Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kỳ Án Dòng Chữ Tắt

Sophie Hannah & Tuấn Việt (dịch) Hercule Poirot nghỉ ẩn ở London tại một nhà trọ ít ai ngờ đến. Tình cờ, cùng nhà trọ với ông có cảnh sát điều tra Edward Catchpool của Scotland Yard. Và cũng tình cờ ông gặp người phụ nữ tên Jennie, hốt hoảng như trong tình trạng bị nguy hiểm. Nhưng tất cả không còn là tình cờ nữa khi xảy ra vụ án mạng ba người chết tại khách sạn Bloxham và Catchpool phụ trách điều tra... "Sophie Hannah mang một không khí mới cho nhân vật Poirot. Lời văn dí dỏm hơn, hợp thời hơn. Có điều hơi dài dòng... 3.5* là hợp lý, nhưng làm tròn...." _ NQK *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Sophie Hannah là một nhà thơ và tiểu thuyết gia người Anh, sinh ngày 28 tháng 6 năm 1971 tại Manchester, Vương quốc Anh. Cô tốt nghiệp Đại học Manchester với bằng Cử nhân Văn học Anh và sau đó theo học Đại học Cambridge để lấy bằng Thạc sĩ Văn học Anh. Sophie Hannah bắt đầu viết thơ từ khi còn nhỏ và đã xuất bản hai tập thơ trước khi chuyển sang viết tiểu thuyết. Cô đã xuất bản 12 tiểu thuyết, trong đó có 9 tiểu thuyết trinh thám, 2 tiểu thuyết lãng mạn và 1 tiểu thuyết dành cho trẻ em. Tác phẩm đầu tay của Sophie Hannah là tiểu thuyết trinh thám "The Other Half of Me" (2007), kể về câu chuyện của một người phụ nữ phát hiện ra rằng mình có một người song sinh cùng trứng. Cuốn tiểu thuyết đã được dịch sang hơn 20 thứ tiếng và nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình. Năm 2014, Sophie Hannah được gia đình của Agatha Christie ủy quyền viết một tiểu thuyết mới về thám tử Hercule Poirot. Cuốn tiểu thuyết "The Monogram Murders" (2014) là cuốn tiểu thuyết chính thức đầu tiên được viết tiếp theo mạch văn của Agatha Christie. Cuốn tiểu thuyết đã được dịch sang tiếng Việt và phát hành tại Việt Nam vào năm 2016. Ngoài ra, Sophie Hannah còn được biết đến với các tiểu thuyết trinh thám khác như "The Murderer's Son" (2010), "The Other Woman" (2013), "The Killing Room" (2015), "The Girl in the Red Dress" (2016), "The Woman in the Window" (2017), "The Love Song of Miss Jane Austen" (2018), "The Other Woman's Husband" (2020) và "The Body in the Woods" (2022). Nội dung một số tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt "The Monogram Murders" (2014): Câu chuyện bắt đầu khi một người đàn ông bị sát hại tại một bữa tiệc, trên người nạn nhân có một chiếc khăn tay có thêu chữ A. Poirot cùng với trợ lý của mình, Captain Hastings, bắt đầu cuộc điều tra và phát hiện ra rằng vụ án này có liên quan đến một bí mật đen tối trong quá khứ. "The Murderer's Son" (2010): Câu chuyện kể về một người phụ nữ tên là Emma, người phát hiện ra rằng mình có một người con trai là một kẻ giết người hàng loạt. Emma phải tìm cách ngăn chặn con trai mình gây ra thêm tội ác. "The Other Woman" (2013): Câu chuyện kể về một người phụ nữ tên là Emma, người phát hiện ra rằng chồng mình đã ngoại tình. Cô quyết định gặp người phụ nữ kia, người mà cô biết đến với cái tên Sarah. Emma và Sarah bắt đầu trở thành bạn bè và họ sớm phát hiện ra rằng chồng của Emma không phải là người duy nhất trong cuộc sống của họ. "The Killing Room" (2015): Câu chuyện kể về một nhóm người bị bắt cóc và đưa đến một căn phòng bí mật. Họ được cho biết rằng họ sẽ phải chơi một trò chơi để có cơ hội sống sót. Trò chơi này có tên là "The Killing Room" và nó đòi hỏi họ phải giết người để giành chiến thắng. "The Girl in the Red Dress" (2016): Câu chuyện kể về một người phụ nữ trẻ tên là Kate, người bị mất trí nhớ. Cô tỉnh dậy trong một bệnh viện và không nhớ gì về cuộc sống của mình. Kate phải tìm cách tìm lại ký ức của mình và giải mã bí ẩn về cái chết của một người phụ nữ trẻ mà cô được cho là đã giết. Tác phẩm của Sophie Hannah được đánh giá cao bởi lối viết hấp dẫn, cốt truyện chặt chẽ và các nhân vật được xây dựng chân thực. Cô là một trong những nhà văn trinh thám nổi tiếng nhất hiện nay. Thông tin bổ sung Giải thưởng: Giải Agatha Christie dành cho tiểu thuyết trinh thám hay nhất năm 2014 cho "The Monogram Murders" Giải Barry dành cho tiểu thuyết trinh thám hay nhất năm 2014 *** “Tóm lại, tôi không ưa cô ta,” cô phục vụ có mái tóc bay bay thì thào nói. Đó là một tiếng thì thào lớn vì mọi khách trong quán cà phê Pleasant đều nghe thấy. Ông tự hỏi, trong trường hợp này, cô ta là một cô phục vụ nào khác hay là một khách thường xuyên giống như ông. “Mắc gì tôi phải ưa cô ta, đúng không nào? Cô nghĩ khác thì tùy cô.” “Tôi nghĩ cô ta cũng tốt mà,” cô phục vụ mặt tròn, thấp bé hơn cất tiếng, có vẻ kém tự tin hơn so với ít phút trước. “Khi lên cơn ngạo mạn thì cô ta mới thế. Lúc cái mặt vênh lên thì lưỡi cô ta mới nhỏ độc. Chẳng hay ho chút nào. Tôi biết hàng tá người kiểu đó – chớ bao giờ tin họ.” “Chị nói chẳng hay ho chút nào là ý sao?” cô mặt tròn hỏi. Hercule Poirot, người duy nhất đang dùng bữa trong quán cà phê vào lúc 7 giờ 30 phút tối ngày thứ năm, tháng 2, biết rõ cô phục vụ tóc bay bay muốn ngụ ý gì. Ông mỉm cười một mình. Đây không phải lần đầu cô đưa ra một quan sát sắc bén. “Nếu vô tình thốt ra lời gì đó gay gắt thì còn tha thứ được. Tôi không ngại thú nhận, chính tôi cũng thường thế. Nhưng tôi mà vui thì tôi muốn mọi người cùng vui. Thế mới phải chứ. Nhưng có những kẻ như cô ta, chuyện chẳng có gì mà cứ trầm trọng hóa lên. Đó chính là loại người cần phải tránh thật xa.” Bien vu, Tốt, Hercule Poirot nghĩ. De la vrai sagessepopulaire. Khôn ngoan đấy. Cửa quán chợt mở tung, bật cả vào bờ tường. Đứng ở lối vào là một phụ nữ trong bộ áo khoác nâu nhạt đội chiếc nón cũng màu nâu nhưng sậm hơn. Cô có mái tóc vàng hoe. Poirot không thấy khuôn mặt cô. Đầu cô đang ngoái ra sau như chờ ai đó theo vào. Vài giây cửa ngỏ cũng là đủ lâu để cái lạnh đêm hôm tước đi hết sự ấm áp của căn phòng nhỏ. Bình thường, việc đó sẽ khiến Poirot nổi cáu, nhưng ông đang quan tâm sự xuất hiện kịch tính của kẻ mới đến nên chẳng mấy để ý tác động mà cô ta gây ra. Ông ấp bàn tay lên tách cà phê, hy vọng giữ lại chút hơi ấm cho món uống của mình. Ngôi nhà nhỏ hẹp, tường xiêu vẹo tại khu vực Gregory’s Alley này của London dù chẳng phải sang trọng gì nhưng lại có món cà phê ngon nhất thế giới. Ông không hay uống cà phê trước và sau bữa tối – thật ra, một viễn cảnh như thế luôn khiến ông thấy gơm gớm trong hoành cảnh bình thường – nhưng vào mỗi thứ năm, khi đến Pleasant chính xác lúc 7 giờ 30 tối, ông đều ban cho mình một ngoại lệ. Giờ thì ông xem cái ngoại lệ hàng tuần này là một thứ truyền thống nho nhỏ. Những nề nếp khác của quán thì ông chẳng ưa mấy: cứ mỗi khi đến quán, ông lại thấy dao nĩa, khăn ăn và ly nước bày lung tung trên bàn và phải sắp chúng lại cho đúng vị trí. Rõ ràng các cô phục vụ luôn cho rằng các món đồ này nằm đâu đó – bất cứ đâu – cũng được. Poirot không chịu và luôn đòi hỏi tái lập lại trật tự mỗi khi ông đến. “Xin lỗi, cô làm ơn đóng cửa sau khi vào được không ạ?” Tóc Bay Bay gọi với ra người phụ nữ áo-nâu-nón-nâu đang nắm chặt khung cửa, mặt vẫn hướng ra đường. “Hoặc giả cô không vào cũng chẳng sao. Chúng tôi ở trong này không muốn bị lạnh cóng đâu ạ.” Người phụ nữ bước vào. Cô ta khép cửa lại, không hề tạ lỗi vì đã để ngỏ cửa quá lâu. Từ cuối phòng cũng nghe được hơi thở gấp của cô. Cô chừng như chẳng để ý sự hiện diện của mọi người. Poirot đón cô bằng một câu Chào cô nhỏ nhẹ. Cô khẽ xoay sang ông, nhưng không đáp lễ. Mắt cô mở lớn trong nỗi lo lắng bất thường, một nỗi lo đủ rõ ràng để người lạ có thể nắm bắt được như một thứ vật chất. Poirot không còn thấy tĩnh tại và hài lòng như mọi khi. Sự thanh bình của ông đã vỡ tan. Người phụ nữ lao vội đến cửa sổ, săm soi nhìn ra ngoài. Cô ta sẽ không thấy thứ muốn tìm, Poirot nghĩ. Nhìn vào màn đêm từ một căn phòng chiếu sáng tốt thì chẳng thể thấy gì nhiều khi mà kính cửa chỉ phản chiếu hình ảnh ở bên trong căn phòng. Thế mà cô ta vẫn đăm đăm nhìn ra ngoài hồi lâu, cứ như quyết chí muốn canh gác cả con đường. “Ồ, hóa ra là,” cô Tóc Bay Bay nói với một thoáng bực bội. “Có chuyện gì vậy? Cô gặp chuyện gì sao?” Người phụ nữ áo-khoác-nâu-mũ-nâu quay đầu lại. “Không, tôi…” Lời thốt ra như một tiếng thổn thức. Nhưng cô ta nén lại được. “Không. Tôi lấy chiếc bàn ở góc có được không?” Cô trỏ vào chiếc bàn ở xa cánh cửa nhất. “Trừ chỗ quý ông kia đang ngồi, cô muốn chọn đâu cũng được ạ. Các bàn đều trống cả.” Sực nhớ đến Poirot, Tóc Bay Bay vội bảo ông, “Bữa tối của ông đang được nấu, ngon lắm đấy ạ.” Poirot rất thích nghe câu này. Thức ăn ở Pleasant ngon chẳng kém cà phê. Thật ra, xét cả hai khoản này, Poirot thấy khó tin vào điều mà ông được biết: các đầu bếp ở đây đều là người Anh. Incroyable. Không thể tin nổi. Tóc Bay Bay quay sang người phụ nữ đang lo lắng. “Cô chắc là không sao chứ, Jennie? Trông cô cứ như vừa gặp phải ma quỷ ấy.” “Tôi không sao, cảm ơn. Tôi chỉ xin một tách trà nóng thật đặc, làm ơn nhé.” Jennie bước vội đến chiếc bàn ở góc xa, ngang qua Poirot mà không hề nhìn ông. Ông khẽ xoay ghế để có thể quan sát cô. Chắc chắn cô ta đang gặp chuyện, một chuyện mà cô rõ ràng không muốn nói với các cô phục vụ. Không cởi áo, cởi nón, cô ngồi xuống chiếc ghế trông ra đường, đấu lưng với cánh cửa. Chỉ xong đâu đấy cô mới ngoái lại, nhìn ra sau. Có cơ hội quan sát chi li hơn khuôn mặt cô, Poirot đoán cô trạc bốn mươi tuổi. Đôi mắt to xanh luôn mở lớn và không bao giờ chớp. Poirot nghĩ, đôi mắt ấy như đang nhìn một cảnh tượng gây sốc. Gặp phải ma quỷ, Tóc Bay Bay đã nhận xét như thế. Nhưng Poirot chẳng thấy cảnh tượng nào kinh khủng với Jennie cả, chỉ có căn phòng vuông vức với bàn ghế, chiếc tủ gỗ treo áo khoác và nón, cùng những chiếc kệ cong vênh, đỡ trọng lượng của rất nhiều ấm tách với màu sắc, hoa văn và kích cỡ khác nhau. Các kệ này chỉ nhìn thấy thôi là cũng đủ rùng mình! Poirot chẳng hiểu sao một chiếc kệ cong oằn lại không được thay ngay bằng một chiếc kệ phẳng phiu. Ông cũng không thể hiểu nổi vì sao người ta xếp nĩa lên chiếc bàn vuông mà lại không chịu đặt nó song song với cạnh bàn. Tuy vậy, không phải ai cũng suy nghĩ như Hercule Poirot và từ lâu ông đã chấp nhận điều đó, cả mặt thuận lợi lẫn bất lợi mà nó gây ra. Ngồi nhấp nhổm trên ghế, người phụ nữ – Jennie – đăm đăm nhìn ra cửa như chờ đợi ai đó xông vào bất cứ lúc nào. Cô đang run rẩy, chắc một phần vì lạnh. Không – Poirot đổi ý – hoàn toàn không vì lạnh. Quán đã ấm lại rồi. Do muốn canh chừng cánh cửa, Jennie ngồi quay mặt về phía đó, giữ khoảng cách tối đa, dấy là kết luận hợp lý duy nhất. Mời các bạn đón đọc Kỳ Án Dòng Chữ Tắtcủa tác giả Agatha Christie.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kẻ Sống Sót
Cuốn sách bắt đầu với với đoàn khách 13 người tham gia hành trình tham quan bằng khinh khí cầu tại Công viên Quốc gia Northumberland, nước Anh. Nhưng khung cảnh nên thơ chẳng mấy chốc đã nhường chỗ cho cảnh tượng hãi hùng khi các du khách vô tình chứng kiến một gã đàn ông xuống tay sát hại một cô gái trẻ. Bắt đầu từ đây, hung thủ bắt đầu thảm sát toàn bộ hành khách trên khinh khí cầu. Cơn khát máu của hắn chỉ được thỏa mãn đến khi loại bỏ được nhân chứng cuối cùng. "Người phụ nữ này, Jessica Lane, lẽ ra đã chết rồi. Mười một người đã thiệt mạng trong vụ tai nạn đó. Chỉ có Lane chẳng những vẫn sống sót, cô ta còn đang trốn chạy. Cô ta vẫn đang tiếp tục trốn chạy. Vậy nên, tôi muốn biết cô ta sẽ đi đâu; tại sao cô ta lại không liên lạc với ai; Tại sao cô ta không yêu cầu trợ giúp; tại sao cô ta lại cố tình né tránh cảnh sát. Tôi muốn biết cô ta đang trốn chạy khỏi ai; Và hơn tất cả, tôi muốn tìm thấy cô ta!" *** Truyện xảy ra khi Jessica Lane đưa chị gái, xơ – Isabel, đi du lịch bằng khinh khí cầu nhân dịp sinh nhật của xơ. Nhóm hành khách tình cờ chứng kiến một vụ giết người ở trên mặt đất. Kẻ giết người tìm cách giết hết tất cả nhân chứng, ngoại trừ Jessica vẫn sống sót và phải trốn chạy một mình, mang theo bằng chứng có thể buộc tội tên giết người. Liệu cuối cùng, Jessica có trốn thoát được kẻ giết người đó? KẺ SỐNG SÓT Câu chuyện được tác giả viết dưới dạng các chương ngắn chỉ khoảng vài trang tạo cho truyện nhịp điệu gay cấn. Xen kẽ những chương ở thời gian hiện tại là những chương kể chuyện quá khứ, thuật lại những cuộc gặp gỡ của Isabel và Jessica. Từ những chương đó cho thấy một tình cảm chị em gắn bó, sẵn sàng hi sinh mọi thứ vì nhau chỉ vì muốn người còn lại hạnh phúc. Về điên biến truyện có một lượng kha khá plot twist khiến mình đi hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác đến tận chương cuối cùng. Các nhân vật cũng được tác giả xây dựng tốt. Ngoài nữ chính Jessica -một cô gái can đảm, mạnh mẽ mình còn ấn tượng với Ajax Maldonado – viên cảnh sát với tình yêu dành cho người vợ của mình. Tuy nhiên ở cuốn này, bộ phận cảnh sát có vai trò khá mờ nhạt trong toàn bộ vụ án. Truyện đề cập đến vấn nạn buôn bán người người nghèo, dân di cư để lấy nội tạng bán cho những gia đình có điều kiện. Đáng giận là một số kẻ thực thi pháp luật lại tiếp tay cho những kẻ buôn người đó. Đối lập là tấm lòng của các xơ theo dòng Cát Minh. Nhờ có sự trợ giúp hết mình từ họ mà cuối cùng Jessica cũng hoàn thành được nhiệm vụ của mình. Điểm: 7,75/10 Đen Đá Không Đường   KẺ SỐNG SÓT – Sharon Bolton Điểm: 4/5  Biết nói sao nhỉ… quyển này thực sự làm mình ngạc nhiên và xúc dộng. Ngoài việc đây là một cuốn sách trinh thám, có điều tra có đủ yếu tố giật gân, hành động, cuốn sách còn đề cập đến tình cảm anh chị em. Trong mỗi trang giấy mình đều cảm nhận được tình cảm này, giữa hai nhân vật Jessica và Isabel, thậm chí còn thể hiện qua hành động của nhân vật phản diện, và mấu chốt toàn bộ vụ án xảy ra cũng vì tình cảm anh chị em trong nhà, kết thúc vụ án được giải quyết cũng là nhờ tình cảm này. Toàn bộ cuốn sách làm mình vô cùng cảm động. Truyện xảy ra khi Jessica đưa chị gái, một bà xơ – Isabel, đi du lịch bằng khinh khí cầu nhân dịp sinh nhật của Isabel. Nhóm hành khách tình cờ chứng kiến một vụ giết người ở trên mặt đất. Kẻ giết người tìm cách giết hết tất cả nhân chứng, ngoại trừ Jessica vẫn sống sót và phải trốn chạy một mình, mang theo bằng chứng có thể buộc tội tên giết người. Đây chỉ là phần mở đầu cho một vụ án còn lớn hơn thế rất nhiều, liên quan đến một đường dây buôn bán nội tạng người bất hợp pháp, lợi dụng dân nhập cư. Cuộc điều tra về tai nạn khinh khí cầu được chỉ huy bởi thanh tra Ajax. Có rất nhiều tình tiết quan trọng được hé lộ trong quá trình điều tra của Ajax, ngoài việc người đọc theo dõi cuộc chạy trốn đầy nguy hiểm của Jessica khi cố gắng lẩn thoát khỏi tên giết người. Hắn có một thế lực khá lớn, và cảnh sát chắc chắn có liên quan. Vì vậy, Jessica đã phải rất cẩn thận để che giấu tung tích của mình. Cô thậm chí còn bị coi là một nghi phạm giết người bị truy nã. Tuy vậy, vì những bằng chứng quan trọng mà cô mạo hiểm mọi thứ để giữ gìn chúng, quyết giấu ở nơi mà cô tin tưởng nhất. Xen kẽ những chương truyện kể ở thời gian hiện tại là những chương kể chuyện quá khứ, thuật lại những cuộc gặp gỡ của Isabel và Jessica. Từ những chương đây, mình biết được mối quan hệ vô cùng thân thiết giữa hai chị em, cô chị Isabel có một quá khứ với người anh trai Ned của họ, và quyết định đi tu, còn Jessica, không đồng tình với quyết định của chị, trở thành một cảnh sát. Dù có những bất đồng nhưng hai người họ vẫn dính chặt vào nhau, thân thiết như hai người bạn vậy. Phải nói là truyện có rất nhiều cú twist bất ngờ mà mình không tài nào ngờ trước được. Mọi tình huống được đưa đẩy đến mức đỉnh điểm, căng thẳng tột cùng. Có những chi tiết mà sau khi đã biết được twist, mình dò lại mới thấy hợp lí đến mức nào. Không có thử thách tài suy luận gì cả, vì các đầu mối đưa ra cũng không quá rõ ràng để thử tài độc giả. Dĩ nhiên có những dấu hiệu báo trước, nhưng mình bị cuốn vào truyện quá, cũng chẳng để ý nó đóng vai trò gì, phải đến lúc đọc qua twist mới để ý những dấu hiệu đó, tại sao tác giả lại quá chú trọng vào chi tiết đó vậy. Đến cuối cùng truyện vẫn có bất ngờ, mà bất ngờ này thì mình chắc chắn là không ai đoán được đâu. Một khía cạnh nữa trong truyện mà mình cần nhắc đến đó là các nữ xơ trong tu viện mà Isabel thề nguyền ở đó. Mình không chỉ cảm động bởi tình cảm chị em ruột thịt mà còn là sự gắn bó chị em giữa các nữ tu. Họ cũng là những người phụ nữ nhỏ bé, im lặng trong tu viện nhưng cuộc sống cùng nhau đã khiến họ trở thành một cá thể độc nhất, không có ai tách ra. Sự đoàn kết của họ đã tạo sức mạnh cho Jessica và Isabel, đi theo Jessica đến cuối truyện và đóng một vai trò không hề nhỏ trong quá trình phá án của Jessica. Toàn bộ câu chuyện mang một màu sắc cảm xúc khó tả, mơ hồ, buồn buồn, lâng lâng, cho dù có những sự gay cấn căng thẳng đó, mình vẫn dễ dàng đọc hết quyển sách mà không phải cảm thấy thần kinh lúc nào căng như dây đàn vậy. Hương Spy *** Thứ Tư, ngày Hai mươi tháng Chín. Chiếc khinh khí cầu lơ lửng giữa không trung trông giống hệt một quả cầu Giáng sinh treo ngược, những đường cong mang theo sọc vằn sặc sỡ của nó phản chiếu vô cùng rõ nét trên mặt hồ. Khi những tia sáng đầu tiên của buổi sớm mai ló rạng, mặt nước ánh lên màu đào chín, một màu vàng nhạt phản chiếu lên các cạnh bên của khinh khí cầu, rồi đến màu hồng đậm chiếu sáng khắp bề mặt khinh khí cầu. Không gian im lìm, tĩnh lặng, không có lấy một ngọn gió nào. Hàng cây dọc theo bãi biển cũng ngừng xào xạc trước khi bình minh ghé đến, và cả mười ba hành khách trên chiếc khinh khí cầu kia đều đứng đó im lìm, không ai nói với ai lời nào. Cả thế giới dường như cũng đang nín thở. Ở phía dưới, đủ xa để các hành khách có thể quan sát được mọi thứ, là một vùng đất hoang vu rộng lớn mọc đầy những cây thạch nam, trực thuộc công viên quốc gia Northumberland. Những bãi cỏ gợn sóng rung rinh trông chẳng khác nào lớp lông của một con thú khổng lồ đang lắc lư tản bộ, những dòng suối tỏa sáng lấp lánh trông hệt như những con rắn bạc đang uốn mình, và mặt trời giống như quả cầu lửa rực cháy đang dần nhô lên trên các ngọn núi cao. Hàng trăm năm qua, khung cảnh nơi đây vẫn cứ bao la và hoang vu như vậy, và chiếc khinh khí cầu kia chính là một cỗ máy thời gian, mang theo mười ba vị khách trở về quá khứ, khi mà khu vực phía bắc xa xôi của nước Anh này vẫn còn rất ít người sinh sống. Ở đó không có những con đường tấp nập, không có những tuyến xe lửa, không có cả các thành trấn hay làng mạc. Cả thế giới dường như trống rỗng, ngoại trừ mười ba hành khách ấy. Như thường lệ, chuyến bay bắt đầu đầy hứng khởi. Giỏ hành khách vuông vắn, rộng rãi và được chia thành bốn khoang riêng biệt để hạn chế hành khách di chuyển quá nhiều trong suốt hành trình, ở trung tâm là vị trí của phi công điều khiển chuyến bay. Tại một trong số các khoang hành khách ấy, có hai người phụ nữ tuổi khoảng hơn ba mươi, một người khoác trên mình bộ trang phục màu đen, người còn lại mặc trang phục màu xanh lục. Tuy họ trông không giống nhau như hai giọt nước, nhưng chắc chắn phải là hai chị em. Người mặc đồ đen khẽ thở ra thành tiếng, nghe không hẳn là một tiếng thở dài, lại cũng không phải là một tiếng rên than. “Chuyến đi này là của chị.” Cô gái mặc trang phục màu xanh lá khẽ mỉm cười. Hai chị em họ chung khoang với một kế toán viên đến từ Dunstable. Vợ và hai con nhỏ của anh ta ở khoang bên cạnh. Phía bên kia khoang lái là ba người đàn ông đang đi nghỉ mát, họ ăn mặc trông chẳng khác nào những chiếc đèn tín hiệu giao thông với các màu đỏ, cam và xanh lá; cùng với một cặp đôi trung niên đến từ Scotland và một nhà báo đã nghỉ hưu. Giỏ hành khách tiếp tục xoay tròn chậm rãi, lững thững trôi qua mặt hồ. Các hành khách trên chuyến hành trình đã có được những trải nghiệm đầy kinh ngạc khi họ vừa cảm nhận được những chuyển động xoay tròn liên tục, lại vừa thưởng thức được bầu không khí ở độ cao này. Bằng cách nào đó mà bầu không khí trên đây có vẻ trong lành và thoáng đạt hơn nhiều so với trên mặt đất. Làn sương sớm lành lạnh nhưng lại không mang đến cho người ta bất kỳ cảm giác khó chịu nào. Không khí như mơn trớn làn da và cứ thế thấm dần vào trong từng lá phổi con người ta theo cách riêng của nó. Cô gái mặc trang phục màu xanh lục, Jessica, tiến đến bên cạnh chị gái mình là cô gái có gương mặt tái nhợt và đang bấu chặt tay vào thành giỏ. Đôi mắt cô chị mở to, nhìn chằm chằm xuống mặt hồ bên dưới như thể đang băn khoăn điều gì đó. Trong đầu Jessica đột nhiên xuất hiện một suy nghĩ đáng sợ nhất, rằng chị gái cô có thể lập tức nhảy ra ngoài. Chỉ trong nháy mắt sau đó, cô lại nghĩ rằng nếu cả hai người cùng nhảy ra có khi sẽ tốt hơn, hoặc giả cái cảm giác một vài giây vừa kinh ngạc lại vừa đau đớn khi va chạm với mặt nước ấy cũng không tệ chút nào. Cái bóng tối nghẹt thở và mát lạnh nơi đáy hồ có thể nhấn chìm họ, hoặc cũng có thể đẩy họ lên trên mặt nước và đưa họ dạt vào bờ. Nếu họ cùng nhảy ra ngay lúc đó, có thể cả hai đều đã còn sống sót rồi. “Thật khó tin, đúng không?” Jessica lên tiếng, vì rất lâu về trước cô đã học được rằng sự sao nhãng đôi khi lại có thể ngăn chị gái cô thực hiện một hành động liều lĩnh nào đó. “Chị có thích nó không? Em không thể hiểu được tại sao trước đây chúng ta lại không làm việc này cơ chứ.” Isabel khẽ mỉm cười, nhưng không lên tiếng, vì cô biết câu trả lời của cô lúc này cũng chẳng có ý nghĩa gì cả. “Thật sự tuyệt vời, phải không? Chị hãy nhìn những màu sắc đó mà xem.” Vẫn không có câu trả lời, nhưng Jessica cũng đã thấy hài lòng hơn khi chị gái mình ngẩng đầu lên nhìn về phía những bụi cây mọc sát cạnh bờ nước. Lúc này, họ chẳng khác nào những quý cô đang trong phòng vũ hội, xoay tròn giữa không gian, chiếc áo choàng của họ phồng lên rồi lại xẹp xuống, xoắn lại với nhau cho đến khi chẳng ai biết được đâu là điểm đầu và đâu là điểm cuối. Ở tít phía xa bên ngoài hàng dãy ngọn cây, những ngọn đồi rực nắng như những viên ngọc quý giá trải dài bất tận. “Chúng ta đang ở phía trên dinh thự Harcourt.” Từ lúc bắt đầu chuyển đi, người điều khiển chiếc khinh khí cầu này vẫn luôn nói chuyện nhẹ nhàng như thế. “Tòa nhà nguyên bản vốn nằm ngay phía trước kia thôi, nhưng nó đã bị cháy rụi vào cuối thế kỷ mười chín rồi.” “Chúng ta có cần lên cao thêm chút nữa không?” Nhà báo về hưu có cái đầu hói và cái bụng phệ cau có nhìn những ngọn cây đang càng lúc càng gần. “Đừng lo lắng, mọi người, tôi có kinh nghiệm rồi mà.” Viên phi công tên Sean có mái tóc đỏ, cao khoảng trên một mét tám mươi khuấy nhẹ không khí bên trên lò đốt và tất cả những ai ở gần anh ta đều cảm nhận được một luồng khí nóng bùng lên ngay trên đầu họ. “Ở khu vực này, tôi thích xuống thấp một chút bởi vì những khu rừng này chính là địa điểm tuyệt vời nhất để xem sóc đỏ tại Northumberland. Còn có cả chim ưng biển nữa, dù năm nay có vẻ chúng xuất hiện muộn hơn.” Mời các bạn đón đọc Kẻ Sống Sót của tác giả Sharon Bolton & Thùy Dương (dịch).
Quỷ Sứ Cũng Phải Dè Chừng
Một vụ hành quyết man rợ trong khu ngoại ô hoang vắng ở Paris đã mở đầu cho một chuỗi những tình tiết được sắp đặt để dẫn tới một thảm họa toàn cầu, khi trào lưu của thứ ma túy chết người đe dọa nhận chìm nước Anh những năm sáu mươi; một chiếc máy bay dân dụng của Anh bị mất tích trên vùng trời Iraq và tiếng sấm của cuộc chiến tranh đang vang rền khắp vùng Trung Đông... Bond đã tìm thấy kẻ đồng lõa tự nguyện trong dáng hình của một phụ nữ Paris xinh đẹp và quyến rũ tên là Scarlett Papava. Chàng sẽ phải cần tới mọi sự trợ giúp của nàng trong trận đấu sinh tử với kẻ thù nguy hiểm nhất - đó là kẻ luôn sẵn lòng nhảy múa với cả quỷ sứ. Bond đã trở lại. Cùng sự báo thù Phiên bản mới này là phần tiếp theo đầy uy lực của di sản James Bond - một chương mới rất giật gân trong cuộc đời của một điệp viên hình tượng nhất trong văn học và phim ảnh. "Việc một người viết tiểu thuyết tầm cỡ như Faulks, chứ không phải ai khác, mang vào mình chiếc áo khoác của Fleming là sự tôn kính phù hợp nhất đối với một trong những nhà văn vĩ đại nhất của nước Anh chuyên viết về đề tài li kì và giật gân." Ben Macintyre - The Times *** Loạt tác phẩm James Bond xoay quanh một nhân vật mật vụ người Anh hư cấu, được sáng tạo bởi nhà văn Ian Fleming vào năm 1953. Fleming đã khắc họa Bond trong 12 cuốn tiểu thuyết và 2 tuyển tập truyện ngắn. Sau khi ông qua đời vào năm 1964, đã có tám tác giả tiếp tục viết tiếp các tác phẩm tiểu thuyết hoặc tiểu thuyết chuyển thể về James Bond, bao gồm: Kingsley Amis, Christopher Wood, John Gardner, Raymond Benson, Sebastian Faulks, Jeffery Deaver, William Boyd và Anthony Horowitz. Forever and a Day của Anthony Horowitz, xuất bản vào tháng 5 năm 2018, là cuốn tiểu thuyết James Bond mới nhất. Ngoài ra, có thể kể đến loạt truyện viết về Bond thời trẻ của Charlie Higson hay Kate Westbrook với bộ ba tiểu thuyết dựa trên cuốn nhật ký của Moneypenny, một nhân vật từng xuất hiện trong loạt truyện. Nhân vật James Bond còn được biết tới với mã tên 007, được chuyển thể rộng rãi thành các tác phẩm truyền hình, phát thanh, truyện tranh, trò chơi điện tử và phim ảnh. Loạt phim về James Bond hiện đang là loạt phim liên tục dài nhất mọi thời đại và thu về tổng doanh thu 7.04 tỉ đô la Mỹ, trở thành loạt phim có doanh thu cao thứ sáu lịch sử. Nó được khởi đầu vào năm 1962 bằng phần phim Dr. No với ngôi sao Sean Connery trong vai Bond. Tính tới năm 2020, loạt phim do Eon Productions sản xuất đã có 24 phần. Spectre (2015) là bộ phim James Bond gần nhất, có sự tham gia diễn xuất của Daniel Craig với lần thứ tư anh thủ vai mật vụ Bond trong loạt phim của Eon. Ngoài ra, còn có hai tác phẩm độc lập: Casino Royale (một phiên bản giễu nhại ra mắt năm 1967, với sự tham gia của David Niven) và Never Say Never Again (bản làm lại bộ phim do Eon sản xuất trước đó của Thunderball, ra mắt năm 1965, cả hai bản đều có sự tham gia của Connery). Năm 2015, với trị giá ước tính 19.9 tỷ đô la Mỹ, James Bond trở thành một trong những thương hiệu truyền thông có doanh thu cao nhất từ trước tới nay. Các bộ phim về Bond nổi tiếng bởi một số điểm đặc trưng, như phần nhạc đệm với các bài hát chủ đề đã nhiều lần được đề cử Oscar và chiến thắng hai lần. Vài yếu tố xuyên suốt quan trọng khác bao gồm những chiếc xe hơi của Bond, các khẩu súng của anh và những thiết bị mà anh được Q Branch cung cấp. Mỗi phần phim cũng chú ý khắc họa mối quan hệ của Bond với nhiều phụ nữ khác nhau, đôi khi được gọi là các "Bond girl". *** Đó là một buổi tối lạnh lẽo ở Paris. Mưa vẫn không ngừng rơi lộp độp trên mái ngói đá đen của những tòa nhà dọc theo những đại lộ và cả trên những căn nhà nhỏ hai mái ở khu Latin. Phía ngoài khách sạn Crillon và khách sạn George 5, nhân viên gác cửa đang huýt gọi những chiếc taxi đến từ trong màn đêm, rồi hối hả chạy tới giương dù che cho những người khách mặc áo lông thú khi họ bước lên xe. Cả một khoảng không bát ngát của quảng trường Concorde ẩn hiện lấp lánh mờ ảo trong cơn mưa ào ạt. Ở khu Sarselles, một vùng xa phía bắc ngoại ô, Yusuf Hashim đang trú mưa trên hè đường. Trên đầu hắn không phải là mái vòm duyên dáng của cây cầu số Chín, nơi các cặp tình nhân đang túm tụm trú mưa, mà là một mảng bê-tông dài của chiếc ban-công với những cánh cửa rẻ tiền gắn đầy then, mở vào những căn hộ ba phòng cáu bẩn của khu nhà mười tám tầng nhìn xuống một phần đông đúc của quốc lộ N1. Được kiến trúc sư đặt tên là Cầu vồng, song khu nhà được coi là một chốn đáng sợ, ngay cả khi nó tọa lạc trong cái quận khét tiếng này. Sau sáu năm trời chiến đấu chống lại quân Pháp ở Algeria, cuối cùng Yusuf Hashim cũng bỏ chạy. Hắn trốn đến Paris và tìm được một chỗ ở Arc en Ciel, nơi ba người anh em của hắn sẽ cùng tụ họp vào một lúc thích hợp. Người ta nói rằng chỉ những kẻ sinh ra ở những khu nhà gớm ghiếc mới có thể không do dự khi du thủ du thực, ấy thế mà Hashim lại chẳng sợ ai. Hắn đã bắt đầu chuyến liều mạng đầu tiên khi làm việc cho Mặt trận Giải phóng Dân tộc Algeria (FLN), lúc mới mười lăm tuổi đầu, bằng vụ đánh bom lửa một trạm bưu điện. Suốt thời gian ở Bắc Phi hoặc ở Paris, hắn chưa hề gặp một ai lại coi cuộc đời độc thân quá giá trị cả. Cuộc đua luôn dành cho kẻ mạnh, và thời gian đã chứng tỏ Hashim cũng mạnh mẽ như ai. Hắn bước ra ngoài trời mưa, mau lẹ liếc trước liếc sau. Dưới ánh đèn trắng nhạt, khuôn mặt rỗ màu xám nâu với chiếc mũi khoằm to tổ bố nhô ra giữa hai hàng lông mày đen của hắn trông đầy thận trọng. Hắn vỗ nhẹ vào túi sau của chiếc quần lao động màu xanh, nơi có 25.000 đồng franc mới, gói kĩ trong bao xốp. Từ trước đến giờ, đây là món tiền lớn nhất hắn từng giao dịch, do vậy tuy đã từng trải, hắn cũng thấy phải cẩn trọng. Giấu mình trong bóng tối, hắn liếc nhìn năm sáu lượt xuống chiếc đồng hồ đeo tay. Hắn không bao giờ biết mặt người mà hắn đang đợi vì chẳng bao giờ hắn gặp lại họ lần thứ hai. Đó là một phần xuất sắc của mưu đồ: sau mỗi phi vụ phải dứt điểm ngay với nguồn cung cấp vô tận của đám buôn lậu. Hashim cố gắng giữ an toàn đều đặn trong khi chuyển hàng. Hắn luôn nài nỉ phải thay đổi địa điểm và yêu cầu gặp người giao dịch mới, thế nhưng không phải lúc nào cũng được như ý. Các biện pháp thận trọng thì tốn tiền, và mặc dù đám bạn hàng của Hashim khá liều mạng, song chúng lại hiểu rõ giá trị đường phố về những gì chúng giao dịch. Chẳng kẻ nào trong đường dây lại có thể kiếm đủ tiền để hoạt động một cách tuyệt đối an toàn, chắc chắn chẳng có ai, ngoại trừ một vài gã gộc nhất, đầy quyền lực kiểm soát, đang ở cách xa hàng ngàn dặm cái chỗ hôi thối trong lòng cầu thang, nơi hắn đang đứng. Mời các bạn đón đọc Quỷ Sứ Cũng Phải Dè Chừng của tác giả Sebastian Faulks & Nguyễn Việt Hải (dịch).
Lính Canh
Như mọi khi, Reacher không có nơi nào cụ thể để đi. Một buổi sáng, anh đến một thị trấn gần Pleasantville, Tennessee. Nhưng không có gì dễ chịu về nơi này. Trong ánh sáng ban ngày, Reacher phát hiện ra một linh hồn không may bước vào một ổ phục kích. "Đó là bốn chọi một" ... vì vậy Reacher can thiệp để giải quyết xung đột. Người đàn ông anh cứu là Rusty Rutherford, một giám đốc CNTT khiêm tốn, gần đây đã bị sa thải sau một cuộc tấn công mạng, khóa dữ liệu, hồ sơ và thông tin của thị trấn ... và những bí mật. Những kẻ xấu coi Rutherford là một phần của một cái gì đó nghiêm trọng, liên quan đến một âm mưu, một sự che đậy và giết người - tất cả đều tập trung vào một anh chàng nhỏ nhắn nhu mì trong chiếc áo sơ mi dính màu cà phê, người không biết anh ta phải chống lại điều gì. Quy tắc một: nếu bạn không biết mình đang gặp phải rắc rối gì, hãy giữ Reacher bên mình. *** Kể từ năm 1997, độc giả khắp thế giới đã bị cuốn vào những câu chuyện về Jack Reacher, nhân viên điều tra thuộc lực lượng quân đội Mỹ từng được tác giả Lee Child giới thiệu lần đầu tiên trong cuốn tiểu thuyết Killing Floor. Những câu chuyện về cuộc đời và chiến công của Jack Reacher sau đó tiếp tục được Lee Child khai thác trong hơn 20 cuốn tiểu thuyết được xuất bản sau đó. *** Các sách trong bộ "Jack Reacher" bao gồm "Killing Floor", "The Enemy" và "One Shot." Lee Child là tác giả của bộ truyện và hiện có một danh sách đầy đủ trên phần Sách của LeeChild.com, kể từ tháng 6 năm 2015. "Killing Floor", phát hành năm 1997, là tiểu thuyết đầu tay trong loạt phim "Jack Reacher". Trong cuốn sách, Reacher quyết định đến thăm Margrave, Georgia, nhưng nhanh chóng bị bắt vì tội giết người mà anh ta không thực hiện. Một thám tử địa phương và một nữ cảnh sát cố gắng giúp anh ta chứng minh sự vô tội của mình. Trong quá trình này, cả ba phát hiện ra các hoạt động bất hợp pháp đang diễn ra ở Margrave. "The Enemy" được phát hành vào năm 2004 và là cuốn sách thứ tám trong bộ truyện. Cuốn sách là phần tiền truyện của "Killing Floor", diễn ra tám năm trước các sự kiện trong cuốn sách đó. Khi đang làm nhiệm vụ ở Bắc Carolina, Reacher nhận được cuộc gọi về một người lính đã chết. Tuy nhiên, người lính này là một vị tướng đáng lẽ phải đến châu Âu, và Reacher sớm phát hiện ra vợ của vị tướng cũng đã chết. "One Shot", phát hành năm 2005, là cuốn sách thứ chín trong bộ truyện. Tại một thị trấn nhỏ ở Indiana, 5 người bị giết bởi một tay súng, và bằng chứng cho thấy một cựu lính bắn tỉa của Quân đội là kẻ giết người. Nghi phạm yêu cầu Reacher, người đến thị trấn để điều tra vụ án. Cuốn sách này đã được chuyển thể thành bộ phim "Jack Reacher" năm 2012, với sự tham gia của Tom Cruise trong vai Reacher. Tính đến tháng 9 năm 2015, có 20 cuốn sách "Jack Reacher" của tác giả Lee Child. Trong cuốn sách thứ năm, "Echo Burning", Reacher đi nhờ xe trong cái nóng mùa hè ở Texas và được đón bởi một người phụ nữ tên là Carmen, người đang bị ai đó theo dõi. Chồng cô là một người đàn ông bạo lực bị nhốt trong tù, và Reacher quyết định giúp Carmen chống lại anh ta và bất cứ ai khác muốn làm hại cô. "Bad Luck and Trouble" là cuốn 11 trong bộ truyện và theo chân Reacher từ Los Angeles đến Las Vegas. Hành động bắt đầu khi một người ẩn danh gửi tiền vào tài khoản ngân hàng của Reacher, khiến anh ta tò mò. Reacher sớm nhận ra khoản tiền gửi là tín hiệu mà chỉ đội Quân đội cũ của anh ta mới biết, khiến anh ta phải tìm kiếm đồng đội của mình và phát hiện ra kẻ giết người. Trong cuốn 19, "Personal", Reacher đi đến châu Âu để tìm một tay súng bắn tỉa đã cố giết tổng thống Pháp. Tay bắn tỉa rất nguy hiểm và khó nắm bắt, và Reacher phải đi qua nhiều quốc gia để bắt anh ta và tìm ra ai đã thuê anh ta và lý do tại sao. *** Rusty Rutherford ở tại căn hộ của mình vào một buổi sáng thứ Hai, đúng một tuần sau khi bị sa thải. Anh ấy đã dành vài ngày đầu tiên sau khi bị cho thôi việc, làm việc trong kho dự trữ pizza đông lạnh của mình và chờ điện thoại đổ chuông. Rất nhiều điểm yếu, lá thư sa thải cho biết. Không làm đúng hướng dẫn. Các lỗi cơ bản. Thật không thể tin được. Một sự bóp méo sự thật. Thật bất công. Đó là một sai lầm. Thông thường và đơn giản. Nhiều giờ đã trôi qua. Điện thoại im lặng. Và email cá nhân không có gì ngoài thư rác. Anh ta cố thêm một ngày nữa, rồi cầm lấy chiếc máy tính xách tay cũ và bật nguồn. Anh ta không sở hữu súng hay dao. Nhưng có người phải trả giá. Có lẽ kẻ thù trong đời thực của anh. Nhưng không phải nhân vật phản diện trong trò chơi điện tử mà một người bạn đã gửi cho. Trước đây anh đã tránh chơi chúng. Cảm giác bạo lực quá nghiêm trọng. Không cần thiết. Nó không còn cảm thấy như vậy nữa. Những ngày thể hiện lòng thương xót của anh ấy đã kết thúc. Trừ khi ... Điện thoại của anh im lặng. Anh đóng máy tính và thả mình xuống ghế dài. Anh ta ở đó trong một khoảng thời gian, chọn ngẫu nhiên từ một chồng đĩa Blu-ray mà anh không nhớ là đã mua khi nào và thầm cầu xin được trở lại làm việc. Anh ấy sẽ khác, anh ấy thề. Hòa hợp hơn. Kiên nhẫn hơn. Giao lưu. Thậm chí, đồng cảm,. Anh ấy sẽ mua bánh rán cho mọi người trong văn phòng. Hai lần một tháng. Ba lần, nếu cần. Điện thoại của anh im lặng. Anh ấy không thường xuyên uống rượu, nhưng còn việc gì khác phải làm bây giờ? Các hóa đơn nằm trên một đĩa khác. Anh ấy không thể xem thêm bộ phim nào nên và vào bếp. Lấy một chai Jim Beam chưa mở từ phía sau tủ. Quay trở lại phòng khách và nghe đĩa nhạc Elmore James. Jim Beam là một nhãn hiệu rượu whisky bourbon của Mỹ được sản xuất tại Clermont, Kentucky, bởi Beam Suntory. Đây là một trong những thương hiệu bán chạy nhất của bourbon trên thế giới. Kể từ năm 1795, bảy thế hệ của gia đình Beam đã tham gia sản xuất rượu whisky cho công ty sản xuất thương hiệu này. Anh ngủ thiếp đi, úp mặt xuống sàn, không rõ là bao lâu. Tất cả những gì anh ấy biết là khi thức dậy, đầu đau như búa bổ. Anh nghĩ nỗi đau sẽ không bao giờ kết thúc. Nhưng khi cảm giác nôn nao cuối cùng cũng qua đi, anh thấy mình đang trải qua một cảm xúc mới. Sự thách thức. Dù gì thì anh cũng là một người vô tội. Không có điều gì tồi tệ đã xảy ra là lỗi của anh. Đó là điều chắc chắn. Anh là người đã thấy trước vấn đề. Ai đã cảnh báo cấp trên. Hết lần này đến lần khác. Ở nơi công cộng và riêng tư. Và ai đã bỏ qua. Hết lần này đến lần khác. Vì vậy, sau bảy ngày ròng rã một mình, Rutherford quyết định đã đến lúc lộ diện. Để kể câu chuyện. Cho bất cứ ai sẽ lắng nghe. Anh đi tắm và lấy một số quần áo trong tủ ra. Quần chinos và áo sơ mi polo. Thương hiệu mới. Màu tối, nhìn như dân kinh doanh. Sau đó, anh lấy giày từ các góc đối diện của hành lang nơi anh ném chúng. Lục tung tìm chìa khóa và kính râm từ tủ sách bên cửa. Bước ra hành lang. Đi xuống thang máy, một mình. Qua sảnh. Đẩy qua cánh cửa xoay nặng nề và dừng lại trên vỉa hè. Mặt trời giữa trưa giống như một cái lò cao và sức nóng kéo theo những hạt mồ hôi trên trán và nách. Anh cảm thấy một sự hoảng loạn. Có tội mới đổ mồ hôi. Anh đã đọc điều đó ở đâu đó và điều anh cố gắng tránh là trông tội lỗi. Anh liếc nhìn xung quanh, tin chắc mọi người sẽ nhìn chằm chằm vào mình, sau đó buộc mình phải di chuyển. Anh bước nhanh, cảm thấy như đang khỏa thân đi bộ xuống phố. Nhưng sự thật là hầu hết những người đi qua thậm chí không nhận thấy anh đang ở đó. Trên thực tế, chỉ có hai người chú ý đến anh. Cùng lúc Rusty Rutherford ra khỏi căn hộ của mình, Jack Reacher bước vào một quán bar. Anh đã ở Nashville, Tennessee, bảy mươi lăm dặm về phía đông bắc từ thị trấn nhỏ buồn ngủ của Rutherford, và đang tìm kiếm giải pháp cho một vấn đề. Đó là một vấn đề thực tế. Một câu hỏi vật lý. Và sinh học. Cụ thể là làm thế nào để chổng ngược một người từ trần nhà mà không gây ra quá nhiều vết thương. Ít nhất là lên trần nhà. Reacher lần đầu tiên đặt chân đến nơi này một ngày trước đó. Vào thứ bảy. Gần như là Chủ nhật, vì lúc anh vào thị trấn đã gần nửa đêm. Cuộc hành trình của anh không được suôn sẻ. Xe buýt bị hư và mất thời gian sửa chữa. Reacher bị tê cứng vì ngồi lâu, cuối cùng ra khỏi nhà ga Greyhound, và mất vài phút để thư giãn các cơ và khớp. Anh đứng đó, khuất một nửa trong bóng tối, trong khi những hành khách còn lại ngồi xung quanh nói chuyện, nghịch điện thoại và thu dọn hành lý. Reacher vẫn ở lại. Anh không vội vàng. Anh đến muộn hơn dự kiến, nhưng đó không phải là vấn đề lớn. Anh không có cuộc hẹn nào. Không có cuộc họp nào để tham dự. Không ai đợi anh, lo lắng hay phát điên lên. Anh đã lên kế hoạch tìm một nơi để qua đêm. Một quán ăn, với một số thức ăn. Và một quán bar nơi anh có thể nghe một số bản nhạc hay. Anh có thể làm tất cả những điều đó. Anh có thể phải thay đổi thứ tự. Có thể kết hợp một vài hoạt động. Và với một số khách sạn, loại Reacher ưa thích, nó đóng cửa muộn. Đặc biệt nếu bạn trả tiền mặt. Điều anh luôn làm. Âm nhạc trước, Reacher quyết định. Anh biết không thiếu địa điểm ở Nashville, nhưng anh muốn có một địa điểm cụ thể. Một nơi nào đó. Với một số lịch sử. Nơi Blind Blake có thể đã chơi, trong ngày trở lại. Arthur Blake, được biết đến với cái tên Blind Blake, là một ca sĩ và nghệ sĩ guitar blues và blagtime người Mỹ. Ông được biết đến với nhiều bản ghi âm mà ông đã thực hiện cho Paramount Records trong khoảng thời gian từ 1926 đến 1932. Câu hỏi duy nhất là làm thế nào để tìm được một nơi như vậy. Đèn vẫn sáng trong bến xe buýt, và một số ít người vẫn đang làm việc hoặc chờ đợi hoặc chỉ muốn tránh xa đường phố. Có lẽ, một số là người địa phương. Reacher có thể hỏi đường. Nhưng anh không hỏi. Anh ấy thích điều hướng theo bản năng hơn. Anh biết các thành phố. Anh có thể đọc hình dạng và dòng chảy của chúng giống như một thủy thủ có thể cảm nhận được hướng của những con sóng. Linh cảm bảo anh đi về phía bắc, vì vậy anh bắt đầu băng qua một giao lộ hình tam giác rộng và đến một bãi đất trống đầy đá dăm. Mùi hôi của dầu diesel và thuốc lá mờ dần sau lưng, và bóng anh dài ra phía trước khi anh bước đi. Nó dẫn đến những dãy phố hẹp, song song với những tòa nhà gạch tương tự nhau, nhuốm đầy bồ hóng. Có cảm giác công nghiệp, nhưng mục nát và rỗng. Reacher không biết loại hình kinh doanh nào đã phát triển mạnh trong quá khứ của Nashville, nhưng bất cứ thứ gì được sản xuất, bán hoặc lưu trữ thì rõ ràng đã xảy ra xung quanh đó. Và rõ ràng là nó sẽ không xảy ra nữa. Các cấu trúc là tất cả những gì còn lại. Và không lâu nữa, Reacher nghĩ. Tiền sẽ chảy vào và nuôi sống chúng, hoặc chúng sẽ sụp đổ. Reacher bước ra khỏi vỉa hè đổ nát và tiếp tục đi xuống đường. Anh nghĩ sẽ thêm hai khối nữa. Nhiều nhất là ba. Nếu anh không tìm thấy bất cứ điều gì tốt thì anh sẽ sang bên phải, về phía sông. Anh đi ngang qua một nơi bán lốp xe cũ. Một nhà kho mà một tổ chức từ thiện đang sử dụng để lưu trữ đồ đạc quyên góp. Sau đó, khi băng qua con đường tiếp theo, anh nghe được tiếng réo rắt của một cây guitar bass và tiếng trống sấm sét. Âm thanh phát ra từ một tòa nhà ở trung tâm khu nhà. Nó không có vẻ hứa hẹn. Không có cửa sổ. Không có bảng chỉ dẫn. Chỉ là một dải ánh sáng vàng mỏng manh thoát ra từ bên dưới một cánh cửa gỗ duy nhất. Reacher không thích những nơi có ít lối ra tiềm năng nên anh có xu hướng tiếp tục đi bộ, nhưng khi anh đi ngang qua thì cánh cửa đã mở ra. Hai chàng trai, có lẽ ở độ tuổi gần hai mươi, với chiếc áo phông cộc tay và một vết xăm, loạng choạng bước ra vỉa hè. Reacher di chuyển để tránh họ, và cùng lúc đó, một cây đàn guitar bắt đầu réo rắt từ bên trong. Reacher dừng lại. Riff hay. Nó vút lên, bay bổng và như thể đã hoàn thành nốt nhạc cuối cùng, tiếp tục với giọng một người phụ nữ. Nó thê lương, tuyệt vọng, đau đớn. Reacher không thể cưỡng lại. Anh bước vào. Trong âm nhạc, riff là một đoạn nhạc hoặc một chùm hợp âm được lặp đi lặp lại trong một nhạc phẩm hoặc một cuộc trình diễn âm nhạc. Không khí bên trong có mùi bia và mồ hôi, và không gian phía trước hẹp hơn nhiều so với dự đoán của Reacher. Phía sau rộng hơn, tạo ra hai khu vực riêng biệt với một vùng chết ở giữa. Phía bên tay phải dành cho những người yêu âm nhạc. Có vài chục, một số đứng, một số khiêu vũ, một số thực hiện cả hai. Sân khấu dựa vào bức tường phía xa, chiếm hết chiều sâu của căn phòng. Nó thấp, được dựng từ các thùng bia với một số tấm gỗ đóng đinh. Có một ngăn xếp loa khiêm tốn ở mỗi bên và một cặp thanh kim loại treo trên trần nhà để giữ đèn. Ca sĩ ở trung tâm. Đối với Reacher, cô ấy có vẻ nhỏ bé. Cao nhất là 1.5m, và mỏng như một cây kim. Tóc cô ấy là kiểu bob màu vàng hoàn hảo, tỏa sáng rực rỡ đến mức Reacher tự hỏi liệu đó có phải là tóc giả hay không. Người chơi guitar ở bên trái cô, gần cửa nhất. Người chơi bass ở bên phải cô. Cả hai đều có mái tóc xoăn hoang dại và gò má cao, sắc nét, trông giống nhau đến nỗi họ có thể là anh em sinh đôi. Chắc chắn là anh em. Tay trống cũng ở đó, đập theo nhịp, nhưng cái bóng ở phía sau sân khấu quá sâu khiến Reacher không thể nhìn rõ cô ấy. Phía bên trái là quầy rượu. Có sáu bàn tròn, mỗi bàn có bốn ghế, và bốn ghế đẩu ở quầy bar được kê dựa vào tường, đối diện sân khấu. Một chiếc gương chạy hết chiều rộng với một vết nứt hình ngôi sao lởm chởm ở giữa. Reacher nghĩ, kết quả của việc một cái chai bị ném đi. Anh thích hình ảnh đó. Reacher đợi cho đến khi ban nhạc kết thúc bài hát cuối cùng, sau đó đi về phía quầy bar. Anh là người duy nhất ở phía đó của căn phòng. “Cà phê,” Reacher nói, khi người pha chế nhìn anh. Anh nói thêm “đen.” “Không có cà phê,” người pha chế trả lời. “OK. Bánh mì kẹp phô mai. Khoai tây chiên. Không có rau diếp. Không có dưa chua. Và một lon Coke.” “Không có bánh mì kẹp phô mai.” “Vậy có thức ăn gì?” “Không có thức ăn.” “Có tiệm nào xung quanh đây?” Người pha chế nhún vai. “Đừng sống quanh đây.” Reacher lấy Coke của mình và quay lại nhìn sân khấu. Anh đã hy vọng một ban nhạc khác sẽ tiếp tục nhưng không có dấu hiệu nào. Một nửa số khán giả đã tụ Mời các bạn đón đọc Lính Canh của tác giả Lee Child.
Tình Yêu Dối Trá
Tình yêu dối trá là cuốn tiểu thuyết trinh thám trong một chuỗi các tiểu thuyết trinh thám của Kellerman. Cuốn sách được mở đầu bằng một cuốn băng cát–xét gửi cho bác sĩ tâm lý học Alex Delaware, không đề địa chỉ người gửi. Trong băng là những tiếng gào thét điên loạn xen lẫn tiếng trẻ con ê a bốn từ “Tình yêu dối trá, tình yêu dối trá...” Alex cố gắng tìm hiểu, nhưng không hiểu nội dung của cuốn băng đó là gì, cũng không biết ai gửi cho anh và gửi vì lí do gì. Tuy nhiên, khi nhận được một cú điện thoại lạ lùng, đặc biệt là khi con cá vàng yêu quý của anh bị giết chết, anh nhận ra rằng cuộc sống của anh đang bị đe dọa. Với sự giúp đỡ của người bạn thân – thám tử Milo Sturgis, Alex bắt đầu khám phá ra những tình tiết phức tạp, chồng chéo của các vụ án mạng liên quan đến một cuộc hội thảo khoa học mà anh từng làm đồng chủ tịch cách đây hai mươi năm. Cuối cùng Delaware phát hiện ra mình đang bị một kẻ giết người bệnh hoạn săn đuổi. Hắn đốt nhà, phá phách và giết người để trả thù cho những sai lầm của người khác đã từng làm hắn đau khổ trong suốt hai mươi năm qua. Sự tham gia của tiến sĩ Delaware, một bác sĩ nhạy cảm, hiểu biết và nhân hậu đã làm cho mọi tội lỗi phải chùn bước. Đối với độc giả Việt Nam, nhà văn Jonathan Kellerman và những cuốn sách của ông còn rất mới mẻ. Chúng tôi giới thiệu cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông với bạn đọc với mong muốn độc giả Việt Nam sẽ biết thêm về một tác giả và những sáng tác của ông. *** Jonathan Kellerman sinh năm 1946 tại New York. Ông lớn lên ở Los Angeles, tốt nghiệp Trường Đại học Tổng hợp Los Angeles, nhận bằng tiến sĩ về tâm lý học lâm sàng tại Trường Đại học Nam California, nơi mà hiện nay ông đang cộng tác giảng dạy. Trước khi nhận học vị tiến sĩ, Kellerman đã từng làm biên tập, giáo viên, vẽ tranh minh họa và sáng tác nhạc. Trong sự nghiệp của ông, với tư cách là một nhà tâm lý học, ông đã đồng sáng lập và điều hành chương trình tâm lý xã hội ở viện nhi Thành phố Los Angeles: lãnh đạo một công ty tư vấn tâm lý, chỉ đạo việc nghiên cứu thuốc và điều chỉnh hành vi. Ngoài vai trò là một nhà văn, ông còn nổi tiếng khắp nước Mỹ như là một chuyên gia về bệnh stress ở trẻ em. Với hơn hai triệu bản những tiểu thuyết bán chạy nhất, được dịch ra nhiều thứ tiếng, nhận cả giải Edgar và giải thưởng Anthony, Jonathan Kellerman đã được độc giả tôn là bậc thầy của truyện trinh thám tâm lý đương thời. Ngoài những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng như, Khi cành cây gẫy, Thử máu và Trên đỉnh, tiến sĩ Kellerman còn viết hai cuốn sách khoa học nổi tiếng về tâm lý học. Nhiều truyện ngắn và những bài xã luận của ông đã xuất hiện trên các báo, tạp chí nổi tiếng của Mỹ như Tạp chí bí mật, Tạp chí Los Angeles, Thời báo Los Angeles và tờ New week. Jonathan Kellerman đang sống ở Nam California với người vợ thân yêu của ông, nữ nhà văn Faye Kellerman và bốn người con – ba trai, một gái. Hiện tại ông vẫn đang tiếp tục viết tiểu thuyết về chống tội phạm. *** Gói hàng gửi đến được bao bằng loại giấy trơn, màu nâu, và được đựng trong một vỏ hộp, cỡ độ bằng cuốn sách. Tôi đoán là một cuốn sách học sinh, hình như tôi đã quên mất là mình đã đặt mua trước đó. Gói hàng nằm trên chiếc bàn lẫn trong đống đơn từ và các bản thông cáo Hội thảo sinh viên ở Hawai trên đường Croix. Trở lại thư viện, tôi đang cố nghĩ ra việc gì đó để lát nữa sẽ làm, thì Tiffani và Chondra Walace xuất hiện. Đây là cuộc gặp gỡ thứ hai của chúng tôi. Một năm trước đây, mẹ của hai cô bé đã bị chính người cha mình sát hại trên một ngọn đồi ở cánh rừng mang tên “Ngọn đồi của những Thiên Thần”. Ông ta bảo rằng đó là tội ác của sự đam mê và có lẽ điều đó cũng chẳng có gì lấy làm khó hiểu bởi trong cơn sốc tình cảm kinh hoàng như thế người ta dễ làm như vậy lắm chứ. Qua những tài liệu mà tòa án cung cấp, tôi biết rằng với Ruthanne và Donald Dell Walace chuyện cãi vã, xô xát giữa họ xảy ra như cơm bữa. Bà ta vốn chẳng phải là một phụ nữ cứng rắn, dù cuộc ly hôn của họ đem đến những điều không lấy gì làm tốt đẹp, nhưng bà vẫn dành cho Donald những “tình cảm yêu thương nồng nhiệt”. Vì thế, chẳng ai ngạc nhiên khi thấy ông ta dùng những lời đường mật để dụ bà cùng thưởng ngoạn chuyến du đêm trong cái đêm định mệnh đó, với lời hứa hẹn bữa cơm tối sẽ có món tôm hùm mà bà ưa thích, điều đó có lẽ còn mê hoặc hơn cả hương thơm của “nàng tiêu nâu”. Ngay khi vừa dừng xe trên một ngọn đồi tối bưng, trông ra phía cánh rừng hai người đã quấn lấy nhau, và từ chỗ âu yếm, tâm tình, tranh luận rồi dần dần biến thành cuộc khẩu chiến, phẫn nộ và cuối cùng họ lao vào cấu xé nhau như hai con thú dữ tranh mồi. Bất ngờ Donald Dell rút ra một con dao, lao tới người phụ nữ vẫn mang họ*của ông ta, đâm ba mươi tư nhát, sau đó hất xác bà ta ra khỏi chiếc xe thùng của mình, và làm rớt chiếc ví kẹp bằng bạc kiểu Ấn Độ, bên trong chứa đầy tiền và cả tấm thẻ hội viên của ông ta tại câu lạc bộ đua mô tô mang tên “Những Thày Tu Sắt”. Phụ nữ phương Tây, khi lấy chồng mang họ của chồng – ND. Với tội trạng rõ ràng, bản nghi án đã khiến ông ta bị tống vào nhà tù Folsom mười năm vì tội giết người mức độ hai. Ở đó ông ta được tự do tha thẩn trong một khu vườn cùng với mấy gã bạn tù trước đây là đàn em của anh em nhà Aryan. Tham gia một khóa học máy tự động mà lẽ ra ông ta có thể làm thầy. Trong xưởng làm việc ông ta đã học được những cách cư xử tốt và củng cố được những mặt yếu của mình. Ông ta còn có thể tập thể dục bằng cách chống đẩy, mà có lúc ông ta tập cho đến khi các cơ lồng ngực như muốn vỡ tung ra mới thôi. Sau bốn tháng ngồi tù, ông ta rất nóng lòng muốn gặp hai cô con gái của mình. Theo luật pháp, ông ta cũng được xem xét các quyền của người làm cha. Ông Stephen Huff, vị thẩm phán tư gia ở L.A.* – một trong những thẩm phán giỏi nhất đã đề nghị tôi xử lý vụ này. Chúng tôi gặp nhau trong phòng làm việc của ông ấy vào một buổi sáng tháng chín. Và trong khi vừa uống cốc nước gừng vừa vuốt lên cái đầu hói trơn bóng của mình, ông ta kể lại toàn bộ chi tiết vụ đó cho tôi. Căn phòng làm việc của ông được ốp bằng gỗ sồi, lâu ngày đã trở nên cũ kỹ, còn đồ đạc trong phòng thì mộc mạc, rẻ tiền. Những bức hình chụp lũ trẻ con ông bày, treo la liệt khắp phòng. L.A.: Viết tắt của chữ Los Angeles – ND. Tôi hỏi ông ta: – Stephen này, ông định khi nào thì gặp họ đấy? – Tôi sẽ đến thẳng nhà tù, mỗi tháng hai lần. – Tức là ông sẽ phải đáp máy bay. – Đúng vậy, mấy người bạn sẽ thu xếp vé cho tôi. – Bạn thế nào? – Nếu nói một cách khôi hài thì có thể gọi họ là Hội những người ủng hộ Quỹ Bảo Trợ Gia Đình Donal Dell Wallace. – Những người bạn hảo tâm quyên góp đúng không? – Ờ, ờ thì cứ cho là thế đi. – Tôi hiểu rồi, thế ra là món tiền khích lệ. Ông ta gượng cười khó nhọc và thoáng vẻ miễn cưỡng: – Mà đó cũng chẳng phải là vấn đề của chúng ta, đúng không ông Alex. – Sao nào! Steven? Chẳng lẽ việc không thanh toán tiền pháp lý được là vì ông bố góa ấy đang ngồi tù ư? – Không phải... mà thôi bỏ chuyện đó đi, thế có gì mới mẻ không? Được rồi, chúng ta chỉ gặp gỡ những đứa trẻ tội nghiệp đôi ba lần nữa thôi, sau đó viết một thông báo nói rằng việc viếng thăm như thế sẽ ảnh hưởng xấu đến tinh thần của bọn trẻ và chúng ta sẽ tạm đình vấn đề này. – Trong bao lâu? Ông ta đặt cốc nước gừng xuống và ngắm những hình tròn in ở trôn cốc xuống chiếc bàn, đang từ từ chuyển sang màu đậm do bị thấm nước. – Tôi có thể đình việc này ít nhất là một năm. – Sau đó thì sao nào? – Nếu ông ta thỉnh cầu lần nữa, thì bọn trẻ có thể được xem xét lại và chúng ta phải trì hoãn lần nữa. Trong khi thời gian lại ủng hộ bọn trẻ đúng không? Hy vọng là chúng sẽ càng chín chắn và cứng cỏi hơn. – Steve à, một năm nữa thì chúng sẽ lên mười, mười một rồi còn gì. Ông ta chỉnh chiếc cà vạt của mình. – Alex, tôi có thể kể gì cho anh đây? Vả lại tôi không muốn thấy cảnh lũ trẻ cau có, mếu máo. Tôi sẽ nhờ anh xem xét hộ, vì tôi biết anh có chí khí mạnh mẽ, quyết đoán nên hoàn toàn có thể đảm nhận công việc mà khiến nhiều người phải thoái trí này. – Nghĩa là người khác cũng có thể đề nghị thăm viếng? – Có thể quá đi chứ, anh nên xem lại một số ý kiến mà các đồng nghiệp của anh đưa ra. Có lần ai đó đã nói với tôi rằng đôi khi việc để đứa trẻ chứng kiến sự phiền muộn của người mẹ lại là điều hết sức thuận lợi, vì nó dạy cho đứa trẻ hiểu được giá trị của tình cảm đích thực. – Thôi được rồi – Tôi nói – Nhưng tôi muốn có một sự đánh giá trung thực, chứ không phải chỉ bằng hình thức qua loa cho xong chuyện. Chắc chắn phải là một việc gì hữu ích cho bọn trẻ sau này. – Liệu pháp tâm lý ư? Sao lại không nhỉ? Được rồi, anh cứ làm bất cứ việc gì anh muốn. Bây giờ anh rút hồ sơ rồi gửi thẳng cho tôi và anh sẽ được trả công, bằng mười lăm ngày làm việc. – Thế ai sẽ trả đây, những ông bạn hảo tâm à? – Đừng lo, tôi đảm bảo họ sẽ tăng cổ phần của anh mà. – Miễn là họ không dúi séc vào tay tôi là được. – Alex này, chắc tôi chẳng phải lo chuyện đó đâu, bây giờ tình hình đã khá hơn rồi. * Cũng như tuần trước, hai cô bé đến rất đúng giờ. Mỗi đứa níu lấy một tay bà ngoại, trông chúng như những chiếc va ly kéo mini. – Bọn trẻ đến rồi đây – Evelyn Rodriguez thông báo – Bà ta đứng chắn lối cửa ra vào, khẽ đẩy hai đứa nhỏ bước tới. – Chào hai cháu – Tôi nói. Tiffani gượng cười. Còn cô chị nhìn xa xăm lơ đãng. – Chuyến đi tốt đẹp chứ? Evelyn nhún vai, bặm môi rồi lại thôi... Vừa giữ ghì hai cô bé bà ta vừa kéo chúng lùi lại. Hai cô bé để mặc cho bà kéo đi, song vẫn cố cự lại bằng sức nặng của mình, như thể chúng muốn phản đối bà ta một cách lặng lẽ. Dường như cảm nhận được điều đó Evelyn liền buông lũ trẻ ra, vòng tay khoanh trước ngực, ho vài tiếng rồi quay mặt đi. Rodriguez là người chồng thứ tư của bà ta. Bà vốn là người Anglo, thân hình mập mạp, dáng vẻ nặng nề, trạc năm mươi tám tuổi, hai khuỷu và các đốt ngón tay đã nhăn nheo, nước da sạm đi vì hút thuốc lá quá nhiều. Còn đôi môi thì mỏng dính, thẳng tuột, tựa như vết chỉ khâu. Bà ta có vẻ rất khó nói chuyện. Nhưng tôi tin là không phải sau cái chết của cô con gái bà ta đâm ra như vậy, mà vốn trước đây tính bà ta đã thế rồi. Sáng nay, bà mặc một chiếc áo cánh không có cổ và đường nét thì chẳng rõ ràng. Đại thể đó là một chiếc áo vải, in hình hoa cà màu xanh da trời, nó khiến tôi liên tưởng đến một chiếc hộp giấy thơm được trang trí loè loẹt. Chiếc áo cuộn lên, xổ ra và trùm xuống chiếc quần Jeans màu đen được trang trí viền đỏ. Đôi giày tennis màu xanh da trời của bà lốm đốm những vết bợt trắng. Tóc bà ta cắt ngắn và để lượn sóng. Phần trên ngọn, bạc như râu ngô còn phần chân tóc thì đen thẫm. Những lỗ đeo khuyên tai đã làm hai dái tai nhăn nheo chảy xệ xuống. Nhưng bà Evelyn lại không đeo đồ trang sức. Phía sau hai tròng kính, đôi mắt bà vẫn chẳng thèm ngó vào mắt tôi. Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Dối Trá của tác giả Jonathan Kellerman.