Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tự do đầu tiên và cuối cùng - Krishnamurti

Tôi đã giữ lại một tên người, một tên nổi hẳn lên, đối nghịch lại với tất cả những gì ám muội, khả nghi, hỗn tạp; đối nghịch lại tất cả những gì nặng nề sách vở từ chươngj, đối nghịch lại những gì trói buộc thúc phược: đó là tên Krishnamurti. Đây là một con người của thời đại chúng ta, một người mà chúng ta có thể nói là bậc thầy, đạo sư, người làm chủ thực tại. Ông đứng một mình một cõi. Không thể nào thấy được bất cứ người nào trên đời này đã hy sinh quên mình, từ bỏ, chối bỏ mọi sự, chối bỏ hết như là Krishnamurti đã thể hiện trong đời sống ông, tôi không thể nghĩ ra người nào đó có thể hành động hơn Krishnamurti, ngoại trừ đấng Christ. 

Tôi đã giữ lại một tên người, một tên nổi hẳn lên, đối nghịch lại với tất cả những gì ám muội, khả nghi, hỗn tạp; đối nghịch lại tất cả những gì nặng nề sách vở từ chươngj, đối nghịch lại những gì trói buộc thúc phược: đó là tên Krishnamurti. Đây là một con người của thời đại chúng ta, một người mà chúng ta có thể nói là bậc thầy, đạo sư, người làm chủ thực tại. Ông đứng một mình một cõi. Không thể nào thấy được bất cứ người nào trên đời này đã hy sinh quên mình, từ bỏ, chối bỏ mọi sự, chối bỏ hết như là Krishnamurti đã thể hiện trong đời sống ông, tôi không thể nghĩ ra người nào đó có thể hành động hơn Krishnamurti, ngoại trừ đấng Christ. 

Tôi đã giữ lại một tên người, một tên nổi hẳn lên, đối nghịch lại với tất cả những gì ám muội, khả nghi, hỗn tạp; đối nghịch lại tất cả những gì nặng nề sách vở từ chươngj, đối nghịch lại những gì trói buộc thúc phược: đó là tên Krishnamurti. Đây là một con người của thời đại chúng ta, một người mà chúng ta có thể nói là bậc thầy, đạo sư, người làm chủ thực tại. Ông đứng một mình một cõi. Không thể nào thấy được bất cứ người nào trên đời này đã hy sinh quên mình, từ bỏ, chối bỏ mọi sự, chối bỏ hết như là Krishnamurti đã thể hiện trong đời sống ông, tôi không thể nghĩ ra người nào đó có thể hành động hơn Krishnamurti, ngoại trừ đấng Christ. 

Căn nguyên nền tảng tư tưởng Krishnamurti rất là giản dị đến nỗi chúng ta có thể hiểu được lý do tại sao những lời lẽ hành động trực tiếp minh bạch của ông đã bị mọi người hiểu sai và đã gây ra bao nhiêu sự hỗn tạp đáng buồn. Loài người vẫn tầm thường nhưthế, họ luôn luôn chấp nhận một cảnh miễn cưỡng những gì có vẻ dễ hiểu giản dị. Óc ngoan cố ương ngạnh của họ còn thâm hiểm hơn tất cả mưu mẹo lừa đảo của ma quỷ, vì thế, họ đã bỏ quên, không chịu nhận ra những quyền hạn thiên phú có sẵn trong bản thể họ: họ chỉ đòi hỏi được giải thoát hay được cứu rỗi qua một trung gian môi giới nào đó; họ chỉ mãi miết chạy đi tìm kiếm những người hướng dẫn, những kẻ chỉ đường dẫn lối, những vị cố vấn khuyên giải, những kẻ lãnh đạo, lãnh tụ, những hệ thống lập trường, những nghi lễ hình thức tế toái…Họ chỉ thích tìm kiếm những thứ ấy, họ chỉ muốn tìm những sự giải quyết, những đáp số, mà họ không biết rằng tất cả những đáp số đã nằm sẵn trong lòng họ rồi. Họ đặt sự học vấn tri thức lên trên cả sự thông minh tâm hồn; họ đặt quyền thế cường lực lên trên cả tài nghệ biện biệt tế nhị. 

Căn nguyên nền tảng tư tưởng Krishnamurti rất là giản dị đến nỗi chúng ta có thể hiểu được lý do tại sao những lời lẽ hành động trực tiếp minh bạch của ông đã bị mọi người hiểu sai và đã gây ra bao nhiêu sự hỗn tạp đáng buồn. Loài người vẫn tầm thường nhưthế, họ luôn luôn chấp nhận một cảnh miễn cưỡng những gì có vẻ dễ hiểu giản dị. Óc ngoan cố ương ngạnh của họ còn thâm hiểm hơn tất cả mưu mẹo lừa đảo của ma quỷ, vì thế, họ đã bỏ quên, không chịu nhận ra những quyền hạn thiên phú có sẵn trong bản thể họ: họ chỉ đòi hỏi được giải thoát hay được cứu rỗi qua một trung gian môi giới nào đó; họ chỉ mãi miết chạy đi tìm kiếm những người hướng dẫn, những kẻ chỉ đường dẫn lối, những vị cố vấn khuyên giải, những kẻ lãnh đạo, lãnh tụ, những hệ thống lập trường, những nghi lễ hình thức tế toái…Họ chỉ thích tìm kiếm những thứ ấy, họ chỉ muốn tìm những sự giải quyết, những đáp số, mà họ không biết rằng tất cả những đáp số đã nằm sẵn trong lòng họ rồi. Họ đặt sự học vấn tri thức lên trên cả sự thông minh tâm hồn; họ đặt quyền thế cường lực lên trên cả tài nghệ biện biệt tế nhị. 

Căn nguyên nền tảng tư tưởng Krishnamurti rất là giản dị đến nỗi chúng ta có thể hiểu được lý do tại sao những lời lẽ hành động trực tiếp minh bạch của ông đã bị mọi người hiểu sai và đã gây ra bao nhiêu sự hỗn tạp đáng buồn. Loài người vẫn tầm thường nhưthế, họ luôn luôn chấp nhận một cảnh miễn cưỡng những gì có vẻ dễ hiểu giản dị. Óc ngoan cố ương ngạnh của họ còn thâm hiểm hơn tất cả mưu mẹo lừa đảo của ma quỷ, vì thế, họ đã bỏ quên, không chịu nhận ra những quyền hạn thiên phú có sẵn trong bản thể họ: họ chỉ đòi hỏi được giải thoát hay được cứu rỗi qua một trung gian môi giới nào đó; họ chỉ mãi miết chạy đi tìm kiếm những người hướng dẫn, những kẻ chỉ đường dẫn lối, những vị cố vấn khuyên giải, những kẻ lãnh đạo, lãnh tụ, những hệ thống lập trường, những nghi lễ hình thức tế toái…Họ chỉ thích tìm kiếm những thứ ấy, họ chỉ muốn tìm những sự giải quyết, những đáp số, mà họ không biết rằng tất cả những đáp số đã nằm sẵn trong lòng họ rồi. Họ đặt sự học vấn tri thức lên trên cả sự thông minh tâm hồn; họ đặt quyền thế cường lực lên trên cả tài nghệ biện biệt tế nhị. 

Nhưng điều đáng lo ngại nhất và đáng nói trước hết là họ không chịu tự mình giải phóng, giải thoát cho mình; họ không chịu cứu lấy bản thân mà cứ luôn luôn vờ vĩnh bày đặt chuyện cứu vớt thế giơi, thế gian, thế nhân, vân vân. Họ bảo rằng thế giới “thế gian” phải được giải phóng trước đã, rồi mới nói chuyện giải phóng cá nhân. Thế mà biết bao nhiêu lần rồi Krishnamurti đã nhắc nhở rằng vấn đề thế giới chỉ là dính liền mật thiết với vấn đề cá nhân; cá thể và tập thể đều chỉ đồng nhất thể. Chân lý luôn luôn hiện diện, luôn luôn xuất hiện trước mặt chúng ta. Sự vĩnh cửu, bất diệt,thiên thu, vĩnh viễn nằm ngay tại đây, nằm ngay bây giờ, ngay giờ phút hiện tại. Và giải thoát ư ? Ồ, hỡi ngài, ngài muốn giải thoát cái gì? Giải thoát bản ngã nhỏ bé bần tiện của ngài ư? Linh hồn của ngài ư? Diện mục của ngài? Hãy đánh mất nó đi thì ngài sẽ tìm thấy lại mình. Đừng bận tâm lo nghĩ Thượng Đế - Cứ để Thượng Đế tự lo cho Thượng Đế. Hãy tôi luyện những nghi vấn ngờ vực, hãy ôm lấy mọi thứ kinh nghiệm của đời sống hãy tiếp tục thèm muốn khao khát, cố gắng đừng quên cũng đừng nhớ, hãy luôn luôn đón nhận và thể nhập tất cả những gì mình đã được thể nghiệm trong dòng đời tuôn chảy… “ Con người là kẻ tự giải phóng bản thân”. Phải chăng đó là đạo lý tối thượng của đời sống? Biết bao nhiêu bậc hiền nhân trát việt đã nhắc nhở và đã thể hiện bao lần giữa dòng đời. Họ là những bậc đạo sư, những con người đã làm lễ cưới với đời sống, chứ không phải với những nguyên tắc, luật pháp, tín điều, luân lý, tín ngưỡng. “Những bậc đạo sư đúng nghĩa thì chẳng bao giờ bày đặt ra lề luật, hay giới luật, họ chỉ muốn giải phóng con người”, (Krishnamurti).

Nhưng điều đáng lo ngại nhất và đáng nói trước hết là họ không chịu tự mình giải phóng, giải thoát cho mình; họ không chịu cứu lấy bản thân mà cứ luôn luôn vờ vĩnh bày đặt chuyện cứu vớt thế giơi, thế gian, thế nhân, vân vân. Họ bảo rằng thế giới “thế gian” phải được giải phóng trước đã, rồi mới nói chuyện giải phóng cá nhân. Thế mà biết bao nhiêu lần rồi Krishnamurti đã nhắc nhở rằng vấn đề thế giới chỉ là dính liền mật thiết với vấn đề cá nhân; cá thể và tập thể đều chỉ đồng nhất thể. Chân lý luôn luôn hiện diện, luôn luôn xuất hiện trước mặt chúng ta. Sự vĩnh cửu, bất diệt,thiên thu, vĩnh viễn nằm ngay tại đây, nằm ngay bây giờ, ngay giờ phút hiện tại. Và giải thoát ư ? Ồ, hỡi ngài, ngài muốn giải thoát cái gì? Giải thoát bản ngã nhỏ bé bần tiện của ngài ư? Linh hồn của ngài ư? Diện mục của ngài? Hãy đánh mất nó đi thì ngài sẽ tìm thấy lại mình. Đừng bận tâm lo nghĩ Thượng Đế - Cứ để Thượng Đế tự lo cho Thượng Đế. Hãy tôi luyện những nghi vấn ngờ vực, hãy ôm lấy mọi thứ kinh nghiệm của đời sống hãy tiếp tục thèm muốn khao khát, cố gắng đừng quên cũng đừng nhớ, hãy luôn luôn đón nhận và thể nhập tất cả những gì mình đã được thể nghiệm trong dòng đời tuôn chảy… “ Con người là kẻ tự giải phóng bản thân”. Phải chăng đó là đạo lý tối thượng của đời sống? Biết bao nhiêu bậc hiền nhân trát việt đã nhắc nhở và đã thể hiện bao lần giữa dòng đời. Họ là những bậc đạo sư, những con người đã làm lễ cưới với đời sống, chứ không phải với những nguyên tắc, luật pháp, tín điều, luân lý, tín ngưỡng. “Những bậc đạo sư đúng nghĩa thì chẳng bao giờ bày đặt ra lề luật, hay giới luật, họ chỉ muốn giải phóng con người”, (Krishnamurti).

Nhưng điều đáng lo ngại nhất và đáng nói trước hết là họ không chịu tự mình giải phóng, giải thoát cho mình; họ không chịu cứu lấy bản thân mà cứ luôn luôn vờ vĩnh bày đặt chuyện cứu vớt thế giơi, thế gian, thế nhân, vân vân. Họ bảo rằng thế giới “thế gian” phải được giải phóng trước đã, rồi mới nói chuyện giải phóng cá nhân. Thế mà biết bao nhiêu lần rồi Krishnamurti đã nhắc nhở rằng vấn đề thế giới chỉ là dính liền mật thiết với vấn đề cá nhân; cá thể và tập thể đều chỉ đồng nhất thể. Chân lý luôn luôn hiện diện, luôn luôn xuất hiện trước mặt chúng ta. Sự vĩnh cửu, bất diệt,thiên thu, vĩnh viễn nằm ngay tại đây, nằm ngay bây giờ, ngay giờ phút hiện tại. Và giải thoát ư ? Ồ, hỡi ngài, ngài muốn giải thoát cái gì? Giải thoát bản ngã nhỏ bé bần tiện của ngài ư? Linh hồn của ngài ư? Diện mục của ngài? Hãy đánh mất nó đi thì ngài sẽ tìm thấy lại mình. Đừng bận tâm lo nghĩ Thượng Đế - Cứ để Thượng Đế tự lo cho Thượng Đế. Hãy tôi luyện những nghi vấn ngờ vực, hãy ôm lấy mọi thứ kinh nghiệm của đời sống hãy tiếp tục thèm muốn khao khát, cố gắng đừng quên cũng đừng nhớ, hãy luôn luôn đón nhận và thể nhập tất cả những gì mình đã được thể nghiệm trong dòng đời tuôn chảy…

“ Con người là kẻ tự giải phóng bản thân”. Phải chăng đó là đạo lý tối thượng của đời sống? Biết bao nhiêu bậc hiền nhân trát việt đã nhắc nhở và đã thể hiện bao lần giữa dòng đời. Họ là những bậc đạo sư, những con người đã làm lễ cưới với đời sống, chứ không phải với những nguyên tắc, luật pháp, tín điều, luân lý, tín ngưỡng. “Những bậc đạo sư đúng nghĩa thì chẳng bao giờ bày đặt ra lề luật, hay giới luật, họ chỉ muốn giải phóng con người”, (Krishnamurti).

Điều làm nỗi bật Krishnamurti và nói lên sự khác nhau giữa Krishnamurti và những bậc giáo chủ vĩ đại trong lịch sử là sự trần truồng tuyệt đối của tâm hồn ông. Ông chỉ giữ lại cho mình một chỗ đứng độc nhất: một con người, với ý nghĩa giản dị đơn sơ của con người. Mang lấy xác thịt mãnh khảnh của con người, ông nương tựa trọn vẹn vào tâm linh, đồng thời ý thức rằng tâm linh và thể xác chỉ là một, không khác nhau.

Điều làm nỗi bật Krishnamurti và nói lên sự khác nhau giữa Krishnamurti và những bậc giáo chủ vĩ đại trong lịch sử là sự trần truồng tuyệt đối của tâm hồn ông. Ông chỉ giữ lại cho mình một chỗ đứng độc nhất: một con người, với ý nghĩa giản dị đơn sơ của con người. Mang lấy xác thịt mãnh khảnh của con người, ông nương tựa trọn vẹn vào tâm linh, đồng thời ý thức rằng tâm linh và thể xác chỉ là một, không khác nhau.

Điều làm nỗi bật Krishnamurti và nói lên sự khác nhau giữa Krishnamurti và những bậc giáo chủ vĩ đại trong lịch sử là sự trần truồng tuyệt đối của tâm hồn ông. Ông chỉ giữ lại cho mình một chỗ đứng độc nhất: một con người, với ý nghĩa giản dị đơn sơ của con người.

Mang lấy xác thịt mãnh khảnh của con người, ông nương tựa trọn vẹn vào tâm linh, đồng thời ý thức rằng tâm linh và thể xác chỉ là một, không khác nhau.

Ông chỉ giữ lấy một sứ mệnh độc nhất là tước bỏ con người ra ngoài tất cả những huyền tưởng, ảo giác, phá hủy cho sụp đổ tất cả chống nạng giả tạo của những lý tưởng, những tín ngưỡng, ngẫu tượng, phá hủy tất cả mọi hình thức chống đỡ con người, để trả con người trở lại sự tôn nghiêm trọn vẹn, sức mạnh vẹn toàn của nhân tính. Người ta thường gọi ông là “Đấng Đạo Sư của Thế gian”. Nếu có người xứng đáng được gọi danh hiệu như thế thì người ấy chính là Krishnamurti. Đối với tôi, điều quan trọng nhất trong thái độ tâm linh của Krishnamurti là ông không bao giờ muốn chúng ta coi ông như là bậc Đạo sư, như một bậc thầy, mà chỉ muốn là một con người, với tất cả ý nghĩa đơn giản thông thường của hiện thể.

Ông chỉ giữ lấy một sứ mệnh độc nhất là tước bỏ con người ra ngoài tất cả những huyền tưởng, ảo giác, phá hủy cho sụp đổ tất cả chống nạng giả tạo của những lý tưởng, những tín ngưỡng, ngẫu tượng, phá hủy tất cả mọi hình thức chống đỡ con người, để trả con người trở lại sự tôn nghiêm trọn vẹn, sức mạnh vẹn toàn của nhân tính. Người ta thường gọi ông là “Đấng Đạo Sư của Thế gian”. Nếu có người xứng đáng được gọi danh hiệu như thế thì người ấy chính là Krishnamurti. Đối với tôi, điều quan trọng nhất trong thái độ tâm linh của Krishnamurti là ông không bao giờ muốn chúng ta coi ông như là bậc Đạo sư, như một bậc thầy, mà chỉ muốn là một con người, với tất cả ý nghĩa đơn giản thông thường của hiện thể.

Ông chỉ giữ lấy một sứ mệnh độc nhất là tước bỏ con người ra ngoài tất cả những huyền tưởng, ảo giác, phá hủy cho sụp đổ tất cả chống nạng giả tạo của những lý tưởng, những tín ngưỡng, ngẫu tượng, phá hủy tất cả mọi hình thức chống đỡ con người, để trả con người trở lại sự tôn nghiêm trọn vẹn, sức mạnh vẹn toàn của nhân tính. Người ta thường gọi ông là “Đấng Đạo Sư của Thế gian”. Nếu có người xứng đáng được gọi danh hiệu như thế thì người ấy chính là Krishnamurti. Đối với tôi, điều quan trọng nhất trong thái độ tâm linh của Krishnamurti là ông không bao giờ muốn chúng ta coi ông như là bậc Đạo sư, như một bậc thầy, mà chỉ muốn là một con người, với tất cả ý nghĩa đơn giản thông thường của hiện thể.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Triết học Descartes
Cuốn sách này được xem như một toàn thư về Descartes. Cuốn sách là bản in chung 3 trong 1: 2 tác phẩm quan trọng nhất của Descartes được lịch sử triết học đề cao là "Phương pháp luận" và "Những suy niệm siêu hình học" do GS. Trần Thái Đỉnh dịch sang tiếng Việt; và cuốn sách biên khảo "Triết học Descartes". Triết học truyền thống khởi đi từ thế giới và luôn lấy thế giới làm nền, còn triết học Descartes lại khởi sự từ hành vi suy tưởng của con người và luôn lấy đó làm căn cứ. Triết học của Descartes là triết học tinh thần và triết học truyền thống là triết học thiên nhiên. Descartes đả phá tất cả, Hy Lạp và Trung cổ khởi công từ chỗ truy nhận thế giới vĩnh cửu và tuyệt đối chân thật, nay Descartes khởi sự từ chỗ coi thế giới là truyện bày đặt, truyện biến ngôn và ông khởi sự từ hành vi suy tư của con người. Descartes xác định lại 2 lĩnh vực khoa học và triết học, phân ranh rõ rệt giữa những truy tầm khoa học và những suy niệm triết học. Descartes khởi sự triết học từ tư tưởng con người, tức yếu tố tinh thần của con người chứ không xây triết học trên thế giới như triết học truyền thống đã làm. Vì vậy, triết học của Descartes là triết học về con người, nhưng ngạc nhiên là ông không định nghĩa con người là con vật có lý trí. Ông đề cao ý chí (volonté) và tự do hơn. Ông coi ý chí là yếu tố căn bản và cao trọng nhất nơi con người. Có thể nói rằng, con người trong triết Descartes không còn là một vật trong thiên nhiên nữa, nhưng là một tinh thần. Descartes coi con người là một hữu thể siêu việt. Và Descartes là chỗ đứt quãng, phân ranh hai thời đại đi trước và đi sau thành hai nền tư tưởng khác hẳn nhau. Cuốn sách này được xem như một toàn thư về Descartes. Cuốn sách là bản in chung 3 trong 1: 2 tác phẩm quan trọng nhất của Descartes được lịch sử triết học đề cao là "Phương pháp luận" và "Những suy niệm siêu hình học" do GS. Trần Thái Đỉnh dịch sang tiếng Việt; và cuốn sách biên khảo "Triết học Descartes". Triết học truyền thống khởi đi từ thế giới và luôn lấy thế giới làm nền, còn triết học Descartes lại khởi sự từ hành vi suy tưởng của con người và luôn lấy đó làm căn cứ. Triết học của Descartes là triết học tinh thần và triết học truyền thống là triết học thiên nhiên. Descartes đả phá tất cả, Hy Lạp và Trung cổ khởi công từ chỗ truy nhận thế giới vĩnh cửu và tuyệt đối chân thật, nay Descartes khởi sự từ chỗ coi thế giới là truyện bày đặt, truyện biến ngôn và ông khởi sự từ hành vi suy tư của con người. Descartes xác định lại 2 lĩnh vực khoa học và triết học, phân ranh rõ rệt giữa những truy tầm khoa học và những suy niệm triết học. Descartes khởi sự triết học từ tư tưởng con người, tức yếu tố tinh thần của con người chứ không xây triết học trên thế giới như triết học truyền thống đã làm. Vì vậy, triết học của Descartes là triết học về con người, nhưng ngạc nhiên là ông không định nghĩa con người là con vật có lý trí. Ông đề cao ý chí (volonté) và tự do hơn. Ông coi ý chí là yếu tố căn bản và cao trọng nhất nơi con người. Có thể nói rằng, con người trong triết Descartes không còn là một vật trong thiên nhiên nữa, nhưng là một tinh thần. Descartes coi con người là một hữu thể siêu việt. Và Descartes là chỗ đứt quãng, phân ranh hai thời đại đi trước và đi sau thành hai nền tư tưởng khác hẳn nhau.Cuốn sách này được xem như một toàn thư về Descartes. Cuốn sách là bản in chung 3 trong 1: 2 tác phẩm quan trọng nhất của Descartes được lịch sử triết học đề cao là "Phương pháp luận" và "Những suy niệm siêu hình học" do GS. Trần Thái Đỉnh dịch sang tiếng Việt; và cuốn sách biên khảo "Triết học Descartes". Cuốn sách này được xem như một toàn thư về Descartes. Cuốn sách là bản in chung 3 trong 1: 2 tác phẩm quan trọng nhất của Descartes được lịch sử triết học đề cao là "Phương pháp luận" và "Những suy niệm siêu hình học" do GS. Trần Thái Đỉnh dịch sang tiếng Việt; và cuốn sách biên khảo "Triết học Descartes".
Trang Tử - Trí tuệ của tự nhiên
Trang Tử (tiếng Hán: 莊子; ~365–290 trước CN[1]) là một triết gia và tác gia Đạo giáo. Tên thật của ông là Trang Chu (莊周) và tác phẩm của ông sau đều được gọi là Trang Tử. Ông còn có tên là Mông Lại (蒙吏), Mông Trang (蒙莊) hay Mông Tẩu (蒙叟). Ông sống vào thời Chiến Quốc, thời kỳ đỉnh cao của các tư tưởng triết học Trung Hoa với Bách Gia Chư Tử. Trang Tử (tiếng Hán: 莊子; ~365–290 trước CN[1]) là một triết gia và tác gia Đạo giáo. Tên thật của ông là Trang Chu (莊周) và tác phẩm của ông sau đều được gọi là Trang Tử. Ông còn có tên là Mông Lại (蒙吏), Mông Trang (蒙莊) hay Mông Tẩu (蒙叟). Ông sống vào thời Chiến Quốc, thời kỳ đỉnh cao của các tư tưởng triết học Trung Hoa với Bách Gia Chư Tử. Cuốn sách Trang Tử - Trí tuệ của tự nhiên do NXB Đồng Nai ấn hành được xem là tập ngụ ngôn thể hiện một trí tuệ mênh mông và phóng túng mang một màu sắc lãng mạn xa vời có ảnh hưởng lớn đến triết học, văn học đời sau. Cuốn sách Trang Tử - Trí tuệ của tự nhiên do NXB Đồng Nai ấn hành được xem là tập ngụ ngôn thể hiện một trí tuệ mênh mông và phóng túng mang một màu sắc lãng mạn xa vời có ảnh hưởng lớn đến triết học, văn học đời sau.Cuốn sách gồm 33 chương. Mời các bạn cùng tham khảo.Mục Lục : 1. Tiêu dao du 2. Tề vật luận 3. Dưỡng sinh chủ 4. Nhân gian thế 5. Đức sung phù 6. Đại Tông Sư 7. Ứng Đế Vương 8. Biển mẫu 9. Mã đề 10. Tề khiếp 11. Tại hựu 12. Thiên địa 13. Thiên đạo 14. Thiên vận 15. Khắc ý 16. Thiên tính 17. Thu thủy 18. Chí lạc 19. Đạt sinh ..... 28. Nhượng Vương 29. Đạo chích 30. Thuyết kiếm 31. Ngư phụ 32. Liệt ngự khấu 33. Thiện địa Mục Lục :1. Tiêu dao du2. Tề vật luận3. Dưỡng sinh chủ4. Nhân gian thế5. Đức sung phù6. Đại Tông Sư7. Ứng Đế Vương8. Biển mẫu9. Mã đề10. Tề khiếp11. Tại hựu12. Thiên địa13. Thiên đạo14. Thiên vận15. Khắc ý16. Thiên tính17. Thu thủy18. Chí lạc19. Đạt sinh.....28. Nhượng Vương29. Đạo chích30. Thuyết kiếm31. Ngư phụ32. Liệt ngự khấu33. Thiện địa
Bên kia Thiện Ác - Friedrich Nietzsche
Thiện ác:Ngày nay sự phát triển con người không thể tách rời việc quan tâm sâu sắc, toàn diện đến văn hóa của nó. Vấn đề quan trọng là làm thế nào con người có được hiểu biết, có ý thức và đời sống văn hóa thực sự cao, sâu sắc cho quá trình này. Hi vọng việc tìm hiểu tác phẩm nổi tiếng của F. Nietzsche Bên kia thiện ác, sẽ đem lại cho người đọc một trong những câu trả lời quan trọng và thuyết phục. Bởi vì, đối với F. Nietzsche, văn hóa có nghĩa là giá trị, mà những giá trị cao quý chỉ có thể được sáng tạo bởi triết học.
Đường Vào Hiện Sinh - Krishnamurti
Đường Vào Hiện Sinh Đường Vào Hiện SinhTác giả: Jiddu Krishnamurti Tác giả: Jiddu KrishnamurtiNhà xuất bản: Lao Động Nhà xuất bản: Lao ĐộngNgười dịch: Thích Thiện Sáng (Thanh Lương) Người dịch: Thích Thiện Sáng (Thanh Lương)Người đọc: Tuấn Anh, Kiều Hạnh Người đọc: Tuấn Anh, Kiều Hạnh Jiddu Krishnamruti sinh năm 1895 tại Ấn Độ, ở độ tuổi 13 được Hội Thông Thiên Học nhận về và xem ông là phương tiện truyền bá chân lý cho bậc "đạo sư của thế giới" mà sự sắp xuất hiện của ngài đã luôn được họ công bố. Krishnamurti nhanh chóng nổi bật là một bậc đạo sư có quyền lực, không thoả hiệp và không thể xếp loại, vì những cuộc nói chuyện và tác phẩm của ông không hề có liên kết gì với bất kỳ tôn giáo cá biệt nào và cũng không thuộc về Đông phương hay Tây phương mà là cho toàn thể thế giới. Kiên quyết chối từ hình ảnh cứu thế, năm 1929 ông đột ngột giải tán tổ chức lớn lao có nhiều tiền bạc được tạo dựng xung quanh ông và tuyên bố chân lý là một "lãnh địa không có đường vào" mà không một tôn giáo, triết học hay tông phái chính thức nào có thể tiếp cận đến được. Jiddu Krishnamruti sinh năm 1895 tại Ấn Độ, ở độ tuổi 13 được Hội Thông Thiên Học nhận về và xem ông là phương tiện truyền bá chân lý cho bậc "đạo sư của thế giới" mà sự sắp xuất hiện của ngài đã luôn được họ công bố. Krishnamurti nhanh chóng nổi bật là một bậc đạo sư có quyền lực, không thoả hiệp và không thể xếp loại, vì những cuộc nói chuyện và tác phẩm của ông không hề có liên kết gì với bất kỳ tôn giáo cá biệt nào và cũng không thuộc về Đông phương hay Tây phương mà là cho toàn thể thế giới. Kiên quyết chối từ hình ảnh cứu thế, năm 1929 ông đột ngột giải tán tổ chức lớn lao có nhiều tiền bạc được tạo dựng xung quanh ông và tuyên bố chân lý là một "lãnh địa không có đường vào" mà không một tôn giáo, triết học hay tông phái chính thức nào có thể tiếp cận đến được.Trọn phần còn lại của đời minh, Krishnamurti khăng khăng nhất mực bác bỏ địa vị đạo sư mà người ta đã cố gán cho ông. Ông vẫn tiếp tục thu hút thính giả đông đảo khắp thế giới nhưng không hề đòi hỏi quyền lực nào, không hề muốn có đệ tử, và luôn luôn nói chuyện như là một cá nhân với một cá nhân. Cốt lõi giáo lý của ông là sự nhận thức rõ ràng rằng những cuộc thay đổi nền tảng trong xã hội có thể được phát sinh chỉ bởi một sự chuyển hoá thức tâm cá nhân. Sự cần thiết phải có sự tự tri và tự thấu hiểu chính mình những ảnh hưởng có tính giới hạn, chia rẽ của những quy định tôn giáo và quốc gia không ngừng được nhấn mạnh. Trọn phần còn lại của đời minh, Krishnamurti khăng khăng nhất mực bác bỏ địa vị đạo sư mà người ta đã cố gán cho ông. Ông vẫn tiếp tục thu hút thính giả đông đảo khắp thế giới nhưng không hề đòi hỏi quyền lực nào, không hề muốn có đệ tử, và luôn luôn nói chuyện như là một cá nhân với một cá nhân. Cốt lõi giáo lý của ông là sự nhận thức rõ ràng rằng những cuộc thay đổi nền tảng trong xã hội có thể được phát sinh chỉ bởi một sự chuyển hoá thức tâm cá nhân. Sự cần thiết phải có sự tự tri và tự thấu hiểu chính mình những ảnh hưởng có tính giới hạn, chia rẽ của những quy định tôn giáo và quốc gia không ngừng được nhấn mạnh.Krishnamurti đã luôn luôn vạch ra cho thấy sự mở rộng tâm hồn, vì "khoảng không bao la trong trí não đó sẽ có thứ năng lực không thể tưởng được". Điều này dường như đã là suối nguồn cảm hứng sáng tạo của riêng ông và là chìa khoá cho ảnh hưởng của ông đối với một công chúng rộng lớn đa dạng như thế. Krishnamurti đã luôn luôn vạch ra cho thấy sự mở rộng tâm hồn, vì "khoảng không bao la trong trí não đó sẽ có thứ năng lực không thể tưởng được". Điều này dường như đã là suối nguồn cảm hứng sáng tạo của riêng ông và là chìa khoá cho ảnh hưởng của ông đối với một công chúng rộng lớn đa dạng như thế.Krishamurti tiếp tục nói chuyện khắp nơi trên thế giới cho đến khi ông mất năm 1986 ở tuổi 90. Những cuộc nói chuyện và đàm thoại, những bài viết, nhật ký và thư từ của ông đã được lưu trữ giữ gìn trong 60 quyển sách và hàng trăm băng đĩa. Quyển sách này được kết tập từ khối lượng giáo lý đồ sộ đó, đặc biệt thích hợp và khẩn thiết cho cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Krishamurti tiếp tục nói chuyện khắp nơi trên thế giới cho đến khi ông mất năm 1986 ở tuổi 90. Những cuộc nói chuyện và đàm thoại, những bài viết, nhật ký và thư từ của ông đã được lưu trữ giữ gìn trong 60 quyển sách và hàng trăm băng đĩa. Quyển sách này được kết tập từ khối lượng giáo lý đồ sộ đó, đặc biệt thích hợp và khẩn thiết cho cuộc sống hằng ngày của chúng ta.Đến với ĐƯỜNG VÀO HIỆN SINH, ta sẽ cảm nhận một trạng thái ngây ngất xuất thần khi đọc nó, dù chỉ trong một giây phút ngắn ngủi cũng sẽ mở ra cho ta một chân trời bao la chưa tùng có, mà trước đó ta chưa từng được tận hưởng khi sống trong thế giới hiện tại. Đến với ĐƯỜNG VÀO HIỆN SINH, ta sẽ cảm nhận một trạng thái ngây ngất xuất thần khi đọc nó, dù chỉ trong một giây phút ngắn ngủi cũng sẽ mở ra cho ta một chân trời bao la chưa tùng có, mà trước đó ta chưa từng được tận hưởng khi sống trong thế giới hiện tại.