Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Ngã Rẽ Nghề Nghiệp

Không lâu trước đây, bằng đại học được coi là tấm vé để đảm bảo cho chúng ta tìm được công việc ổn định ngay sau khi ra trường, tiếp đó là một sự nghiệp thành công. Những mối lo âu của các bậc phụ huynh và sinh viên chủ yếu bị hạn chế bởi những vấn đề khác như: làm thế nào để được nhận vào trường, tìm cách trả học phí, chọn đúng ngành học, v.v.. Hiếm khi sinh viên quan tâm đến việc môi trường đại học có thể không cung cấp cho họ kiến thức và kỹ năng cần thiết để sống sót trong thế giới công sở. Tấm bằng đại học là yếu tố để những nhà tuyển dụng lao động dễ dàng nhận biết tiềm năng và kỷ luật của ứng viên - những tín hiệu mà sức mạnh của nó tỷ lệ thuận với danh tiếng của ngôi trường được ghi trên bản tóm tắt lý lịch. Tuy nhiên, ngày nay có rất nhiều tạp âm xuất hiện làm nhiễu tín hiệu đó. Việc ngày càng có nhiều sinh viên tốt nghiệp với tấm bằng cử nhân khiến các nhà tuyển dụng ngày càng ít tin tưởng rằng đây là kim chỉ nam cho sự sẵn sàng làm việc. Kết quả là một sinh viên năm cuối đại học không còn có định hướng sự nghiệp rõ ràng như những thế hệ trước kia. Rất dễ để đổ lỗi cho sự phục hồi kinh tế không mấy sáng sủa trên thế giới trong những năm qua khiến cho sinh viên phải cạnh tranh khốc liệt để tìm được một công việc ưng ý. Tuy nhiên, hoàn cảnh của những người trẻ ngày nay không bị hạn chế bởi một thời điểm duy nhất của chu kỳ kinh tế, mà đó là kết quả của sự chuyển đổi dài hạn trong lực lượng lao động toàn cầu, điều đang gây ra ảnh hưởng to lớn đối với những thanh niên ở độ tuổi 20 còn thiếu kinh nghiệm làm việc. Thời gian gần đây, tình trạng thất nghiệp của thế hệ trẻ đã tăng lên mức độ chưa từng có trong bốn thập kỷ qua, với tỷ lệ đáng báo động 9% trong lực lượng sinh viên mới tốt nghiệp đại học dưới 25 tuổi. Với những sinh viên tìm được việc, mức lương trung bình với tấm bằng cử nhân đã giảm 10% trong những năm đầu của thế kỷ này. Đáng lo ngại hơn cả là việc gần một nửa số sinh viên tốt nghiệp đại học không tìm được công việc xứng đáng, có nghĩa là những công việc của họ thường không yêu cầu bằng cử nhân. “Giờ đây, việc có được tấm bằng đại học mang lại ít cơ hội kiếm được những công việc quản lý hoặc liên quan đến công nghệ với mức lương cao, nhưng lại mang đến nhiều cơ hội đánh bại những người lao động có học vấn thấp khi xin các công việc như pha chế, hành chính văn phòng.” là kết luận từ một báo cáo của ba nhà kinh tế học nổi tiếng năm 2014. Nghiên cứu đó cũng chỉ ra rằng nhu cầu tuyển dụng những lao động có học thức ở tầm đại học đã giảm dần vì cuộc cách mạng công nghệ ngày càng hoàn thiện. Nói cách khác, hiện tượng những sinh viên tốt nghiệp đại học làm việc ở Starbucks, nhà hàng hay quán bia giờ không phải hiếm nữa. Và điều đó cho thấy rằng tình trạng này có thể là một sự bình thường mới: một tấm bằng đại học là cần thiết để tìm được bất kỳ công việc nào, chứ không chỉ là một công việc lương cao và đòi hỏi kỹ năng nhiều nữa. Vào năm 2013, không lâu sau khi tôi xuất bản cuốn sách viết về tương lai của giáo dục bậc cao có tên là College (Un) bound (tạm dịch: Đại học (không) hạn chế), tôi đã gặp nhiều sinh viên mới tốt nghiệp và đang bỡ ngỡ với sự nghiệp của mình. Khi tôi đi đến các nơi để nói chuyện về viễn cảnh đại học trong tương lai, không ít sinh viên đã kể cho tôi nghe về việc họ đã chuyển từ chương trình thực tập này sang chương trình thực tập khác mà không tìm được công việc toàn thời gian như thế nào. Những bậc phụ huynh hỏi tôi rằng con cái họ – những người đã tốt nghiệp đại học mà không tìm được một công việc toàn thời gian – đã làm gì sai. Những chuyên viên tư vấn giáo dục phân vân rằng liệu họ nên đưa cho sinh viên của mình những lời khuyên gì về việc học đại học. Ai cũng muốn biết liệu có con đường nào khác dẫn đến một cuộc sống thành công hay không, ngoài con đường mà hầu hết các thanh thiếu niên được gợi ý: Tốt nghiệp trung học, đi học đại học và tìm một công việc. Nếu trường đại học đang trải qua vô số thay đổi lớn lao, vậy thế hệ trẻ có thể đi theo những con đường mới nào để chuẩn bị cho sự nghiệp và tìm được những công việc quan trọng đầu tiên trong cuộc đời? Trong cuốn sách bạn đang cầm trên tay, tôi đã thực hiện một hành trình đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi này. Người trẻ phải làm gì để định vị con đường từ trung học đến đại học và bước vào nền kinh tế ngày càng nhiều nguy cơ? Họ cần có những kinh nghiệm nào để thành công trong thị trường lao động? Những kỹ năng nào được chứng tỏ là hữu ích nhất? Và quan trọng nhất: Tại sao có những người thành công trong khi người khác khác lại không? Để tìm kiếm câu trả lời, tôi đã tham gia một chuyến đi bằng tàu hỏa với 24 sinh viên mới tốt nghiệp đại học, những người đã tự đặt ra cho mình những câu hỏi như vậy. Mặt trời giữa tháng 8 đang lặn dần khi chuyến tàu Amtrak’s Capitol Limited bắt đầu khởi hành từ ga Chicago’s Union. Trong vòng vài phút, chuyến tàu hướng về phía Đông đã đi qua hầu hết những kho xưởng được rào kín của Gary, Indiana. Ở phía sau con tàu, tại toa ăn với mái vòm bằng kính kiểu thập niên 1950 kêu lọc xọc, tôi đang ngồi cùng một nhóm sinh viên mới tốt nghiệp đại học, chìm đắm trong khung cảnh hoàng hôn cuối ngày. “Đây là trụ sở của Tổng công ty Thép Mỹ! Nhà máy thép lớn nhất thế giới trước đây.” Ai đó ở cuối khoang hô to. Một vài hành khách ngước lên nhìn di tích còn lại từ thế hệ ông bà họ, những người đã làm việc khi nền kinh tế Mỹ chủ yếu dựa vào các nhà máy và khi con đường sự nghiệp vẫn còn đơn giản: tốt nghiệp trung học hoặc đại học; tìm được một công việc với những cơ hội thăng tiến, các chương trình đào tạo và chế độ lương hưu; làm việc trong 30 năm và nghỉ hưu. Nhóm sinh viên mà tôi đi cùng, hầu hết sinh ra vào cuối những năm 1980, là một phần của lực lượng lao động phức tạp và phân tán hơn với nhiều con đường chồng chéo lên nhau. Trong khi ông bà và thậm chí là cha mẹ họ sở hữu những tấm bản đồ với các cột mốc rõ ràng cho con đường sự nghiệp của mình, thì thế hệ này lại đối mặt với đại dương vô định khi phải tự vẽ hải đồ cho hơn 30 năm tiếp theo trong cuộc đời mình. Đây là ngày thứ tám của dự án Millennial Trains Project (Những chuyến tàu của thanh niên thế kỷ XXI), một chuyến đi bằng tàu hỏa xuyên đất nước cho 24 thanh niên ở độ tuổi ngoài 20, mỗi người sẽ phải thuyết trình một dự án thực tế và khả thi trong hành trình từ San Francisco đến Washington D.C. Tại những điểm dừng chân vào ban ngày trong suốt chặng đường - Denver, Omaha, Chicago, họ tiến hành các nghiên cứu tại cộng đồng địa phương. Vào ban đêm, họ sẽ tham gia những buổi trò chuyện cùng các diễn giả khách mời. Hãy nghĩ về nó như một tuần học đại học đầy căng thẳng, hầu như không ngủ nhưng rất thú vị của một nhóm người trẻ đang cố gắng tìm hiểu xem họ muốn sống cuộc sống như thế nào. Khi màn đêm dần buông trên những nông trại vùng Indiana và bữa tối được bày ra, Cameron Hardesty và Jessica Straus đi qua chỗ tôi ngồi để vào trong khoang tàu chật hẹp. Đôi bạn 26 tuổi, thích kể chuyện phiếm này nói với tôi rằng họ đã tốt nghiệp từ năm 2007 với ngành ngôn ngữ Anh của Cao đẳng Davidson, ngôi trường giáo dục đại cương được đánh giá cao nằm ở phía Bắc thành phố Charlotte, bang Bắc Carolina. Davidson là một ngôi trường nhỏ tự lấy làm kiêu hãnh vì có thể cung cấp cho sinh viên kỹ năng đại cương, nhưng đó không phải là nơi đào tạo những kỹ năng chuyên môn. Ví dụ, bạn không thể học chuyên sâu về lĩnh vực quản lý thể thao, vật lý trị liệu hay thiết kế trò chơi điện tử ở Davidson. Tôi đã hỏi Cameron và Jessica xem họ nghĩ gì về những trải nghiệm trước khi tốt nghiệp của mình. “Nơi đó không hề trang bị cho tôi hành trang vào đời,” Jessica nói có phần bất mãn. Mặc dù có những kỷ niệm đáng nhớ với Davidson vì cô ấy có cơ hội theo đuổi mơ ước của mình – học tập tại Cambridge, làm việc trong một triển lãm nghệ thuật ở Barcelona, nhưng Jessica nói rằng những khóa học không khuyến khích cô chuyển đổi những điều học được thành những kỹ năng mà nhà tuyển dụng tìm kiếm bây giờ. “’Ở Davidson ‘‘chỉ cần khám phá’ là đủ,” cô ấy nói. Dĩ nhiên, sự khám phá từng là bản chất của môi trường đại học: cung cấp thông tin cho thanh niên trước ngưỡng cửa trưởng thành. Tuy nhiên ngày nay, với chi phí học đại học lên tới 240.000 đô-la cho bốn năm học tại một ngôi trường như Davidson, những sinh viên (và phụ huynh) thực sự đang tìm kiếm một bộ kỹ năng chuyên môn giúp họ tìm được công việc sau khi tốt nghiệp. Họ vẫn muốn tiếp nhận chương trình giáo dục đại cương (tư duy phê phán, kỹ năng viết, kỹ năng giao tiếp và lập luận phân tích…), miễn là những điều đó không đến từ bên ngoài trường học, kinh nghiệm thực hành, những chương trình thực tập cụ thể. Sự khám phá trong trường đại học bây giờ chỉ như một phần trong toàn bộ những trải nghiệm, và phần đó đang thu hẹp lại. Một vài tháng, thậm chí là vài tuần sau khi bắt đầu đến trường, những sinh viên mới sẽ chọn một hoặc hai chuyên ngành, thêm một ngành phụ, và bắt đầu đăng ký các chương trình thực tập để tìm được công việc tốt nhất sau khi tốt nghiệp. Tôi lên chuyến tàu của Capitol Limited để diễn thuyết về tương lai của giáo dục bậc cao. Bây giờ đã gần đến nửa đêm, và hai người ngồi cùng ghế với tôi dường như đã lấy lại năng lượng và sự hào hứng sau một khoảng thời gian mệt mỏi. Họ nhận ra họ đang ngồi cùng một nhóm người tương đối có đặc quyền. Họ được ngồi trên chuyến tàu này vì mỗi người đã gây được quỹ 5.000 đô-la – vốn được coi như một yêu cầu bắt buộc của quy trình đăng ký đầy cạnh tranh. Giống như Cameron và Jessica, nhiều người trong số họ đã tốt nghiệp từ những trường đại học xuất sắc. Họ thông minh và tham vọng, và đó là điều khiến tôi lo lắng: Nếu ngay cả những sinh viên mới tốt nghiệp này cũng phải vật lộn thì những người không có nền tảng tốt thì sao? Cuộc đối thoại của chúng tôi chuyển sang chủ đề giá trị của tấm bằng cử nhân trong thời kỳ mà tất cả những người họ biết đều có. Cameron và Jessica kể cho tôi về người bạn đang làm công việc tay trái là trợ lý cao cấp tại thành phố New York. “Bằng đại học bây giờ đang phổ biến như bằng tốt nghiệp trung học,” Cameron đánh giá. Cô ấy là một phần của thế hệ đi theo con đường mà họ được khuyên là “dẫn đến công việc và sự nghiệp vững chắc”. Họ vượt qua tất cả những thử thách cần thiết: thể hiện xuất sắc trong lớp dự bị đại học ở trường trung học, đạt được điểm cao trong kỳ thi SAT, và quan trọng nhất: chiến thắng sự may rủi của kỳ thi tuyển để được vào ngôi trường mong muốn. Sau khi được vào đó, họ tiếp tục đánh bóng lý lịch cá nhân bằng những điều mà họ cho rằng là điểm sáng đúng đắn: bằng kép, nhiều chương trình thực tập và một loạt các hoạt động ngoại khóa. Tuy nhiên, họ cũng là thế hệ được nuôi dưỡng bởi các bậc phụ huynh luôn quan tâm sâu sắc đến những sự việc và trải nghiệm của con mình, những người lên lịch trình đến từng phút cho mọi khoảng thời gian rảnh của con. Rồi họ bước vào trường đại học với một đội ngũ chuyên gia tư vấn về mọi mặt, từ việc chọn những lớp học giúp họ tốt nghiệp đúng kỳ cho đến việc thương lượng các vấn đề với bạn cùng phòng. Chẳng có gì ngạc nhiên khi các nhà tuyển dụng phàn nàn rằng những sinh viên mới tốt nghiệp gần đây không có khả năng tự đưa ra quyết định trong công việc. Với rất nhiều người ở độ tuổi 20, cuộc đời khi đó giống như một ván cờ, mục đích là họ sẽ nhanh chóng kết thúc trò chơi và chơi được càng nhiều ván càng tốt. Tất nhiên, chỉ có một số ít giải thưởng lớn sẵn có. Hầu hết những người ở độ tuổi 201 không tìm được công việc mơ ước sau khi tốt nghiệp. Nhiều người vẫn đang trong tình trạng lênh đênh và gặp phải những trở ngại trong quá trình chuyển tiếp sự nghiệp. Mới chỉ ba ngày trước, khi chuyến tàu dừng chân tại Denver, Jessica được biết rằng mình vừa bị sa thải khỏi một công ty khởi nghiệp ở New York. Cô ấy mới làm việc ở đó được bảy tháng. Giờ đây, cô ấy lại là một thành phần trong bản thống kê “Những thanh niên thất nghiệp ở độ tuổi 20”. 1 Lưu ý: trong sách tác giả thường đề cập đến những người ở độ tuổi 20, ý chỉ những người trong khoảng 20-29 tuổi. Tôi bắt đầu viết cuốn sách này vào một đêm tháng 8, khi đi từ Chicago đến Pittsburgh. Suốt những tháng tiếp theo, khi tìm kiếm dữ liệu cho cuốn sách, tôi phát hiện ra rằng nhiều sinh viên mới tốt nghiệp đại học đang lướt qua tuổi 20 mà không có một kế hoạch nào trong tay. 1/4 số người ở độ tuổi 20 đang làm một công việc không lương đơn giản chỉ để thể hiện rằng họ có kinh nghiệm làm việc, và chỉ 1/10 số người coi công việc hiện tại là sự nghiệp của mình. Những sinh viên mới tốt nghiệp gần đây đang bắt đầu sự nghiệp của họ muộn hơn và trì hoãn những dấu mốc truyền thống của tuổi trưởng thành: hoàn thành chương trình học, rời khỏi gia đình, kết hôn và sinh con. Kết quả khảo sát được tiến hành đối với 750 thanh niên chỉ ra rằng 2/3 trong số họ không lập tức bắt đầu bất kỳ chương trình giáo dục sau trung học nào. Đối mặt với tình trạng thất nghiệp hoặc làm những công việc tạm thời với mức lương thấp trong nền kinh tế mà những công việc tạm thời ngày càng phổ biến và các công ty có xu hướng tuyển dụng những lao động tự do ngắn hạn, nhiều người trẻ trở về nhà sau thời gian học đại học, sống trong tầng hầm ngôi nhà của cha mẹ, chấp nhận bị gọi là “thế hệ boomerang2”. 2 Tên gọi dành cho thế hệ trẻ ở các nước phương Tây, những người quay trở lại sống cùng cha mẹ họ sau một khoảng thời gian sống tự lập – như những chiếc boomerang được ném đi sẽ trở lại nơi bắt đầu. Nếu bạn là một phụ huynh đang chờ đợi con mình tốt nghiệp đại học để không phải hỗ trợ tài chính cho chúng nữa, thì hãy suy nghĩ lại. Có thể bạn đã lớn lên trong những năm 1970 và 1980, khi những sinh viên tốt nghiệp đại học thường sẽ đạt được sự độc lập về tài chính khi bước sang tuổi 26. Ngày nay, những sinh viên tốt nghiệp đại học thường không chạm được đến dấu mốc đó cho đến sinh nhật tuổi 30. Thế hệ thanh thiếu niên ngày nay gặp phải nhiều rào cản trên con đường hoàn thiện cuộc sống sau khi tốt nghiệp trung học và đại học, và hơn lúc nào hết, họ cần phải quản lý tiến trình dẫn đến sự nghiệp của mình. Cuốn sách này sẽ giúp bạn có một khởi đầu đúng đắn trên hành trình đó. Tuy nhiên cuốn sách này không đưa ra một con đường hay một vài vành đai cho những thanh niên ở độ tuổi 20. Cuốn sách viết về cách chúng ta thay đổi suy nghĩ về cuộc sống sau đại học, về hành trình dẫn đến một sự nghiệp thành công – một hành trình không theo đường thẳng, nhưng mang tính cá nhân và độc nhất. Trong những chương tiếp sau đây, tôi sẽ miêu tả một chuỗi những phương thức tiếp cận để theo dõi và các chương trình để khám phá những điều sẽ giúp bạn đứng vững trên đôi chân của mình sau khi tốt nghiệp đại học. Số liệu thống kê việc làm của những sinh viên mới tốt nghiệp thực sự đáng lo ngại (thậm chí là đáng sợ), nhưng tôi sẽ phác thảo trong chương 1 chặng đường của tuổi trưởng thành và một sự nghiệp kéo dài đến vài thập kỷ. Ngày nay, 1/3 số trẻ em được sinh ra có thể đón sinh nhật lần thứ 100 của mình. Điều đó cho thấy chúng ta ngày càng sống lâu hơn và làm việc dài hơn. Hãy tưởng tượng tiến trình trong cuộc đời của bạn, với thời điểm sinh ra ở phía bên trái và thời điểm qua đời ở phía bên phải: những dấu mốc sự nghiệp của chúng ta chuyển dần sang bên phải – chúng ta bắt đầu muộn hơn và kết thúc muộn hơn. Sự dịch chuyển đó cho phép những người trẻ tuổi kéo dài khoảng thời gian thanh thiếu niên và tuổi 20 để khám phá những sự lựa chọn cho sự nghiệp và đầu tư vào bản thân để chuẩn bị tốt hơn cho công việc. Có một xu hướng khá rõ ràng rằng thời kỳ tìm việc và sự nghiệp đang kéo dài hơn, nhưng thật đáng buồn là hệ thống giáo dục của thế kỷ XX lại không đồng bộ với nền kinh tế của thế kỷ XXI, vốn đòi hỏi những lao động có nhiều kiến thức và sự linh hoạt. Trong tương lai, chúng ta sẽ không còn bắt đầu chương trình giáo dục đại học ở tuổi 18 và kết thúc ở tuổi 22 nữa. Thay vào đó, đại học sẽ là nền tảng khởi đầu cho quá trình học tập trọn đời mà chúng ta sẽ thực hiện khi cần học hỏi và đào tạo thêm để thăng tiến trong công việc hoặc thay đổi sự nghiệp. Các chương trình giáo dục sẽ thiên về hướng “đúng lúc” hơn là “chỉ một lần”. Và nó sẽ được cung cấp theo nhiều hình thức hơn – những trường đại học truyền thống như ngày nay, cũng như những đơn vị giáo dục cung cấp các khóa học ngắn hạn và dài hạn. Việc được nhận vào một trường đại học hàng đầu rồi gia nhập thị trường lao động không còn là đủ nữa. Bạn có một vài thời điểm để phát hiện ra điều này, nhưng để định vị những con đường mới và đường nhánh trên đó, bạn cần một kế hoạch để kết nối tài năng và hứng thú của bản thân. Để giúp bạn lập ra kế hoạch đó, trọng tâm của cuốn sách là một hướng dẫn, được cấu trúc xoay quanh những dấu mốc từ tuổi thanh thiếu niên cho đến tuổi trưởng thành: con đường đến đại học, trải nghiệm trong trường đại học, và dĩ nhiên, những năm đầu tiên quan trọng sau khi tốt nghiệp. Cuốn sách liệt kê những kỹ năng mà các nhà tuyển dụng ngày nay đang tìm kiếm và mô tả biết bao nhiêu thanh thiếu niên vẫn còn đang nghỉ ngơi giữa sự chuyển tiếp vội vàng từ giai đoạn trung học sang đại học. Cuốn sách khám phá lý do vì sao vị trí của ngôi trường đại học mà bạn theo học lại ảnh hưởng nhiều đến việc tích lũy những trải nghiệm thực tế mà bạn cần để tìm được công việc phù hợp sau khi tốt nghiệp. Cuốn sách cũng mô tả việc bắt đầu cuộc sống sau đại học và hỗ trợ sinh viên với những kỹ năng cần thiết cho công việc. Phần cuối cùng của cuốn sách sẽ phác thảo tương lai của nghề nghiệp, các công ty sẽ tuyển dụng như thế nào, và làm sao để những sinh viên tương lai có thể chuyển đổi kinh nghiệm và kỹ năng của họ thành một câu chuyện liền mạch về sự thành công một cách tốt hơn. Khi đang bắt đầu phần báo cáo của cuốn sách này, tôi đọc được một nghiên cứu từ Đại học Oxford, nói rằng trong tương lai, gần một nửa số công việc ở Mỹ có nguy cơ bị thay thế bởi sự tự động hóa và trí thông minh nhân tạo. Tất nhiên, lịch sử cho thấy những dự đoán đó có phần được cường điệu hóa. Câu chuyện của thế kỷ XX là xu thế tự động hóa gia tăng và những công việc tốt hơn được trả lương cao hơn. Hai nhà kinh tế học của Harvard là Claudia Goldin và Lawrence Katz phát hiện ra rằng trong cuộc đua trường kỳ giữa hai lĩnh vực giáo dục và công nghệ, công nghệ luôn giành chiến thắng. Tuy nhiên lần này, sự việc dường như đã khác. Những người trẻ tuổi đang làm mọi điều theo định hướng của cha mẹ và các chuyên gia tư vấn, và họ vẫn thất bại khi tìm những công việc phù hợp với mình. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều thanh niên ở độ tuổi 20 đang thành công trong việc lập bản đồ của riêng mình để định vị thế giới khó lường ngày nay theo một cách rất khác so với thế hệ của chúng tôi hai thập kỷ trước. Tôi hy vọng rằng cuốn sách này sẽ giúp các bạn xua tan nỗi lo lắng về cuộc sống sau đại học. Mời các bạn đón đọc Những Ngã Rẽ Nghề Nghiệp của tác giả Jeffrey J. Selingo.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Điều Kỳ Diệu Của Thái Độ Sống - Mac Anderson
Sách Nói Điều Kỳ Diệu Của Thái Độ Sống   Con người sinh ra đều mang những đặc điểm gần giống nhau. Tuy nhiên, mỗi người lại tự “trang bị” cho mình một thái độ sống khác nhau, chính điều này đã tạo nên sự khác biệt lớn trong xã hội.           Theo nghiên cứu của một số nhà tâm lý - xã hội học thì những người được xem là thành đạt và hạnh phúc, tuy có hoàn cảnh, cách nhìn nhận về cuộc sống khác nhau, nhưng lại có một điểm cơ bản rất giống nhau đó là: họ luôn suy nghĩ theo hướng tích cực. Đã có nhiều trải nghiệm cho thấy thái độ sống tích cực là yếu tố vô cùng quan trọng đối với cuộc sống và công việc của chúng ta. Nhưng làm thế nào để luôn duy trì một thái độ “đúng” là điều không dễ thực hiện.           Tuy vậy, điều đó không có nghĩa là chúng ta không thể học cách tạo cho mình một thái độ tích cực. Cuốn sách Điều Kỳ Diệu Của Thái Độ Sống được Mac Anderson viết ra với mong muốn giúp người đọc xây dựng và hướng đến một cuộc sống đầy lạc quan và hạnh phúc.  Thông qua những câu chuyện thực tế sinh động, những phân tích tâm lý sâu sắc, dễ hiểu, tác giả chuyển tải đến bạn đọc những thông điệp về sống đẹp, sống có ý nghĩa. Nhờ đó bạn sẽ học cách duy trì thái độ sống nhiệt tình, giảm căng thẳng trong công việc và cuộc sống, hiểu được giá trị bản thân và vững vàng mỗi khi gặp khó khăn trên đường đời. Thái độ sống tích cực còn giữ cho tâm hồn bạn luôn tươi trẻ, giúp bạn thể hiện lòng nhân ái và được mọi người quý mến hơn. Sống tích cực không phải là điều khó nhưng không phải ai cũng làm được. Hy vọng rằng quyển sách nhỏ này sẽ giúp bạn xây dựng được cuộc sống mà bạn hằng mơ ước, cũng như giúp những người yêu thương xung quanh bạn thay đổi cuộc đời.   *** “Dù bạn đã chọn cho mình con đường nào đi chăng nữa, hãy đi suốt con đường ấy bằng tất cả lòng đam mê và nhiệt huyết của mình”. Đam mê và nhiệt huyết “Chỉ có lòng đam mê và nhiệt huyết mới có thể làm nên những điều kỳ diệu” - Ralph Waldo Emerson Sau khi làm xong thủ tục nhận phòng khách sạn cho tôi, Sam – một nhân viên tiếp tân, giúp tôi mang hành lý lên phòng. Anh vừa cười vừa bắt chuyện: - Hôm nay trời thật đẹp phải không ông? - Ồ! Quả thật là như vậy! – Tôi gật đầu đáp. - Suốt tuần rồi, tôi ở nhà chơi với mấy đứa cháu. Trông chúng dễ thương lắm ông ạ! – Sam tiếp tục. - Tôi cũng yêu trẻ con lắm. – Tôi cảm thấy thích thú với câu chuyện của Sam nên hỏi thêm: - San ạ! Trông anh vui vẻ thế, chắc là anh vừa có mấy ngày nghỉ đáng nhớ nhỉ? Sam nhìn tôi, nở một nụ cười rồi đáp: - Với tôi, mọi ngày trên đời này đều tuyệt vời ông Anderson ạ! Sau khi cám ơn Sam về sự phục vụ tận tình của anh, tôi khép cửa phòng lại mà trong lòng trào dâng một cảm xúc thật khó tả. Niềm vui, sự yêu đời của người phục vụ vô tình đã truyền cho tôi cảm giác hạnh phúc bất ngờ này. Có lẽ tôi phải cảm ơn anh rất nhiều mới phải, vì lâu rồi tôi mới gặp được một người luôn tin yêu cuộc sống đến thế, và quan trọng hơn là anh đã truyền cho tôi cảm xúc hạnh phúc đó. Trong cách ứng xử với mọi người hằng ngày, bạn có toàn quyền lựa chọn thái độ sống cho mình: hoặc là mang bộ dạng ủ rũ làm ai cũng phát chán, hoặc vui vẻ nhiệt tình khiến mọi người phấn chấn theo. Tất cả đều phụ thuộc vào bạn mà thôi! “Cuộc đời thật kỳ diệu. Nếu chúng ta biết đợi chờ điều tốt nhất, điều đó ắt sẽ đến.” - W. Somerset Maughin Mời các bạn đón đọc Điều Kỳ Diệu Của Thái Độ Sống của tác giả Mac Anderson.
Sống Đời Đáng Sống - David Guy Powers
Bạn đọc đã có trên tay cuốn Sống Đời Đáng Sống của David Guy Powers do Nguyễn Hiến Lê lược dịch. Khi đọc cuốn sách này, xin các bạn lưu ý các vấn đề sau đây: 1. Đây là cuốn sách dịch nên ta không thể hiểu ý nghĩa của “đời sống mới” theo phong trào hiện nay của ta. Nội dung sách chủ yếu đề cập đến những vấn đề luyện trí óc và tình cảm để làm sao mọi người quí mến, giúp đỡ mình, ngược lại mình cũng phải có trách nhiệm quí mến, giúp đỡ họ, tạo mối dây thông cảm, tôn trọng, xây dựng cuộc sống phong phú hơn, tốt đẹp hơn, tránh những trở ngại, tiêu cực trong tư tưởng và lối sống. 2. Là vấn đề tâm lý nên việc luyện tập là quan trọng. Tuy nhiên kết quả chưa thể thấy ngay mà phải trải qua quá trình tự rèn luyện kiên trì, lâu dài trên cơ sở có ý chí và niềm tin. Để thấu đạt ý nghĩa và nội dung sách, đòi hỏi người đọc có một tư duy và nhận thức sâu, tranh nóng vội, hiểu lệch, hiểu sai vấn đề. 3. Do đặc điểm trên, cuốn sách có ý nghĩa tham khảo là chính, còn việc thực hành lại tùy thuộc khả năng mọi người. Được sự đồng ý của người có trách nhiệm về bản quyền, chúng tôi tái bản cuốn sách trên có sửa chữa, để bạn đọc tìm hiểu thêm vấn đề tâm lý trong việc xây dựng một đời sống phong phú hơn. Chắc chắn nội dung sách còn nhiều khiếm khuyết, rất mong bạn đọc lượng thứ và chân tình góp ý xây dựng sách. *** Mấy năm trước tôi lại Forest Hills và sống trong ngôi nhà cũ của bà Helen Keller. Tôi thường ngồi trước lò sưởi của bà mà ôn lại dĩ vãng của bà. Trong phòng đó bà đã tập đọc bằng tay, tập nghe bằng ngũ quan và tập viết bằng tim. Đã đui lại điếc và câm mà bà học làm được rất nhiều việc. Có lần tôi leo lên phòng trên thượng lương được bố trí làm phòng ngủ, ở đó ngó ra cái vũng mà sau này người ta đã lấp để xây dựng ngôi nhà của Liên hiệp quốc. Tôi đã khó nhọc leo lên những bậc thang và tưởng tượng bà đã phải rờ rẫm ra sao mỗi khi lên lầu đi ngủ. Và khi nghĩ đến hình ảnh một người được trời ban cho ít thế mà phân phát tình yêu cho đời được nhiều thế, tôi thường thấy trong lòng phấn khởi. Tôi lấy làm lạ khi phòng có rất nhiều cửa sổ. Ba bức tường thì có tới tám cái cửa sổ. Nhìn ra chung quanh, thấy sự mênh mông thăm thẳm của vũ trụ. Vậy mà đối với bà chỉ là tối đen như mực. Nhưng ánh sáng trong lòng bà phải rực rỡ thế nào, bà mới có thể sống cao đẹp như vậy mặc dầu trong cảnh tối tăm dày đặc. “Đời sống mới” chan hòa trong tâm hồn bà, đã dẫn dắt bà suốt đời. Bà nói: “Đời tôi thu hẹp trong một thế giới không màu sắc, không thanh âm. Nhưng ngay từ hồi còn là một sinh viên, tôi đã vui vẻ tin chắc rằng những cơ quan trên cơ thể tôi không đóng một vai trò quan trọng trong đời sống vì nó không thuộc về phần tinh thần của tôi. Lòng tin đó càng mạnh lên khi tôi đọc câu: Tôi suy nghĩ, vậy là có tôi của Descartes. Câu văn mạnh mẽ đó đã đánh thức một cái gì đó trong thâm tâm tôi cho tới suốt đời. Lúc đó tôi hiểu rằng tinh thần có thể tạo nên hạnh phúc cho tôi, bắt cầu cho tôi qua được cái hư vô tối tăm và yên lặng mà cảm thấy hạnh phúc chói lọi, nồng nhiệt. Tôi hiểu rằng chúng ta có thể tạo được ánh sáng, thanh âm và sự bình ổn trong nội tâm mặc dầu gặp tai nạn lớn lao đến đâu ở ngoại giới”. Bạn thấy đấy, một người đui và điếc mà còn tạo ra được đời sống mới mẻ và phong phú hơn, huống hồ là chúng ta. Phép mầu xảy ra thường ngày ở trên đời. Có những người tiến từ tối tăm tới danh vọng, từ nghèo khổ đến giàu có, từ tuyệt vọng đến đạt nguyện, từ thất bại đến thành công. Cái bùa gì làm được những phép thần đó? Đây, bùa đó như vầy: Những kẻ đó đã bắt được hình ảnh của đời sống mới. Bắt được hình ảnh đó rồi bạn sẽ muốn thấy sống lại, thấy sự hăng hái làm cho sinh lực bạn đổi mới, làm cho hy vọng biến thành dự định rồi dự định biến thành sự thực. Chính hình ảnh đó là cái hy vọng mà Horace đã ca trong bài ca Vita Nova. Nó đã gợi cho loài người tư tưởng về tôn giáo và cảm hứng về nghệ thuật. Nó sẽ làm cho bạn tái sinh nếu bạn biết bắt lấy nó. Khi tôi đem ý đó nói với William Zorach, nhà điêu khắc Mỹ trứ danh, ông đã cảm hứng mà tạo được bức tượng nổi tiếng, bức Vita Nova. Về sau ông bảo tôi: “Ý tưởng đời sống mới ám ảnh tôi hoài cho tới khi tôi khắc được nó lên cẩm thạch. Nó đã đổi mới đời tôi”. Cái năng lực sáng tạo chứa trong tư tưởng đời sống mới mạnh mẽ đến độ ta không ngờ. Cái mà mới lúc nãy đây ta cho là không làm được, mà bây giờ ta thấy là chẳng những làm được mà là điều tự nhiên nữa. Bạn thấy như mọc cánh. Tư tưởng này gợi tư tưởng khác, kế hoạch này tạo kế hoạch khác, và rút cục một lối nên sống thành ra lối phải sống. Một khả năng sáng tác cháy bùng lên và giải thoát những khả năng khác. Y như là leo lần lần lên ngọn núi trọc mà nhìn xuống một thung lũng phì nhiêu. Con đường leo núi đó là con đường đưa tới hạnh phúc của nhân loại. Xin bạn thử nhìn chung quanh xem. Ai là những người sung sướng nào? Chính là những kẻ xây dựng được một thế giới tin tưởng. Tin ở vận mệnh của mình. Tin ở lòng tốt của người. Tin ở mục đích của đời người. Tin ở lòng vị tha. Họ là những người làm việc và khuyến khích những người chung quanh làm nên việc. Họ là những người mà ta mến và tìm tới mỗi khi cần được an ủi. Họ là những người có tinh thần bình thản, sung sướng. Vì chúng ta cần tin để mà sống và càng tin thì đời ta càng phong phú. Hiểu như vậy mà sao ta không thực hiện được sức mạnh làm cho đời ta thêm sinh khí đó? Theo tôi chỉ tại ta có xu hướng muốn ngó về dĩ vãng, để nó phá hủy hiện tại và tương lai của ta. Không có lầm lỡ nào nặng bằng ráng đội trên đầu cái bao nặng của quá khứ và bi kịch của loài người là cứ đòi cho được cái quá khứ khi mà chúng ta chỉ có thể có cái hiện tại. ... Mời các bạn đón đọc Sống Đời Đáng Sống của tác giả David Guy Powers.
Tốc Độ của Niềm Tin - Stephen R. Covey
Bằng một văn phong dễ đọc và lôi cuốn, Stephen M.R. Covey đã mở toang cánh cửa sức mạnh của niềm tin lâu nay bị xem nhẹ và đánh giá thấp bằng những trang sách đề cập đến cái mà ông gọi là "một điều làm thay đổi tất cả". Là một cuốn sách khai phá và làm thay đổi nhận thức, Tốc độ của Niềm tin thách thức giả định lâu nay của chúng ta cho rằng niềm tin chỉ là một đức hạnh xã hội mềm yếu, dễ vỡ và thay vào đó chứng minh rằng niềm tin là một động lực kinh tế, có sức mạnh vật chất - một kỹ năng có thể học hỏi và đo lường được qua đó giúp các công ty làm ra nhiều lợi nhuận hơn, con người dễ thăng tiến hơn và các mối quan hệ trở nên gắn bó hơn. Từ những kinh nghiệm của một cựu CEO của một công ty 100 triệu đô la, Covey đã mô tả một cách sống động kinh nghiệm thực tế của ông trong việc phát triển Trung tâm Lãnh đạo Covey (do cha ông, Tiến sĩ Stephen R. Covey sáng lập) từ một công ty cổ phần với vốn ban đầu không đến 3 triệu đô la tăng lên hơn 160 triệu đô la. Trong cuốn sách mới đầy sức cuốn hút này, Stephen M. R. Covey khắc họa vì sao niềm tin trở thành tiêu chuẩn năng lực lãnh đạo chủ yếu trong nền kinh tế mới toàn cầu. Ông nói cho độc giả biết một cách đầy thuyết phục làm cách nào xây dựng niềm tin lâu dài trong các mối quan hệ cá nhân và quan hệ công việc, từ đó đạt được sự thành công không gì sánh kịp và sự thịnh vượng bền vững trong mọi mặt của cuộc sống. Ông giúp các nhà lãnh đạo thuộc các lĩnh vực kinh doanh, giáo dục, chính phủ... thấy rõ bằng cách nào chiếm được nhanh chóng và bền vững niềm tin của khách hàng, của đồng nghiệp, đối tác hay các cử tri. Covey đưa ra luận điểm rất thuyết phục rằng niềm tin là bộ tăng tốc cho kết quả hoạt động và rằng khi niềm tin tăng lên, tốc độ đạt được kết quả sẽ tăng theo, trong khi chi phí giảm xuống và tạo ra cái mà Covey gọi là "cổ tức niềm tin". Covey nêu ra 13 hành vi phổ biến của các nhà lãnh đạo có độ tin cậy cao trên thế giới và chứng minh đầy sức thuyết phục những ý tưởng có thể vận dụng để giúp bạn thay đổi hành vi của bản thân nhằm tăng cường - và truyền cảm hứng - xây dựng niềm tin trong các mối quan hệ quan trọng trong cuộc sống của bạn. Như những sóng gợn trong hồ nước, Tốc độ của Niềm tin bắt đầu từ bên trong mỗi con người chúng ta, rồi lan sang các mối quan hệ của chúng ta, các tổ chức nơi chúng ta hoạt động, các mối quan hệ trên thương trường và cuối cùng tỏa ra khắp nơi trên thế giới. Covey trình bày bản đồ hành trình để xây dựng niềm tin ở mọi cấp độ, xây dựng tính cách và năng lực, nâng cao mức độ tin cậy và thiết lập sự lãnh đạo truyền cảm hứng cho mọi người. *** Làm sao khi "con hát, cha khen hay" mà vẫn được tin cậy - đặc biệt khi nói đến một cuốn sách về Niềm tin? Trước tiên, mời bạn xem xét điều này. Sau khi trao cho Stephen, con trai tôi, vai trò CEO của Covey Leadership Center, chỉ trong vòng 3 năm, doanh số của công ty chúng tôi đã tăng gần gấp đôi và lợi nhuận tăng hơn 1.200%. Cũng trong thời gian đó công ty đã mở thêm nhiều chi nhánh tại 40 quốc gia trên thế giới và tăng giá trị vốn cổ phần từ 2,4 triệu đô la lên 160 triệu đô la vào thời điểm Stephen chủ trương hợp nhất Covey Leadership Center với Franklin Quest để lập ra FranklinCovey của chúng tôi ngày nay. Nhờ đâu mà chúng tôi đạt được thành tích này? Tất cả chỉ gói gọn trong một từ duy nhất - Niềm tin. Mọi người tin tưởng vào tính cách và năng lực của Stephen cũng như Stephen đã đặt niềm tin của mình vào mọi người. Sự tin cậy lẫn nhau đó đã tạo ra sự cộng hưởng mạnh mẽ đem lại thành tích nói trên. Và, hầu hết mọi người có liên quan đến quá trình này đều công nhận rằng sự chuyển hóa đó là một trải nghiệm đẳng cấp cao nhất, thú vị nhất và cảm hứng nhất trong sự nghiệp của họ. Tôi xin được mở ngoặc nơi đây để nói rằng, Stephen chính là chú nhóc 7 tuổi từng thực hành nguyên tắc "xanh và sạch" mà tôi đã đề cập trong cuốn sách "The 7 Habits of Highly Effective People" ("7 Thói Quen Để Thành Đạt"). Bạn, cũng như tôi, tất nhiên muốn biết câu chuyện tiếp theo của Stephen trong cuốn sách này. Tôi từng nhìn thấy trước những thành tích xuất sắc của Stephen qua việc cháu học cách giữ gìn sân vườn nhà chúng tôi luôn "xanh và sạch". Trên thực tế, điều này đã được minh chứng qua cách Stephen chuyển hóa công ty bằng việc tiến hành hàng loạt các hoạt động cải tổ phương pháp lãnh đạo, công tác huấn luyện - đào tạo - tư vấn và nhiều việc khác cùng với việc cho ra đời cuốn sách này. Ba lý do vì sao tôi đánh giá cao quyển sách này Có ba lý do khiến tôi tin rằng cuốn sách sẽ trở thành một tác phẩm kinh điển. Thứ nhất, nó mổ xẻ tận gốc rễ của vấn đề. Thứ hai, nó sâu sắc, thực tế và toàn diện. Thứ ba, nó mang lại nguồn hy vọng lớn cho bạn đọc. Tôi sẽ phân tích rõ hơn từng ý này dưới đây. Trước hết, cuốn sách đi thẳng vào gốc rễ của vấn đề. Theo Henry David Thoreau, "trong khi một ngàn người lao vào giải quyết phần ngọn của vấn đề thì chỉ có một người nhắm vào gốc rễ của nó". Chúng ta dễ dàng nhìn thấy tầm quan trọng của việc giải quyết vấn đề từ gốc trong mọi mặt của cuộc sống - chẳng hạn trong việc chữa bệnh (xử lý phần ngọn) và phòng bệnh (xử lý phần gốc), hay tập trung vào các biện pháp ngăn ngừa tội phạm (gốc) thay vì thực thi pháp luật (ngọn), hạn chế phương tiện di chuyển cá nhân để tránh ùn tắc giao thông (ngọn) thay vì quy hoạch và xây dựng tốt hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ về mọi mặt (gốc)... Qua quyển sách này, các bạn sẽ nhận thức được tầm quan trọng của việc giải quyết vấn đề tận gốc trong lĩnh vực kinh doanh: thay vì chỉ tuân thủ các nguyên tắc và quy trình sẵn có, chúng ta cần chú trọng tối ưu hóa hoạt động bằng cách phát huy tính cách đạo đức con người, xây dựng động cơ làm việc trong sáng và năng lực vượt trội nhằm đạt được những thành tích xuất sắc và bền vững. Điều này có vẻ phi lý nhưng từ những trải nghiệm của bản thân ở nhiều quốc gia trên khắp thế giới, thì việc thi hành đạo luật Sarbanes- Oxley(1) năm 2002 (hay những biện pháp tương tự) nhằm ngăn chặn những vụ bê bối lớn về tài chính ở các tập đoàn kinh tế lại khiến mọi người xem nhẹ những yếu tố tinh thần như niềm tin vì đã sai lầm gán cho nó tính chất trừu tượng và vai trò thứ yếu trong đời sống doanh nghiệp. Các giám đốc tài chính và kiểm toán viên đã nắm lấy vai trò quyền lực của những chuyên viên phát triển nguồn nhân lực và quản lý nhân sự có đầu óc chiến lược. Trong khi đó, vấn đề đạo đức nổi lên thành một trong những vấn đề nóng bỏng nhất của thời đại ngày nay - đã có vô số buổi thảo luận về đạo đức, kể cả những đề xuất đưa đạo đức vào chương trình giảng dạy trong nhà trường, xây dựng các chương trình rèn luyện về đạo đức và cả việc thiết lập các chuẩn mực đạo đức. Cuốn sách này đã chỉ cho thấy mặc dù đạo đức là yếu tố căn bản và cần thiết nhưng hoàn toàn chưa đủ. Và cái gọi là yếu tố tinh thần thực ra lại rất cụ thể, có thể đo lường được, và có tác động đến tất cả mọi phương diện của các mối quan hệ, tổ chức, thị trường và xã hội. Thắng lợi trong thương trường giúp cho doanh nghiệp đạt được những thành tựu về tài chính, và những thắng lợi như vậy chỉ có được khi doanh nghiệp thành công trong việc áp dụng một chính sách đối nhân xử thế thích hợp trong nội bộ, mà tinh thần xuyên suốt của chính sách đó không gì khác hơn là niềm tin. Kể cả những tác phẩm mà tôi đã viết cũng như các tài liệu tôi đã từng đọc về niềm tin cũng khó có thể sánh được với tác phẩm này. Quyển sách không chỉ bàn đến hành vi đạo đức trong lãnh đạo hay việc tuân thủ, thực thi thuần túy các nguyên tắc đạo đức sẵn có, mà nó còn khai thác đến tâm tư, nguyện vọng thật sự của mỗi cá nhân và khả năng thu phục nhân tâm. Dù bạn định nghĩa niềm tin là sự tin cậy lẫn nhau, là lòng trung thành hay hành vi đạo đức, hoặc giả bạn đánh giá nó trên phương diện kết quả của sự giao quyền, tinh thần đồng đội và sự đồng tâm hiệp lực trong công việc, thì niềm tin vẫn luôn là yếu tố căn bản quyết định mọi ảnh hưởng của chúng ta với mọi người. Khi đọc cuốn sách này, bạn sẽ có cách nhìn của một nhà sinh thái xã hội và hiểu được các mối quan hệ đa dạng, và ảnh hưởng của niềm tin lên những mối quan hệ đó. Nó giúp chúng ta có một cái nhìn bao quát và từ bỏ lối sống xem nhẹ niềm tin để xây dựng một nền văn hóa của sự tin cậy. Thứ hai, cuốn sách đưa ra một mô hình niềm tin theo chiều sâu, thiết thực và toàn diện. Nó giúp chúng ta thấu hiểu năm tác động của niềm tin. Cũng giống như tác động của một hòn sỏi khi được ném lên mặt nước, ảnh hưởng của niềm tin lan tỏa từ bản thân nó đến các mối quan hệ với mọi người xung quanh, đến các cổ đông và đến toàn xã hội. Thông qua những minh họa thực tế và đầy tính thuyết phục, chúng ta thấy được khả năng ứng dụng rộng rãi của những nguyên lý này trong đời sống cá nhân hay trong quan hệ giữa hai bên, trong gia đình, doanh nghiệp, trường học, bệnh viện, cơ quan nhà nước, đơn vị quân đội, hay tổ chức "phi lợi nhuận". Thứ ba, cuốn sách này mang lại niềm hy vọng cho mỗi chúng ta. Khi lần lượt đọc qua các chương, bạn sẽ bắt đầu cảm thấy lạc quan và có cảm hứng rằng dù trong bất kỳ hoàn cảnh thiếu vắng niềm tin nào, bạn vẫn có thể đóng vai trò một tác nhân tích cực trong việc xây dựng hay khôi phục niềm tin và củng cố các mối quan hệ, và nỗ lực đó sẽ nhanh chóng mang lại hiệu quả. Khi được Stephen chia sẻ những kinh nghiệm của bản thân hay của nhiều người khác trong nỗ lực cứu vãn những tình huống trì trệ gây tác hại và tổn thất cho doanh nghiệp, bạn sẽ tự tin rằng mình cũng có khả năng làm được. Niềm tin - Yếu tố then chốt trong nền kinh tế toàn cầu Bước vào thực tại toàn cầu hóa với tính tương thuộc ngày càng rõ rệt, niềm tin trong các quan hệ giao dịch càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Kinh nghiệm giao dịch của tôi với các nhà lãnh đạo doanh nghiệp trên khắp thế giới đã chứng minh rằng "tốc độ tiếp cận thị trường" đang trở thành một thứ vũ khí cạnh tranh tối thượng. Sự thiếu niềm tin bất kể do hành vi thiếu đạo đức hay hợp đạo đức nhưng không thích hợp với hoàn cảnh đều gây ra nhiều trở ngại. Thiếu niềm tin thường đưa đến những tổn thất lớn nhất trong cuộc sống, trong tổ chức và cả trong đời sống gia đình thông qua những mưu đồ xấu, mâu thuẫn nội bộ, xung đột cá nhân, tình trạng đối kháng giữa các phòng ban, tư tưởng thắng - thua, giao tiếp đối phó - tất cả đều là những yếu tố làm giảm tác dụng thúc đẩy của niềm tin. Ngoài ra, thiếu niềm tin còn làm trì trệ mọi tiến trình - từ việc ra quyết định, giao tiếp, cho đến việc xây dựng những mối quan hệ. Niềm tin chính là hiệu quả. Hiệu quả thuyết phục khách hàng trung thành với một thương hiệu, và cũng chính hiệu quả xây dựng sự tự tin vào thành công của doanh nghiệp. Hiệu quả phục vụ lợi ích cho khách hàng không chỉ khiến khách hàng tiếp tục gia tăng đơn hàng với bạn, mà còn giới thiệu thương hiệu của công ty bạn đến nhiều khách hàng tiềm năng khác. Như vậy khách hàng của bạn lại trở thành đội ngũ tiếp thị và phát triển kinh doanh hữu hiệu nhất cho doanh nghiệp của bạn. Hiệu quả ổn định sẽ làm cho các nhà cung cấp an tâm trở thành đối tác chiến lược vốn đang là vấn đề thiết yếu trong nền kinh tế toàn cầu vốn dựa trên cơ sở tri thức kết hợp với nguồn nhân lực. Niềm tin cũng giống như tầng nước sâu chuyên cung cấp nước cho các mạch nước ngầm. Trong kinh doanh cũng như trong cuộc sống, những mạch nước ngầm này thường được gọi bằng các tên như sự đổi mới, tinh thần đồng đội, sự hợp tác, trao quyền, hệ thống quản lý 6-Sigma, và nhiều khái niệm khác của lý thuyết quản trị chất lượng toàn diện, sự trung thành với thương hiệu, hay nhiều sáng kiến chiến lược khác. Những mạch nước ngầm này nuôi dưỡng các con sông và dòng suối của quan hệ tương tác giữa con người, trong kinh doanh thương mại hay việc ký kết các giao ước. Chúng tạo nên chất lượng cuộc sống bền vững đối với tất cả các mối quan hệ, bao gồm quan hệ gia đình, quan hệ giữa các bộ phận trong tổ chức, quan hệ thường ngày với nhà cung cấp và khách hàng - thực ra, đó là mọi nỗ lực để có sự cống hiến bền vững. Một quyển sách đáng đọc Cuốn sách đề cập đến một chủ đề mang tính thời sự trong "thế giới phẳng" mới mẻ mà chúng ta đang sống, được đúc kết không chỉ từ những trải nghiệm cá nhân mà còn dựa trên những công trình nghiên cứu thực nghiệm chứng minh vì sao tác dụng thúc đẩy của niềm tin lại được xem như một trong những chỉ số đo lường quan trọng trong các bài toán chiến lược của tổ chức cũng như các mối quan hệ cá nhân. Điều làm cho cuốn sách này có sức mạnh, thiết thực và đáng tin cậy là khả năng đo lường niềm tin của nó. Tôi cảm thấy tự hào và thán phục khi nhìn thấy Stephen khai thác vấn đề sâu hơn tôi nghĩ và bổ sung nhiều kiến thức quan trọng. Tôi tin rằng Stephen đã vươn đến một đỉnh cao mới, với tư cách vừa là nhà kiểu mẫu/thực hành vừa là một người dẫn đầu tư duy nghiêm túc và tài năng. Hy vọng các bạn sẽ thu được nhiều lợi ích thiết thực khi đọc cuốn sách này. Tiến sĩ Stephen R. Covey Mời các bạn đón đọc Tốc Độ của Niềm Tin của tác giả Stephen R. Covey.
Nghệ thuật săn việc 2.0 - Jay Conrad Levinson
Bạn có biết vì sao Jay Conrad Levinson và David E. Perry dùng từ du kích trong tất cả tựa sách và trong các buổi trò chuyện của họ không? Đó là vì người du kích biết theo đuổi những mục tiêu thông thường theo những cách khác thường. Các du kích, cũng như độc giả thành công của tạp chí SUCCESS, luôn có cách nhìn thực tế hơn so với những người có khuynh hướng thực hiện ước mơ bằng cách làm theo hướng dẫn trong sách vở. Trước đây, các du kích không có những lợi thế cạnh tranh như bây giờ. Khi tìm việc, nếu bạn làm theo sách vở có nghĩa là bạn đang bước trên con đường đi đến thảm họa và thất vọng, ngoại trừ trường hợp bạn làm theo những nguyên tắc và hướng dẫn được nêu ra trong cuốn sách này, bởi đây là cuốn sách bổ ích, có khả năng giúp bạn tìm thấy những cách thức hiệu quả nhằm đạt được mục tiêu. Ngoài ra, cuốn sách còn dẫn dắt bạn đến một thế giới chứa đựng biết bao điều bí ẩn đối với những người tìm việc thông thường – một thế giới tôn vinh những người du kích. Có thể nói, trong thế giới cạnh tranh gay gắt, du kích chính là Vua. Phải mất nhiều thời gian và công sức mới có thể trở thành một du kích thực thụ. Và cuốn sách này sẽ tiết lộ cho bạn những bí quyết để đạt mục tiêu này. Mong muốn trở thành du kích là một chuyện, nhưng việc trở thành một du kích thật sự đòi hỏi bạn phải nắm vững rất nhiều chi tiết. Vậy bạn phải học những chi tiết đó ở đâu? Câu trả lời nằm ở những trang sách tiếp theo. Bạn cần biết rằng trên thị trường lao động đã diễn ra những đổi thay rất mạnh mẽ chỉ trong vòng một thập niên qua. Thời buổi hiện nay không giống như thời của bố mẹ bạn. Đây là thời của bạn. Nhưng cơ hội chỉ thuộc về bạn, nếu bạn hiểu biết về phương thức hành động theo lối du kích. Bạn sẽ có được những đặc tính vô giá, nếu bạn biết vận dụng những kiến thức đó cũng như nhận thức được hiện thực đang diễn ra quanh mình. Cuốn sách này sẽ giúp bạn mở cánh cửa đến những công việc mơ ước, đồng thời giúp bạn đạt được ước mơ đó. Với nhiều người, tìm được công việc mình thật sự yêu thích gần như là “nhiệm vụ bất khả thi”. Nhưng du kích là những người xuất sắc về thuật biến cái không thể thành có thể, bởi những hiểu biết về thị trường tuyển dụng giúp họ làm được điều đó. Ánh sáng sẽ bừng lên từng trang sách. Tư duy sẽ thay đổi. Cuộc sống sẽ thay đổi. Ánh sáng sẽ soi rọi con đường. Có thật mọi việc sẽ xảy ra như thế với chỉ một cuốn sách? Đúng vậy, nhưng đó mới chỉ là sự khởi đầu. Nếu bạn không phải là du kích săn việc, chúng tôi chúc bạn thành công. Nhưng nếu bạn thật sự đã là một du kích, bạn chắc chắn thành công. Bạn đã sẵn sàng để xây dựng một cuộc sống có mục đích và tận hưởng những năm tháng thành công chưa? Hãy bắt đầu từ hôm nay! *** Dưới sức ép của dịch vụ thuê ngoài, sa thải nhân sự, di chuyển nhà máy ra nước ngoài, thu hẹp phạm vi hoạt động và nguy cơ phá sản, nước Mỹ đang trải qua thời kỳ chuyển đổi mạnh mẽ trong hoạt động kinh doanh. Đó là kết quả của sự phát triển công nghệ thông tin và truyền thông, cũng như sự thay đổi giá trị con người và xu thế phát triển của nền kinh tế toàn cầu dựa trên tri thức. Mức độ phức tạp và tinh vi về kỹ thuật trong kinh doanh đã biến đổi hoàn toàn thị trường việc làm. Hoạt động kinh doanh hiện nay ngày càng dựa trên kiến thức và sự chuyên sâu về công nghệ. Hàng năm có khoảng 20 đến 40 triệu người Mỹ thay đổi việc làm. Trong thời kỳ suy thoái kinh tế, cuộc cạnh tranh để duy trì việc làm lại càng trở nên gay gắt hơn. Nhiều người vẫn luẩn quẩn với những công việc không có cơ hội thăng tiến, bởi vì họ không biết tìm cơ hội phát triển hoặc tự giới thiệu những giá trị của họ đến nhà tuyển dụng. Để thành công trong thị trường việc làm mới hiện nay, bạn phải có một kế hoạch rõ ràng và chi tiết với các tiêu chí sau: Khôn khéo Có mục tiêu Tiếp thị có định hướng Không tốn nhiều chi phí Mang tính thực tế Khả thi Không một cơ quan chính phủ, tổ chức giáo dục hay chuyên gia tư vấn nào có trong tay quả cầu thủy tinh để đoán biết trước tương lai, đơn giản là vì có quá nhiều yếu tố còn chưa được khám phá về ngành nghề hay nhu cầu nhân lực. Song ở đây có một điều chắc chắn rằng nếu bạn là một người săn việc thì bạn đang đứng ở ngã rẽ quan trọng trên con đường sự nghiệp của mình, cho dù bạn săn việc vì đang thất nghiệp hay muốn chuyển sang công việc yêu thích hơn. ... Mời các bạn đón đọc Nghệ thuật săn việc 2.0 của tác giả Jay Conrad Levinson.