Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nơi Trái Tim Hội Ngộ - WM. Paul Young

LỜI GIỚI THIỆU Liệu bạn có thể tin được chăng nếu một người quả quyết rằng mình đã sống trọn một kỳ cuối tuần với Chúa, trong một căn chòi? Thậm chí là chính căn chòi định mệnh ấy . Tôi biết Mack đã hơn hai mươi năm, kể từ ngày hai chúng tôi cùng đến phụ một người láng giềng gom cỏ ngoài đồng. Kể từ ấy, anh ta và tôi đã chia ngọt sẻ bùi, nói theo kiểu bọn trẻ ngày nay, đi chơi chung, cùng uống cà phê - hay là uống chai-tea nóng hổi pha với đậu nành. Những cuộc chuyện trò của chúng tôi đầy lý thú, lúc nào cũng rộn tiếng cười và thỉnh thoảng ứa cả nước mắt. Thật tình mà nói, càng lớn chúng tôi lại càng khăng khít. Tên đầy đủ của anh là Mackenzie Allen Phillips dù hầu như ai cũng gọi anh là Allen. Họ nhà anh, tất cả đàn ông con trai đều mang tên giống nhau nhưng thường được gọi theo tên lót, chắc là để tránh cách gọi phô trương kiểu Đệ nhất, Đệ nhị và Đệ tam hay là Cha và Con. Cách này cũng rất hiệu quả để nhận diện những tay tiếp thị từ xa, nhất là những cú phôn đường đột mà cứ ra vẻ thân thiết. Vậy là anh ấy và ông nội, bố, và bây giờ là thằng con trai cả đều mang tên Mackenzie nhưng thường được gọi bằng tên lót. Chỉ có Nan, vợ anh, và mấy người bạn thân gọi anh là Mack. Mack sinh trưởng trong vùng Midwest, một cậu trai con nhà nông trong một gia đình Ái Nhĩ Lan - Hoa Kỳ vốn quen làm lụng và khắt khe. Mặc dù bề ngoài thì mộ đạo, ông bố roi sắt của anh ta, một bậc trưởng lão trong giáo xứ, lại là một kẻ nát rượu, nhất là khi trời không mưa, hoặc mưa sớm quá, hoặc là bất cứ khi nào. Mack chẳng bao giờ nói nhiều về bố, nhưng mỗi khi nhắc đến thì gương mặt anh vô cảm như nước triều đang rút ra khơi, chỉ còn lại ánh mắt u tối và nguội lạnh. Từ những câu chuyện ít ỏi Mack kể lại, tôi biết bố anh không phải là loại nốc rượu rồi vô tư lự ngủ khì mà là một gã bợm nhậu xấu nết đánh chửi vợ con rồi lại xin Chúa xá tội. Biến cố xảy đến khi cậu Mackenzie mười ba tuổi miễn cưỡng bày tỏ tâm tình với một vị trưởng lão trong một dịp khôi phục đức tin cho giới trẻ. Trong một khoảnh khắc, day dứt với cảm giác tội lỗi, Mack đã bật khóc thú nhận rằng nhiều lần cậu đã chẳng làm gì để giúp mẹ khi ông bố say xỉn đánh mẹ đến ngất đi. Điều Mack không ngờ là lời xưng tội ấy thật hiệu nghiệm và đến tai cả bố mình, và khi cậu về đến nhà thì bố đang chờ sẵn ngoài hiên còn mẹ và các em gái thì rõ ràng đã đi vắng. Về sau cậu mới biết rằng mọi người đã đến nhà cô May để bố rảnh tay dạy cho thằng con phản loạn một bài học về sự tôn kính. Gần suốt hai ngày sau đó, bị trói vào cây sồi sau nhà, cậu bị quật bằng thắt lưng xen lẫn trong những câu kinh mỗi khi ông bố tỉnh cơn say và nốc xong ngụm rượu. Hai tuần sau, khi hồi phục và nhúc nhắc đi được, cậu bỏ nhà đi thẳng. Nhưng trước khi đi, cậu cho thuốc độc vào tất cả chai rượu tìm thấy trong nông trại. Rồi cậu ra cạnh nhà ngoài đào lên một chiếc hộp thiếc nhỏ chứa kho tàng nhân gian của cậu: một tấm ảnh gia đình với gương mặt mọi người đang nheo mắt vì ánh nắng mặt trời (bố cậu đứng khuất sang một bên), một tờ chương trình bóng chày giải Luke Easter 1950, một chai nhỏ đựng chút Ma Griffe (thứ nước hoa duy nhất của mẹ cậu), một cuộn chỉ và vài cây kim, một chiếc mô hình máy bay F-86 của Không lực Hoa Kỳ đúc bằng bạc, và toàn bộ tiền dành dụm của cậu - 15.13 đôla. Cậu lẻn vào nhà và luồn một mảnh giấy dưới gối của mẹ trong khi bố cậu đang ngáy sau một trận đánh chén. Giấy chỉ ghi: “Một ngày kia, con hy vọng mẹ có thể tha thứ cho con.” Cậu thề sẽ không bao giờ nhìn lại, và cậu đã không làm thế - chẳng được bao lâu. Mười ba thì còn quá nhỏ để gọi là hoàn toàn trưởng thành, nhưng Mack chẳng có mấy lựa chọn và đã thích nghi một cách thật nhanh chóng. Cậu chẳng nói nhiều về những năm tháng sau đó. Hầu hết quãng thời gian ấy trôi qua ở nước ngoài, cậu đi làm lụng khắp thế giới, gửi tiền về cho ông bà để nhờ chuyển lại cho mẹ cậu. Ở một nước xa xôi, tôi nghĩ thậm chí cậu đã cầm súng trong một cuộc xung đột dữ dội; cậu đã từng căm ghét chiến tranh một cách ghê gớm từ khi tôi biết cậu. Sau mọi chuyện, rốt cục ngoài hai mươi tuổi cậu bước chân vào một trường dòng tại Úc. Học xong thần học và triết học, cậu quay về Hoa Kỳ, làm lành với mẹ và các em gái, rồi chuyển đến Oregon nơi cậu gặp và cưới Nannette A. Samuelson. Trong một thế giới của những người chỉ nói, Mack là một người suy nghĩ và hành động. Anh chàng chẳng nói nhiều trừ phi bạn hỏi thẳng anh, mà hầu hết mọi người đều đã biết là không nên. Khi anh ta mở miệng, bạn sẽ nghĩ anh ta là một loại người trên trời rơi xuống bởi các ý tưởng và trải nghiệm hoàn toàn theo cách khác thường. Vấn đề là, anh thường mang lại cảm giác bất thường trong một thế giới mà hầu hết mọi người chỉ thích nghe những gì họ thường nghe, tức là chẳng có gì đáng bận tâm. Những người quen biết nói chung đều không ghét anh, miễn sao anh giữ các ý tưởng cho riêng mình. Và khi anh nói, không phải là họ không thích anh nữa - mà họ sẽ không cảm thấy thoải mái trong thâm tâm. Mack có lần bảo tôi rằng lúc trẻ anh thường bộc lộ ý nghĩ thoải mái hơn, nhưng anh thú nhận rằng hầu hết các cuộc nói chuyện như thế là một cơ chế sinh tồn để che đậy tổn thương của mình; rốt cục anh thường gieo nỗi đau cho mọi người xung quanh. Anh nói cách của anh thường vạch ra lỗi lầm và làm bẽ mặt người khác trong khi chính mình thì tôn tạo cảm giác giả tạo của uy quyền và ngự trị. Thật không dễ ưa. Khi viết những dòng này, tôi tái hiện một chàng Mack mà tôi biết - thật bình dị, và dĩ nhiên không phải là một người đặc biệt, ngoại trừ đối với những ai thật sự biết anh. Anh sắp bước sang tuổi năm mươi sáu, và anh là một người khá bình thường, hơi nặng cân, hói, thấp và da trắng giống như hầu hết những người đàn ông vùng này. Ắt là bạn sẽ chẳng nhận ra anh trong một đám đông hay cảm thấy khó chịu ngồi bên cạnh trong khi anh chợp mắt trên tàu MAX (tàu điện trung chuyển) trong hành trình mỗi tuần một lần vào thành phố dự cuộc họp về bán hàng. Anh làm việc chủ yếu từ văn phòng nhỏ tại nhà ở Wildcat Road. Anh bán các món đồ kỹ thuật cao và những dụng cụ mà tôi không định tìm hiểu: các thiết bị để làm cho mọi thứ diễn ra nhanh hơn, như thể cuộc sống này chưa đủ nhanh. Bạn không thể nhận ra Mack thông minh như thế nào trừ phi bạn tình cờ nghe lỏm cuộc đối thoại giữa anh với một chuyên gia. Tôi đã từng rơi vào tình huống đó, và chợt như nghe thấy ngôn ngữ không phải là tiếng Anh nữa, rồi tôi thấy mình phải vất vả để nắm bắt các ý niệm tuôn trào như thác. Anh có thể nói chuyện một cách minh triết về hầu hết mọi điều, và cho dù bạn cảm thấy anh có sức thuyết phục mạnh mẽ, anh vẫn có một phong thái dịu dàng để giúp bạn giữ quan điểm của mình. Các chủ đề anh ưa thích đều thuộc về Thiên Chúa và Đấng Tạo hóa và nguồn cội niềm tin của con người. Mắt anh sáng lên, nụ cười bừng nơi khóe môi, trong khoảnh khắc, như một đứa trẻ, nét mệt mỏi tan biến và anh trở nên không còn tuổi tác và vô tư lự. Nhưng trong lúc ấy, Mack không phải quá sùng đạo. Dường như anh có một mối quan hệ yêu/ghét với Tôn giáo, và thậm chí với cả Chúa mà anh hồ nghi rằng đang suy niệm ở nơi xa xôi và cách biệt. Thỉnh thoảng những lời châm chọc đầy mỉa mai lại dè dặt buông ra từ miệng anh như những mũi phi tiêu sắc lẻm tẩm độc dược từ một giếng sâu trong tâm can. Mặc dù cả hai chúng tôi đôi khi xuất hiện vào ngày chủ nhật tại chính ngôi giáo đường phúc âm (mà chúng tôi thích gọi là Hội Ngũ tuần Độc lập thứ 55 của Thánh John Baptist), bạn có thể thấy rằng anh ấy không thật thoải mái nơi đó. Mack đã kết hôn với Nan hơn ba mươi ba năm mà gần trọn thời gian là những năm tháng hạnh phúc. Anh nói người vợ đã cứu chuộc đời mình và đã trả một cái giá đắt để làm việc đó. Vì một lý do nào đó, nằm ngoài sự hiểu biết, giờ đây dường như cô ấy yêu anh hơn bao giờ hết, mặc dù tôi có cảm giác anh đã làm cô ấy tổn thương dữ dội trong những năm tháng đầu. Tôi cho rằng vì hầu hết những tổn thương của chúng ta đến từ các mối quan hệ nên sự hàn gắn cũng xuất phát chính từ đó, và tôi biết rằng sự khoan dung chẳng có nghĩa gì đối với những ai nhìn sự việc qua bề ngoài. Dù gì thì Mack đã có một cuộc hôn nhân xứng đôi. Nan chính là trát vữa để kết dính những viên gạch gia đình. Trong khi Mack vật lộn trong một thế giới đầy màu xám, thế giới của chị chủ yếu là trắng và đen. Chị tư duy theo lẽ thường một cách tự nhiên đến độ chẳng cảm nhận được cái năng khiếu lý tính ấy. Công cuộc chăm lo một gia đình khiến chị từ bỏ giấc mơ trở thành bác sĩ, nhưng trong vai trò y tá, chị tỏ ra vượt trội và được mọi người đánh giá cao trong công việc mà chính chị đã lựa chọn, là chăm sóc các bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối. Trong khi quan hệ của Mack với Thiên Chúa thiên về chiều rộng, quan hệ của Nan lại có chiều sâu. Cặp vợ chồng xứng hợp một cách khác thường này có năm đứa con khôi ngô. Mack ưa nói rằng chúng đều cuỗm lấy nét đẹp từ anh “...vì Nan vẫn còn giữ được nét đẹp riêng cho cô ấy.” Hai trong ba cậu con trai đã ra riêng: Jon, vừa mới cưới, làm mãi vụ cho một công ty địa phương, còn Tyler, mới tốt nghiệp đại học, đang làm việc tại trường để theo đuổi luận án thạc sĩ. Josh và một trong hai đứa con gái, Katherine (Kate), vẫn còn ở nhà và theo học tại đại học cộng đồng địa phương. Rồi đến một đứa con muộn màng, Melissa - hay Missy, như cách chúng tôi thích gọi cô bé. Cô bé... mà thôi, rồi bạn sẽ biết về chúng rõ hơn qua những trang sách này. Những năm vừa qua đã trở nên, tôi nên nói như thế nào nhỉ, hết sức đặc biệt. Mack đã thay đổi; anh ấy giờ đây thậm chí còn khác hơn và đặc biệt hơn trước đây nữa. Suốt bao nhiêu năm tháng, tôi biết anh ấy là một tâm hồn khá dịu dàng và tử tế, nhưng từ lúc nằm bệnh viện cách đây ba năm, anh đã trở nên... thậm chí còn tử tế hơn nữa. Anh đã trở thành một trong những người hiếm hoi thật sự hoàn toàn thoải mái một cách chân tình. Và tôi cảm thấy thoải mái bên cạnh anh ấy, khác với bất cứ ai. Khi chia tay, dường như tôi vừa có được một cuộc nói chuyện tuyệt nhất trong đời, cho dù tôi thường là người nói hầu hết. Và ơn Chúa, Mack không chỉ phóng khoáng mà còn rất sâu sắc. Nhưng cú sốc ấy đã khiến anh phải trả giá đắt. Những ngày này rất khác với khoảng chừng bảy năm trước, khi nỗi đau xâm chiếm đời anh và anh gần như không nói chuyện nữa. Vào khoảng thời gian ấy và trong gần hai năm chúng tôi không qua lại, như thể có một sự thỏa thuận ngấm ngầm nào đó. Tôi chỉ gặp Mack thi thoảng tại hiệu tạp phẩm địa phương hoặc thậm chí còn hiếm hơn nữa tại nhà thờ, và mặc dù thường ôm choàng lấy nhau một cách lịch sự, chúng tôi chẳng nói gì mấy chuyện quan trọng. Thậm chí anh ấy còn khó khăn khi nhìn vào mắt tôi; có lẽ anh ấy không muốn khơi mào một cuộc trò chuyện có thể làm tróc vảy vết thương trong tim mình. Nhưng tất cả mọi chuyện đã thay đổi sau biến cố ác ôn với... Nhưng tôi lại buột miệng rồi, không kiềm chế được. Rồi đến lúc chúng ta sẽ biết chuyện. Tôi chỉ muốn nói mấy năm qua dường như cuộc sống đã trở lại với Mack và cất đi gánh nặng của nỗi đau . Chuyện xảy ra cách đây ba năm đã hoàn toàn thay đổi nhịp điệu cuộc sống của anh và đó là một khúc ca mà tôi muốn tấu lên cho các bạn cùng nghe. Mặc dù giao tiếp ngôn từ khá tốt, Mack lại không thoải mái với kỹ năng viết lách của mình - một việc mà anh biết rằng tôi rất đam mê. Cho nên anh đã đề nghị tôi chắp bút cho câu chuyện này - câu chuyện của anh ấy, “vì bọn trẻ và vì Nan.” Anh muốn câu chuyện giúp anh giải bày với vợ con không chỉ tình thương yêu sâu lắng của mình mà cả những gì đã diễn ra trong thế giới nội tâm của mình. Bạn biết thế giới ấy: nơi chỉ có riêng mình bạn - và có lẽ Chúa nữa, nếu bạn tin có Ngài. Dĩ nhiên, Chúa vẫn có thể hiện diện ở nơi ấy cho dù bạn không tin người. Người là như thế đó. Không phải vô cớ mà người được xưng tụng là Đấng Can thiệp. Những gì các bạn sắp đọc là những gì Mack và tôi đã vất vả hàng tháng trời để viết ra. Có một chút, à... không, có nhiều điều kỳ lạ. Cho dù có những phần thật sự có thật hay không, tôi không phải là người phán xét. Cũng phải nói rằng, mặc dù có những điều không thể chứng minh được một cách khoa học, thì nó vẫn đúng đấy thôi. Thật lòng tôi phải nói rằng khi tham gia vào câu chuyện này, tôi đã bị tác động sâu thẳm bên trong vào những ngóc ngách mà chính tôi chưa bao giờ biết đến sự tồn tại của nó; tôi phải thú thực rằng tôi vô cùng muốn mọi chuyện Mack kể với tôi là sự thật. Hầu hết các ngày tôi ở bên cạnh Mack, nhưng có những ngày - khi thế giới hữu hình của xi măng và máy tính trông như là thế giới thật - thì tôi tách biệt và cảm thấy hồ nghi. Một vài lời cuối: Mack muốn bạn biết rằng nếu bạn tình cờ đọc câu chuyện này và ghét nó thì, anh nói: “Xin lỗi... câu chuyện chủ yếu được viết ra không dành cho bạn.” Mà nghĩ lại, biết đâu đấy. Những gì bạn sắp đọc là ký ức rõ rệt nhất mà Mack có thể nhớ về những gì đã xảy ra. Đây là câu chuyện của anh ấy, không phải của tôi, cho nên những khi xuất hiện, tôi sẽ nhắc đến chính mình bằng ngôi thứ ba - từ góc nhìn của Mack. Ký ức có những lúc là một kẻ đồng hành quỷ quyệt, nhất là với một tai ương, và bất chấp những nỗ lực chung của chúng tôi để đạt được sự chính xác, tôi sẽ không quá ngạc nhiên nếu trong các trang sách có những sự kiện sai sót hoặc ký ức lầm lạc. Đó không phải là sự cố ý. Tôi có thể cam đoan với bạn các cuộc trò chuyện và biến cố được ghi lại trung thực tối đa theo những gì Mack nhớ được, cho nên ta hãy rộng lượng với anh ấy. Rồi bạn sẽ thấy, đó không phải là những điều dễ bộc bạch. Mời các bạn đón đọc Nơi Trái Tim Hội Ngộc của tác giả WM. Paul Young.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Ngã Tư Và Những Cột Đèn - Trần Dần
Một cuốn tiểu thuyết sau gần nửa thế kỷ mới được xuất bản, nhưng đọc rất mới, đọc rồi đọc lại vẫn mới, vẫn bất ngờ trước từng trang, vẫn không dễ nắm bắt nội dung, đó là Những ngã tư và những cột đèn của nhà văn Trần Dần. Chuyện rằng: vào giữa những năm 1960, nhà văn Trần Dần, khi đang trong hoàn cảnh hết sức ngặt nghèo của bản thân đã được một vài cán bộ công an hảo tâm tìm cách cho đi thâm nhập một số trại giam do Bộ Công an quản lý đang giam giữ những ngụy quân thời Pháp sau ngày tiếp quản Thủ đô. Kiểu đi như thế gọi là “đi thực tế” để khi về viết văn trên những cứ liệu của thực tế chuyến đi đó. Công thức ở đây là: cơ sở cung cấp tài liệu về một vấn đề cụ thể, nhà văn đi cho thấy, tiếp xúc cho biết, và cái viết ra thường chỉ là một báo cáo, một sơ đồ, dù có được vẽ vời thêm cho có vị văn chương. Vậy, với Trần Dần, bài toán đặt ra là: viết về hoàn cảnh của những người ngụy quân Pháp ở Hà Nội khi chiến tranh kết thúc, phần thắng thuộc về đội quân cách mạng, với định hướng viết đã rõ ràng là họ phải quy phục chế độ mới. Đề bài này không khó đối với ngòi bút Trần Dần. Nếu an phận, viết theo lối trả bài (trả cả ơn nghĩa nữa, nếu có), ông dễ phóng bút viết được nhanh, được trơn tru, nộp quyển, và quên đi nhanh chóng cái viết ra đó. Nhưng ông đã không làm thế, vì nhân cách là văn cách của ông không cho phép làm thế. Trần Dần, nhà văn luôn táo bạo quyết liệt trong từng câu chữ, hiểu theo nghĩa đen và nghĩa bóng, trong từng cái viết. Viết, với ông, bao giờ cũng là phải mới, phải khác, phải cách tân. Vì vậy, kết quả chuyến thực tế ấy, dưới tay ông đã thành tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn (NNTVNCĐ). Trần Dần đã giải được bài toán văn chương một cách xuất sắc. Câu chuyện của anh ngụy binh Dưỡng và mấy người bạn cùng cảnh ngộ trong những ngày đầu tiếp quản Thủ đô nếu kể ở ngôi thứ ba khéo lắm cũng chỉ được một truyện kể. Trần Dần đã chuyển nó thành ngôi thứ nhất thông qua hình thức cuốn nhật ký của Dưỡng, xen kẽ là lời kể của một vài nhân vật khác có tham dự vào đường dây hoạt động của nhân vật được kể ở ngôi thứ ba. Bằng hình thức này, Dưỡng đã được phát tiết tất cả những suy tư lời lẽ, hành vi của một thanh niên Hà Nội tạm chiếm, của một người lính lái tàu bò, và được bộc bạch tự nhiên nhất toàn bộ trạng thái tâm lý của mình vào một thời điểm hệ trọng của thời cuộc và số phận. Nhưng cái chính ở đây không phải chỉ ở nội dung cuốn nhật ký, mà ở cái cách ghi nhật ký của Dưỡng. Cái cách ghi ấy mới là một nội dung chính của cuốn tiểu thuyết của Trần Dần, nó thể hiện rõ trạng huống của một thành phố từ chiến tranh sang hòa bình và trạng thái của những con người bị mắc kẹt trong trạng huống ấy.  Còn có thể nói được rất nhiều về và từ cuốn tiểu thuyết NNTVNCĐ của Trần Dần. Trên đây tôi chỉ nói nhanh nói sơ về giải pháp nghệ thuật mà nhà văn đã đưa ra để thực hiện sáng tạo văn chương của mình. Đấy chính là cách viết nội dung chứ không phải kể nội dung, như nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến đã từng chuyển dẫn từ lý thuyết văn học của Nga về. Cho nên không phải câu chuyện kể làm nên nội dung, mà là cách kể câu chuyện, hay hình thức đó cũng chính là nội dung. Điều đáng kinh ngạc là 45 năm trước, trong hoàn cảnh bị vây bủa của bản thân và sự bít bùng của một xã hội thời chiến, Trần Dần đã độc hành mở cho mình một con đường tiểu thuyết mà bây giờ ngoái lại sau lưng ông vẫn hầu như chưa có ai tiếp bước. May mắn bản thảo được giữ lại để bây giờ in ra. Một cuốn tiểu thuyết sau gần nửa thế kỷ mới được xuất bản, nhưng đọc rất mới, đọc rồi đọc lại vẫn mới, vẫn bất ngờ trước từng trang, vẫn không dễ nắm bắt nội dung, đó là NNTVNCĐ. Đó là Trần Dần từ 45 năm trước, khi cuốn sách mới được viết ra.  Đó là Trần Dần ở 45 năm sau, khi cuốn sách đã được in ra, trở thành một hiện tượng của văn học nước nhà năm 2011.  Kinh ngạc vì sức sáng tạo đột khởi và đột biến của một gương mặt văn chương quyết liệt nhất Việt Nam, nhưng cũng chính vì thế lại thấy buồn cho văn học Việt Nam sau nửa thế kỷ vẫn thấy là cũ mòn so với tác phẩm này. Do vậy, Trần Dần, bằng thơ và văn của ông để lại, vẫn mãi còn thách thức các nhà văn, nhà thơ Việt Nam.  *** Trần Dần Được đánh giá là người cách tân trong thơ cả về hình thức (với lối thơ bậc thang) lẫn tư tưởng (đa diện, triết lý...) và về thơ Trần Dần có nhiều ý kiến trái ngược nhau. Ngay sau Phong trào Thơ mới, Trần Dần đã chủ trương làm thơ theo trường phái tượng trưng cùng với nhóm Dạ đài. Theo nhà thơ Dương Tường: "Thơ Trần Dần đương nhiên là khó hiểu. Nhưng chính ông ấy cũng nói về sự khó hiểu một cách hết sức giản dị: “Tất cả mọi giá trị chân thiện mỹ đều là khó hiểu”. Mặc dù suốt 30 năm thơ ông không được xuất bản nhưng ông vẫn miệt mài sáng tác theo con đường nghệ thuật mà mình suốt đời theo đuổi. *** Tác giả và tác phẩm có bao giờ chia nhau cùng số phận? Có bao giờ đi bên nhau suốt hành trình cuộc đời? Trần Dần và Những ngã tư và những cột đèn của ông có lẽ là những ngoại lệ, có xa cách, có hội ngộ, và mỗi bên theo đuổi một số phận khác thường. Trần Dần viết Những ngã tư và những cột đèn sau một thời gian tiếp xúc với nhiều ngụy binh cũ thời Pháp thuộc. Sở Công an Hà Nội đã cấp giấy phép ra vào trại giam, để sau đó bản thảo được gửi lên Sở Công an, khi đã hoàn thành. Đây là bản viết tay duy nhất, đề năm 1966. Cuộc chia tay của tác giả và tác phẩm kéo dài 22 năm. Một ngày năm 1988 Sở Công an Hà Nội mang bản thảo trả lại Trần Dần, tại nhà riêng, cùng tập thơ chép tay Cổng tỉnh. Tất cả vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng toàn bộ các nhà xuất bản đều từ chối ông, cùng Những ngã tư và những cột đèn, mặc dù trên danh nghĩa, Trần Dần và các bạn của ông thời Nhân văn-Giai phẩm đã được Hội Nhà văn chính thức ra quyết định phục hồi năm 1987. Những ngã tư và những cột đèn, cùng mọi tác phẩm khác, lại bị trả vào ngăn kéo. Phải chờ thêm bốn năm sau ngày nhận lại hội tịch, tác phẩm đẩu tiên của Trần Dần mới được xuất bản, năm 1990, là cuốn Bài thơ Việt Bắc. Trước khi Trần Dần mất hẳn khả năng làm việc, vì bệnh tật, ông đã quay trở lại với Những ngã tư và những cột đèn một lần nữa, lần cuối cùng. Ông chép lại, và sửa chữa chủ yếu về văn phong. Trong nhật ký 1989, ông nhắc nhiều lần về tiểu thuyết này, ông còn muốn viết một tiểu thuyết nữa. Thế rồi một Những ngã tư và những cột đèn khác ra đời, nhưng cũng là lúc ông khép lại nhật ký đời ông, khép lại những Sổ bụi, cùng toàn bộ sáng tác. Đấy là những ngày giao thừa giữa năm 1989 và 1990. Lần xuất bản thứ nhất này, của Những ngã tư và những cột đèn, sẽ đánh dấu 21 năm nữa, từ ngày bản thảo được sửa chữa. Và 44 năm, sau ngày tiểu thuyết được hoàn thành.   Những ngã tư và những cột đèn có thể là một tiểu thuyết về chiến tranh, như lời thông báo của anh nhà văn không tên, ở trang đầu cuốn sách? Những tình bạn, những tình yêu, đã đi qua chiến tranh, đi qua hòa bình, rồi lại rơi vào chiến tranh, có còn nguyên vẹn? Và những tính cách, thói quen con người, có thể nào không thay đổi cùng hoàn cảnh? Không một cảnh chiến tranh, nhưng hai chữ chiến tranh đi vào tiểu thuyết ngay từ trang một và trôi theo nhật ký, như một ám ảnh, cho đến trang cuối cùng. Chiến tranh do vậy, tồn tại như một bè đệm. Để “con người TOÀN PHẦN và CỤ THỂ vẫn tiếp tục trong chiến tranh. Và mạnh hơn chtến tranh”, Trần Dần kể như vậy, về Những ngã tư và những cột đèn, trong nhật ký 1989. Nhưng bản thảo lần thứ hai còn mang thêm một bè đệm khác, cả anh ngụy binh cũ tên Dưỡng, cả anh nhà văn không tên, đều chia nhau cùng một suy tư, về hiện tại, về quá khứ. Họ xử sự với thời gian cùng một cách. Dưỡng tính thời gian theo lối của riêng anh: để gọi tên mùa thu là mùa đông, để ngày tiếp quản tháng Mười trở thành mồng một Tết. Anh nhà văn đi tìm những định nghĩa về thời gian, luôn luôn nhầm lẫn giữa tuần lễ bảy ngày và Chủ nhật. Thời gian của toàn bộ tiểu thuyết di chuyển liên tục, từ 11 năm trước, đến 11 năm sau, rồi lại về 11 năm trước, vậy thì đâu sẽ là hiện tại thực? Dường như những nghi vấn của họ với thời gian, thực chất để đòi những câu hỏi khác về trách nhiệm của người đang sống, đối với hiện tại, và quá khứ. Trong một trang nhật ký 1989 Trần Dần viết: “Người ta nói nhiều, đến bố cục, chủ đề, í đồ không rõ… Xong người ta bàng hoàng và bảo: in cái này hơn Người người lớp lớp. Vâng, đúng là xa lạ. Tôi tuyên ngôn: tào lao - xông xênh - bàng hoàng. Vô hình, nhưng rõ rệt. Hiện hữu vô hình ấy, là một thực thể. Bàng hoàng ở đó. Bàng hoàng ở những ngã tư. Ai chẳng luôn gặp, những ngã tư. Để rẽ đường nào?” Rồi ở một trang khác, ông lại quay về Những ngã tư và những cột đèn: “Đời lắm ngã tư? Rẽ một ngã tư là trách nhiệm sinh tử, phải cẩn thận, kẻo hối bất kịp. Nhưng cẩn thận, không có nghĩa tính toán, chi li, chi hoe, mà trực cảm mang hết mình, ngửi ngửi ngã tư cẩn trọng rồi hãy rẽ”. 45 năm, kể từ ngày nhà văn bắt đầu chép lại cũng bằng mực tím “250 trang nhật kí, lem nhem mực tím” của anh ngụy binh Dưỡng, cho đến hôm nay, những ngã tư của tiểu thuyết vẫn đóng kín. Đây là “những ngã tư đời láo nháo nốt chân. Láo nháo cột đèn láo nháo đèn” của thế kỷ đã qua. Hôm nay, một ngày năm 2010, chúng mở cửa nằm chờ những bước chân độc giả, để gặp gỡ một thế hệ mới. Vũ Văn Kha Mời các bạn đón đọc Những Ngã Tư Và Những Cột Đèn của tác giả Trần Dần.
Bí Thư Tỉnh Ủy - Vân Thảo
Tiểu thuyết Bí thư Tỉnh ủy dựa trên nguyên mẫu cuộc đời ông Kim Ngọc, nguyên Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Vĩnh Phúc (sau là Vĩnh Phú), người gắn liền với danh xưng "cha đẻ của khoán hộ", khơi nguồn vượt rào cho đổi mới kinh tế sau này. Từ những sự kiện phong phú và các tư liệu khác về cuộc đời của ông, nhà văn Vân Thảo đã xây dựng nên cuốn tiểu thuyết về một nhân vật Bí thư Tỉnh ủy, khắc họa hình ảnh một người cộng sản chân chính, luôn suy nghĩ và hành động trên cơ sở lý tưởng của Đảng và thực tiễn đời sống nhân dân chứ không phải trên giấy tờ hành chính. Ngoài câu chuyện Khoán hộ, những bài học về nhân cách, đạo đức và dũng khí của một người lãnh đạo là những bài học đáng suy ngẫm. Tiểu thuyết cũng phần nào tái hiện lại quãng thời gian của sự ra đời, phát triển cũng như kết cục của khoán hộ, tiền thân của khoán 10 sau này. Qua đó giúp bạn học hiểu thêm về một giai đoạn phát triển kinh tế nông nghiệp Bắc Bộ thời kỳ chiến tranh song phả đầy hơi thở nóng hổi như vừa mới ngày hôm qua. *** Nhà văn Vân Thảo, tác giả kịch bản "Bí thư tỉnh ủy" (cũng là tác giả tiểu thuyết cùng tên) cùng ê kíp làm phim đang hồi hộp chờ đợi những phản hồi của khán giả. Ông cũng cho biết, tiểu thuyết "Bí thư tỉnh ủy" tuy mới xuất bản hồi đầu năm nhưng hiện đang được NXB Trẻ chuẩn bị tái bản (có sửa chữa) lần thứ 3. Nhà văn Vân Thảo cho biết, từ khi nghỉ hưu, ông có nhiều thời gian dành cho công việc sáng tác hơn. Những lúc rảnh rỗi, ông dành nhiều thời gian để tìm hiểu về một con người được coi là "cha đẻ của khoán hộ" là Bí thư tỉnh ủy Kim Ngọc. Và từ lúc nào, ông đã ấp ủ viết một tiểu thuyết về con người huyền thoại này. Tuy vậy, ông biết rằng để thực hiện được ý tưởng này là một việc không hề đơn giản. Những sáng kiến táo bạo trong nông nghiệp một thời của ông Kim Ngọc là một trong những ví dụ sinh động để Đảng ta cho ra đời ra đời chính sách "khoán 10", làm thay đổi diện mạo nền nông nghiệp Việt Nam cách đây hơn 20 năm. Nhưng sáng kiến khoán hộ của ông Kim Ngọc ở thời điểm những năm 60 đã vấp phải phản ứng mạnh mẽ, khiến vị Bí thư tỉnh ủy từng phải chịu kiểm điểm. Nhà văn Vân Thảo cho biết, chính ông cũng là người từng phản ứng với cách làm của Bí thư Kim Ngọc và đó là câu chuyện về "ý thức hệ". Thế nhưng, chính điều này đã khiến Vân Thảo luôn mang trong mình nỗi áy náy, muốn viết một cái gì đó để mọi người hiểu thêm về cuộc đời của con người đáng trân trọng ấy như một cách... "chuộc lỗi". Nhà văn Vân Thảo hiện thời sáng tác hoàn toàn trên máy vi tính - công cụ làm việc hữu ích nhưng còn khá xa lạ với nhiều nhà văn ở tuổi "thất thập cổ lai hi" như ông. Ông tâm sự: "Lao động của nhà văn là một thứ lao động nhọc nhằn, một thứ lao động vô hình, không có không gian, không có thời gian. Khi ngồi vào bàn đánh máy, những con chữ dần hiện ra trên màn hình, nhưng đấy chỉ là khi tôi hiện thực hóa những gì mình đã nghĩ từ trước đó, trong lúc ăn, trong lúc ngủ, lúc đi tập thể dục buổi sáng… Tiểu thuyết và kịch bản phim "Bí thư tỉnh ủy" hiện đang là tác phẩm khiến tôi hài lòng nhất ở thời điểm này, nhưng tôi vẫn có những ước vọng lớn hơn. Bởi nghề viết không bao giờ có đỉnh" Mời các bạn đón đọc Bí Thư Tỉnh Ủy của tác giả Vân Thảo.
Tấm Ván Phóng Dao - Mạc Can
Câu chuyện về cơ bản được trần thuật từ một nhân vật xưng “tôi” - người kể chuyện. Gọi là kể chuyện, nhưng câu chuyện không dựa trên một cốt truyện rõ ràng. Nếu bảo kể lại rất khó. Chỉ có thể đại loại thế này: Nhân vật ông Ba đứng ra kể về cuộc đời, số kiếp của ông cùng những người trong gia đình - một gánh xiếc rong hành nghề ở các tỉnh miền Đông, miền Tây Nam Bộ những năm tạm chiếm. Trong chương trình biểu diễn của gánh xiếc này có một tiết mục được coi là hấp dẫn nhất, là linh hồn của các đêm diễn (nên cũng trở thành quan trọng nhất trong việc câu khách, bán vé, mưu sinh) - màn phóng dao của ba vai diễn: Tôi - người đứng sau tấm ván có nhiệm vụ giữ tấm ván cho vững, cô em gái còn nhỏ tuổi đứng áp lưng vào mặt trước của tấm ván, và người anh trai cả trong vai phóng dao cầm 12 lưỡi dao sáng loáng phóng trực diện lần lượt cắm xung quanh khuôn mặt người em gái. Sau nhiều đêm thành công, có một đêm, do người phóng dao bị phân tâm, cô em gái đã bị nạn. Cũng từ đêm kinh hoàng đó cô gái trở thành một phế nhân mang triệu chứng bệnh tâm thần, gánh xiếc cũng tan vỡ, gia đình ly tán, mỗi người một số phận đau buồn theo những cách khác nhau... Nhưng đây không phải là một truyện kể, mà là một tiểu thuyết, được viết bằng kỹ thuật, nghệ thuật của tiểu thuyết. Toàn bộ câu chuyện và các nhân vật tham gia vào câu chuyện được trình bày như một quá trình, sự sống cứ thế mở ra sống động trong từng vi mạch. Hiệu quả là: Tác phẩm vần vụ những suy tư, chiêm nghiệm, day dứt, nghiền ngẫm về số kiếp con người. Tất cả đã hoà kết, cộng hưởng lại, tạo cho tác phẩm một ám ảnh, một ba động lớn. Viết tiểu thuyết này, tác giả chọn cách thức trần thuật theo kiểu hồi ức. Từ thời gian hiện tại, nhân vật tôi - ông Ba nay đã già cả, độc thân, làm nghề bán dạo các con rối bằng vải tự làm - kể lại câu chuyện của những ngày cả gia đình hành nghề xiếc rong. Thỉnh thoảng ông đến thăm bà em (trước kia là cô đào đứng trước tấm ván) cũng đã già, sống độc thân, sau lần bị nạn có một bộ óc trẻ con và gần như đánh mất ý niệm về thời gian, cả hai cùng ngồi vẩn vơ lúc quên lúc nhớ chắp nối những mẩu quá khứ u buồn. Ông già đã để cho ký ức lúc chập chờn bảng lảng khói sương, lúc chói gắt dữ dội đi về xen ngang thì hiện tại. Chất liệu hồi ức được biểu đạt ở đây không hiện ra theo cách trình tự mà được đảo lộn, xáo trộn; không nặng về kể tả, mà nặng về tâm trạng, suy tư, chiêm nghiệm, cật vấn. Đây là một dạng truyện viết theo cách của một hồi ức tự nghiệm. Tính chất cảm thương và u buồn bao trùm, đè nặng lên từng câu chữ. Mạc Can đã tiếp nối thật tự nhiên và đầy trách nhiệm chủ nghĩa nhân đạo truyền thống của nền văn học Việt Nam: Trực tiếp hướng về số kiếp con người theo cách biểu hiện lòng xót thương đau đớn đối với con người và cũng đặt ra yêu cầu hoàn thiện nhân cách con người - những giá trị nhân văn cổ điển vĩnh hằng. Đó là mạch nguồn chảy mạnh mẽ trong lòng văn chương dân tộc đã có từ xa xưa, qua Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, qua Thạch Lam, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao và rất nhiều nhà nghệ sĩ tên tuổi khác. Trong một bối cảnh xã hội có nhiều rạn nứt và đổ vỡ như xã hội hiện đại hôm nay, chỉ có các giá trị nhân văn cổ điển mới có khả năng cứu vãn thế giới. Các giá trị nhân văn cổ điển lành tính sẽ xoa dịu, sẽ hàn rịt lại những tổn thương tinh thần to lớn của con người hiện đại. Tôi tin tưởng điều đó. Thành công của Tấm ván phóng dao chẳng phải là một minh chứng đầy sức thuyết phục đó sao! Tác phẩm làm ấm lòng những người kỳ vọng vào nền tiểu thuyết Việt Nam hôm nay. *** Mạc Can tên thật là Lê Trung Can, sinh năm 1945, trong một gia đình nghèo, lại đông anh em. Các anh em ông mỗi người mỗi cảnh, vất vả mưu sinh bằng trăm thứ nghề và người nào cũng nghèo rớt. Ông là một nghệ sỹ, nhà văn Việt Nam. Ông nổi tiếng là một nghệ sỹ đa tài, tham gia vào nhiều lĩnh vực hoạt động nghệ thuật như đóng hài, đóng phim, biểu diễn ảo thuật và viết văn. Tháng 3/2011, “nhà văn trẻ” Mạc Can trở về Sài Gòn sau gần 2 năm sống ở Mỹ để lấy cảm hứng viết cuốn sách dạng hồi ký mang tên Nhớ (NXB Trẻ và Tủ sách Tuổi trẻ ấn hành). Có thông tin cho biết, khoảng đầu năm 1980, có một đoàn làm phim của Nhật đến Sài Gòn ghi hình. Mạc Can được mời vào vai người đi chợ để giới thiệu các sản vật Việt Nam. Khởi đầu sự nghiệp viết văn ở tuổi 60 bằng tiểu thuyết “Tấm ván phóng dao”, cứ ngỡ Mạc Can chỉ ghé qua khu vườn văn chương thoáng chốc rồi đi. Thế nhưng 9 năm qua, ông đã lần lượt cho ra đời nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và tản văn được bạn đọc yêu thích. Ông được giải của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2005, ông cũng được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Nhà văn TP.HCM. *** Tác phẩm tiêu biểu: Truyện, tập truyện: Món nợ kịch trường (1999) Tờ 100 đôla âm phủ (2004) Cuộc hành lễ buổi sáng (2005) Người nói tiếng bồ câu (2006) Ba…ngàn lẻ một đêm (2010) Nhớ (2011) Mạc Can – Truyện ngắn chọn lọc (2013) Tiểu thuyết: Tấm ván phóng dao (2004) Phóng viên mồ côi (2007) Những bầy mèo vô sinh (2008) Quỷ với bụt và thần chết (2010 Tạp bút: Tạp bút Mạc Can (2006) *** Không có gì làm cho tôi sợ hơn là cơn mưa lúc nửa đêm, vì với tiếng tôi, nhìn giọt mưa rơi long lanh, nghe tiếng mưa rì rào, tí tách, chẳng khác nào những lời thì thầm bên tai, nhắc nhở lại quá nhiều nỗi buồn, của cuộc đời đã qua. Ai có tới một chợ quê, trong cảnh tha phương cầu thực với các gánh hát nghèo mới biết, mưa cầm chân người mua vui ở nhà, mưa làm cho sân khấu phông màn buông rủ buồn hiu. Con hát đói lạnh, không biết ngày mai sẽ ra sao, mà vốn liếng nào có gì cho cam, ngoài một giọng hát, hay một trò xiếc, trên hai bàn tay trắng. Mưa rơi lộp độp trên mái lá nhà lồng chợ vắng tanh, chợ không người, sân khấu không ánh đèn, không khán giả, buồn ai oán, chung quanh mờ mịt gió nước, tiếng ếch nhái ồm ộp, một lúc vang vang, một lúc lặng thinh. Tiếng mưa rơi hoài, não ruột suốt canh thâu, tôi thao thức mòn mỏi cho tới khi thiếp đi, bàn tay lạnh vô tình đưa lên khuôn mặt không thể nào gột sạch dấu phấn trắng, chì đen, son đỏ. Đôi mắt sâu thăm thẳm lấy đêm làm ngày, trong mưa, từ cõi nào vảng lại tiếng cầu kinh hoang mang, dàn đồng ca của kiếp côn trùng nơi bùn lầy nước đọng không khác gì cuộc đời những người hát rong! Tôi chợt thúc dậy ngu ngơ, phải một lúc mới nhớ mình đang ở đâu, tôi đang ngồi trên cái giường của tôi, một tấm ván đầy vết dao, những vết thương không bao giờ lành, đau đớn, ẩm ướt. Ngoài kia, một khoảng không gian u ám, bỗng có vài ánh đèn dầu tù mù, tiếng người thì thầm, chợ quê nhóm lúc nào, người ta gọi là chợ ma, trời chưa sáng chợ đã vội tan, còn một mình tôi trơ trọi ngơ ngác, mộng du nửa thức nửa ngủ, tôi đi, mơ hồ giữa trời đêm, đứng nhìn về phía nhà lồng chợ, nơi gánh hát rong của gia đình tôi mới tới chiều nay. Cơn mưa làm cho tấm bảng quảng cáo hình nhân nhạt nhoà, loang lổ, mưa cũng làm cho tấm bảng hiệu Nghệ Tinh, tên gánh hát nghèo của cha tôi hoen úa đi, mà cũng mưa khiến cho cả nhà đói meo như vầy đây, cha mẹ tôi cứ mãi lang bang, chúng tôi không có tương lai, sống rày đây mai đó, biết khi nào có một mái nhà, được về nhà. Cuối trời một màu mây biếc, màu tím pha chút xanh lam lạnh nhạt, lúc sau ủng hồng một ngày mới, trên những chiếc lá non còn long lanh giọt nước mưa khuya, còn ngày hôm qua ư, đã chết đi rồi. Tôi rất thích những buổi sáng tinh sương, mọi vật như ngưng lại, hay là chưa bắt đầu cho những xôn xao, tâm hồn con người ta cũng chọt bâng khuâng yêu mến cuộc sống hơn, yêu người và mọi vật chung quanh hơn. ... Mời các bạn đón đọc Tấm Ván Phóng Dao của tác giả Mạc Can.
Vụ Bê Bối ở Sung Kyun Kwan - Jeong Un-gwol
Tác phẩm được chuyển thể thành bộ phim truyền hình có lượng khán giả cao nhất năm 2010 của đài KBS Hàn Quốc, giành 3 giải Baeksang. Ở tuổi mười chín đẹp như hoa, Yoon Hee giấu đi vẻ ngoài xinh xắn, cải trang thành một thiếu niên tuấn tú thay tiểu đệ tham gia khoa cử. Cô tình cờ kết bạn với vị công tử nổi bật Lee Sun Joon, và rồi không biết rằng may mắn hay xui xẻo, cùng chàng bước chân vào Sung Kyun Kwan, ngôi trường nam sinh nổi tiếng thời Jo Seon, bắt đầu cuộc sống giữa những nho sinh danh giá nhất kinh thành. Một cô gái làm sao giấu mình giữa cánh mày râu? Nhất là khi bên cạnh lúc nào cũng một Nữ Lâm chăm chăm tìm cách chứng minh cô là con gái, một Kiệt Ngao nóng nẩy sểnh ra là động chân động tay, và một Giai Lang mà cô thầm thương trộm nhớ. Ngủ ko dám cựa mình, đàn ông con trai cứ cởi trần thay áo quần trước mặt, phiền toái vì dung mạo nữ nhi... hàng loạt các tình huống dở khóc dở cười cứ thế nối nhau ập đến với Yoon Hee. *** Thùy diện tứ nhân bang Đại Vật - Kim Yoon Hee, ngoại hình xinh đẹp, tính tình quyết đoán hơn người, vì gia cảnh mà phải từ bỏ thân phận nữ nhi vào học ở Sung Kyun Kwan. Giai Lang - Lee Sun Joon, chàng trai hoàn hảo cả về gia thế, ngoại hình, nhân phẩm lẫn học thức, vì Đại Vật công tử mà lần đầu tiên trong đời phải vò đầu bứt tóc băn khoăn: Lẽ nào mình là nam sắc? Kiệt Ngao - Mun Jae Shin, gã trai xuất quỷ nhập thần, “con ngựa điện” cô đơn cũng nổi giận, buồn cũng nổi giận. Vui cũng nổi giận, xấu hổ cũng nổi giận. Ngay cả khi gặp Đại Vật công tử đáng yêu, không biết phải làm gì cũng nổi giận. Nữ Lâm - Gu Yong Ha, người yêu cái đẹp thích hưởng lạc, bất cứ thời điểm nào cũng phải khoác lên mình bộ cánh đẹp nhất. Nếu không đùa cợt thì lại nói chuyện “đồi trụy”, tuy phóng túng nhưng đôi lúc lại tỏ ra suy nghĩ sâu sắc hơn người. *** Jeong Un-gwol là tiểu thuyết gia nổi tiếng Hàn Quốc, với nhiều tác phẩm được xuất bản, đặc biệt gây tiếng vang là hai tiểu thuyết lịch sử đã được chuyển thể thành những bộ phim truyền hình ăn khách: Vụ bê bối ở Sung Kyun Kwan (2010) và Mặt trăng ôm mặt trời (2012). *** Vào một ngày mùa xuân tươi sáng và ấp áp. Jae Shin đang cùng Yong Ha quỳ hành lễ chào hoàng thượng trong Tuyên Chính điện. Hoàng thượng đẩy đống văn thư trước mặt sang một bên rồi đổi tư thế ngồi thoải mái hơn, sau đó lên tiếng hỏi: “Moon Jae Shin và Gu Yong Ha, sao chỉ có hai khanh đến thôi? Trẫm đã cho gọi cả những người khác cơ mà.” Yong Ha cúi người thấp hơn nữa và trả lời: “Mong hoàng thượng thứ tội, hôm nay là ngày lễ thành hôn của Lee Sun Joon nên...” “À! Phải rồi, hình như trẫm cũng có nghe qua chuyện này. Thì ra là hôm nay. Vậy bỏ qua Lee Sun Joon, còn Kim Yoon Sik tại sao lại không đến?” “Mong hoàng thượng thứ tội, chúng thần nghe nói hôm nay nhà Kim Yoon Sik cũng làm lễ thành hôn ạ.” “Cả Kim Yoon Sik nữa sao?” “Không phải Kim Yoon Sik mà là tỉ tỉ của cậu ấy...” “Vậy sao? Xen ra hôm nay là ngày lành tháng tốt rồi. Chỗ nào cũng tranh nhau tổ chức hôn lễ. Mà chắc không phải hai nhà đó kết thông gia đấy chứ? Ha ha ha.” “Chuyện này, xin hoàng thượng thứ tội lần nữa, đúng là hai nhà đó kết thông gia ạ.” Tiếng cười của hoàng thượng đột nhiên im bặt. Người nghiêng đầu tỏ vẻ hoài nghi, hỏi: “Trẫm tưởng Kim Yoon Sik là người Nam nhân mà, chẳng lẽ trẫm nhớ nhầm sao?” “Kim Yoon Sik đúng là người Nam nhân ạ.” “Vậy sao lại có chuyện này được? Không lý nào Tả tướng lại chấp nhận hôn sự này...” “Chúng thần cũng không rõ lắm nên không thể tâu lên hoàng thượng được. Hơn nữa chuyện hôn sự này bọn họ cũng không báo cho chúng thần biết, chúng thần đang định sau khi rời cung sẽ tìm sang đấy để hỏi rõ đầu đuôi.” ... Mời các bạn đón đọc Vụ Bê Bối ở Sung Kyun Kwan của tác giả Jeong Un-gwol.