Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mười Ngày - Giovanni Boccaccio

Mười ngày (tiếng Ý: Decameron, [deˈkaːmeron; dekameˈrɔn; dekameˈron] hoặc Decamerone [dekameˈroːne]) là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà văn Ý Giovanni Boccaccio. Mười ngày của ông là một trong những cuốn sách nổi tiếng nhất của văn học Italia và thế giới, với nội dung phong phú, giá trị nghệ thuật cao, được dịch hầu khắp các châu lục. Gồm 100 câu chuyện kể với nhiều màu sắc trào phúng, quái dị, trữ tình, bi xen lẫn hài, hiện thực xen lẫn mộng ảo (mà tình yêu là sợi chỉ xuyên suốt phần lớn các truyện), cùng hàng nghìn nhân vật thuộc đủ các tầng lớp xã hội lúc bấy giờ, đồng thời, phản ánh những nét tiêu biểu của tính người nói chung trở thành di sản quý giá trong kho tàng văn hoá nhân loại. *** Giovanni Boccaccio (Giôvanni Bôcaxiô) là nhà văn xuất sắc Italia thời Phục Hưng, sinh ra trong một gia đình thương nhân ở Thị trấn Xectandô, thuộc Tỉnh Tôxcan. Mẹ là người Pháp. Thuở nhỏ học ở Phlôrăngxơ. Vốn say mê khoa học và văn học, ông không tha thiết với nghiệp kinh doanh mà người cha định hướng. Năm 1330, người cha gọi Boccaccio về và gửi đến Napôli học ngành luật nhưng ông chẳng mấy quan tâm với nghề thày cãi. Sau khi cha mất, ông bỏ học và kết bạn với những người hoạt động văn học nghệ thuật. Nhờ bạn bè giới thiệu, ông được nhận vào làm trong triều đình Rôba Ăngjiu, một nhà Vua yêu thích văn học và có nhiều cảm tình với giới tri thức. Ở đây, ông làm quen với Công chúa Maria Acvinơ, và tình yêu đã thúc đẩy ông sáng tác tập Philoxtơrát với những bài xonnê diễm lệ. Khoảng năm 1340-1341, ông trở lại Phlôrăngxơ và dấn thân tham gia hoạt động xã hội, sau hoàn thành nhiều công vụ ngoại giao và được tin dùng. Từ năm 1351, Boccaccio kết thân với nhà thơ Petrarca (1304-1374), người tiếp nối chí hướng nhà khai sáng Dante, người thực hiện việc đặt nền móng cho cả dòng thơ trữ tình Châu Âu, và quan hệ thân thiện với nhiều nhà tri thức lớn khác. Vào năm 1373, theo yêu cầu của Vương chủ thành Phôrăngxơ, ông giảng thơ Date trước đông đảo công chúng. Ngoài sáng tác văn học, Boccacclo còn quan tâm viết nhiều công trình khảo cứu bằng tiếng La tinh. Các tác phẩm chính của Boccaccio có Philôxtơrát (Tập thơ, 1338), các trường ca Têdêit, Ảo ảnh tình yêu, truyện thơ Philêdôlanô, các tập truyện Philôcôlô Phiamétta, Đêcamêrông; truyện Con quạ,… Trên thực tế, mặc dù sáng tác cả thơ, trường ca, truyện song Truyện mới chính là thể loại đem lại cho Bóccaccio niềm vinh quang chói sáng. Truyện Phiametta (1348) kể về mối tình tuyệt vọng của nàng Phiametta với chàng Păngphilô, gồm một lời mở đầu và chín chương. Truyện được viết theo lối tự thuật. Tác phẩm khơi gợi bi kịch tình yêu của người phụ nữ với nghệ thuật khảo sát, có ý nghĩa đặt nền móng cho dòng tiểu thuyết tâm lý xã hội ở Châu Âu. Đến tập truyện Đêcamêrông - Truyện mười ngày (1350-1353) xuất bản lần đầu tiên năm 1471 gồm tới 100 truyện. Dựa trên cơ sở kho tàng truyện dân gian Italia, Boccaccio đã sáng tạo hệ thống các truyện có màu sắc dân dã, gần với đời sống hàng ngày, thể hiện như là bước chuyển của tư duy văn học Trung cổ tới Phục Hưng, mở đầu cho một thời đại văn học mới. *** Trong tập truyện Mười Ngày (Le Décaméron), của Giovanni Boccaccio (1313 - 1375),[1], ngay ở truyện đầu, Tinh thần gia tô giáo, Ngày thứ nhất, ta gặp tên đại bịp Xrappemenô. Trước khi chết y thêu dệt cuộc đời y bằng những sự kiện hoàn toàn bịa đặt để đánh lừa linh mục và các con chiên. Cuối cùng được phong làm thánh. Ta nhớ đến Trạng Quỳnh coi thường thần thánh, đã cột bò trước bàn thờ để lừa Chúa Liễu ngay trong khi cúng. Anh chàng họa sĩ Calăngđranh bị bạn đùa, khiến anh ta tin rằng mình có thai, cũng phảng phất giống anh ngờ nghệch nọ của một truyện tiếu lâm nào đó (Người bệnh tưởng - Ngày thứ chín). Tác phẩm nổi tiếng thế giới Mười ngày của nhà văn và nhân văn Ý thế kỷ XIV, Boccaccio quả thật rất gắn với những truyện dân gian Việt Nam, đặc biệt là những truyện thuộc chủ đề phản phong, đả kích thói giả đạo đức của những người làm nghề tôn giáo, lên án cái luân lý khắc nghiệt mà họ đề ra, đòi hỏi trần gian với những thú vui tự nhiên của nó. Dĩ nhiên khi nói đến chống phong kiến, chúng ta quan niệm thực trạng phong kiến ở châu Âu khác với phong kiến kiến Việt Nam, và châu Á nói chung, hai loại phong kiến có những nội dung kinh tế - chính trị - xã hội đôi khi ngược hẳn nhau. Truyện dân gian Việt Nam thể hiện phản ứng của giai cấp nông dân chống lại chế độ vua quan, địa chủ và kỳ mục, một chế độ mà khủng hoảng kéo dài từ thế kỷ XVII qua thế kỷ XVIII, XIX. Khổng giáo ngự trị xã hội bị phá từng mảng lớn. Những làng xã vẫn là những đơn vị cơ sở tự cung tự cấp, bất di bất dịch, đa số nghề thủ công nằm trong lũy tre xanh không tiến lên công nghiệp được, thành thị thị trấn thuộc quyền nhà vua, tầng lớp thường dân rất yếu ớt, quan hệ sản xuất nông nghiệp không thay đổi nên không có men tư tưởng mới. Trái lại, những truyện mang tính chất dân gian trong Mười Ngày dậy chất men tư tưởng mới của giai cấp thị dân tư sản đang bước vào vũ đài chính trị. Boccaccio đại diện cho tầng lớp thương nhân ở các thành thị Ý. (Nước tư bản đầu tiên - Ăngghen). Châu Âu tiến lên chủ nghĩa tư bản bằng sự phát triển công thương nghiệp, giai cấp tư sản chống phong kiến thắng lợi, tách được thành thị ra khỏi quyền lực của nhà nước, của vua chúa. Boccaccio và thời đại, hoàng hôn Thời Trung cổ, bình minh Thời Phục hưng. Trước sức lấn công của những bộ tộc rợ Gốt (Goths), đế chế La Mã tan rã vào khoảng nửa sau thế XIX, nước Ý vẫn còn bị chia có thành hàng chục quốc gia nhỏ. Đến thế kỷ VIII, IX, sau khi bình định một bộ phận lớn đất đai thuộc lãnh thổ ngày nay của các nước Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha, Trung Âu... Saclơmanhơ lập ra chế độ La Mã - Đức Thần thánh. Sau đó là một thời kỳ hỗn loạn liên miên. Mãi đến thế kỷ X, đế chế Thần thánh mới được khẳng định lại. Bắt đầu từ thế kỷ XI, nhờ có cuộc Thập tự chinh, các thành thị ở miền Bắc và miền Trung nước Ý buôn bán phát đạt nhất là các hải cảng Naplơ, Flôrăngx, Giênơ, Vơnidơ... từ đó công nghiệp (dệt, binh khí, kim hoàn...) phát triển đồng thời với kinh doanh tiền tệ cho vay lãi. Những thế kỷ XII và XIII được đóng dấu bởi hai sự kiện lịch sử quan trọng: sự tranh giành quyền lực giữa Giáo Hoàng La Mã và hoàng đế đóng đô trên lãnh thổ Đức, và sự phát triển của các quốc gia thành thị. Nội bộ các quốc gia Ý bị xâu xé bởi cuộc tranh chấp giữa hai phe, một phe ủng hộ Hoàng đế Ý là một bộ phận của đế chế, một phe ủng hộ Giáo Hoàng. Thực chất cuộc tranh chấp là sự vùng lên của các thành thị - công xã Ý đã vững mạnh, muốn thoát khỏi sự cai trị của Hoàng đế bằng cách chấp nhận sự bảo hộ lỏng lẻo hơn của Giáo Hoàng. Bước sang thế kỷ XIV, thế kỷ của Boccaccio, có thể nói là các (quốc gia thành thị ) Ý thống trị nền kinh tế châu Âu qua thương nghiệp và ngân hàng. Dù phục tùng về danh nghĩa Hoàng đế hay Giáo Hoàng, những thành thị ấy đã là những công xã được giải phóng khỏi ách phong kiến, tự trị về mặt chính trị. Ở đó giai cấp tư sản đương lên xây dựng một nền văn nghệ huy hoàng, báo hiệu thời kỳ văn nghệ phục hưng ở châu Âu. Ngay khi văn học Ý ra đời, đã xuất hiện ba thiên tài: Đantê ( 1265- 1321), người sáng tạo ra hùng ca. thơ tự sự và giáo huấn Ý. Pêt'raca (1304-1374), người canh tân thơ trữ tình Ý và Giôvanni Boccaccio ( 1313- 1375), người đặt nền tảng cho văn xuôi nghệ thuật Ý. Ba người là gạch nối giữa thời Trung cổ và thời Phục Hưng văn nghệ châu Âu. Con hoang của một thương nhân Ý và một phụ nữ Pháp, sinh ở tỉnh Xectanđô, gần Flôrăngx. Boccaccio qua thời thơ ấu ở đây. Năm mười lăm tuổi, ông được cha cho đi Naplơ để học nghề buôn và học luật. Những năm tuổi thanh niên này ở Naplơ có một đời sống văn hóa sôi nổi đã quyết định bước đi của ông, ông học tiếng La Tinh, nghiên cứu văn học cổ La Mã, say mê nhà thơ Vecgiliut. ông tham gia sinh hoạt cung đình vua Rôbe, giao thiệp với những nhà văn, nghệ sĩ, bác học, quý tộc và kinh doanh có tên tuổi. Rất có thể là ông yêu con hoang của vua Rôbe, nàng Nan Đakinô. Hoặc giả một phụ nữ nào khác đến nay vẫn chưa biết tên đã trở thành nàng thơ của Boccaccio dưới cái tên mỹ miều là Fiametta (ngọn lửa xinh). Ông ca ngợi mối tình ấy theo mẫu ước lệ cung đình trong tập Thơ (Rime) gồm 257 bài không có gì đặc sắc lắm; trong Người say mê tình ái (II Filocolo), truyện văn xuôi phân tích tâm lý theo khuôn sáo tiểu thuyết trung cổ Pháp; Flor và Blăngsơflor (Flor et Blancheflor); và trong Khúc bi thương về nàng Fiametta (Elegia di Madonna Fiametta). Thi phẩm Hình ảnh tình yêu (Amorosa visione) sử dụng thể văn phóng dụ để kể những chuyện phiêu lưu tình ái, cũng bắt chước cuốn Tiểu thuyết Hoa Hồng nổi tiếng thời Trung Cổ. Khúc bi thương về nàng Fiametta mãi đến năm l341 - 1345 mới hoàn thành: là một cuốn tiểu thuyết nửa tự truyện đã có những phân tích tâm lý sâu sắc và những rung cảm chân thực về một mối tình tuyệt vọng. Bị người tình ruồng bỏ, Boccaccio đau khổ, hoang mang, may nhờ bạn bè trông nom, an ủi, ông mới lấy lại được tinh thần. Năm 1340, Boccaccio 27 tuổi, thấy ông bỏ học theo con đường văn chương bất trắc, cha ông không gửi tiền trợ cấp cho ông nữa. Ông đành bỏ Naplơ về Flôrăngx với cha. Cuộc đời của Boccaccio gắn với thành phố này, nơi ông ở lâu nhất. Một nhà kinh tế học và xã hội học Đức, Vecnơ Dombac (Wemer Sombart, 1863 - 1941), nhận xét: nếu tôi không nhầm, chính ở Flôrăngx khoảng cuối thế kỷ XIV, mà lần đầu tiên người ta thấy người tư sản hoàn chỉnh. Flôrăngx đã chứng kiến thắng lợi của những người mới phất to, của đầu óc kinh doanh tự do, của một lối suy nghĩ mới, lối ăn tiêu có tính toán, không hào phóng như giai cấp quý tộc[2]. Ở Flôrăngx, Boccaccio đi lại chốn cung đình, hoạt động chính trị, ngoại giao, mấy lần được cử đi công cán. Sau khi cha chết (l349), ông được thừa hưởng một gia tài khiêm tốn nhưng cũng đủ để củng cố tình hình kinh tế bản thân, khiến ông rảnh rang để sáng tác và nghiên cứu văn học cổ La Mã - Hy Lạp. Boccaccio đã trưởng thành trong cuộc sống và trong lĩnh vực văn học. Mặc dù rất thích làm thơ, ông đã quyết định rút lui trước khi Pêtraca, bạn thân ông từ năm l350, người thường xuyên trao đổi thư từ với ông và giúp ông nghiên cứu chủ nghĩa nhân văn cổ đại. Ông đi vào lĩnh vực truyện văn xuôi còn chưa ai khai thác một cách nghệ thuật. Sau trận dịch hạch khủng khiếp năm l343, ông sưu tầm tài liệu chuẩn bị viết tập truyện Mười Ngày, xuất bản năm 1353. Ông còn viết Nữ Thần ở Fixôlơ ( Ninfale Fiesolano, 1345 - l346), thơ tình thôn dã thần thoại kết hợp hiện thực và trữ tình, khẩu vị dân gian và chất liệu cổ điển La Mã, Con quạ[3] (Corbaxiô, 1355 ), truyện một người về già yêu một thiếu phụ, bị nàng hắt hủi nhạo báng, do đó đâm ra hoài nghi phụ nữ nói chung và nhận thấy những khuyết điểm và tật xấu của họ. Trên đây là những tác phẩm viết bằng tiếng Ý đã mang lại vinh quang cho Boccaccio, ông còn sáng tác bằng tiếng La tinh, nhưng sáng tác này không có mấy tiếng vang. Đáng kể có Nỗi gian truân của những nhân vật nói riêng (De Casbus virorumillustrium, 1355), tập tiểu sử Về những phụ nữ nổi tiếng (Declaris mulieribus, l374), tiểu sử của 104 phụ nữ đạo đức hoặc xấu xa. Năm 1362, Boccaccio, khi đó 49 tuổi, qua một cơn khủng hoảng tâm hồn vì những lý do tôn giáo, ông định thiêu hủy tất cả các sách viết bằng tiếng Ý của ông, cho là quá phóng túng và tội lỗi. Nhưng Pêtraca đã kịp thời ngăn chặn ý định đó của bạn. Boccaccio đi Naplơ và Vơnidơ để kiếm một địa vị. Thất vọng, ông về sống chục năm cuối đời ở Xectanđô. Ông sống những năm tháng cô đơn và lặng lẽ, chuyên nghiên cứu văn học cổ La Mã - Hy Lạp cho đến khi chết, năm 62 tuổi. Niềm vui lớn của ông là năm l373, được chính quyền Flôrăngx mời đến đọc và bình luận trước công chúng tác phẩm Thần Khúc (Divina Commedia) của Đantê. Tác Phẩm Mười Ngày Tác phẩm lớn nhất của Boccaccio viết năm ông 37 tuổi. sau khi ông đã có hai chục năm trong nghề văn, lấy tên là Décaméron, tiếng Hy Lạp nghĩa là Mười Ngày vì tập sách gồm một trăm truyện kể trong Mười Ngày, mỗi ngày mười truyện[4]. Theo tác giả giới thiệu năm 1348, trong khi bệnh dịch hạch hoành hành ở Flôrăngx, mười thanh niên thượng lưu (bảy nữ và ba nam) rời bỏ thành thị để lánh nạn ở một biệt thự nông thôn. Để tiêu khiển, họ quyết định mỗi ngày mỗi người kể một truyện. Như vậy là sách chia làm mười chương, mỗi chương gồm truyện của mỗi ngày. Thực ra nhóm thanh niên ở lại nông thôn mười bốn ngày, vì trong hai tuần lễ mỗi tuần có hai ngày (thứ sáu và thứ bảy) ngừng kể chuyện vì lý do tôn giáo. Mỗi ngày lần lượt một người được bầu làm Hoàng Hậu hay vua để điều khiển tổ chức, để ra một chủ đề chung cho các truyện kể ngày hôm đó. Mặc dù phụ thuộc vào chủ đề, mỗi truyện đều độc lập về nội dung, tính chất, bố cục. Sinh hoạt hàng ngày của nhóm ít thay đổi, dạo chơi, đàm luận kể chuyện, kết thúc là một bài ca (canzone) để múa hát nhân đó Boccaccio có dịp giới thiệu một số thơ trữ tình hay của mình. Bước vào ngày thứ nhất, Boccaccio phác họa một bức tranh rùng rợn về bệnh dịch hạch và thần chết ở Flôrăngx, làm nổi bật hình ảnh tương phản cái vui thanh thản của những người đi lánh nạn ở nông thôn, làm sáng tỏ ý nghĩa cuộc sống trần gian qua những câu chuyện kể. Ngoài phần mở đầu, tác giả chỉ phát biểu ý kiến trực tiếp với độc giả hai lần, một lần ở đầu ngày thứ tư và một lần ở phần kết luận, để bác bỏ những ý kiến chỉ trích mình kể chuyện phóng đãng. Ông biện bạch một cách hóm hỉnh là ông viết để phụng sự phụ nữ vì phụ nữ và tình yêu là ý nghĩa cuộc sống trần gian. Ông dẫn chứng câu chuyện (chim cái): một chàng trai cùng tu với bố ở trên núi, xa lánh đời từ năm hai tuổi. Năm anh mười tám tuổi, người bố cho là anh đã đắc đạo, dắt anh xuống thành thị, khiến cái gì anh cũng làm lạ và hỏi tên. Anh đặc biệt choáng váng khi lần đầu tiên trông thấy mấy cô gái. Người bố sợ anh sa ngã, nói: Đừng ngó họ. Không có gì là tốt đâu. Anh gặng hỏi tên gọi họ, người bố nói thác: Người ta gọi họ là những chim cái. Anh nằng nặc đòi mang một con chim cái ấy lên núi. Trong tập sách, mười nhân vật kể chuyện không được miêu tả cụ thể. Họ chỉ là những hình tượng ước lệ: tượng trưng cho những trạng thái tâm hồn, phù hợp với chủ đề các truyện. Ví dụ: Filôxt'rat là hình ảnh mối tình vô vọng, Nêifin là hiện thân của dục tình cuồng nhiệt, v..v.. Thời Trung cổ (từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ XV), chế độ phong kiến phát triển mạnh nhất từ thế kỷ thứ IX. Trong ba thiên tài xuất hiện đầu như đồng thời, Đantê, sinh trước Boccaccio 48 năm thấm nhuần tinh thần Trung cổ hơn và phản ánh đầy đủ nhất, nghệ thuật nhất thế giới Trung cổ, niềm tin tuyệt đối và thần bí vào đạo Gia tô, sự cứu vớt linh hồn ở thế giới bên kia, tình yêu có tính chất lý tưởng, ngoài xác thịt, nâng tâm hồn lên toàn điện toàn mỹ. Ở châu Âu, những cuộc Thập tự chinh đầu tiên vào thế kỷ XI đã góp phần củng cố giai cấp quý tộc và làm nẩy nở một lý tưởng mới, lý tưởng hiệp sĩ, đề cao lòng dũng cảm đem gương phụng sự Chúa trời và lãnh chúa của mình, văn học được đánh dấu bởi những bản hùng ca đề cao hiệp sỹ đánh đông dẹp bắc. Qua những thế kỷ sau, lần lần võ nghệ nhường bước cho tình yêu, ở những cung đình lộng lẫy giai cấp quý tộc giàu có một phần nhờ chinh chiến, sống một đời sống xa hoa, lịch thiệp hơn và đòi hỏi những thú vui phong nhã. Lý tưởng cung đình xuất hiện, hiệp sỹ quý tộc không những phải dũng cảm, mà còn phải lịch thiệp, hào hiệp, nhất là biết yêu. Phụng sự vô điều kiện suốt đời một vị phu nhân được suy tôn là hoàng hậu của đời mình. Lý tưởng này đã đề ra những thế lực văn học cung đình như thơ trữ tình và tiểu thuyết tình. Như trên ta đã thấy, Boccaccio cũng không thoát khỏi tình huống của loại văn học này. Mặc dù là thị dân, ngưỡng mộ lý tưởng của quý tộc, ông muốn đưa vào thế giới thị dân tư sản của mình. Những truyện của ngày thứ mười trong Mười Ngày minh họa lý tưởng hiệp sỹ và cung đình. Đáng chú ý là lý tưởng tôn giáo độc tôn thời Trung cổ lại trở lại với Boccaccio khi về già. Đã có những lúc ông ăn năn vì đã tỏ ra quá ư phóng túng trong những sáng tác bằng tiếng Ý, đặc biệt trong tập Mười Ngày. Hình như cuối đời ông đâm ra ghét phụ nữ mà ông đã từng sùng bái. Tuy còn gắn bó với Thời trung cổ về nhiều mặt, tư trang của Bocaxiô đã báo hiệu Thời kỳ Phục hưng: hay có thế nói là đã đóng góp xây dựng sơ kỳ văn nghệ Phục hưng Ý. Trào lưu này xuất phát ở Ý và đến thế kỷ thứ XVI lan ra Tây Âu. Nó chống lại thời Trung cổ, chủ trương phục hưng tinh thần và hình thức văn nghệ thời cổ đại Hy Lạp - La Mã. Giai cấp tư sản đương lên có tư tưởng nhân văn, đề cao cuộc sống trần gian và con người, tin vào khả năng giáo dục cải tạo con người, đưa ra mẫu người hoàn hảo vừa hành động vừa hiểu biết rộng, đề cao tự do tư tưởng, chống phong kiến và thần học. Dĩ nhiên là trong hoàn cảnh Thế kỷ XIV tư tưởng nhân văn của Boccaccio chưa được hoàn chỉnh như thế, nhưng hướng tiến bộ đã rõ nét. Là con một thương nhân và bản thân khi vào đời cũng học kinh doanh, Boccaccio được chứng kiến sự phồn thịnh của các thành thị trở thành quốc gia, quyền lực của các thương nhân và chủ ngân hàng phá vỡ cấu trúc phong kiến. Nói chung Boccaccio hướng về thế giới tư bản mang nảy nở hơn là bâng khuâng về thế giới Trung cổ đương suy tàn, không hoài bão như Đantê làm sống lại một trật tự thế giới lý tưởng bằng sức mạnh của đức tin và lí trí. Mười Ngày là cuốn sách đầu tiên ở châu Âu mà trong đó người kinh doanh xuất hiện với một hào quang mới. Thiên hùng ca về thương nhân này rất được thương nhân thế kỷ XIV tán thưởng. Giai cấp quý tộc đề cao dòng máu, cho huyết thống là phẩm giá cao nhất của con người. Giai cấp tư sản đả phá quan niệm ấy. Trong chuyện Thắng Lợi của Cái Chết ( Ngày thứ tư), cả đến một nữ công tước, Ghixmôngđơ. cũng đương đầu với vua cha, biện hộ cho cuộc tình duyên vụng trộm của mình với Ghixcar, một thanh niên hào hoa phong nhã nhưng xuất thân gia đình thấp kém. Yêu chàng, nàng đã chọn lựa chàng (sau khi suy nghĩ chín chắn) và nàng khẳng định lý, về tài đức, có những người dân thường mà nhân phẩm cao hơn những bậc công hầu. Mười Ngày chứng minh điều ấy và đề cao đạo lý mới của thị dân tư sản đặc biệt là thương nhân. Boccaccio ca ngợi đầu óc thực tế, trí thông minh, tài khéo léo, ý muốn thành công, tính thích phiêu lưu. Không quay lưng vào cuộc sống trần gian với những thú vui của nó, phải chấp nhận cuộc đời cái may và cái rủi, sẵn sàng tìm cách thắng cái rủi ro của số phận. Hạnh phúc là tương đối. Phải biết hạn chế ước vọng, không đòi hỏi tuyệt đối. Tình yêu là sợi chỉ xuyên suốt phần lớn các truyện trong Mười Ngày. Đó là cả một vũ trụ muôn màu sắc, từ tình yêu trong trắng đến tình yêu nặng về xác thịt, từ tình yêu hồn nhiên đến tình yêu phức tạp, từ gian díu đến đá vàng, từ tình yêu tế nhị đến tình yêu tàn bạo. Yêu thương, ghét giận, ghen tuông, nhớ nhung, hơn dỗi, oán thù... tất cả các âm hưởng của tình yêu đều được diễn tả. Phụ nữ là đối tượng của Mười Ngày, như Boccaccio tuyên bố trong phần mở đầu, vì họ cần được an ủi, được tiêu khiển. Họ không được hưởng như nam giới thú vui thành công trong sự nghiệp, không được tự do, không được đi du lịch, không được săn bắn, không được phiêu lưu, không được buôn bán. Họ sống bên lề một xã hội do nam giới quản lý. Họ chỉ còn biết trông vào tình yêu, và Boccaccio đòi cho họ được quyền được tìm hạnh phúc vượt ra khỏi những cấm đoán của xã hội cũ, như cô con gái một thầy lang chiếm được trái tim một hiệp sĩ trong truyện Lấy Lại Được Chồng (Ngày thứ ba). Giai cấp thị dân tư sản không muốn sống một cuộc đời khổ hạnh theo quan niệm đạo gia tô thời Trung cổ. Truyện dân gian của thị dân Trung cổ đã chế giễu tính giả đạo đức của các người tu hành. Mười Ngày cũng có nhiều truyện đả kích rất mạnh nhà thờ. Nhà thương nhân Do Thái Abraham đến tòa thánh La Mã để được nhìn tận mắt đời sống của Giáo Hoàng, các hồng y giáo chủ, và các tu sĩ khác. Từ người lớn nhất đến người nhỏ nhất, tất cả, toàn thể bọn họ đều phạm vào tội nhục dục hết sức vô sỉ... ông nhận thấy tất cả bọn họ đều có tính phàm ăn, nát rượu, say sưa chè chén... họ biển lận, hám tiền... (Trường học La Mã, Ngày thứ nhất ). Phong phú về nội dung. Mười Ngày có giá trị cao về nghệ thuật. Được viết bằng tiếng Ý, nó góp phần xây dựng văn học Thời Phục hưng Ý. Một yêu cầu của trào lưu phục hưng văn nghệ ở châu Âu là tạo lên một nền văn học dân tộc viết bằng ngôn ngữ dân tộc, với những tác phẩm mà tiêu chuẩn nghệ thuật và nhân văn theo mẫu và vươn tới tầm những tác phẩm cổ điển Hy Lạp - La Mã. Tiếng Ý là kết quả quá trình phát triển tự nhiên của tiếng La Tinh cổ điển. Đến thế kỷ X, nó mới được công nhận là một ngôn ngữ thật sự, tuy vẫn bị coi là một thổ ngữ. Trong mấy trăm năm, các nhà văn Ý ngưỡng mộ văn học cổ La Mã vẫn viết bằng tiếng La Tinh là chủ yếu. Mãi tới Đantê Pêt'raca và Boccaccio, tiếng Ý mới được rèn đúc thành một ngôn ngữ văn học và mở đầu văn học Ý nói chung. Tiếng Ý được Boccaccio sử dụng nhuần nhuyễn trong Mười Ngày kể những truyền nhiều màu sắc, khi thì châm biếm, giễu cợt, khi thì hiện thực trắng trợn, thô lỗ, khi thì tình cảm thanh cao. Bi xen lẫn hài, hiện thực xen lẫn với mộng ảo, quái dị, nhưng mộng ảo, quái dị chỉ đóng vai trò phụ, cái chính vẫn là hiện thực. Thực là một bức tranh sống động về xã hội Ý thế kỷ XIV tới hàng nghìn nhân vật thuộc đủ các tầng lớp xã hội (thương nhân, quý tộc thầy tu, thầy lang, thợ thủ công, nông dân trí thức... ), nam có, nữ có, trẻ có, già có. Cốt truyện mượn của kho tàng truyện cổ dân gian phương Đông, Thời Trung cổ, Thời Thượng cổ, truyện đương thời. Do tài kể chuyện của mình Boccaccio biến chất liệu không có gì đặc biệt ấy thành tác phẩm hiện thực, so với những truyện đương thời, ông không mắc ý đồ giáo huấn, thói quen sử dụng phỏng dụ, câu chuyện được xây dựng vững chắc, dẫn dắt và cởi mở tài tình duyên dáng, khiến người đọc luôn hồi hộp. Mười Ngày được coi là "Tấn Tuồng Đời" đầu tiên trong văn học châu Âu và được nhiều nhà văn thế kỷ sau bắt chước. Boccaccio có công xây dựng văn xuôi và văn học Ý, mở đầu truyền thống truyện ngắn hiện thực ở châu Âu. Tác phẩm lớn của ông phản ánh những tư tưởng tiến bộ Thời Phục hưng và được dịch sang hàng chục thứ tiếng trên thế giới. Nó thuộc vào kho tàng văn hóa chung của nhân loại. HỮU NGỌC Hà nội 2-9-1982 Mời các bạn đón đọc Mười Ngày của tác giả Giovanni Boccaccio.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hậu Duệ Thần Đèn Tập 3: Hổ Mang Chúa Kathmandu - Philip Ballantyne Kerr
Cặp djinn sinh đôi John và Philippa Gaunt, một lần nữa lần theo dấu vết của một bí ẩn mang đầy dấu vết ma thuật. Chu du trên lốc gió từ New York đến London, rồi lại từ Nepal đến Ấn Độ, cặp sinh đôi mang trên vai nhiệm vụ trợ giúp cậu bạn djinn của họ, Dybbuk, tìm ra kẻ đã ám sát người bạn thân của Dybbuck bằng nọc một con rắn hổ mang chúa. Và, khi xâm nhập vào thế giới nguy hiểm của Giáo phái Chín Hổ Mang, John và Philippa bất ngờ nhận ra chúng chính là mục tiêu của giáo phái thờ rắn kỳ dị này. Giờ đây, cặp sinh đôi phải tìm được bùa thế thân Hổ Mang Chúa vô giá, và ngăn chặn kế hoạch hiểm độc của giáo chủ giáo phái Chín Hổ Mang! *** “Hậu Duệ Thần Đèn” không chỉ dành cho bạn đọc thiếu nhi mà còn dành cho cả những độc giả trưởng thành yêu thích truyện phiêu lưu viễn tưởng.  John và Philippa là hai anh em sinh đôi. Chúng nghĩ rằng, chúng là những đứa trẻ bình thường, nhưng từ khi bà giúp việc của gia đình trúng số độc đắc, chúng phát hiện ra một sự thật đáng kinh ngạc: chúng là Djinn - hậu duệ thần đèn, và chính năng lực kỳ diệu của chúng đã giúp bà giúp việc trúng số. Nhưng năng lực djinh rất nguy hiểm và rắc rối, chúng phải học cách kiểm soát những ký năng mới mẻ này và chú chó Nimord lập dị trở thành thầy dạy chúng. Ông đã lôi kéo chúng đến Ai Cập để cùng ông tìm ngôi mộ của một pharaoh bị thất lạc, và thế là cả ba người tìm ngôi mộ của một cuộc chiến khủng khiếp chống lại Iblis – tên djinh ác độc nhất thế giới.  *** Hậu Duệ Thần Đèn gồm có: Truy Tìm Akhenaten Djinn Xanh Babylon Hổ Mang Chúa Kathmandu Ngày Tái Sinh Những Chiến Binh Đất Nung Mắt Rừng Năm Tu Sĩ Khổ Hạnh Xứ Faizabad *** Lời của Tác Giả Cho những độc giả “lỡ” quên mất chuyện đã xảy ra trong hai tập đầu tiên John và Philippa Gaunt là hai bạn nhỏ sống ở New York. Sau khi nhổ răng khôn, cả hai bất ngờ phát hiện ra mình là djinn. Răng khôn, cũng giống như sự thông minh, xuất hiện sớm hơn đối với những đứa trẻ djinn. Cậu Nimrod của John và Philippa, một djinn cực kỳ mạnh sống ở London, là người đã hướng dẫn hai bạn “nhập môn” djinn ở Ai Cập, một đất nước với khí hậu nóng bức phù hợp cho quá trình phát triển sức mạnh djinn. Được tạo ra từ lửa, djinn vốn không ưa gì cái lạnh, và những djinn trẻ chưa trưởng thành như John và Philippa gần như không thể “vận” được sức mạnh djinn khi ở trong vùng khí hậu lạnh. John và Philippa vẫn còn rất nhiều điều phải học hỏi về djinn, và sức mạnh của chúng vẫn còn đang trong giai đoạn phát triển. Tuy nhiên, đừng xem thường hai bạn trẻ này. Là một cặp djinn sinh đôi - không phải dạng giống nhau như đúc đâu nhé - khi hợp sức lại với nhau, chúng có được một sức mạnh to lớn như bất kỳ djinn trưởng thành nào. Điều này giải thích tại sao hai bạn có thể giúp cậu Nimrod ngăn chặn kế hoạch lợi dụng 70 djinn thất lạc của Akhenaten để thay đổi sự cân bằng sức mạnh giữa ba tộc djinn Tốt và ba tộc djinn Xấu - còn gọi là Sự Điều Bình - của Iblis, gã djinn độc ác nhất thế giới. Trong khi tất cả những chuyện đó xảy ra, người mẹ djinn của chúng, bà Layla, ở nhà và cố không liên hệ gì với thế giới djinn, để giữ an toàn cho chồng, ông Edward Gaunt, một người bình thường và là một giám đốc ngân hàng. Mọi việc đều ổn thỏa, ít nhất là khi sức mạnh đặc biệt của cặp sinh đôi vẫn chưa bị phát hiện. Nhưng khi Philippa bị bắt cóc bởi Ayesha, vị djinn tối cao của thế giới djinn, người có vẻ đã quyết định lựa chọn cô bé làm người kế vị vị trí Djinn Xanh Babylon của mình, Layla nhận ra bà không thể bỏ mặc tương lai của con gái. Để có thể có được sự tôn trọng của tất cả djinn - cả phe Tốt và phe Xấu - Djinn Xanh buộc phải cỏ một sự độc lập hoàn toàn về lý trí. Nó còn là một vị trí đòi hỏi sự hy sinh cá nhân đáng kể, vì Djinn Xanh buộc phải từ bỏ gia đình để sống một mình, đứng bên ngoài phạm trù Tốt và Xấu. Và vì thế, Layla đã quyết định can thiệp và âm thầm hỗ trợ John trong nhiệm vụ giải cửu em gái tại Iravotum - quốc gia ngầm dưới lòng đất của Djinn Xanh ở Babylon. Nhưng rồi, Layla phát hiện ra người mà Djinn Xanh thật sự nhắm tới không phải là Philippa mà chính là bà. Và, để tuổi thơ của con gái không bị đánh cắp, Layla đã chấp nhận điều kiện của Ayesha: khi Ayesha qua đời, chính bà, chứ không phải Philippa, sẽ trở thành Djinn Xanh Babylon đời tiếp theo. Philippa và John dĩ nhiên rất sốc khi phát hiện ra Ayesha là bà ngoại của mình. Tuy nhiên, chúng lại hoàn toàn không biết rằng chẳng bao lâu nữa, người mẹ yêu dấu của chúng sẽ rời khỏi nhà vĩnh viễn. Trong khi Iblis tiếp tục là kẻ thù lớn nhất của cặp sinh đôi, Philippa và John đã có được một vài người bạn tốt. Đầu tiên là ông Rakshasas, vốn là một người bạn thân của cậu Nimrod, một djinn lớn tuổi có sức mạnh đang hao mòn dần, nói tiếng Anh với chất giọng của người Ai-len dù sinh ra ở Ấn Độ. Tiếp theo là ông Groanin, quản gia kiêm tài xế trung thành của cậu Nimrod đến từ Manchester, người chỉ còn một cánh tay do tích tắc bất cẩn trước một con hổ đói tại Bảo tàng Anh quốc. Cũng phải kể đến Dybbuk, một cậu bé djinn sống ở Palm Springs, California, cùng mẹ là bác sĩ Jenny Sachertorte. Ông bà Gaunt còn có một bà quản gia trung thành tên Trump, người vẫn tiếp tục làm việc cho nhà Gaunt sau khi Philippa đã bí mật biến điều ước được trúng giải độc đắc xổ số New York của bà thành hiện thực. P.B. Kerr, tháng Hai năm 2006 Mời các bạn đón đọc Hậu Duệ Thần Đèn Tập 3: Hổ Mang Chúa Kathmandu của tác giả Philip Ballantyne Kerr.
Hậu Duệ Thần Đèn Tập 2: Djinn Xanh Babylon - Philip Ballantyne Kerr
John và Philippa Gaunt là hai anh em sinh đôi gần đây vừa khám phá ra việc họ là hậu duệ của một tộc djinn (thường được gọi là thần đèn) lâu đời. Sở hữu năng lực thần thông vĩ đại, họ vừa mới trở về sau cuộc phiêu lưu chống lại một djinn độc ác ở Cairo và London. Giờ đây, một bí ẩn lại cuốn cặp sinh đôi lao vào hành trình khác thường kế tiếp. Khi quyển Grimoire của vua Solomon, quyển sách có thể cho người sử dụng quyền năng điều khiển mọi djinn trên đời, bị báo mất cắp, cặp sinh đôi được triệu hồi đi lấy lại nó, mà không hề biết một cái bẫy đã được giăng ra sẵn chờ đợi họ. John phải ngay lập tức dấn thân vào một hành trình nguy hiểm như một áng sử thi để giải cứu em gái mình …. trước khi quá muộn. “… Ngay khi đang nói, John đã cầm kiếm đâm vào cái người có hình dáng giống như cha cậu như lời hướng dẫn nghiêm ngặt của Eno: “Kẻ thâm nhập bắt buộc phải giết chết người bảo vệ thứ bảy mà không chút lưỡng lự, hoặc sẽ phải đối mặt với sự thất bại hoàn toàn của tham vọng bí hiểm của mình”. John không chắc từ “bí hiểm” nghĩa là gì, nhưng cậu có thể chắc chằn rằng nếu không làm đúng theo hướng dẫn của Eno đến từng câu chữ, cậu sẽ không bao giờ được gặp lại em gái – ít nhất là đứa em mà cậu biết và yêu quý. Nhưng nếu John nghĩ rằng thanh kiếm của cậu sẽ xuyên qua không khí, cậu đã lầm. Qua cán cầm của thanh kiếm, cú đâm của cậu có cảm giác thật đến rợn người. Còn tệ hơn nữa là việc cái người giống hệt cha cậu hét lên một tiếng kinh hoàng, như thể ông thật sự bị đâm chết. Và ông cũng không biến mất như những người bảo vệ khác. Thay vào đó, ông ngã gục mặt xuống đất và nằm im lìm giữa một vũng máu. Máu nhìn quá ướt, quá thật và quá đỏ. *** “Hậu Duệ Thần Đèn” không chỉ dành cho bạn đọc thiếu nhi mà còn dành cho cả những độc giả trưởng thành yêu thích truyện phiêu lưu viễn tưởng.  John và Philippa là hai anh em sinh đôi. Chúng nghĩ rằng, chúng là những đứa trẻ bình thường, nhưng từ khi bà giúp việc của gia đình trúng số độc đắc, chúng phát hiện ra một sự thật đáng kinh ngạc: chúng là Djinn - hậu duệ thần đèn, và chính năng lực kỳ diệu của chúng đã giúp bà giúp việc trúng số. Nhưng năng lực djinh rất nguy hiểm và rắc rối, chúng phải học cách kiểm soát những ký năng mới mẻ này và chú chó Nimord lập dị trở thành thầy dạy chúng. Ông đã lôi kéo chúng đến Ai Cập để cùng ông tìm ngôi mộ của một pharaoh bị thất lạc, và thế là cả ba người tìm ngôi mộ của một cuộc chiến khủng khiếp chống lại Iblis – tên djinh ác độc nhất thế giới.  *** Hậu Duệ Thần Đèn gồm có: Truy Tìm Akhenaten Djinn Xanh Babylon Hổ Mang Chúa Kathmandu Ngày Tái Sinh Những Chiến Binh Đất Nung Mắt Rừng Năm Tu Sĩ Khổ Hạnh Xứ Faizabad *** P. B. Kerr nhận ra ông muốn trở thành nhà văn gần như ngay khi ông vừa biết đọc. Tác phẩm đầu tay của ông Chiếc phi cơ biến mất được viết khi ông lên mười. Ông đã nói về tuổi thơ của mình ở Scotland như sau: "Không có ti vi màu hay chương trình truyền hình dành cho trẻ em, không có máy vi tính, không có sân chơi. Vậy nên những trò tiêu khiển của chúng tôi có khuynh hướng ở ngay tại gia. Thật dễ để tôi trở nên ghiền sách, vì thực sự đâu còn gì khác cho tôi làm. Tôi cảm thấy tiếc cho lũ trẻ nhà tôi, có quá nhiều thú vui khác cạnh tranh nhau để giành được sự chú ý của chúng." Hiện Kerr đang sống cùng vợ và ba người con ở London. Tác giả P.B. Kerr sinh ra ở Edinburgh, Scotland, nơi ông được nuôi dưỡng niềm ham thích đọc sách đến tận bây giờ. Mặc dù Hậu duệ thần đèn là bộ sách dành cho thiếu nhi đầu tiên của P.B. Kerr, ông đã rất nổi tiếng trong thế giới truyện trinh thám qua cái tên Philip Kerr, tác giả của bộ truyện ba cuốn Berlin Noir, Một vụ điều tra triết học, Toà nhà Gridiron, Phát súng, cùng rất nhiều bộ tiểu thuyết ăn khách khác. Ông hiện đang sống cùng gia đình ở London. *** Quy tắc chơi Djinnversoctoannular Trò chơi cổ đại với xúc xắc, hoặc astaragali, là một trò chơi dành cho djinn với số lượng người chơi không giới hạn, Djinnversoctoannular sử dụng một bộ bảy viên xúc xắc tám mặt, hay còn được gọi là astaragali. Tám mặt astaragali được đánh dấu bởi Linh hồn, Thời gian và Không gian, Lửa, Đất, Không khí, Nước, Gỗ và Sự May mắn. Sự May mắn, Linh hồn, Thời gian và Không gian, Gỗ, Không khí, Nước, Lửa, và Đất, những mặt được liệt kê ở đây theo thứ tự giá trị với Sự May mắn là giá trị cao nhất[29] Sau khi ném, những viên astaragali sẽ được chuyển cho người chơi tiếp theo cùng với một lời tố (giống bài xì phé) có cấp độ cao hơn lời tố trước đó. Khi một lời tố bị thách thức, người đưa ra lời tố hoặc người thách thức lời tố sẽ mất đi “điều ước” tùy thuộc vào việc lời tố đó là lời tố xác thực hay là lời tố lừa. Mỗi người chơi có ba “điều ước”. Một người chơi sẽ bị loại khỏi ván đấu một khi mất hết ba điều ước. CÁCH CHƠI Tất cả người chơi sẽ cùng ngồi quanh một cái bàn thuận tiện, để bộ astaragali của djinnverso có thể được chuyển đi theo chiều kim đồng hồ từ người chơi này qua người chơi khác mà không làm xáo trộn vị trí các viên astaragali đã được ném. Số lượng người chơi tốt nhất là từ bốn đến tám người, còn trong một giải thi đấu thì chỉ có bốn người chơi một lần. Sức mạnh djinn bị cấm sử dụng trong suốt ván đấu djinnverso, và những viên astaragali sẽ được ném trong một cái hộp thủy tinh được thiết kế đặc biệt để vừa che giấu kết quả ném, vừa phát hiện việc sử dụng sức mạnh djinn trái luật. Do đó, kết quả thắng thua được quyết định không phải bởi khả năng may rủi hay sức mạnh djinn, mà bởi chính khả năng lừa phỉnh đối thủ của người chơi. Bất cứ người chơi nào bị phát hiện sử dụng sức mạnh djinn trong khi chơi sẽ ngay lập tức bị loại khỏi ván đấu. Người chơi đầu tiên được quyết định bởi kết quả ném astaragali, với người được chọn là người có kết quả ném cao nhất. Nếu có hai người chơi có cùng kết quả ném cao nhất, họ sẽ cùng ném lại. Trong lượt chơi của mình, mỗi người chơi có quyền quyết định sẽ ném tất cả/vài/một/hoặc không viên astaragali nào, và thường sẽ ném chúng mà không để những người chơi khác thấy được. Người chơi đầu tiên phải ném cả bảy viên astaragali. Một người chơi cần phải tuyên bố chính xác mình sẽ ném bao nhiêu viên. Quy tắc này đã được đem ra thảo luận trong lần họp cuối cùng. Quyết định của Trọng Tài Tối Cao là nó được giữ nguyên. Và hiện nay, nó được biết tới như Quy tắc Badroulbadour. Người chơi ấy sau đó sẽ chuyển những viên astaragali được che kín trong hộp cho người chơi ở phía bên trái mình, và đưa ra lời tố. Lời tố này phải có cấp độ cao hơn lời tố trước đó. Người chơi tiếp theo có thể, hoặc chấp nhận những viên astaragali và bắt đầu lượt chơi của mình, hoặc thách thức lời tố. Một lời tố chính thức được thách thức bằng từ “mendax”. Một khi được thách thức, hộp astaragali sẽ được mở ra để kiểm tra. Nếu cấp độ của những viên astaragali bên trong hộp ngang bằng hoặc cao hơn lời tố, người thách thức lời tố sẽ mất đi một điều ước, và hộp astaragali sẽ được chuyển cho người chơi ở bên trái người thách thức lời tố để bắt đầu lại từ đầu. Nếu cấp độ của những viên astaragali bên trong hộp thấp hơn lời tố, người đưa ra lời tố sẽ mất đi một điều ước, và người thách thức lời tố sẽ trở thành người bắt đầu lại ván đấu. Tiến trình được đề cập phía trên thường được người chơi thực hiện với một thái độ cử chỉ gây bối rối đối phương, để làm những người chơi khác phải cố gắng hơn. Mỗi một lời tố không cần thiết phải hoàn toàn được chỉ định rõ, và trong trường hợp này nó được coi là lời tố yếu nhất có thể đưa ra mà vẫn đáp ứng được luật lệ đã đề ra. Tốt hơn là một lời tố hợp lệ, cũng như Tốt hơn nhiều (nghĩa là Tốt hơn của tốt hơn) v. v… Nếu một người chơi tố thấp hơn cấp độ astaragali đạt được, nó được coi như Tốt hơn. Việc tố thấp hơn cấp độ này có thể được chỉ ra bởi bất cứ người chơi nào vào bất cứ thời điểm về sau nào của ván đấu, tính đến lúc hộp astaragali được mở ra trước một sự thách thức lời tố. Khi lời tố đạt đến cấp độ Djinnverso: Bảy May mắn (L,L,L,L,L,L,L)[30], người chơi cần đưa ra lời tố cao hơn sẽ phải ném cả bảy viên astaragali, và sau đó có thể ném tất cả/vài/một/hoặc không viên nào thêm hai lần nữa để đạt được cấp độ Bảy May mắn khác. Nếu người chơi làm được điều này, không ai mất đi một điều ước nào, và người chơi tiếp theo sẽ bắt đầu một ván mới. Còn nếu không đạt được cấp độ Bảy May mắn lần nữa, người chơi sẽ mất đi một điều ước. Khi một người chơi chỉ còn lại một điều ước sau khi mất đi điều ước thứ hai của mình, người đó – chứ không phải người chơi ở bên trái họ – sẽ là người bắt đầu ván đấu tiếp theo, tức ném astaragali lại lần nữa. Mỗi người chơi bắt đầu ván đấu với ba điều ước, và sẽ bị loại khỏi ván đấu khi mất hết cả ba điều ước của mình. Người chiến thắng chung cuộc là người cuối cùng còn lại một điều ước. Nếu một người chơi vắng mặt khi đến lượt chơi của mình, người đó được coi như đã chấp nhận lời tố và chuyển hộp astaragali cho người chơi tiếp theo mà không ném viên astaragali nào, như là một lời tố Tốt hơn. Đó là Quy tắc Cairo. Mời các bạn đón đọc Hậu Duệ Thần Đèn Tập 2: Djinn Xanh Babylon của tác giả Philip Ballantyne Kerr.
Cô Gái Cuối Cùng Của Dòng Họ Stanfield - Marc Levy
Eleanor-Rigby là nhà báo, cô sống tại Luân Đôn. Một sáng, cô nhận được một lá thư nặc danh cho biết mẹ cô từng có một quá khứ tội lỗi. George-Harrison là thợ mộc, anh sống ở Québec. Một sáng, anh nhận được một lá thư nặc danh tố cáo mẹ anh từng phạm tội. Eleanor-Rigby và George-Harrison không hề quen biết nhau. Những bức thư nặc danh kể về quá khứ hai người mẹ của mình - những chuyện mà họ chưa bao giờ biết. Vậy mối dây nào đã liên kết họ lại với nhau? Mẹ của họ đã phạm tội gì? Kẻ viết thư nặc danh kia là ai, mục đích của hắn là gì? Trí tò mò đã đưa họ giải mã từng nút thắt của câu chuyện với nhau, cùng nhau khám phá những bí mật và cả những nỗi đau bị che giấu trong quá khứ. Mỗi nhân vật trong câu chuyện đều là một mảnh ghép trong bức tranh toàn thể và tác giả đan xen những mẩu chuyện nhỏ về ông bà - ba mẹ hai nhân vật chính không theo một thứ tự cụ thể về không gian, thời gian. Marc Levy ghép mọi sự kiện lại một cách logic khiến người đọc không thể hài lòng hơn. Cùng với Eleanor và George-Harrison, Marc Levy đưa độc giả phiêu lưu tới nước Pháp thời bị chiếm đóng vào mùa hè năm 1944 rồi lại tới Baltimore những năm 1980 và trở về Luân Đôn ngày nay để khám phá ra một bí mật đã ám ảnh suốt ba thế hệ trong một gia đình. Những dối trá đã kéo họ xích lại gần nhau nhưng chính tình yêu đã giữ họ lại bên nhau. Cô gái cuối cùng của dòng họ Stanfield với những lắt léo của tâm hồn con người một lần nữa chứng tỏ tài năng kể chuyện vô song của Marc Levy. *** Marc Levy (sinh ngày 16 tháng 10 năm 1961, tại Boulogne-Billancourt, nước Pháp) là nhà văn người Pháp gốc Do Thái. Ở tuổi 18, ông gia nhập Hội Chữ Thập Đỏ ở Pháp, nơi ông đã dành 6 năm hoạt động. Trong cùng thời gian, Ông học ngành quản lý máy tính ở trường Đại học Paris-Dauphine và sau đó sinh sống tại Hoa Kỳ từ năm 1984 đến năm 1991. Tại đây, ông đã đặt nền tảng cho hai công ty - một đặt cơ sở tại California và một ở Colorado - chuyên về đồ họa tin học. Vào năm 1991, ông hợp tác lập ra một công ty thiết kế và xây dựng ở trong nước mà sau này đã trở thành một trong những hãng kiến trúc dẫn đầu ở Pháp. Marc Levy viết quyển tiểu thuyết đầu tiên của mình với tên Và nếu như chuyện này là có thật... vào năm 1998. Ông viết cuốn sách này cho con trai mình, khi đã là một thương gia thành công. Năm 1999, sau khi bán bản quyền phim Et si c'était vrai... cho hãng Dreamworks, ông kết thúc công việc ở hãng kiến trúc để theo đuổi sự nghiệp viết văn của mình. Năm 2001, ông cho xuất bản quyển sách thứ hai, Em ở đâu?, tiếp theo là quyển Bảy ngày cho mãi mãi... vào năm 2003, Kiếp sau vào năm 2004 và quyển Gặp lại vào năm 2005. Năm 2005 cũng là năm trình chiếu bộ phim Just like Heaven của hãng Dreamworks - phỏng theo tiểu thuyết Et si c'était vrai... bởi các diễn viên chính: Reese Witherspoon và Mark Ruffalo. Xuyên suốt sự nghiệp viết văn kéo dài gần 20 năm của mình, nhà văn người Pháp Marc Levy sáng tác được tổng cộng 14 quyển tiểu thuyết. Trong số đó có 13 tác phẩm đã được dịch ở Việt Nam. Điểm thu hút trong văn chương của Marc Levy nằm ở chỗ lãng mạn, ngọt ngào. Ông bao giờ cũng khai thác những câu chuyện tình yêu ở khía cạnh tròn trịa và hấp dẫn nhất. Bên cạnh đó, vì tiểu thuyết của Marc Levy bao giờ cũng kết thúc bằng "happy ending" nên nó được xem là "kinh thánh" của những tâm hồn đang yêu. Và ngay cả những người đã mất lòng tin ở tình yêu cũng sẽ dễ dàng có lại được niềm tin đó ở sách của Marc Levy. Một số tác phẩm đáng chú ý: Nếu em không phải một giấc mơ, Gặp lại, Em ở đâu, Mọi điều ta chưa nói…   Các tác phẩm của Marc Levy đã được xuất bản tại Việt Nam: Nếu Như Được Làm Lại - Marc Levy Chuyện Chàng Nàng - Marc Levy Mạnh Hơn Sợ Hãi - Marc Levy Nếu Em Không Phải Một Giấc Mơ - Marc Levy Mọi Điều Ta Chưa Nói - Marc Levy Bảy Ngày Cho Mãi Mãi - Marc Levy Em Ở Đâu - Marc Levy Gặp Lại - Marc Levy Kiếp Sau - Marc Levy Đêm Đầu Tiên - Marc Levy Ngày đầu tiên - Marc Levy Những Đứa Con Của Tự Do - Marc Levy Bạn Tôi Tình Tôi - Marc Levy Chuyến Du Hành Kỳ Lạ của Ngài Daldry - Marc Levy Người Trộm Bóng - Marc Levy Một Ý Niệm Khác Về Hạnh Phúc Cô Gái Cuối Cùng Của Dòng Họ Stanfield .... Mời các bạn đón đọc Cô Gái Cuối Cùng Của Dòng Họ Stanfield của tác giả Marc Levy.
Pegasus Tập 5: Sự Trỗi Dậy Của Các Titan - Kate O’Hearn
Khi Saturn, thống lĩnh của xứ Titus, tìm ra một vũ khí bí mật, xứ Olympus bị đẩy vào tình thế vô cùng nguy hiểm. Mắc kẹt trong cuộc chiến của những sức mạnh cổ xưa giữa các chiến binh Olympus và Titan, Emily và Pegasus phải bay về Thế giới Con người để tìm ra vật duy nhất có thể giúp giải cứu xứ Olympus… Ở đó, Ngọn lửa Olympus sẽ phải đối mặt với Ngọn lửa Titus.Trong cuộc đối đầu của những sức mạnh tối thượng, ai sẽ là người chiến thắng?.... Một cuốn truyện kỳ thú và phi thường! *** Lửa thần xứ Olympus dựng lên cuộc phiêu lưu kết hợp hai yếu tố hiện đại và cổ điển. Tác phẩm có cốt truyện gần gũi, nhân vật ở độ tuổi thiếu nhi đầy ắp trí tưởng tượng.  Tác giả Kate O'Hearn (người Canada) tự nhận mình là người "sinh ra dưới một ngôi sao lang thang". Những chuyến đi trong tuổi thơ đã bồi đắp cho bà trí tưởng tượng, kiến thức phong phú làm chất liệu cho tiểu thuyết. Ngoài bộ sách về chú ngựa Pegasus và cô bé Emily, bà viết một số tác phẩm khác như Shadow Dragon, Valkyrie, Herm's secret... Pegasus gồm có: Pegasus Tập 1: Lửa Thần Xứ Olympus  Pegasus Tập 2: Cuộc Chiến Bảo Vệ Xứ Olympus Pegasus Tập 3: Những Người Olympia Mới  Pegasus Tập 4: Nguồn Gốc Xứ Olympus Pegasus Tập 5: Sự Trỗi Dậy Của Các Titan *** TỪ QUÁ KHỨ XA XƯA Cuộc chiến giữa những người xứ Olympus và những người xứ Titus đã diễn ra và đã phân thắng định. Thần Jupiter, người đứng đầu của xứ Olympus và hai người anh em của mình là thần Neptune và thần Pluto, cùng nhân mã Chiron và ba Người Khồng lồ Trăm tay đã tập hợp tại đống tàn tro của cung điện, cùng đối mặt với những chiến binh Titan dữ tợn nhất. Cuộc chiến cuối cùng diễn ra tại Olympus. Cảnh vật quanh họ đã bị thiêu hủy và tàn phá. Vẻ đẹp của thế giới này đã bị xâm phạm. Nhưng từ giữa đống tro tàn của cuộc chiến, xứ Olympus sẽ lại hồi sinh. Nó sẽ vĩ đại và lộng lẫy hơn bất kỳ điều gì người ta có thể tưởng tượng được. Đứng trước mặt ba vị thần Jupiter, Neptune và Pluto - được biết đến với danh hiệu Bộ ba Quyền lực - là thần Saturn, cha đẻ của họ và là người lãnh đạo của xứ Titus. Hai cánh tay đã bị xiềng chặt của ông ta run lên vì giận dữ khi ông nhìn về phía những đứa con trai của mình. Cùng cảnh bị xiềng xích bên cạnh ông là những người anh em thân thiết, cũng là những kẻ thân tín nhất cũng đã bị đánh bại, nhưng vẫn còn vô cùng ngoan cố không chịu khuất phục. “Các ngươi mong ta quỳ xuống trước mặt các ngươi”, thần Saturn khinh bỉ nói, “để cầu xin những đứa con của ta tha thứ sau khi chúng đã dám thách thức sức mạnh của ta ư?” Thần Jupiter nhìn hai người anh em của mình và buồn bã lắc đầu. “Không, thưa Cha. Chúng tôi không cần người phải nói lời xin lỗi. Và ngay cả nếu người có nói lời xin lỗi thì tôi cũng không nghĩ nó có chút thành ý nào. Lời nói của người là hoàn toàn vô nghĩa.” “Vậy thì các ngươi muốn gì?” Thần Saturn hỏi. “Các ngươi có thể làm gì được ta? Các ngươi không thể tiêu diệt được ta hay bất kỳ Titan nào; chúng ta quá hùng mạnh.” “Người nói đúng. Chúng tôi không thể tiêu diệt người. Người nói như vậy làm tôi rất buồn. Chúng tôi vẫn là con đẻ của người.” “Con ta à?” Thần Saturn nhổ nước bọt xuống đất. “Các ngươi không bao giờ nên trốn khỏi Tartarus. Các người chỉ là những đứa con hoang vô ơn. Các ngươi không phải con của ta.” Thần Neptune thở dài. “Mọi lời nói và hành động của ông đều biểu lộ nỗi căm ghét đối với chúng tôi. Tất cả những gì ông khao khát chỉ là quyền lực. Ông là một khối u cần phải được cắt khỏi cuộc đời của chúng tôi, trước khi khối u đó lan ra rộng hơn.” Thần Saturn cười khinh bỉ. “Ta hỏi lại lần nữa: Các ngươi có thể làm gì ta chứ? Các ngươi chỉ là những cái bóng của sự vĩ đại của ta, không hơn.” “Không Cha à, chúng tôi không phải những cái bóng,” thần Neptune nói. “Chính ông mới là kẻ chiến đấu với những cái bóng.” “Ông tra tấn những sinh mạng vô tội để tạo ra đội quân Titan Ảo ảnh,” thần Pluto đồng ý. “Nhưng ngay cả bọn chúng cũng không đánh thắng nổi chúng tôi. Chúng đã biến mất và chúng tôi vẫn còn đây.” “Chính vũ khí bí mật của các ngươi mới tiêu diệt được những Titan Ảo ảnh của ta chứ không phải các ngươi. Ngươi đã cất giấu đứa con gái đó không cho ta tìm thấy. Nhưng đó chỉ là tạm thời mà thôi. Ta sẽ tìm được nó và khi đó, những Titan Ảo ảnh của ta sẽ trỗi dậy một lần nữa, và cuối cùng ta sẽ trở thành người thống trị những thế giới này, đó là định mệnh của ta.” “Ông sẽ không chạm được một ngón tay vào Emily!” Thần Jupiter hét lên. “Cuộc chiến đã kết thúc. Ông đã bị đánh bại!” “Jupe, bình tĩnh nào,” thần Neptune nói. “Ông ta đang cố gài bẫy anh mà thôi.” Thần Jupiter hít một hơi dài để giữ bình tĩnh. “Hòa bình đã trở lại với các thế giới, và đến một lúc nào đó, Olympus, Titus và Trái đất sẽ hồi sinh. Những dấu vết đen tối của người sẽ bị xóa sạch, người sẽ bị chìm vào quên lãng.” Thần Jupiter đứng thẳng người để đưa ra phán quyết: “Saturn xứ Titus, người đã bị kết án vì tội ác chống lại xứ Olympus. Người sẽ phải chịu chính hình phạt người đã chuẩn bị cho chúng tôi. Người sẽ bị mang khỏi đây và bị tống giam vào ngục sâu Tartarus, không bao giờ được hưởng tự do nữa.” “Tartarus không bao giờ có thể giam hãm ta!” Thần Saturn hét lên. “Đầu hàng ngay và ta sẽ tha cho các ngươi.” Thần Jupiter lắc đầu. “Người không bao giờ hiểu được ý nghĩa của từ tha thứ. Không, thưa Cha, cuộc chiến chấm dứt tại đây. Người và đám thuộc hạ sẽ bị tống giam vào ngục Tartarus và bị giam cầm trong đáy ngục tù. Người sẽ không bao giờ được thấy lại ánh sáng ban ngày.” “Ông sẽ cầu mong được chết, Cha à,” thần Pluto lạnh lùng nói. “Nhưng tôi sẽ không cho phép điều đó xảy ra. Ông sẽ tồn tại và sẽ phải chịu đựng, như chúng tôi đã phải chịu đựng suốt ngần ấy thời gian.” Thần Saturn đưa hai tay lên. Dây xích kim loại nặng nề bắt đầu va vào nhau kêu lách cách. Khi cơn giận dữ của ông ta bùng nổ, lửa và chớp từ hai tay bắn ra, nhắm về phía những người con trai của ông ta. Ngay lập tức, thần Jupiter, Neptune và Pluto cùng giơ tay tạo chung một tấm khiên cản phá đòn tấn công của người cha. Những tia lửa bắn loạn xạ trong điện, làm gạch tan chảy và nung đá thành kính. Những cư dân Olympus chạy toán loạn tìm chỗ trú ẩn và núp sau những cây cột, nhưng may thay tấm khiên bảo vệ của Bộ ba Quyền lực đã bảo vệ họ an toàn. “Cha, hãy dừng lại!” Thần Jupiter nói lớn. “Người không thể chiến thắng!” “Vậy ta sẽ hủy diệt tất cả chúng ta!” Những Ngọn lửa thần và ánh chớp của thần Saturn nổi lên dữ dội hơn cho đến khi ông ta kiệt sức và những làn lửa yếu dần rồi tắt ngúm hoàn toàn. Thần Saturn đứng trước những người con trai của mình, người đẫm mồ hôi và cố gắng lấy hơi nói. “Điều này chẳng thay đổi được điều gì.” Thần Jupiter lắc đầu ghê tởm. “Nó thay đổi mọi thứ.” Ông gật đầu với những Người Khồng lồ Trăm tay. “Mang họ khỏi đây.” Ba thần quỷ trung thành, mỗi người có năm mươi cái đầu, gật đầu và vụng về cúi chào. Một trăm cánh tay của họ tóm tất cả các tù nhân chống đối và kéo họ đi. Mời các bạn đón đọc Pegasus Tập 5: Sự Trỗi Dậy Của Các Titan của tác giả Kate O’Hearn.