cô sẽ không bao giờ thay thế báu vật của mình bằng một lọ mới. Cô xức một chút lên phía sau mang tai, nhớ lại cách anh thoa chúng, anh lấy ngón cái ấn nhẹ lên cổ và cổ tay. Tinh dầu phản ứng khác nhau với mỗi người nên cô chẳng thể nào tái tạo lại chính xác mùi hương của anh, nhưng thế cũng tốt lắm rồi. Chai whiskey này không phải của anh, nhưng đó là nhãn hiệu anh yêu thích, loại whiskey Ai-len cổ lỗ và không có tiếng tăm nên chẳng ai tầm tuổi anh biết tên, chứ đừng nói là uống. Nó rất khó kiếm ở London. Việc cô có được một chai rượu như vậy đơn giản chỉ là kết quả từ tình yêu còn lại. Khi ấn chai rượu vào miệng, cô cảm giác như đang hôn anh, cô nhắm mắt lại như thể anh đang ở đây. Cô uống nhiều hết mức có thể và run rẩy đặt chai rượu xuống cạnh ngọn nến, óng ánh lan tỏa ánh sáng màu hổ phách. Mang theo chiếc gương duy nhất từ phòng tắm, Louisa cần trang điểm một chút, làm dịu làn da đã khô mỹ phẩm bằng vài giọt dầu ô-liu lấy từ một ngăn nhỏ. Chì kẻ mi của hãng Blackpool, còn son là của Black Cherry, cả hai đều có màu đậm vốn chỉ hợp với làn da căng mịn, trẻ trung. Cô vén tóc sang một bên, dùng cặp tóc kẹp chặt một cách thô bạo, khiến cho một phần mặt của cô - chừng nửa inch - lộ ra. Giờ mặt cô đang nghiêng về một phía. Cô xõa tóc ra và hất về bên trái. Thế này sẽ tốt hơn. Cô giơ chiếc váy lên, nhìn nó lúc nào cũng nhỏ hơn so với trong trí nhớ của cô. Cô thực sự đã mặc thứ ngắn như vậy đi ra ngoài sao? Như mọi lần, cô nín thở khi mặc nó, sau đó lại thở phào nhẹ nhõm như thường lệ khi thấy mọi thứ vẫn ổn, có chăng hơi rộng do vải bị giãn. Phần vải nhung màu mâm xôi trước ngực rủ xuống, giờ ngực cô không còn căng như trước, nhưng bụng cô cũng không xệ ra. Cô vặn vẹo khuôn mặt, trong tấm kính mờ, hình dung bản thân thời son trẻ đang trề môi trêu chọc lại cô. Thật không công bằng, cô không thể ngừng suy nghĩ, anh sẽ luôn trẻ trung như vậy. Cô với tay lấy chai rượu và suýt làm đổ ra ga giường. Cô đang say, đang rất say, nhưng vẫn uống thêm chút nữa. Louisa ngó quanh căn phòng tối. Trong giây lát, cô không hiểu chiếc ti vi đã biến đi đâu, rồi sau mới nhớ ra mình đã lấy nó làm bệ đỡ khi hong khô mấy chiếc đèn lồng Trung Hoa. Cô nhấc bình hoa và kéo tấm khăn phủ, để lộ một dàn máy tích hợp đầu phát video. Cả thứ này nữa cũng nhỏ hơn trong ký ức của cô. Nó là mẫu mới nhất lúc bố mẹ tặng cho cô. Giờ không có ăng-ten, còn điều khiển từ xa đã mất từ lâu. Liệu nó còn hoạt động không? Cô cảm thấy hơi sợ khi nhẩm tính lại quãng thời gian đã trôi qua kể từ lần cuối sử dụng. Cô cắm điện, cảm thấy nhẹ nhõm khi màn hình sáng lên. Cuộn băng có tên Glasslake này, như cô biết, hiện không còn bản nào nữa. Cô nắm chặt, gần như thách thức mình bóp nát nó. Thật dễ dàng để móc ngón tay nhỏ bé của cô vào cuộn băng và moi ruột nó ra. Cô biết mình nên phá hủy nó. Mỗi mùa đi qua cô càng thêm tự tin rằng sẽ không ai phát hiện ra mình, nhưng nếu bị phát hiện và nếu mọi thứ phản pháo lại cô, thì việc sở hữu cuộn băng này sẽ là một thảm họa. Nhưng giờ đây cô không thể làm việc đó, bất lực ngăn cản bản thân nhét cuộn băng vào đầu máy và ấn nút Play. Đoạn mở đầu chạy qua trước mắt cô theo một thứ tự quen thuộc: những hình ảnh quảng cáo thuốc lá và cà phê, đường dây 0898 dành cho những ai cô đơn đang cần khuây khỏa, đoạn mào đầu một chương trình xa xưa trên kênh 4 mà hẳn là nội dung ban đầu của cuộn băng này. Sau đó, đoạn hình ảnh phát sóng bị ghi đè lên bằng một đoạn ghi hình nghiệp dư. Khi máy quay rung rung tiến sát vào anh, ngay lập tức cô cảm thấy xao xuyến như lần đầu gặp gỡ. Anh đưa tay lên hất mái tóc khỏi mắt, cô sắp nhìn thấy vài sợi chỉ bị tưa nơi cổ tay của bộ áo liền quần màu đen anh đang mặc và cả lời hát được viết nguệch ngoạc ở mặt trong cánh tay anh. Sau này, khi đã quen nhau, anh nói với cô rằng, đôi khi những lúc lo lắng, anh sẽ quên bẵng mất những từ ngữ mình dành hàng giờ để viết. Tiếp theo là một vài đoạn ghi khác, ánh sáng mờ ảo, âm thanh méo mó, nhưng đây là phần Louisa thích nhất bởi cô đã ở đó. Cô ở đó trong khung hình đầu tiên với bộ váy xanh; rồi cô cũng xuất hiện trong cảnh thứ hai, đứng ngay trước máy quay nên có thể nhìn thấy đỉnh đầu của cô trong suốt cảnh quay. Có vẻ như anh đang hướng về phía ống kính và biểu diễn, mặc dù Louisa biết rõ tất cả những lời anh hát đều dành cho cô và hướng về cô. Đó là bằng chứng cho thấy, dù sau đó có chuyện gì xảy ra giữa hai người đi nữa, thì ngay lúc này đây anh vẫn khao khát cô nhiều như cô khao khát anh. Cô hiểu rằng, đó chính là lý do thực sự ngăn cản cô phá hủy cuốn băng này. Adam đang nhìn vào ống kính giữa những tiếng la hét cuối buổi biểu diễn. Sau một hồi dò dẫm, Louisa cũng tìm được nút Pause và dừng cảnh phim lại. Anh đang nhìn cô với ánh mắt đắm say và cáo buộc. Sự hối tiếc dâng lên trong cô mạnh mẽ đến mức gần như trở nên ngọt ngào. Cô nhoài người về phía ti vi như muốn ôm lấy nó. Cô tin rằng khao khát trong cô đủ mạnh để kéo anh ra khỏi màn hình nơi anh đang đứng yên đó, để trở về với cuộc sống, nhưng những gì cô nhận được chỉ là một nụ hôn nóng bỏng qua màn hình. Mời các bạn đón đọc Bông Hồng Yểu Mệnh của tác giả Erin Kelly.
Gia Hương
Marilynne Robinson là tác giả của tác phẩm văn học tân cổ điển đã giành giải PEN/Hermingway, đó là Housekeeping (Gia Hương). *** Bình về tiểu thuyết Gilead của Marilynne Robinson: "Gilead là một cuốn tiểu thuyết đáng đọc, nghiền ngẫm, suy tư... Tôi muốn thấy cốt truyện này xuất hiện trên khắp đất nước tôi và có thể đặt cùng với những cuốn kinh thánh, sách thanh ca và các bộ sưu tập quý giá. Cuốn sách là một điều nhắc nhở chúng ta hướng đến cuộc sống cao thượng và nhân văn và chính vì thế - cuốn tiểu thuyết thật sự đáng trân trọng." - Anne Patchett, The Village Voice. "Những cuốn tiểu thuyết về đời sống tâm linh như thế này thật là hiếm, nhưng đây lại là một trong những cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất." - Newsweek "Những độc giả không quan tâm đến tôn giáo cũng sẽ tìm thấy sự siêu thoát trong những bài thánh ca về sự sống..." câu chuyện đã lưu giữ lại những huy hoàng cũng như cạm bẫy trần thế được thể hiện qua lăng kính hồi kết của một cuộc đời." - The Atlanta Journal Constitution. *** Marilynne Summers Robinson (sinh ngày 26/11/1943)  là một trong số ít nhà văn Mỹ tuy cho ra mắt tác phẩm ít ỏi nhưng sách của bà lại được công chúng độc giả yêu thích và những người viết điểm sách thế giá quí trọng. Kể từ quyển tiểu thuyết đầu tay Housekeeping (Trông nhà - 1980) - được trao giải văn chương Pulitzer năm 1982, mãi tới năm 2004 tác phẩm thứ nhì Gilead (Gia hương) mới ra mắt độc giả - Pulitzer năm 2005, và vào tháng 8 năm 2008 bà mới cho xuất bản Home (Nhà), quyển tiểu thuyết thứ ba. Với quyển tiểu thuyết này, năm 2009, Marilynne Robinson đã đoạt giải Orange dành cho các cây bút nữ trên khắp thế giới.   Marilynne Robinson trưởng thành ở bang Idaho, tốt nghiệp cử nhân năm 1966 và tiến sĩ văn chương ở Đại học Washington năm 1977. Bà là giáo sư thỉnh giảng của nhiều đại học nổi tiếng ở Mỹ và hiện nay dạy ngành sáng tác ở Iowa Writer’s Workshop. Là người thích sống ở vùng quê yên tĩnh nên bà đã chọn tiểu bang Iowa để sinh sống, dạy học, và sáng tác. Năm 2007 Marilynne Robinson nghỉ dạy học một năm để hoàn thành tác phẩm Home.   Marilynne Robinson cũng viết mục điểm sách cho các tạp chíHarper’s, The Paris Review, và The New York Times Book Review.  *** Cốt truyện của quyển Gia Hương rất đơn giản nhưng chúng ta đọc Marilynne Robinson không chỉ để biết cốt truyện mà để trước hết đặt mình trong hoàn cảnh nhân vật, trong tính cách nhân vật xem bản thân mình sẽ nghĩ tưởng và hành động ra sao sau khi đọc những mô tả tình cảm, tư tưởng và hành động của một nhân vật. Đọc Marilynne Robinson cũng còn để thưởng thức văn chương trong từng câu từng chữ tác giả đã viết ra. Viết tiểu thuyết nhắm tới những cái đích này và đạt được tới đích ở một mức độ nào có thể là thước đo một tài năng tiểu thuyết. Truyện có thể tóm lược trong vài dòng như sau: Vào quãng năm 1957 vị Mục sư ở Iowa tên Robert Boughton nay đã ngoài tám mươi, góa vợ từ lâu và đang lâm trọng bệnh. Glory, nay đã 38 tuổi, dạy học, vừa qua một cuộc tình đớn đau sau khi biết được người đàn ông đã có vợ lợi dụng tiền bạc và đã manh tâm đề nghị cưới mình làm vợ nên phải dứt tình bỏ đi. Cuộc tình thất bại, bị phản bội nên Glory tìm về căn nhà của gia đình ở Gilead để trước hết chăm sóc cha già bệnh hoạn, sau nữa cũng để hàn gắn cuộc đời đổ vỡ của mình. Cũng dịp này, người anh của Glory là Jack Boughton, đứa con hoang của gia đình cũng tìm về căn nhà gia đình. Mục đích sự trở về của Glory có thể khá rõ ràng, nhưng mục đích trở về của Jack lại có vẻ mơ hồ. Hai mươi năm trước đây Jack đã làm cha mẹ anh em đau đớn tủi hổ vì anh: Jack hồi đó là một tên nghiện ngập, trộm cắp lừa đảo trong vùng. Jack cũng đã làm cho một thiếu nữ vị thành niên mang bầu rồi anh ta phải bỏ xứ ra đi. Mục sư Boughton và Glory đã phải đến nhà của người thiếu nữ này để tạ lỗi và đề nghị với bà mẹ của người thiếu nữ cho phép nhận con dâu và đứa con trai của Jack nhưng bị từ chối thẳng thừng nên cảm thấy rất tủi hổ nhực nhã. Nghe nói từ khi bỏ nhà ra đi Jack sống lang bạt kỳ hồ, làm nhiều việc bất lương và cũng có dan díu với một phụ nữ da đen tên Dehlia là con gái một mục sư ở St Louis. Hai người đã có một đứa con trai. Trong những na9m xa gia đình Jack cũng đã trải qua nhiều năm tù tội.       Lần cuối Glory gặp Jack khi còn ở nhà khi đó cô mới 16 tuổi. Nay cả hai anh em đã vào tuổi trung niên nên cuộc trùng phùng cũng thật ngỡ ngàng. Câu hỏi “Trở về nhà nghĩa là gì?” là câu hỏi cả Glory, Jack và ngay cả người cha già trên giường bệnh đều cố gắng tìm một câu trả lời. Trở về nhà lần này bề ngoài Jack đã có vẻ như một người biết tu tỉnh: Anh làm vườn, sửa xe, ăn mặc bảnh bao sạch sẽ, lời ăn tiếng nói với cha với em cũng có vẻ tình cảm, nhẹ nhàng, đầm ấm hơn xưa. Nhưng có thật đứa con hoang đó tuy đã trở về nhưng có ở lại không? Marilynne Robinson dùng Glory làm nhân vật thuyết thoại ở ngôi thứ ba của quyển sách. Qua lời kể của Glory người đọc đi vào những góc sâu thẳm nhất trong tâm hồn của mục sư Robert Boughton, Jack, và của cả Glory nữa. Họ không nói năng với nhau nhiều tuy cùng sống dưới mái ấm gia đình. Nhất là giữa Jack và Glory, những hành vi cử chỉ ánh mắt nụ cười của họ nói lên nhiều hơn là những câu đối thoại. Cũng qua những mẩu đối thoại ngắn ngủi hai anh em đã thố lộ cho nhau biết quãng đời riêng của mỗi người từ khi xa cách. Cả Jack lẫn Glory đều biết cha mình là người hết lòng yêu thương con cái nhưng ông yêu thương theo cái cách riêng của ông. Cùng chăm sóc cha già bệnh hoạn chờ chết, Jack và Glory trở nên hiểu biết và thương yêu nhau hơn, và cũng thương xót người cha khá đặc biệt của mình hơn. Vào những giờ phút cuối trong đời ông vẫn cố gắng tìm hiểu đứa con trai hoang tàng, vẫn nuôi niềm hy vọng rất trẻ thơ đứa con hư hỏng này và hy vọng nó sẽ ở lại với gia đình. Nhưng khi Jack nhận được những bức thư anh gủi cho Dehlia bi trả lại, tâm hồn Jack tan vỡ xụp đổ và những thói hư tật xấu trước đây lại tái diễn. Tất nhiên những hành vi này của anh ảnh hưởng lớn lao tới tinh thần và bệnh trang người cha. Và cuối cùng Jack một lần nữa lại bỏ cha già bệnh hoạn em gái cô đơn  ra đi. Làm sao ta có thể hiểu được Jack đứa con hoang này? Mục sư Ames, một người bạn chí thân của mục sư Boughton trước đây khi nhớ về Jack khi còn nhỏ đã có ý cho rằng Jack là một kẻ có tâm hồn ti tiện, xảo quyệt lừa dối, hành vi hoàn toàn vô trách nhiệm. Nhưng với mục sư Boughton cha anh ông nghi rằng những hành vi xấu xa của con trai mình dường như xuất phát từ một cảm thức sơ khai sâu thẳm: nó luôn thấy mình lạ lẫm với tất cả mọi thứ chung quanh. Ông từng nói: “Tôi chưa từng thấy một đứa trẻ nào lại không cảm thấy mình đang ở trong nhà mình khi nó ở ngay trong căn nhà nó sinh ra như thế. Tôi luôn luôn cảm thấy mình phải đối phó với một nỗi u buồn, một thứ cảm giác chĩu nặng trong lòng.”      Khi Jack trở về, ông đã rất cố gắng làm hòa với đứa con hư tuy bề ngoài vẫn tỏ ra nghiêm khắc. Hai cha con có những lần nói chuyện với nhau, cha giảng giải than thở và con làm thinh chịu đựng. Glory luôn khuyên cha hãy đối xử nhẹ nhàng hơn với Jack và ông cũng đã cố gắng làm theo lời con gái. Câu hỏi dằn vặt trăn trở ông là: Không hiểu tại sao Jack lại không thể yêu thương cha và các anh chị em? Câu hỏi này dường như ông không thể có câu trả lời chính vì Jack cũng đã không có một câu trả lới nào. Marilynne Robinson là nhà văn có niềm tin tôn giáo khá độc đáo. Trong quyển Gilead tác giả  cũng đã nói về lòng độ lượng và nhân từ của cha mình qua ký ức của Glory khi nghe ông giảng đạo ở nhà thờ trước đây. “Ông có nhắc tới tội lỗi khi giảng, nhưng theo ông biết tội lỗi thậtlà hiếm hoi, đó chẳng qua chỉ là vấn những hành vi và những sự sơ xuất rất hường tình, cho nên chẳng có ai là người hoàn toàn không có hành vi tội lỗi hay sơ xuất hoặc biết được chúng để tránh, chẳng hạn tránh  một ý tưởng không vị tha hay một hành vi bất cẩn…chính vì vậy ngay một kẻ đúc hạnh nhất cũng không có tư cách gì để phán xét một người khác.” Chính vì quan niệm như vậy cho nên người đọc thấy trong quyển Home/Nhà thiện đi liền với ác, cao thượng song hành với hèn hạ, ân sủng nối gót thất sủng… Marilynne Robinson là người hướng về Thượng đế trong sự trầm mặc tịch mịch. Cho nên tuy viết tiểu thuyết với khung cảnh là thành phố Gilead ở Iowa tĩnh lặng, với những nhân vật thuộc gia đình mục sư nhưng người đọc không bao giờ cảm thấy tác giả rao giảng niềm tin tôn giáo.Truyện bà viết ra tưởng như rất thân thuộc, những đối thoại đầy minh trí tưởng như những lời nói tầm thường nhưng càng đọc lại nghĩ lại thì càng thấy mơ hồ, có thể hiểu theo nhiều cách, nhiều nghĩa khác nhau. Thêm nữa câu văn của Marilynne Robinson viết tuy rất rõ ràng  trong sáng nhưng lại ẩn tàng nhiều nghĩa khác nhau. Nhân vật tiểu thuyết không có nhiều hành động, không có nhiều đối thoại nhưng những liên hệ có ý nghĩa ẩn dấu luôn chập chờn chồng chéo ở phía sau lời nói hay hành vi. Và từ văn chương của Marilynne Robinson toát ra lòng tha thứ quảng đại đúng như câu nói của một nhân vật trong quyển Home/Nhà đại ý: Tha thứ có trước sự hiểu biết, bạn hãy tha thứ rồi sau đó sẵn sàng để hiểu biết và đó chính là khuôn diện của ân sủng.  Review đào trung đạo *** "Cha không nghĩ đó là sự oán giận. Đó là một cái gì đấy thuộc loại trung thành trong đời cha, như thể cha muốn nói cha cũng có một người vợ, cha cũng có một đứa con. Và như thể cái giá để có được họ là phải mất họ. Cha thậm chí không thể chịu đựng nỗi dù chỉ là ngụ ý bởi cái già đó quá đắt. Người ta nói rằng một đứa trẻ sơ sinh không thể nhìn được khi nó còn nhỏ như em gái con, nhưng nó vẫn mở mắt và nhìn vào cha. Nó như một linh vật nhỏ bé . Nhưng khi cha bế nó vào lòng, nó vẫn mở to đôi mắt. Cha biết nó không phải đang suy nghĩ về khuôn mặt của cha. Trí nhớ có thể làm cho một vật dường như tồn tại nhiều hơn thực tế nó có. Nhưng cha cũng biết nó đang nhìn thẳng vào mắt cha. Đó cũng là điều gì đó đáng nói. Và cha rất vui mừng vì cha đã biết được điều đó trong thời điểm này, vì bây giờ, trong tình hình hiện tại của cha, cha sắp từ giả thế giới này, cha mới nhận ra không có gì lạ lùng hơn gương mặt một con người." (Trích đoạn trong Gilead ). *** Mời các bạn đón đọc Gia Hương của tác giả Marilynne Robinson.
Cây Người
Patrick White không chỉ viết về những vấn đề phổ quát của thời đại: sự cô đơn, sự đơn độc của bản thể; văn của ông còn đi sâu vào chủ đề quen thuộc, những khía cạnh trần thế đời thường, ứng xử của con người với thiên nhiên vạn vật. Và Cây Người là đại diện tiêu biểu xuất sắc cho bút pháp ấy, một cuộc phản kháng văn chương, chống lại chủ nghĩa duy vật và nêu bật lên những mâu thuẫn của chủ nghĩa hiện thực… Cây Người còn là một áng văn tuyệt mỹ về nước Úc sơ khai trữ tình, về những con người được tôi luyện trong gió và cát, cũng giống như cái cây nơi hoang dã, con người phải sống bằng chính sức lực của mình, phải chống lại mọi bão giông cuộc sống, giống như cái cây “không hề có phút giây yên tĩnh”… Dù bị đau đớn quằn quại, người ta vẫn tha thiết yêu thương cái mảnh đất ấy. Đến tận cùng, xứ sở cội nguồn của ta mới là điều quan trọng, dù ta có thích hay không… Tất cả những điều đó đã đưa Patrick White thành một tượng đài văn chương, ông cũng là người Úc đầu tiên được trao giải Nobel Văn học, vì “những tác phẩm có nghệ thuật phân tích tâm lý sâu sắc tinh tế và bút pháp sử thi, nhờ đó đã mở ra một châu lục văn chương mới.” *** Quyển sách đã đến tay mình trong một một buổi tối, một cách nhanh nhảu và dễ dàng, theo cách khác lạ mà ít khi mình được trãi nghiệm: không mua, không thuê, mà là mượn. Cái tiêu đề thật cũn cỡn và bí hiểm đã cuốn hút mình đến quả tạ 5 lạng này. Nhưng thật may mắn, nó rớt đúng vào chất văn mình đang theo đuổi, cũ kỹ mà hiện thực. Nên, đến cuối cùng, qua rất nhiều lần lăn lê bò lết, mình cũng hoàn thành một cách thuận lợi. Stan Parker, cả câu truyện đều xoay quanh cuộc đời nhân vật này. Từ lúc cậu còn là một đứa bé, đến khi đi khai hoang, cưới vợ, lập vườn tược, nhà xưởng trên chính mảnh đất mẹ anh di chúc trước lúc qua đời. Có thể xem, anh là lớp người tiên phong trong việc định cư ở vùng này. Biết bao nhiêu gốc cây anh đốn hạ. Thì bấy nhiêu chất “mộc” thẩm thấu vào từng thớ thịt hơi thở. Để rồi không biết từ bao giờ cái tên “Stan” đã thành một “đại thụ” để những người đến ở vùng đất ấy sau này có thể nương tựa vào chính cái tính cách mộc mạc và nhiệt thành của mình. Cũng như cây cao bóng cả. Người đến trước giúp người đến sau. Cái quy luật của cây cỏ ấy cũng đúng với người. Dù có trãi qua qua bao thiên tai hay cám dỗ của bản năng, anh vẫn là một người đáng mến trong mắt người thân và láng giềng. Cốt truyện có vẻ đơn giản, nhưng cách tác giả miêu tả về tình, về cảnh và tâm trạng nhân vật thì lại không. Có chút gì đó vị kỷ, cô độc mâu thuẫn với cái vị tha, khoáng đạt đã làm bật lên nhiều số phận, với những cái kết rõ ràng và đầy tính nhân quả. Qua đó, ta có thêm nhiều gia vị, trong việc chọn lựa và nhận biết nhiều nhân cách khác nhau. Cũng như Stan Parker, cái người ta thấy ở ông là cũ kỹ, khờ khạo. Còn ông thấy ở mình là mạnh mẽ và bình yên như cây, như cỏ. Review Hiếu Phạm *** Cỗ xe ngựa chạy giữa hai cây bạch đàn to và dừng lại. Hai cây đó sừng sững giữa một khoảng rừng cây bụi, chúng cao vượt những cây bao quanh, trông đường bệ mà cũng thật mộc mạc. Chiếc xe dừng lại cho ngựa gặm cỏ phía bên kia cây, còn con ngựa, bờm xờm và bình thản như cái cây, thở phì phì rồi đứng yên. Người đàn ông ngồi trên xe bước xuống. Anh xoa hai tay vào nhau vì trời đã lạnh, mây lạnh tích tụ trên bầu trời nhợt nhạt, còn phía tây ráng màu nâu đỏ như đồng thau. Bầu không khí tỏa ra mùi sương giá. Làn da tê cóng ma sát vào nhau làm không khí lạnh hơn và cảnh yên tĩnh nơi đó càng thêm cô quạnh. Chim ngơ ngác trên cành, còn những con thú giương mắt nhìn xem chuyện gì đang diễn ra. Người đàn ông hạ một bọc xuống khỏi xe. Con chó nhấc chân tè lên một tổ kiến. Con ngựa nhễ nhại mồ hôi môi trề xuống. Sau đó, người đàn ông lấy rìu bổ vào thân cây sợi cốt chỉ để được nghe một âm thanh chứ chẳng vì lý do nào khác. Âm thanh lạnh lẽo và vang vọng. Anh bổ, bổ tiếp cho đến lúc mấy mảnh vỏ cây trắng rơi xuống. Anh nhìn vào vết xước trên thân cây. Im lặng mênh mang. Đây là lần đầu tiên mới có sự việc như vậy xảy ra ở khoảnh rừng này. Chợt như cố tình xua đi một giấc mơ, anh nhanh chóng tháo càng xe, để lại trên lưng ngựa vệt mồ hôi đậm. Anh chằng chặt cặp vó trước của chú ngựa nhỏ chắc mập và đeo túi cỏ vào cái đầu trụi lủi của nó. Anh dùng mấy cái túi và vài cây nhỏ dựng một mái che. Anh nhóm lửa. Cuối cùng, anh thở dài, vì ánh lửa nhỏ đó đã nhen lên trong anh một hơi ấm đầu tiên của niềm thỏa mãn. Của việc được ở một nơi nào đó. Cái mảnh rừng đặc biệt ấy đã trở thành của anh nhờ ánh lửa bập bùng. Nó liếm láp và nuốt trọn nỗi cô đơn. Lúc này, con chó lông đỏ cũng đến ngồi bên đống lửa, gần, nhưng không ngay sát người vốn dĩ chẳng thân thiện gì với vật nuôi. Anh không vuốt ve hay nói chuyện với chúng. Chúng có mặt ở đó - cách xa một quãng - là đủ rồi. Con chó đã ngồi đó. Nó đưa mắt hau háu nhìn, vẻ muốn được ăn vì chủ vẫn chưa chịu lấy hộp đồ ăn ở trên xe xuống. Con chó chăm chú nhìn. Cái đói khiến nó phải xếp chân ngay ngắn. Đôi mắt vàng mòn mỏi dán vào chủ trong khi đợi được ăn thịt. Người đó còn trẻ. Đời chưa để lại dấu ấn trên khuôn mặt anh. Anh trông dễ ưa; bản thân anh hình như cũng là người tốt. Do chẳng có gì để giấu giếm, nên xem ra cái thế mạnh ấy bị kém một chút. Nhưng đấy lại là sự trớ trêu của lòng trung thực. Cây cối ở quanh biến mất dần. Trong ánh chiều tối, dưới bầu trời trắng, màu đen của những cành cây, cùng màu đen kịt của rừng cây bụi nhòa trộn vào nhau. Chỉ có đống lửa vẫn cháy. Và trong vòng ánh lửa, khuôn mặt người đó không lộ chút ưu tư trong khi anh xoa thuốc lá sợi trong lòng bàn tay thô ráp một mảnh giấy vuông nheo lại dính ở môi dưới. Con chó khịt cái mũi. Qua ánh lửa, lông mõm nó sáng lóng lánh. Nó vẫn ngồi theo dõi hành động dằng dai tưởng chừng như không hồi kết. Mọi chuyện vẫn tiếp diễn, và khói thuốc bắt đầu bay lên. Người đó đứng dậy. Anh phủi tay. Anh lấy hộp thức ăn xuống. Con chó lúc ấy mới run rẩy làm sao. Tiếng đĩa, tiếng nước trà rót vào sắt tây, tiếng bột mì nghe bình bịch. Đâu đó có tiếng nước chảy. Chim ríu rít về tổ. Con ngựa non, sáng lên giữa chùm lông trán, cùng con chó đói bụng, cả hai đều đứng chực con người trẻ đó. Ánh mắt và ánh lửa có một sự hòa đồng. Lửa hắt ánh vàng lên dáng người đang ngồi cắt thịt. Thấy vậy con chó điên cuồng nhảy cẫng lên như con ngựa bất kham. Anh ném thịt cho con chó, nhưng do bản chất, anh làm bộ miễn cưỡng phải làm vậy. Con chó ngốn ngấu những tảng thịt béo ngậy, chiếc vòng xích bị đẩy trồi lên phía trên cổ, khiến mắt nó lồi ra. Người đó ăn, miệng nuốt trông đến thô tục do có một mình nên cứ phồng miệng mà nuốt cho trôi, sau đó uống nước trà nóng có pha mùi sắt, cốt để cho trôi hẳn. Hơi ấm dâng lên. Giờ anh thấy tỉnh người. Anh ngửi thấy mùi rơm phảng phất từ cái giỏ thức ăn khi con ngựa đang nhai. Anh ngửi thấy mùi gỗ tươi cháy. Anh gối đầu lên chiếc vòng ẩm ướt tháo ở cổ ngựa. Và cái hang lửa to lớn, như một chốn cung mê, cuốn anh vào. Anh dang chân tay, bừng bừng trong ánh lửa, người mỗi lúc một ấm lên, nhưng đột nhiên lại bị tắt ngấm giữa làn khói nhè nhẹ và giữa dòng suy tư mệt mỏi. Tên người đàn ông này là Stan Parker. Lúc anh chưa ra đời, mẹ anh đã muốn đặt tên con mình là Ebenezer, nhưng rồi anh không phải mang cái tên đó vì ông bố, một con người tục tĩu, có lông bụng, đã cười nhạo. Do đó, bà mẹ không nghĩ đến cái tên ấy nữa. Bà là một phụ nữ không có tính hài hước và hơi sợ sệt. Lúc đẻ anh ra, bà gọi anh là Stanley, vì dẫu sao cái tên đó cũng thuộc loại đáng kính trọng. Bà vẫn nhớ đến tên nhà thám hiểm mà bà đã đọc. Mẹ cậu bé đã đọc khá nhiều qua cặp kính gọng vàng, mỏng mảnh hầu như không ôm được hết cặp mắt xanh ướt át của bà. Bà đọc sách, lúc đầu là để tự vệ trước những nỗi sợ và những chuyện khó chịu. Bà tiếp tục đọc vì, ngoài câu chuyện ra, văn học còn mang lại một vẻ phong nhã mà bà khát khao. Sau đó, bà trở thành nhà giáo. Tất cả những chuyện ấy đã diễn ra trước khi bà lấy chồng. Tên bà là Noakes. Và bà nhớ là mẹ mình đã kể rằng ở quê nhà có một người tên là Noakes đã cưới giáo sĩ của chúa đất. Bản thân bà không làm điều như vậy. Do sai lầm hoặc do bị quyến rũ bà đã lấy Ned Parker, một anh thợ rèn tại khe Willow, một kẻ nát rượu và đã có lần xung phong trả lời bài giảng của cha xứ, nhưng lại là người có thể uốn cong thanh sắt thành nút thắt đồng tâm. Chuyện đó không có gì hào hoa phong nhã, nhưng ít nhất bà còn được sức mạnh cơ bắp bảo vệ. Vì vậy cô Noakes đã trở thành bà Parker, và về mặt nào đó cũng trở nên sợ hãi nhiều hơn trước. - Stan - có lần mẹ anh nói - con phải hứa sẽ yêu Chúa và đừng bao giờ đụng đến một giọt rượu nhé. - Vâng ạ, cậu bé trả lời, vì cậu đâu đã trải qua những cái đó, và mặt trời ánh lên trong đôi mắt cậu. Trong ánh lửa vật vờ mà anh nhóm lên, chàng thanh niên nhớ đến bố mẹ và Chúa của mẹ - một hình ảnh dịu dàng lờ nhờ xanh. Anh đã cố hình dung Chúa của mẹ bằng đường nét có thực, nhưng không sao thấy được. Nào, Chúa ơi, anh đã từng bật kêu lên, nằm mở mắt nhìn vào bóng tối. Đôi lúc anh lại nghe thấy bố chửi bới và văng tục ở phía bên kia cửa. Bố anh không phủ nhận Chúa. Trái lại. Ông là một thợ rèn, chỉ chăm chăm nhìn vào lò lửa. Ông đập đe và những tia lửa bắn tung tóe. Sức khỏe trong ông bốc cháy, tiếng nhạc kim loại đinh tai nhức óc, át đi mùi hôi thối của móng ngựa cháy, nhưng không làm lòng tin của ông mai một. Có lần, lóp ngóp từ dưới mương lên, về nhà sau cơn bí tỉ, ông thậm chí đã trò chuyện với Chúa, rồi chơi vơi bấu lấy cánh của thiên thần đang phẫn nộ, trước khi ông say không biết trời đất gì nữa. Chúa của bố mà cậu bé nhìn thấy, căn bản là một ông Chúa nổi giận, hung hăng, Người xuất hiện giữa những tiếng ợ hơi, ngón tay đầy vết chai vung lên kết tội. Ông là Chúa của những vị Tiên tri. Và đây là vị Chúa mà bản thân cậu bé ngờ vực và sợ hơn là vị Chúa dịu dàng của mẹ mình. Dẫu sao, đấy mới là khởi đầu. Ở khe Willow, Chúa vít những cây tới mức chúng lay phấp phới theo chiều gió như những chùm râu. Chúa đổ mưa xuống những mái nhà lợp tôn, cho đến khi thậm chí những ông già bà cả trở nên trầm tư, nhỏ bé hơn và vàng vọt hơn trước ngọn đèn muội khói, và Chúa đã cắt cổ cụ Joe Skinner, mà nào cụ có tội tình gì, mọi người quen biết đều thấy cụ là ông già tử tế, thích bẻ vỏ bánh mì vãi cho chim ăn. Đấy là một trong những điều, chàng thanh niên nhớ lại, mẹ anh không cố gắng giải thích. “Đó là một trong những sự việc đã xảy ra”, bà bảo. Nói vậy, rồi bà lúng túng quay mặt đi. Có nhiều điều bà không có lời giải đáp. Vì lý do đó, bà không hợp lắm với những người đàn bà khác, đa số gần như biết tuốt, còn những gì họ không biết nghĩa là chẳng đáng để biết. Thế nên mẹ của Stan Parker sống cô độc. Bà vẫn tiếp tục đọc; nào là tập thơ của Tennyson đóng bằng khóa móc đồng, bên trong có ép những bông hoa violet, nào là tuyển tập Shakespeare ố lỗ chỗ vì bị ngập nước, rồi đến những cuốn danh mục sách, niên giám, những sách công thức nấu nướng, một bộ bách khoa toàn thư và cuốn từ điển địa lý, tất cả tạo nên cung cách đọc sách riêng biệt nhằm để che chở cho tâm hồn bà. Bà đọc sách, rồi bà thực hành sự ngăn nắp, tựa như bà có thể sắp xếp mọi thứ trật tự theo cách đó; chỉ có thời gian và mọt sách phá hủy những nỗ lực của bà cùng linh hồn những con người cố bật khỏi bất cứ cảnh ngộ tù túng nào giam hãm họ.   Mời các bạn đón đọc Cây Người của tác giả Patrick White.