Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyện Người Tùy Nữ - Margaret Atwood

“Sự Cám dỗ của Chuyên chế” là tên một cuốn sách của Jean-François Revel (1924-2006) tôi mượn đặt cho bài viết này bởi câu chuyện kỳ dị cay đắng và bóp nghẹt lồng ngực của Chuyện người tùy nữ có lẽ trước hết cảnh cáo ta về một tiềm năng mang tính dị truyền lịch sử của một thứ nhu cầu, ham muốn, và khả năng đáp ứng nhu cầu ấy nơi con người, cái hoàn toàn có thể diễn đạt như là sự cám dỗ của chuyên chế. Cám dỗ chuyên chế lớn đến độ người ta thấy nó thấp thoáng đằng sau mỗi chân lý hay lẽ phải mà lịch sử từng biết đến. Ở đây, đó là nền chính trị thần quyền của một “Nước Cộng hòa Gilead” - cái tên có lẽ là một kiểu chơi chữ: Cộng hòa do Chúa dẫn dắt. Khái niệm này bản thân nó là một trong những sản phẩm sáng tạo nhất của trí tưởng tượng: một nền cộng hòa trong khi chờ Chúa trở lại. Đối với bất cứ ai chỉ cần một chút quan tâm đến thời sự thì đơn giản đó đã là một mẫu hình có trong thực tế, và tính sáng tạo kỳ quái của nó, tính tưởng tượng phi thường của nó, lại phải nhờ đến văn học làm môi trường phát lộ - như trong cuốn tiểu thuyết này. Chuyện người tùy nữ tuy nhiên lại không đi con đường phân tích có tính chất sử thi các hiện tượng, các sự kiện và biến cố ở tầm mức ta quen hình dung về cái gọi là Lịch sử; việc này có đối chứng ở phần cuối của cuốn tiểu thuyết, không đánh số trang, như một phụ lục hay một vĩ thanh độc đáo dưới tiêu đề “Chú dẫn lịch sử về chuyện người tùy nữ”. Toàn bộ câu chuyện chính tập trung vào thể hiện cái trải nghiệm của nhân vật người Tùy nữ, chính là người đã kể câu chuyện này. Và đây là một tác phẩm hiếm hoi cho ta thấy một trải nghiệm cá nhân có thể được mô tả thích hợp, trọn vẹn, sâu sắc và triệt để như thế nào. Trước hết đó là một thực nghiệm gắt gao: tước bỏ những điểm chuẩn quen thuộc luôn dựng lên gợi lên cái nhìn từ bên ngoài hay là một hình thức cái nhìn bên ngoài về một con người: tên tuổi, những đặc điểm nhân thân và những chuỗi liên hệ xoay quanh, đi và đến từ những đặc điểm ấy. Nhưng nói cho đúng thì đó không phải là sự tước bỏ, mà, giống như một ngọn đèn không cần tự soi sáng cái đui của nó, nhân vật người Tùy nữ kể chuyện đã đặt ta vào một quan hệ nội tiếp với ý thức của chị ta, vào bên trong cái nhìn của người kể chuyện, bên trong đôi mắt căng thẳng, lo âu, kìm nén và sắc sảo luôn bị chặn giữa “hai cái cánh” khi đi ra ngoài “để chúng tôi không thấy được, nhưng cũng không bị thấy” (tr.17), cũng là đôi mắt luôn luôn nhìn thấy những mảnh vỡ của quá khứ chính mình, những mảnh vỡ của đời sống, và của Lịch sử… Sự tước bỏ ấy, hay là sự đặt ta vào bên trong cái ý thức cá nhân, cụ thể đặc thù mà vẫn vô danh ấy, lạ thay lại làm nổi bật lên, sắc nét một cách khó có thể sắc nét hơn, chính cái con người cá nhân đó. Ngay từ những câu kể đầu tiên, người kể đã lôi chúng ta vào một con sông lười của dòng chảy tâm lý nhân vật, cái dòng ý thức của chị ta; nhưng chỉ đến vậy thôi: chúng ta không buộc phải lặn ngụp, chúng ta ngồi trên những chiếc phao để nghe con sông kể về chính nó như một thứ giáo cụ trực quan. Và người Tùy nữ không quên thỉnh thoảng lại nhắc nhở chúng ta về tình trạng đó. Chị ta sẽ bảo: “Tôi những muốn tin mình chỉ đang kể chuyện” (tr.59), hay: “Bên kia cửa là cuộc sống bình thường. Tôi sửa lại: bên kia cửa trông như cuộc sống bình thường” (tr.187), v.v… Dường như để nhấn mạnh hành động kể, việc “Tôi” chuyển thành lời cái trải nghiệm của “Tôi” - một việc có tầm quan trọng sống còn, có giá trị bằng toàn bộ tương lai vô vọng trong hoàn cảnh của “Tôi” lúc đó, có giá trị đúng bằng sự sống còn bởi tách mình được khỏi cái thực tại kinh khủng thông qua hành động biến nó thành chuyện (vì tạm thời không có cách nào khác) và do đó, “ai tin được rằng chuyện kể chỉ là chuyện kể sẽ có cơ may cao hơn” (tr.59), có giá trị bằng sự tồn tại của những người thiết thân cho mình bởi hành động kể tạo lập người nghe và “Tôi kể, vì thế người tồn tại” (tr.356), người tạo thành thế giới cho tồn tại của “Tôi” - dường như để nhấn mạnh hành động kể quan trọng như thế nên người Tùy nữ hơn một lần đã ra sức làm rõ việc kể chuyện này. “Đây là tái dựng…” (tr.183), chị ta cho thấy những câu chuyện trong câu chuyện; chị ta kể lại lời kể của người bạn gái thân Moira mà “không thể nhớ đúng từng từ, bởi không cách nào chép lại”, nhưng “tôi đã cố sao cho càng giống cô càng tốt. Cũng là một cách giữ cho cô sống” (tr.330). Đó hoàn toàn không phải là điều nằm ở bình diện một mánh lới kể chuyện, hoàn toàn vượt qua cấp độ những thủ pháp của một người kể ý thức sâu sắc về hành động kể của mình. Tôi đã nói rồi: chị ta đưa chúng ta lên những chiếc phao (gì cũng được!) trên một dòng chảy của ý thức. Có chuyện chị ta kể đến hai lần, liên tiếp; như chuyện chị ta ngủ với Nick lần đầu tiên; vừa kể dứt, chị ta bảo: “Tôi bịa ra đấy. Không phải thế đâu. Mà là thế này” (tr.350). Hai lần kể cho cùng một câu chuyện - và ta thấy trong khoảng thời gian đó không phải là ta đứng yên hay dòng sông kia ngừng chảy, lại càng không quang cảnh kia lặp lại, cho dù vẫn chuyện đó thôi. Vậy thì điều ta thấy ở câu chuyện được nhân đối ấy phải chăng là hai cái thực tại khác nhau, cho dù không khác đáng là bao, mà song song tồn tại? Hay phải chăng ở những khe hở giữa hai thực tại không trùng khít lên nhau đó ta lờ mờ thấy một thực tại thứ ba khác hẳn, không được rọi chiếu, không hiển ngôn? Vâng, nếu có như vậy thì ta cũng không bao giờ biết được. Mà câu chuyện bảo ta rằng nó kể về những thực tại mang tính ý hướng, những sự kiện chỉ trở nên thực tế bởi có một ý thức soi rọi vào bằng ý định và sự cố ý của mình, bởi có một ý thức đã kinh qua các sự kiện đó để biến chúng thành sự kiện, đã trải nghiệm chúng để liên kết chúng vào kinh nghiệm của chúng ta, biến chúng thành thực tế. Và cái ý-thức-người-Tùy-nữ đó, trước khi kết thúc câu chuyện, càng tỏ ra day dứt hơn bởi tính trải nghiệm cá nhân mà hành động kể của chị bộc lộ: “Tôi ước gì câu chuyện này khác đi. Tôi ước nó văn minh hơn. Tôi ước mình hiện ra trong đó tốt đẹp hơn, bớt do dự, bớt phân tâm vào những điều nhỏ nhặt. Tôi ước nó có đầu có đuôi hơn. (…) Thứ lỗi cho tôi vì chuyện này quá nhiều đau thương đến thế. Thứ lỗi cho tôi nó rời rạc từng mảnh vụn, như xác người kẹt giữa hỏa lực cánh sẻ hay ngũ mã phanh thây. Nhưng tôi nào có làm gì sửa được. Tôi cũng đã cố đưa vào ít thứ tốt lành rồi đấy. Hoa chẳng hạn, bởi chúng ta sẽ ra sao nếu không có hoa?” (tr.355-356) Quả là có một số đoạn rất đẹp, sống động một cách độc đáo, về hoa, mà tôi tin bạn sẽ cảm thấy ở đấy chủ yếu là các chất liệu: nhựa cây, cánh hoa và lá vò nát trên ngón tay, màu đỏ tự nhiên một cách khó hiểu ở chỗ bông hoa rụng ra, v.v… chứ không phải những bức tiểu họa duyên dáng nào đó. Và không phải là những biểu lộ trữ tình. Trong câu chuyện của Người Tùy nữ này không có hy vọng, không có tương lai, cho nên những khi hoa hiện lên trong trải nghiệm cá nhân căng thẳng của chị ta thì nó hiện lên như những biểu tượng trong mơ của cả hai điều ấy, đồng thời cũng biểu trưng cho các ký ức về những gì gọi là hy vọng và tương lai. Hoa đó chính là hoa “ước gì” và hoa “Thứ lỗi cho tôi…” trùng điệp trong đoạn văn trích ở trên. Người Tùy nữ lăp lại “ước gì” và “xin thứ lỗi” ngay trước một đoạn tàn bạo đến cực điểm - trường đoạn chị ta kể về buổi hành quyết định kỳ được gọi là “Cứu chuộc đàn ông”. Bạn sẽ phải tưởng tượng cảnh một người còn sống bị một nghìn con mèo nhà xé xác. Nhưng ở đây tôi muốn nói đến sự lặp lại những khẳng định về hành động kể, về việc kể chuyện - sự lặp lại rõ ràng cố ý của Người Tùy nữ. Đúng là có sự tô đậm, rất phong cách, một nét nữ tính trong những ước gì và xin thứ lỗi đó. Tuy nhiên không chỉ là như vậy. Trở lại một chút phần lời kể ở trang 59, đã trích ở trên, chị ta đã phân định rõ ràng: “Tôi những muốn tin mình chỉ đang kể chuyện. Tôi cần tin thế. Tôi phải tin thế…”, song ngay sau đó thì: “Đây không phải tôi đang kể chuyện. Đây cũng là tôi đang kể chuyện, trong đầu mình; trong lúc vẫn đang sống tiếp.” Như vậy, không thể rõ ràng hơn: trải nghiệm cá nhân phải là một trải nghiệm ở cấp độ thứ hai - cấp độ của ý thức nhận thức về chính nó, cũng như truyện kể luôn luôn là truyện kể về một câu chuyện (“Ngày xửa ngày xưa, có một ông vua…”). Chính là ở cấp độ đó thì một tính ý hướng của ý thức trải nghiệm mới có được sự xác nhận, bằng sự tách rời tương đối với cái thực tại mà nó kinh qua và quan trọng hơn - như trong bối cảnh của Người Tùy nữ, đặc biệt trong những cảnh như cơn cuồng loạn đám đông một buổi “Cứu chuộc đàn ông” - bằng sự tách rời với một tính ý hướng bị mặc định, bị ám thị thôi miên và do đó mà hợp thức hóa những kinh nghiệm mà mình không muốn, xác nhận một ý thức nào đó bên ngoài ý chí mình. “Tôi ước gì…”, “Xin thứ lỗi cho tôi…” - bởi thế - là cất lên tiếng nói của một câu chuyện khác bên kia câu chuyện đang kể đây, tiếng nói chống lại sự cám dỗ của việc thích nghi với một thực tại “có quá nhiều đau thương đến thế” này, sự thích nghi mà chính Người Tùy nữ đã có lúc rơi vào, khi chị ta có được Nick giống như “một vợ dân khai khẩn”, một người đàn bà thoát khỏi chiến tranh và kiếm được một người đàn ông; mà chị ta phải thốt lên: “Sửng sốt biết bao, khi thấy người ta tập quen được những gì, miễn là có tí bù đắp” (tr.362). Câu chuyện của Người Tùy nữ do đó là câu chuyện của một người đàn bà chống lại sự cám dỗ. Mà không phải người đàn bà đối diện những cám dỗ thông thường ai cũng nghĩ đến ngay. Ở đây, Người Tùy nữ kể câu chuyện của mình chống lại một Sự Cám dỗ của Chuyên chế. Nguyễn Chí Hoan  *** Tôi có chồng và con gái. Có mèo. Có mẹ, có bạn gái thân thiết. Có việc làm và một cái tên.  Tôi tỉnh dậy sau một cơn chính biến, một cuộc đào thoát bất thành và một cơn mê để thấy mình đã mất cho đến tận cái tên, chỉ còn là Tùy nữ - một trong những “cỗ tử cung có chân” của chính quyền Gilead. Giữa Nước Cộng hòa Gilead – nhà nước thần quyền cực đoan dựng lên trên nền Hợp chủng quốc Hoa Kỳ xưa, nơi các Martha cặm cụi việc nhà, các Dì rao giảng đạo đức chính thống, các Phu nhân khóc ròng mỗi đêm Lễ tháng, các Tùy nữ tuyệt vọng tìm cách sinh con để khỏi phải ra quét chất thải phóng xạ trên đảo hoang, và không ai biết lúc nào tới lượt mình được “cứu chuộc” trên dây treo cổ – có một người đàn bà vừa tìm cách bám lấy sự sống nhờ mưu mẹo sắc bén và những hồi ức vỗ về từ “thời trước”, vừa cố gắng khám phá để kể lại chuyện mình cho các thế hệ về sau. Cuốn tiểu thuyết phản-địa đàng (dystopia) này là một câu chuyện cảnh tỉnh để trả lời làn sóng chống nữ quyền và sự trỗi dậy của các thế lực tôn giáo bảo thủ ở nước Mỹ những năm 1980, nhưng trên hết là một cuốn sách viết sắc sảo và lôi cuốn đã được ấn hành ở gần 30 quốc gia. Đây là một trong năm tiểu thuyết đề cử Booker của nữ tiểu thuyết gia Canada danh tiếng Margaret Atwood và là cuốn sách đầu tiên của bà được giới thiệu ở Việt Nam. *** “Danh tiếng của tác phẩm suy cho cùng là nhờ đã thành công trong việc cân bằng giữa tuyên ngôn chính trị mạnh mẽ với nghệ thuật văn chương tinh vi.”  – Jeffrey Canton  “Sức mạnh của tác phẩm rốt cuộc ít nằm ở những triết lý hơn là ở tính chân thực đầy thuyết phục: nó không chỉ khám phá những cơ cấu làm nên sự áp bức tuyệt đối với đàn bà trong Cộng hòa Gilead, mà sống động hơn và tỉ mỉ hơn nữa, là cảnh áp bức ấy đè trĩu lên các giác quan đến thế nào.”  – Washington Monthly *** Chúng tôi ngủ ở nơi từng là nhà thể chất. Sàn bằng gỗ đánh vecni, sơn những vòng tròn và vạch thẳng cho các trận đấu ngày xưa; các vành bóng rổ còn nguyên đó, dù lưới thì mất rồi. Một dãy bao lơn dài chạy dọc bốn bức tường, là nơi dành cho khán giả, và tôi cảm giác còn ngửi thấy, mơ hồ như một dư ảnh, mùi mồ hôi nồng nồng, điểm hơi kẹo cao su và nước hoa từ đám con gái đứng xem, mặc váy nỉ – tôi thấy trên phim – rồi theo thời gian đến váy mini, quần dài, cuối cùng xỏ khuyên một bên, tóc phẩy lai xanh vuốt keo lỉa chỉa. Có lẽ các vũ hội cũng tổ chức ở đây: tiếng nhạc còn lưu lại, bản chép chồng những lớp thanh âmkhông người nghe, điệu này phủ lên điệu khác, nhịp trống chìm lẫn, tiếng than van thê thiết, những tràng hoa làm từ giấy thấm, mặt nạ quỷ bằng bìa, quả cầu kính trên trần quay chầm chậm, rắc xuống các đôi nhảy từng chùm hoa ánh sáng. Khi ấy trong phòng có mùi ân ái cũ và nỗi cô đơn, và niềm mong ngóng, chờ một cái gì không hình dạng cũng không tên gọi. Tôi còn nhớ nỗi mong mỏi ấy, mong một điều gì luôn luôn ở ngay phía trước và luôn luôn mới lạ, như những bàn tay đã đặt trên mình ở nơi đó, vào lúc đó, trên hõm lưng, hay xa hơn, trong bãi để xe, hay trong phòng đặt ti vi đã vặn nhỏ tiếng, chỉ còn hình ảnh chập chờn hắt lên xác thịt đang động cựa. Chúng tôi mong mỏi tới tương lai. Từ đâu mà ra cái tài năng ấy, cái sự không bao giờ thỏa nguyện ấy? Nó vờ vẫn trong không trung; và nó vẫn còn giữa không trung, như một ý nghĩ đến muộn, khi chúng tôi cố dỗ giấc ngủ, trên giường gấp quân nhu xếp từng dãy, cách nhau một khoảng để ngăn ý đồ trò chuyện. Giường trải ga bằng vải giả flannel, như của trẻ con, và chăn đắp cũng hàng quân dụng, những tấm chăn cũ vẫn còn dấu U.S. Quần áo được gập gọn gàng đặt trên ghế đẩu cuối giường. Đèn lờ mờ nhưng không tắt hẳn. Dì Sara và dì Elizabeth lượn lờ giám sát, roi điện thúc bò lủng lẳng đầu dây nịt lưng da. Nhưng súng thì không, ngay họ cũng không giao súng vào tay được. Súng là của riêng đám gác, là các Thiên sứ được cẩn trọng chọn ra. Đám gác không được vào trong ngôi trường trừ khi được triệu, còn chúng tôi không được phép ra, trừ những chuyến đi dạo hai lần mỗi ngày, theo hàng đôi vòng quanh sân bóng đá, đã rào lại bằng lưới mắt cáo chăng thép gai. Bên ngoài các Thiên sứ đứng, xây lưng lại. Họ gây ra nỗi sợ hãi, và nhen cả những nỗi khác trong chúng tôi. Giá mà họ quay nhìn. Giá mà chúng tôi nói được với họ. Có thể trao đổi gì đó, chúng tôi hình dung, xác lập một thỏa thuận, một cuộc mua đi bán lại, chúng tôi vẫn còn thân thể mình. Mơ tưởng của chúng tôi là thế. Chúng tôi đã học cách thầm thì gần như không ra tiếng. Trong bóng lờ mờ chúng tôi có thể đưa tay ra, khi các dì không để ý, chạm vào nhau qua khoảng trống giữa các giường. Chúng tôi học cách đọc lời trên môi nhau, má áp sát giường, nằm nghiêng sang bên, nhìn miệng nhau mấp máy. Bằng cách ấy những cái tên được truyền đi, từ giường này qua giường khác. Alma. Janine. Dolores. Moira. June. Mời các bạn đón đọc Chuyện Người Tùy Nữ của tác giả Margaret Atwood.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nam Tước Phôn Gôn-rinh - Yuri Dold-Mikhajlik
Câu chuyện kể về sĩ quan tình báo Liên Xô, Lieutenant Goncharenko, dưới cái lốt là Nam tước Heinrich von Goldring, được cử thâm nhập sâu vào sào huyệt của Đức. Anh đã trải qua nhiều tình huống hiểm nguy và căng thẳng trên địa bàn hoạt động rộng khắp: Đức, Pháp, Ý,… Bên cạnh những cuộc đấu trí, những âm mưu, câu chuyện còn kể lại câu chuyện về tình yêu thời chiến. Cũng như những tiểu thuyết tình báo, phản gián khác, việc thưởng thức từng chi tiết và sự gay cấn là quan trọng, chứ không chỉ hiểu tóm tắt nội dung. Nam tước Phôn Gôn Rinh (И один в поле воин) – Iuri Dold-Mikhajlik (Юрий Дольд-Михайлик) Thật ra tựa đề Nam tước Phôn Gôn-rinh (Von Goldring) là do Nhà xuất bản đặt cho bản dịch tiếng Việt. Tựa gốc tiếng Nga có nghĩa là “Một mình trên chiến trường vẫn là chiến sĩ”. Đây là cuốn tiểu thuyết tình báo của Liên Xô, viết về thời kỳ chiến tranh với Đức Quốc xã. Tôi chưa có điều kiện để tìm hiểu xem tác phẩm này có nằm trong danh sách những tiểu thuyết tình báo hay nhất hay không, nhưng có thể nói đây là cuốn sách kinh điển trong thể loại này. Tác giả là nhà văn người Ukraine, cho nên tôi gặp nhiều kiểu phiên âm tên trong tiếng Anh (và cả trong tiếng Việt, tất nhiên). Mikhajlik, Mykhailyk hay Mikhailik đều được dùng, và hình như tác phẩm này chưa được dịch ra tiếng Anh. (Đây cũng chính là điểm thú vị của người đọc sách Việt Nam: sách Nga Xô hay Âu Mỹ gì cũng có cả!?). Cuốn sách này cũng đã được dựng thành phim tên “Xa Tổ quốc” (Вдали от Родины / Far from the Motherland) năm 1960. Tôi đọc bản tiếng Việt do NXB Thanh Niên tái bản năm 1982, gồm 2 tập dày cộp, do Trọng Phan – Hà Bắc dịch. Đã gần 30 năm nên giấy đã trở nên đen, chữ khá nhòe. Hy vọng sẽ có những lần tái bản đẹp hơn để các bạn thưởng thức. ***     Cách đây hơn 40 năm, năm 1960, lần đầu tiên cuốn "Nam tước Phôn Gôn-rinh" của Mỉ-khai-lich in ra đã gây được dư luận tốt trong đông đảo bạn đọc trẻ tuổi nước ta. Đây là một trong mười chuyện tình báo hay nhất của Liên Xô cũ, trước năm 1959.         Nội dung chủ yếu của cuốn sách: Dựa vào một chuyện có thật, tác giả dựng nên hình tượng người báo Xô-viết nhân vật Nam tước Phôn Gôn-rinh - nhận mệnh lệnh tình báo chiến lược của Bộ Tư lệnh Hồng quân Liên Xô vào hoạt động tận sào huyệt của bọn phát-xít Đức, trong Chiến tranh thế giới thứ hai.         Một mình hoạt động trên một chiến trường rất rộng, từ Liên Xô qua Đức, sang Pháp, đến I-ta-li-a, người tình báo Xô-viết gặp vô vàn khó khăn, nhiều lúc tính mệnh tưởng chừng như nghìn cân treo sợi tóc. Nhưng nhờ vào thông minh và lòng dũng cảm, người chiến sĩ ấy đã chiến đấu và thắng trở trong niềm hân hoan của nhân dân và Hồng quân Liên Xô.         Tục ngữ Nga có câu: "Một trên chiến trường không phải là chiến sĩ".Tác giả viết tác phẩm này, xây dựng nên hình tượng Nam tước Phôn Gôn-rinh và đặt tên cho tác phẩm của mình: "Một mình trên chiến trường vẫn là chiến sĩ"  (И один в поле воин). Tên sách "Nam tước Phôn Gôn-rinh" là Nhà xuất bản chúng tôi đặt năm 1960. Điều đó biểu thị thái độ của người đã khẳng định bản lĩnh của con người Xô-viết, khẳng định sức mạnh chân lý và chính nghĩa của cuộc chiến tranh chống phát-xít, do Liên Xô cũ tiến hành, để cứu loài người khỏi họa diệt vong.         Và, điều đáng nói hơn cả ở cuốn này tác giả lý giải cái cội nguồn làm nên bản lĩnh và mạnh của người báo Xô-viết. Đó là tình yêu nồng nàn đối với Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và tình cảm quốc tế thắm thiết. Như thế, yêu tổ quốc và tình cảm quốc tế trong sáng là nội dung tư tưởng chủ đê nổi bật của tác phẩm. Tác phẩm này đã được xưởng Mốtxphim đưa lên màn ảnh với cái tên "Xa Tổ quốc", do Bôn-đa-súc, một nhà hoạt động nổi tiếng của nền điện ảnh Xô-viết đạo diễn.         Cuốn "Nam tước Phôn Gôn-rinh" lần đầu ra ở nước ta cách đây đã hơn 40 năm. Nhưng dư âm của nó vẫn còn vang vọng, chúng tôi cho tái bản cuốn sách với hy vọng bạn đọc vẫn tìm được ở đây sự say mê với nhân vật "Nam tước Phôn Gôn-rinh". NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN          Mời các bạn đón đọc Nam Tước Phôn Gôn-rinh của tác giả Yuri Dold-Mikhajlik.
Võ Sĩ Lên Đài - Ma Văn Kháng
Võ sĩ lên đài là tiểu thuyết với những câu chuyện và chi tiết có thật, hấp dẫn... ít ai biết về tuổi trẻ của một thời hào hùng. Chuyện xảy ra tại Hà Nội những năm chống thực dân Pháp sau ngày toàn quốc kháng chiến. Cuộc đấu tranh của các thanh thiếu niên Việt Nam yêu nước chống bọn thực dân cùng những kẻ cơ hội thông qua môn thể thao quyền Anh, âm thầm và quyết liệt. Các thiếu niên, theo năm tháng dần trở thành thanh niên, giàu tình cảm và sâu sắc, một mặt chăm chỉ học hành, mặt khác bí mật tham gia các hoạt động yêu nước, chống xâm lược và việt gian ngay trong thành phố. Trong cuộc chiến vì cái đẹp của môn quyền Anh, một biểu trưng của tinh thần thượng võ, lòng can đảm, tinh thần bất khuất của ông cha đã được thấm nhuần và thể hiện qua các cuộc giao đấu của Nhân và Tùng, có cả thắng và thua, nhưng họ đã tìm thấy bài học lớn: có thể thất bại để tìm lại sức mạnh nội lực của mình. Tiểu thuyết dựa trên những chi tiết có thật về cuộc đời của Phạm Xuân Nhàn, võ sĩ quyền Anh nổi tiếng những năm 50 của thế kỷ trước (ông đã từng là võ sĩ vô địch quốc gia, tham dự Á vận hội năm 1954 tại Manila, Philipinnes). Một giai đoạn kháng chiến với cách thể hiện sinh động cuộc sống học đường của thiếu niên học sinh Hà Nội đô thành trong thời kỳ Pháp tạm chiếm, các hoạt động thể thao, thi đấu, những câu chuyện và chi tiết có thật ít ai biết vì chưa có tài liệu sách báo nào nói tới…, tất cả đã làm nên giá trị đặc biệt cho cuốn tiểu thuyết mới của nhà văn Ma Văn Kháng. *** Cuốn sách đã được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt thành, đặc biệt về mặt cung cấp và hiệu đính các tư liệu chuyên môn, kỹ thuật của bác sĩ y học thể dục thể thao Phạm Xuân Nhàn, cựu võ sĩ quyền Anh, vô địch Quốc Gia, tham dự Á Vận Hội năm 1954 tại Manila-Philippin. Được xuất bản lần này, cuốn sách một lần nữa là lời tri ân của tác giả với bác sĩ - võ sĩ Phạm Xuân Nhàn. *** Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ Mời các bạn đón đọc Võ Sĩ Lên Đài của tác giả Ma Văn Kháng.
Đường Một Chiều - Nguyễn Mộng Giác
Đường Một Chiều là một cuốn tiểu thuyết tình cảm, phản ảnh một góc nhỏ xã hội miền Nam trong thời chinh chiến, tất cả xoay quanh câu chuyện về một vụ thảm sát khó hiểu diễn ra ngay trong nhà của thiếu tá Lộc.  Nhân vật chính là một sĩ quan cấp tá của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông đồn trú xa nhà với chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng một tiểu đoàn tác chiến. Gia đình ông gồm Thúy, vợ ông, bé Ly, 14 tuổi con riêng của bà Thúy và 2 đứa con nhỏ. Ngoài ra, hạ sĩ Ninh, được vợ chồng ông xem như em, ở chung nhà, vừa làm nhiệm vụ tài xế vừa làm quản gia cho gia đình. Chính Ninh là người mở ra thảm kịch gia đình cho thiếu tá Lộc. Toàn bộ nội dung cuốn sách là những phiên xử, những góc khuất trong mối quan hệ của Ninh với các thành viên trong gia đình Lộc, những suy nghĩ của người nhà nạn nhân cũng như bị can, những tình tiết giả thiết mà báo chí, luật sư thêm vào trong vụ thảm sát. Sự việc cuối cùng rồi sẽ ra sao? Liệu Lộc có tha thứ cho cấp dưới của mình? Liệu Ninh có bị xử đúng tội theo như pháp luật? Liệu các con của Thúy có thôi ám ảnh trước cái chết của mẹ mình? Đường Một Chiều là một tác phẩm khá nổi bật của Nguyễn Mộng Giác và xứng đáng là một trong những tác phẩm xuất sắc của nền văn học chế độ Sài Gòn cũ. *** Nguyễn Mộng Giác (1940 - 2012) là nhà văn Việt Nam. Năm 1981, ông rời quê hương, định cư tại Hoa Kỳ vào cuối năm 1982, và rồi mất tại đây vào tháng 7 năm 2012. Ông sinh ngày 4 tháng 1 năm 1940 tại thôn Xuân Hòa, xã Bình Phú, quận Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn), tỉnh Bình Định, miền Trung Việt Nam. Thời kháng chiến chống Pháp 1946 đến 1954, ông học tiểu học và trung học tại vùng kháng chiến. Sau Hiệp định Genève 1954, ông tiếp tục học tại trường Cường Để (Quy Nhơn), trường Võ Tánh (Nha Trang), rồi học năm chót của bậc trung học tại trường Chu Văn An (Sài Gòn). Sau khi học một năm ở Đại học Văn Khoa Sài Gòn, ông ra Huế học Đại học Sư phạm ban Việt-Hán. Năm 1963, ông tốt nghiệp thủ khoa, khóa Nguyễn Du. Ngay năm ấy, ông được điều đến giảng dạy tại trường Đồng Khánh ở Huế. Năm 1965, đổi ông vào Quy Nhơn làm Hiệu trưởng trường Cường Để. Năm 1973, thăng ông làm Chánh sở Học chánh tỉnh Bình Định. Năm 1974, chuyển ông vào Sài Gòn làm chuyên viên nghiên cứu giáo dục Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa cho đến 1975. Về sự nghiệp văn chương, ông bắt đầu viết văn từ năm 1971, đã cộng tác với các tạp chí: Bách Khoa, Văn, Thời Tập, Ý Thức. Năm 1974, truyện dài Đường một chiều của ông được giải thưởng Văn Bút Việt Nam dưới thời Việt Nam Cộng hòa . Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, việc sáng tác của ông tạm gián đoạn. Đến năm 1977, ông cầm bút trở lại, và bắt đầu viết bộ trường thiên tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ, và hoàn thành vào năm 1981. Tháng 11 năm đó (tức sau khi vừa viết xong bộ truyện trên), ông cùng con trai vượt biển. Chuyến vượt biển thành công, ông đã đến được đảo Kuku của Indonesia. Trong mấy tháng ở đây, ông đã viết được một số truyện ngắn mà sau này xuất bản thành cuốn Ngựa nản chân bon, và tập I của bộ trường thiên tiểu thuyết Mùa biển động. Tháng 11 năm 1982, ông đến Hoa Kỳ, định cư tại Nam California[3], rồi cộng tác với các báo: Đồng Nai, Việt Nam Tự Do, Người Việt, Văn, Văn Học Nghệ thuật ở nước ngoài. Từ năm 1986, ông làm Chủ bút tạp chí Văn Học ở California, Hoa Kỳ. Đến tháng 8 năm 2004, ông phải ngưng công việc làm báo vì phát hiện mình bị ung thư gan. Sau nhiều năm dài chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo, ông đã qua đời lúc 22 giờ 15 phút ngày 2 tháng 7 năm 2012 (ngày giờ địa phương ở California, tức sáng ngày 3 tháng 7 năm 2012 giờ Việt Nam) tại tư gia ở thành phố Westminster (Orange County, California, Hoa Kỳ), thọ 72 tuổi.   Mời các bạn đón đọc Đường Một Chiều của tác giả Nguyễn Mộng Giác.
Bức Chân Dung - Nikolai Gogol
Nikolai Vasilyevich Gogol (tiếng Ukraina: Микола Васильович Гоголь, tiếng Nga: Николай Васильевич Гоголь, tiếng Ba Lan: Nikołaj Wasiljewicz Gogol; 1 tháng 4 năm 1809 – 4 tháng 3 năm 1852) là một nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng Nga và Ukraina. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông Những linh hồn chết, được xem là cuốn tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của văn học Nga và Ukraina. Trong các tác phẩm của mình, ông không chừa ai cả, từ hoàng đế đến quan lại, từ trí thức đến bình dân, từ giới địa chủ đến giới nông nô, tất cả đều là mục tiêu châm chích cho ngòi bút ông. Người ta đã gọi những tác phẩm đó là "những bức hí họa về nước Nga và người Nga". Tuy nhiên cũng nhờ tính sinh động và sức thuyết phục nảy sinh từ ngòi bút, ông đã làm mờ nhạt đi bộ mặt thật kinh khủng của nó, để lôi cuốn không ngừng đôi mắt độc giả theo một mặt trái ẩn tàng những hình nét đáng cảm động hơn. Vào những ngày cuối đời, ông bị một căn bệnh kỳ lạ ở mũi và phải dùng đỉa để chữa bệnh cho mình. Ông đã phải chịu đựng sự đau đớn vì kiểu chữa bệnh đó cho đến lúc chết. Ba nhân vật vĩ đại nhất của văn học Nga thế kỷ 19 từng định đoạt sự phát triển tinh thần của nhân dân trong thế kỷ 19 và 20 là Gogol, Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, Lev Nikolayevich Tolstoy - không chỉ là những nhà văn cực lớn của nước Nga, của nhân loại, mà còn là những nhà tư tưởng lớn nhất của nước Nga thế kỷ 19. *** Không có nơi nào đông người đứng lại xem như trước gian hàng bán tranh trong khu chợ lợp Shchukin. Đúng thế, ở đây tập hợp hết sức linh tinh đủ các thứ lạ mắt, phần lớn là những bức tranh dầu, phủ một lớp tráng bóng màu lục thẫm, trong những chiếc khung hào nhoáng màu vàng đậm. Mùa đông với những cây trắng xóa, cảnh mặt trời lặn đỏ ối trong như ánh lửa rực lên từ một đám cháy, một bác nông dân xứ Flandre, mồm ngậm tẩu, cánh tay cong vẹo, trông giống một con gà tây mặc áo hơn là một con người – đề tài của những bức tranh ấy thường là như vậy, thêm vào đấy là mấy bức tranh khắc gỗ: Chân dung Khozrev-Mirza[1] đội mũ lông cừu, chân dung mấy vị tướng đội mũ ba sừng, cái mũi cong lệch. Ngoài ra, cánh cửa loại gian hàng này thường lấp kín sau những tập tranh dân gian rộng khổ, in thứ tranh ảnh thể hiện cái thiên tư của người dân Nga. Một bức vẽ nàng công chúa Miliktrisa Kirbitievna; một bức vẽ thành Jerusalem, màu đỏ tràn lên mấy ngôi nhà và nhà thờ, quệt đỏ ngầu cả một khoảng đất, và hai người mu gích[2] Nga đang cầu nguyện, tay đeo bao. Người mua những bức tranh này thường chẳng có mấy nhưng người xem thì đông vô kể. Trong đám này thế nào cũng có một gã hầu phòng nát rượu đứng xem, mồm há hốc, tay cầm thức ăn vừa mua ở hiệu về cho chủ: chủ nó chắc chắn sẽ không phải bỏng mồm vì món xúp. Lại thế nào cũng có một anh lính, nhân vật chính của các chợ tầm tầm, tay cầm vẻn vẹn chỉ có hai con dao nhíp để chào khách, hoặc giả một chị bán hàng rong bưng một hộp đầy ních những giày. Mỗi người thưởng thức tranh một cách riêng; mấy bác mu gích giơ tay chỉ trỏ, mấy anh lính xem xét tận nơi, vẻ nghiêm trang; mấy thằng bé đi ở, mấy chú học nghề cười đùa chỉ trỏ cho nhau xem những bức biếm họa để rồi trêu nhau; những bác hầu phòng có tuổi khoác áo dạ thô thì chỉ cốt đứng lại để ngáp; còn những cô bán hàng rong, đúng kiểu các bà mẹ nhà quê Nga, do bản năng cũng chạy đến để nghe thiên hạ bàn tán và xem người ta đang làm gì. Đúng lúc ấy, Chartkov, một họa sĩ trẻ tuổi, đi ngang qua trước gian hàng, bất giác cũng dừng lại. Nhìn chiếc áo khoác cũ kỹ và bộ quần áo không chút cầu kỳ ta biết anh ta thuộc hạng người sống chỉ vì công việc, không có thì giờ nghĩ đến trang phục, tuy món này vốn là thứ hấp dẫn đám thanh niên lạ thường. Anh ta lúc đầu dừng chân trước gian hàng chỉ để cười thầm những bức tranh xấu xí nọ. Nhưng rồi sau, bất giác, anh trở nên đăm chiêu tư lự; anh băn khoăn không hiểu những bức tranh này liệu có ai cần đến. Ừ, người dân Nga ưa chuộng những bức thư Yeruslan Lazarevich, Ngốn khỏe và Nốc khỏe, Foma và Yerema điều đó anh chẳng lấy làm lạ; những đề tài ấy rất đơn giản và dễ hiểu, nhưng còn những mớ tranh tồi quét sơn dầu, màu sặc sỡ và bẩn thỉu kia thì ai mua? Ai là người cần đến bức chân dung bác nông dân xứ Flandre ... Mời các bạn đón đọc Bức Chân Dung của tác giả Nikolai Gogol.