Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyến Tàu Định Mệnh

Tình yêu và chiến tranh: một chủ đề kinh điển, bởi vì dường như trong chiến tranh, tình yêu có thể hé lộ hết chiều sâu của nó. Và với Chuyến tàu định mệnh Georges Simenon nổi bật bằng một chuyện tình trong chiến tranh chân thực hiếm có. Sự chân thực ấy, vốn dĩ gắn bó với cả cuộc đời viết văn đồ sộ của Simenon, đã hết sức tự nhiên mà chọn lấy một tông giọng đẹp và chuẩn xác để kể câu chuyện về Marcel và Anna trên chuyến tàu hỏa huyền ảo, vào thời điểm chiến sự bắt đầu bùng nổ tại châu Âu, mùa hè năm 1940. Và hơn thế nữa, không ít chi tiết thuộc tiểu sử của Simenon cũng đi vào Chuyến tàu định mệnh theo một cách tự nhiên như bản thân cuốn tiểu thuyết lớn với vẻ ngoài rất giản dị này. *** Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. *** Khi tôi thức giấc, lớp rèm bằng vải mộc để lọt vào phòng thứ ánh sáng vàng nhạt mà tôi vốn quen thuộc từ lâu. Những khuôn cửa sổ phòng chúng tôi, ở lầu một, không có cánh chớp. Không cửa sổ nhà nào trên phố có cánh chớp. Trên bàn đầu giường, tôi nghe thấy tiếng đồng hồ báo thức kêu tích tắc và, bên cạnh tôi, tiếng thở đều đặn của vợ tôi, to gần bằng tiếng thở của những bệnh nhân, trong một cuộc giải phẫu, trên phim ảnh. Vợ tôi lúc đó có mang được bảy tháng rưỡi. Cũng như lần mang thai Sophie trước, cái bụng vĩ đại của nàng buộc nàng phải nằm ngửa. Không nhìn đồng hồ báo thức, tôi thò một cẳng ra khỏi giường. Jeanne cựa quậy và nói ấp úng, giọng xa vắng: - Mấy giờ rồi anh? - Năm rưỡi. Cả đời tôi, tôi quen dậy sớm, nhất là sau những năm ở liệu dưỡng viện, nơi mùa hè người ta mang hàn thử biểu cho chúng tôi từ lúc sáu giờ sáng. Vợ tôi đã không còn để ý đến những gì xảy ra quanh nàng và một cánh tay nàng duỗi ra chỗ tôi vừa rời khỏi. Tôi lặng lẽ mặc quần áo, cử hành, theo thứ tự, nghi thức của mỗi buổi mai, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn con gái, hồi đó, giường nó còn kê trong phòng chúng tôi. Tuy chúng tôi đã sắp đặt cho nó căn phòng đẹp nhất trong nhà, phía mặt tiền, thông sang phòng chúng tôi. Nó không chịu ngủ ở đó. Tôi rời phòng, tay cầm giày đi trong nhà và chỉ xỏ vào khi xuống tới chân cầu thang. Chính lúc đó tôi nghe thấy những hồi còi thứ nhất của tàu bè, gần cửa cống Uf, cách gần hai cây số. Theo quy định, các cửa cống phải mở cho sà lan qua lại ngay từ lúc mặt trời mọc và sáng nào cũng có cuộc hòa nhạc đó. Trong bếp, tôi nhóm ga, đặt ấm đun nước. Ngày mới, thêm một lần nữa, lại báo hiệu nắng ấm. Trong suốt thời kỳ này, ngày nào cũng thắm tươi rực rỡ, và hẳn tôi vẫn còn có thể, mỗi giờ, chỉ chỗ các dấu mặt trời tại những gian phòng khác nhau trong nhà. Tôi mở cửa thông ra khoảng sân đã được chúng tôi lợp mái kính để vợ tôi có thể giặt giũ bất cứ lúc nào, mưa cũng như nắng, và con gái tôi có thể chơi đùa ở đó. Giờ, tôi vẫn nhìn thấy chiếc xe của búp bê và xa hơn chút nữa là con búp bê đang nằm lăn lóc trên những phiến gạch lát hình vuông màu vàng. Tôi tránh không vào xưởng ngay vì tôi đã nhất quyết theo đúng các nguyên tắc, như cách tôi gọi thời khóa biểu của tôi hồi ấy. Một cái thời khóa biểu tự nó thiết định lấy, dần dần từng chút một, do những thói quen tạo ra hơn là do nhu cầu. Trong khi chờ nước sôi, tôi đổ đầy bắp vào cái chậu cũ men xanh, lòng gỉ sét, chẳng dùng được cho việc gì khác và tôi băng qua sân đi cho gà ăn. Chúng tôi có sáu con gà mái trắng và một con gà trống. Sương lóng lánh trên những lá rau, trên cây tử đinh hương độc nhất của chúng tôi mà những bông hoa tím, năm nay nở sớm, đã bắt đầu úa héo, và tôi vẫn nghe thấy, không chỉ tiếng còi tàu bè trên sông Meuse, mà còn cả tiếng thở hổn hển của những tàu chạy dầu cặn. Tôi tha thiết muốn tuyên bố ngay rằng tôi không phải là một người đàn ông bất hạnh, cũng không phải một người buồn rầu. Ở tuổi ba mươi hai, tôi thấy mình thẳng tiến trong mọi kế hoạch mà tôi có thể lập ra, trong mọi niềm hy vọng của tôi. Tôi có một vợ, một nhà, một đứa con gái bốn tuổi hơi dễ kích động nhưng bác sĩ Wilhems cả quyết rằng nó sẽ hết thôi. Tôi đã tự tay dựng cơ nghiệp và khách hàng của tôi mỗi ngày mỗi đông thêm, nhất là mấy tháng gần đây, dĩ nhiên. Tất cả mọi người, vì nhiều biến cố, đều muốn có máy radio. Tôi không ngừng bán máy mới, sửa chữa máy cũ và, vì chúng tôi ở cách bến tàu có vài bước, tàu bè nghỉ đêm ở đó, tôi còn có cả khách hàng trong đám thủy thủ nữa. Tôi nhớ đã nghe thấy tiếng cửa mở tại nhà hàng xóm bên trái của chúng tôi, gia đình Matray, một cặp vợ chồng già rất lặng lẽ. Lão Matray, từng làm thủ quỹ ở Pháp quốc Ngân hàng trong suốt ba lăm hay bốn mươi năm gì đó, cũng là một người dậy sớm và bắt đầu mỗi ngày bằng cách đi lại thở hít không khí trong lành nơi vườn nhà. Mọi mảnh vườn trên phố đều y như nhau, mỗi mảnh rộng bằng bề ngang căn nhà, cách nhau bằng bức tường cao đúng tầm để người ta chỉ nhìn thấy chỏm đầu hàng xóm. Từ ít lâu nay, lão Marray có thói quen rình rập tôi, vì lẽ những chiếc máy của tôi cho phép bắt các loại sóng ngắn. - Sáng nay không có tin tức gì sao, ông Féron? Buổi sáng hôm đó, tôi trở vào nhà trước khi lão kịp hỏi tôi và chế nước sôi lên cà phê. Những đồ vật quen thuộc đều ở đúng chỗ của chúng, chỗ mà Jeanne và tôi đã định hoặc cuối cùng, theo thời gian, chúng đã tự chiếm lấy. Nếu vợ tôi không có bầu thì hẳn tôi đã bắt đầu nghe thấy tiếng bước chân nàng trên lầu một bởi vì, vào lúc bình thường, nàng vẫn dậy liền sau tôi. Tuy nhiên, theo thói quen, tôi thích tự sửa soạn cho mình ly cà phê đầu tiên trước khi vô xưởng. Cứ thế chúng tôi tuân thủ một số nghi thức nhất định và tôi cho rằng chắc gia đình nào cũng vậy. Lần mang bầu thứ nhất cực nhọc, sinh nở khó khăn. Jeanne đổ tính nóng nảy của Sophie cho cái gắp sắt mà người ta đã phải dùng đến và gây tổn hại cho đầu của đứa nhỏ. Từ khi có bầu trở lại, nàng sợ lại khó đẻ và bị ám ảnh sẽ cho ra đời một đứa trẻ bất thường. Bác sĩ Wilhems, người được nàng rất tin cậy, cũng không trấn an nổi nàng, giỏi lắm thì cũng chỉ được vài tiếng đồng hồ, và buổi tối, nàng thao thức không dỗ được giấc ngủ. Rất lâu sau khi chúng tôi vào giường, tôi còn nghe thấy nàng trăn trở tìm một thế nằm thoải mái và gần như bao giờ cuối cùng nàng cũng thì thào hỏi: - Anh ngủ chưa, Marcel? - Chưa. - Em tự hỏi không biết cơ thể em có thiếu chất sắt không. Em đã đọc thấy trong một bài báo... Nàng cố ngủ nhưng thường phải quá hai giờ sáng mới chợp mắt nổi và sau đó, cũng chẳng phải hiếm khi, nàng bỗng vùng dậy thét lên. - Em lại bị ác mộng nữa, Marcel. - Kể anh nghe. - Không. Em thích đừng nghĩ đến điều đó nữa thì hơn. Khủng khiếp lắm. Em xin lỗi đã làm anh mất giấc ngủ, anh phải làm việc nhiều biết bao nhiêu... Hồi gần đây, nàng thức dậy vào khoảng bảy giờ và sau đó xuống sửa soạn bữa sáng. Ly cà phê trên tay, tôi bước vào xưởng và mở cánh cửa lắp kiếng ngó xuống sân cùng mảnh vườn. Vào lúc này đây, tôi được tận hưởng tia nắng đầu tiên của ngày, xế bên trái cửa ra vào một chút, và tôi biết chính xác lúc nào nó sẽ lần tới cái bàn thợ của tôi. Thật ra đó không phải là một cái bàn thợ đúng nghĩa mà chỉ là cái bàn lớn rất nặng, từ một tu viện thải ra, tôi đã mua nó trong cuộc phát mãi. Luôn luôn trên bàn bao giờ cũng có dăm cái máy đang sửa. Dụng cụ của tôi được xếp vào giá treo trên tường, ngay trong tầm tay tôi. Khắp xung quanh phòng, hàng đống máy chồng chất ngổn ngang trên các tủ nhiều ngăn bằng gỗ trắng mà tôi đã kê, và được dán nhãn ghi tên khách hàng. Rốt cuộc tôi cũng vặn các nút, dĩ nhiên. Trì hoãn giây phút này hầu như là một trò chơi. Tôi thường tự nhủ, trái với mọi lý lẽ: “Nếu mình chờ một chút xíu nữa, có thể sẽ là ngày hôm nay.” Ngay sau đó, ngày hôm ấy, tôi hiểu cuối cùng có chuyện gì đó đã xảy ra. Tôi chưa hề thấy không khí bị bó rọ như thế bao giờ. Dù tôi chọn tần số nào thì các chương trình phát thanh cũng chằng chịt chồng lên nhau, những tiếng nói, những tiếng rít, những câu tiếng Đức, tiếng Hòa Lan, tiếng Anh, tiếng Pháp và người ta cảm thấy trong không gian như thể có một sự dao động đầy kịch tính. - Đêm nay, các toán quân Quốc xã đã tấn công quy mô lớn vào... Chưa đến lượt nước Pháp - dù sao người ta cũng không nhắc đến nó - mà là Hòa Lan, nó vừa bị xâm chiếm. Đài tôi vừa nghe, là một đài Bỉ. Tôi kiếm Ba Lê, nhưng Ba Lê vẫn nín lặng. Vệt nắng rung rinh chập chờn trên sàn nhà xám và ở cuối vườn, sáu con gà mái trắng của chúng tôi xao xác xung quanh con gà trống mà Sophie gọi là Nestor. Tại sao đột nhiên tôi lại tự hỏi cái chuồng gà bé nhỏ của chúng tôi sẽ ra sao? Lòng tôi hầu như se lại trước số phận của nó. Tôi vặn các nút khác, tìm kiếm trong dải tần số ngắn nơi mà dường như tất cả mọi người đều nói cùng một lúc. Và thế là tôi bắt được, trong giây lát ngắn ngủi, một điệu quân nhạc mà tôi mất dấu ngay lập tức, đến nỗi tôi không thể biết điệu nhạc đó thuộc quân đội nào. Một người Anh vừa đọc một bản tin vừa nhắc đi nhắc lại mỗi câu mà tôi không hiểu, như thể hắn đọc chính tả cho một thông tín viên chép lại, và ngay sau đó tôi lạc vào một máy phát mà tôi chưa hề nghe bao giờ, một máy phát dã chiến. Máy phát đó chắc phải ở gần lắm, thuộc về một trong các trung đoàn từ hồi tháng Mười, hồi đầu của cuộc chiến kỳ quặc*, đã đóng quân trong vùng. Mời các bạn đón đọc Chuyến Tàu Định Mệnh của tác giả Georges Simenon.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Khi Thiên Thần Sợ Hãi
Bối cảnh là năm 1811 ở nước Anh. Xã hội rối ren, tầng lớp quý tộc đứng ngồi không yên trước nguy cơ một cuộc cách mạng sắp nổ ra. Giữa lúc ấy, Rachel York, một nữ diễn viên kịch đang lên, bị sát hại dã man và cưỡng hiếp trong Điện thờ Đức Mẹ của một nhà thờ gần Westminster Abbey. Các bằng chứng và nhân chứng đều chỉ đến thủ phạm là Sebastian St. Cyr, Tử tước Devlin, khiến anh trở thành kẻ đào tẩu vừa phải trốn chạy vừa phải tìm ra thủ phạm thực sự để minh oan cho mình. Hành trình của Sebastian trải dài từ những dạ hội xa hoa cho đến những phòng trà đứng đắn ở Mayfair, từ những hang cùng ngõ hẻm bẩn thỉu dơ dáy cho đến sân nhà thờ St. Giles. Bằng những kỹ năng học được trong chiến tranh, Sebastian phát hiện ra Rachel không chỉ là một nạn nhân bình thường mà cái chết của cô che giấu một âm mưu lớn hơn, liên quan đến một đường dây gián điệp, những bí mật đời tư của các thành viên quốc hội và nguy cơ đe dọa tương lai của vương triều... *** #Review Khi Thiên Thần sợ hãi Tác giả: C.S. Harris Dịch giả: Minh Phúc. Điểm: 9 cho nội dung + 0.75 cho bìa đẹp cực kỳ = 9.75. Mức: Dở-Trung Bình-Khá-Hay-Rất hay (vkl) = [Hay-Rất hay (vkl)] “Che giấu một bí mật bằng cách ngụy trang nó thành một bí mật khác, một bí mật hào nhoáng và tục tĩu đến mức nếu ai tình cờ phát hiện ra, họ sẽ không bao giờ nghĩ đến việc nhìn xa hơn để nhìn thấy một sự thật…” Một tác phẩm trinh thám kinh điển hội tụ đủ các yếu tố: giết người, điều tra, hành động, phiêu lưu, mạo hiểm và kết thúc bằng một cảnh anh hùng giải cứu mỹ nhân rực lửa kinh điển trong các phim hành động mỹ. Nếu bạn đang tìm kiếm một vị anh hùng, một người không phải thám tử điều tra, một soái ca ngon lành cành đào để điều tra thì có vẻ quyển này phù hợp với những ai thích thú điều đó ???? Sơ lược nội dung: Năm 1811, khi xã hội Anh rối ren, tầng lớp quý tộc đứng ngồi không yên trước nguy cơ một cuộc cách mạng nổ ra. Giữa lúc ấy, Rachel York, một nữ diễn viên kịch đang lên, bị sát hại dã man trong Điện thờ Đức Mẹ của một nhà thờ gần Westminster Abbey. Các bằng chứng đều chỉ đến thủ phạm là Sebastian St.Cyr, Tử tước Devlin, khiến anh trở thành kẻ đào tẩu vừa phải trốn chạy vừa phải tìm ra thủ phạm thực sự để minh oan cho mình. Hành trình của Sebastian trải dài từ những dạ hội xa hoa cho đến những phòng trà đứng đắn ở Mayfair, từ những hang cùng ngõ hẻm bẩn thỉu dơ dáy cho đến sân nhà thờ St.Giles. Bằng những kĩ năng học được trong chiến tranh, Sebastian phát hiện ra Rachel không chỉ là một nạn nhân bình thường mà cái chết của cô che giấu một âm mưu lớn hơn, liên quan đến một đường dây gián điệp, những bí mật đời tư của các thành viên quốc hội và nguy cơ đe dọa tương lai của vương triều.... Và cứ như thế, hành trình của Tử tước Devlin bắt đầu lần ra manh mối truy tìm kẻ đã sát hại dã man cô gái diễn viên kịch ấy bắt đầu, khơi nguồn mọi thứ được tử tước tìm thấy trong một cuốn sổ ghi chép về các cuộc gặp mặt mà cô diễn viên kịch đã để lại trong nhà nhằm lần ra từng manh mối một, tử tước không phải là một kiểu người giàu có công tử bột mà anh ấy đã từng làm trong quân ngũ, phục vụ ở chiến trường, làm tình báo cũng có nên đây có thể coi là một người có kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực, và cả việc điều tra tìm ra manh mối kẻ thủ ác để minh oan cho mình, nhưng sự đời trớ trêu đường cong thì không bao giờ thẳng, tử tước đang có cuộc triệu tập tới đồn cảnh sát tự nhiên vô cớ vướng vào vụ đâm phải một viên cảnh sát khiến anh ấy hôn mê, nhưng không phải do mình làm, một lần nữa lại vướng vào vòng lao lý thật đáng tiếc ????). Chữ tài liền với chữ tai một vần. Vị tử tước đánh kiếm giỏi, đẹp trai (ổng mới 29 tuổi thôi quý vị à, rất soái car nhé :p, tập này sẽ không nói tuổi của tử tước, qua tập sau sẽ nhắc). Hình mẫu lý tưởng để chị em theo đuổi đấy, vừa giỏi vừa tự mình tìm hiểu manh mối nữa. Mạch truyện xảy ra vào đầu thế kỷ 19 nên rất ít kiểu điều tra hiện đại như lần theo manh mối từ vân tay hoặc khám nghiệm tử thi kỹ lưỡng, nhưng trong truyện có miêu tả cảnh cô gái bị cắt cổ ra làm sao, máu me như nào khá chân thật so với những gì một nữ tác giả có thể nghĩ ra, tử tước Devlin có nhiều lúc hành sự khá cảm tính, không biết có phải do anh phục vụ ở quân trường hay không mà anh ấy rất thích việc xông vào nhà từng nhân vật khả nghi để tiến hành điều tra từng người, và anh này có tài hóa trang để có thể tiến hành điều tra khẩu cung từng người, điều này làm mình liên tưởng đến người đàn ông sống ở số 221B phố Barker :p, tuy nhiên anh không có bác sĩ Waston cùng đồng hành mà trên đường đi anh thu thập được một thằng nhóc móc túi làm đệ cho anh =)) nó sẵn sàng làm điệp viên cho tử tước vì anh ấy đã bỏ qua cho nó tội móc túi, và từ đó 2 anh em tiến hành quẩy banh Westminster để có thể lần ra manh mối cho dù là giới bần nông hay tầng lớp quý’s tộc’s nào đi nữa tử tước Devlin cũng không buông ????. Mạch truyện đi khá nhanh, 426 trag chủ yếu tập trung vào việc điều tra hỏi cung là chủ yếu, tuy không có người đồng hành là bác sĩ nhưng tử tước có khá nhiều mối quan hệ và đặc biệt thân thiết với vị bác sĩ Paul Gibson, anh ấy cũng giúp tử tước rất nhiều kể cả phi vụ đào xác lên để khám nghiệm tử thi lại một lần nữa, và có đổ máu có, có ái tử thi luôn, đọc càng về cuối các bạn sẽ thấy tởm lợm hung thủ đã là điều đó với cô Rachel, tác giả miêu tả rất văn học và không thô thiển cứng ngắc. Tất cả các nhân vật trong truyện đều có một bí mật ẩn giấu riêng, và càng điều tra, càng lộ ra nhiều chân tướng, kể cả gia đình của tử tước cũng có một bí mật khá lớn, và trong lúc điều tra mọi người đọc sẽ rất dễ bị dẫn dụ suy nghĩ người nào đó mới thật sự là hung thủ thật, nhưng không càng về cuối plot twist càng lớn lên khi mà người mà không ngờ tới lại chính là hung thủ thật sự lại là “người ấy”, và người ấy là ai thì khi đọc bạn sẽ bất ngờ lớn đấy ???? . Mạch truyện nhanh + diễn biến diễn ra liên tục, nhiều lúc hồi hộp cứ sợ tử tước Delvin bị bắt lại, nhưng anh ấy quá thông minh và pro để có thể ứng phó được + tất cả sự kiện và nhân vật đều che giấu bí mật cho dù đó là tầng lớp gì đi nữa, them vào nữa dòng thời gian của sự kiện là năm một ngàn tám tram hồi đó nên chúng ta sẽ biết được các tầng lớp quý tộc Anh có sự liên kết với Pháp như nào và đặc biệt làm tay sai cho Napoleon ra làm sao sẽ được đề cập đến trong truyện. Và kết thúc truyện là việc đối đầu với hung thủ, cứu mỹ nhân và cũng là người tình của vị tử tước chung tình này, họ sẽ sống bên nhau hanh phúc đến 8 tháng sau hẹn gặp lại vụ án kế tiếp “Lời nguyền của người cá” :p, có những bí mật sẽ được chôn giấu mãi, nhưng rồi nó bằng cách nào đấy vẫn giữ được thanh danh cho tất cả các bên liên quan, một cách giải, một đáp án thấu tình và đạt lý ???? . Chúc các bạn đọc truyện vui vẻ #Rei_NTN *** C.S. Harris (tên thật là Candice Proctor) là tác giả của hơn 20 cuốn tiểu thuyết. Bà có bằng tiến sĩ trong lĩnh vực lịch sử châu Âu và cũng là tác giả của những cuốn sách lịch sử nghiên cứu về phụ nữ trong thời kỳ Cách mạng Pháp. Sách của bà có mặt khắp nơi trên thế giới và được dịch ra hơn 20 thứ tiếng. Một trong những series nổi tiếng nhất của Harris là Sebastian St. Cyr. Nhân vật trung tâm của tựa sách này là Sebastian, một quý tộc người Anh. Anh hiểu rõ sự rối ren trong tầng lớp thượng lưu và đồng thời cũng dành lòng trắc ẩn cho những con người khốn cùng trong xã hội. Tượng thần sụp đổ (tựa gốc: When Gods Die) là một tựa sách trong series Sebastian St. Cyr. Câu chuyện bắt đầu khi thi thể Guinevere – vị phu nhân trẻ tuổi, xinh đẹp của Hầu tước Anglessey già nua – đang nằm trong tay Hoàng tử George, vị hoàng thân nhiếp chính ăn chơi của nước Anh. Tác phẩm: Tượng Thần Sụp Đổ Khi Thiên Thần Sợ Hãi Lời Nguyền Của Người Cá ... *** Thứ Ba, 29 Tháng 1 năm 1811 Cô đổ lỗi cho màn sương. Bình thường cô không lo lắng đến vậy. Không sợ hãi đến vậy. Màn sương mù vàng đục của London là một thứ hôi hám sởn gai ốc. Mà nếu không có sương mù thì giờ này trời cũng đã tối. Đêm tháng một tối và lạnh. Nhưng làn hơi âm u càng làm mọi thứ thêm tồi tệ khi nó quấn quanh đèn lồng của Rachel như một bóng ma khiến cô suýt vấp ngã khi đang băng qua nghĩa trang nhà thờ. Một hòn đá lăn tròn dưới cái đế mảnh mai của đôi bốt ống ngắn, tạo thành tiếng kêu vang bất thường giữa đêm tĩnh lặng. Dừng lại, Rachel ngoái nhìn qua vai, ánh mắt xuyên qua đường nét mờ sương của những tượng đài và bia mộ rải rác khắp nghĩa trang. Từ xa vang lên tiếng lọc cọc và giọng nói hỏi giờ bị sương mù bóp nghẹt. Rachel hít một hơi thật sâu, lấp đầy phổi bằng không khí giá lạnh đượm hương thơm của đất và lá ẩm ướt cùng mùi hôi thối mốc meo khiến người ta liên tưởng đến những xác chết cũ kỹ, rồi rảo bước. Khối đá nặng nề của Nhà thờ Thánh Matthew vùng Fields lờ mờ hiện ra trước mắt cô. Rachel nắm những nếp lót satin của chiếc áo choàng đêm bằng nhung sát vào người. Lẽ ra cô nên bảo ông ta đến gặp mình vào lúc tám rưỡi tối. Muộn nhất là chín giờ. Tám rưỡi là khoảng thời gian thông thường. Chỉ có điều, đây không phải là một cuộc gặp mặt thông thường. Cô không ngờ mình lại cảm thấy sởn tóc gáy đến vậy. Cô không thích cảm giác này. Lo lắng khiến cô cảm thấy mình như một nạn nhân, và Rachel York không phải là một nạn nhân. Không bao giờ nữa. Đó là một lời hứa cô đã tự hứa với chính mình ở tuổi mười lăm, và trong ba năm qua, kể từ cái đêm định mệnh khi cô nắm quyền kiểm soát cuộc sống của chính mình, đó là một lời hứa cô chưa bao giờ phá vỡ. Giờ đây cô cũng không muốn phá vỡ nó. Tại bậc dẫn đến cửa cánh ngang phía bắc, một lần nữa cô dừng lại. Bên dưới mái vòm tròn sâu thẳm của cánh cổng tại mặt bên toà nhà, bóng tối gần như che phủ tất cả. Nâng đèn lồng lên cao, cô chiếu chùm tia sáng hẹp lên cánh cửa gỗ sồi cũ mòn. Qua lớp da dê mỏng của chiếc găng tay, chiếc chìa khóa sắt lạnh lẽo và nặng nề. Cô càng thấy khó chịu vì những ngón tay mình run lên khi cô cắm chìa vào ổ khóa. Chỉ một lần vặn, ổ khoá đã lách cách trơn tru và cánh cửa mở ra êm ru trước mắt cô nhờ những bản lề được tra dầu đầy đủ. Mục sư McDermott luôn chú ý đến những điều này. Tất nhiên, đó là trách nhiệm của ông. Rachel đẩy cánh cửa mở rộng hơn, một luồng khí đột ngột thổi ra, lay động lọn tóc vàng được uốn khéo trên má cô. Mùi nhà thờ quen thuộc, hương thơm của sáp ong, đá ẩm và gỗ cổ nhấn chìm cô. Cô lướt vào phòng và cẩn thận đóng cửa lại. Cô không khóa cửa. Cô bỏ chìa khóa vào túi xách, cảm nhận sự nặng nề và rắn chắc của nó chạm vào đùi mình khi cô bước qua cánh ngang. Sự im lặng lạnh giá của nhà thờ bao quanh cô, ánh sáng từ chiếc đèn lồng của cô dao động trên những bức tường đá ám khói nến đen và những bức tượng rải rác hình những hiệp sĩ và công nương đã chết từ lâu nằm nghiêng tĩnh lặng, lạnh lẽo trong khoảng không trống rỗng. Họ nói rằng Nhà thờ Thánh Matthew đã gần tám trăm tuổi, với mái vòm bằng đá sa thạch vươn lên từ những cột trụ dày và những chiếc cửa sổ nhỏ bé trên cao giờ chỉ cho thấy bóng tối bên ngoài. Cha của Rachel quan tâm đến những điều ấy. Có lần ông đưa cô đến thăm quan các nhà thờ ở Worchester và nói chuyện với cô hàng giờ về đường mái vòm, bao lơn1* và bức ngăn toà giảng. Nhưng cha cô đã chết từ lâu; Rachel đóng tâm trí mình lại trước những ký ức, không hiểu điều gì đã mang những suy nghĩ ấy đến với cô vào lúc này. *Nơi dành cho ban hát của nhà thờ. Điện thờ Đức Mẹ nằm ở tận cùng khu tụng niệm, một món trang sức nhỏ bé của thế kỷ mười bốn bằng đá cẩm thạch trắng, những cột trụ mảnh mai và bức ngăn chạm khắc tinh tế. Rachel đặt đèn lồng trên bậc trước bàn thờ. Cô đã đến sớm; ông ta sẽ không xuất hiện trong ít nhất hai mươi phút nữa. Sự trống rỗng của nhà thờ cổ xưa dường như ép chặt vào cô, lạnh lẽo và tối tăm. Cô liên tục nhìn vào những cây nến được ban phước tụm lại trên tấm khăn bàn thờ trắng như tuyết. Trong một lúc, cô đã ngập ngừng. Sau đó, đốt một dây nến, cô bắt đầu thắp nến, lần lượt từng cây một, ngọn lửa vàng của chúng nhảy lên ấm áp và tươi sáng cho đến khi chúng dường như hợp nhất thành một luồng ánh sáng an ủi. Rachel nhìn lên tấm vải lớn treo phía trên bàn thờ, một cuộn tranh tối màu miêu tả Đức Mẹ Đồng Trinh lộng lẫy thăng thiên trên nền những thiên thần chiến thắng. Trong khoảnh khắc, Rachel có lẽ đã thì thầm một lời cầu nguyện. Không phải bây giờ. Cô không nghe thấy tiếng cửa ngang mở và đóng, chỉ có tiếng vọng yếu ớt của những bước chân lén lút bước trên dàn hợp xướng. Ông ta đến sớm. Cô không ngờ đến điều này. Quay người lại, cô cởi mũ áo choàng và nặn ra một nụ cười gượng gạo, sẵn sàng thực hiện vai diễn của mình. Lúc này cô thấy cái bóng mờ, đường viền của áo choàng ngoài và chiếc mũ chóp cao của ông ta hiện lên qua bức phù điêu chạm trổ bằng đá của Điện thờ Đức Mẹ. Ông ta tiến lại gần ánh nến. Cô nhanh chóng lùi lại. "Ngươi," cô thì thầm, và biết rằng mình đã phạm phải một sai lầm khủng khiếp. Mời các bạn đón đọc Khi Thiên Thần Sợ Hãi của tác giả C. S. Harris.