Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cọp Trắng - Aravind Adiga

NHỮNG LỜI KHEN NGỢI DÀNH CHO CỌP TRẮNG “Lôi cuốn, giận dữ, và hài hước thâm sâu, Cọp Trắng là một chuyến đi gây ngạc nhiên vào một Ấn Độ mới. Aravind Adiga là một tài năng cần theo dõi.” - Mohsin Hamid, tác giả The reluctant fundamentalist “Dữ dội và vui nhộn... Một tiểu thuyết châm biếm không thể sắc bén hơn.” - Michael Upchurch, The Seattle Times “Sự trui rèn của Adiga với tư cách một nhà báo đã đem lại cho ngòi bút của anh tính tức thời của tin thời sự, nhưng chính cách kể chuyện giàu chi tiết của anh mới là điều cuốn hút độc giả... Cọp Trắng gợi nhớ đến những kiệt tác về sự phản kháng và sự đàn áp (khiến nghĩ đến cả Rừng rậm lẫn Con của đất mẹ) [và] chứa đựng những đoạn văn đẹp sửng sốt... Một quyển sách cân bằng giữa hư cấu và thuần túy quan sát.” - Lee Thomas, San Francisco Chronicle “Có quá nhiều điều để giới thiệu trong quyển sách này, một câu chuyện ẩn dụ hay ho về xã hội đang biến đổi của Ấn Độ.” - The Guardian “Khiêm tốn và dễ đọc một cách lôi cuốn... tiểu thuyết đầu tay đầy thuận lợi của Aravind Adiga ngay tức khắc cho cái nhìn hấp dẫn bên dưới bề nổi của một “phép màu” kinh tế Ấn Độ, một câu chuyện tâm lý làm đứng tim về một vụ giết người được tính toán trước và hậu quả của nó, và một câu chuyện ẩn dụ được diễn đạt một cách tỉ mỉ về sự hủy diệt mang tính sáng tạo đang thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa.” - The New York Sun “[Một] chuyện kể làm sững sờ... Một tiểu thuyết Ấn Độ làm nổ tung những cách diễn đạt cũ - những bài tụng ca trang trí, hương nghệ tây - kết hợp với lối diễn đạt [và] một chuyến đi li kì qua một cường quốc toàn cầu... Đắm chìm trong thế giới của Balram - và phong cách diễn đạt tuyệt vời của anh ta - những trang sách như tự lần giở. Mang trong mình tính khí ngang tàng, mỉa mai, ranh mãnh, và nhiều lúc tức cười, Balram gợi nhớ đến những diễn giả bất tận trú ngụ trong các tác phẩm của tiểu thuyết gia vĩ đại người Czech Bohumil Hrabal. Sáng tạo ra một nhân vật như thế là kì công không nhỏ đối với một tiểu thuyết gia đầu tay.” - David Mattin, The Independent (London) “Một chuyến tham quan hay ho và giàu trí tưởng tượng về... một mặt của Ấn Độ không thường được khắc họa trong tiểu thuyết... Với việc không sa đà vào chủ nghĩa dị lãm nông cạn hoặc những căng thẳng gia đình Nam Á, Cọp Trắng tự tìm lối đi đến thành công nhiều mặt: đó vừa là một câu chuyện hình sự hiện hữu đầy cuốn hút, vừa là bản tường trình về sự bất công của xã hội.”- Scott Indrisek, Time Out New York “Hóm hỉnh, hài hước thâm thúy.” - The Star-Ledger (Newark, N.J.) “Châm biếm mạnh mẽ... Adiga, chào đời ở Ấn Độ năm 1974, đã viết một cách hết sức sinh động về một nền văn hóa suy đồi... Một tác phẩm đầu tay không đi theo khuôn phép... với văn phong đầy sức sống.” - Kirkus Reviews “Thuốc giải độc hoàn hảo cho một Ấn Độ mê muội.” - Publishers Weekly “Tuy giọng điệu ban đầu của quyển sách gợi nhớ đến sự bất công trong Một sự cân bằng tốt đẹp của Rohinton Mistry, nhưng sẽ hợp lí hơn khi so sánh với chuyện kể của Frederick Doughlas về quá trình đập tan chế độ nô lệ... Cảnh giết người đỉnh điểm là một cảnh cực kì căng thẳng, và sự tiến hóa của Balram từ một cậu bé nhà quê dễ thương đến một tên sát nhân máu lạnh thật hấp dẫn và đáng tin. Đáng ngạc nhiên hơn nữa là giọng văn tường thuật lại hiệu nghiệm khi được viết trong một lá thư gửi thủ tướng Trung Quốc, người chuẩn bị đến thăm Bangalore, Ấn Độ. Đề xuất cho tất cả các thư viện.” - Library Journal “Một sự đả kích mạnh mẽ về Ấn Độ nông thôn đương đại.” - The BBC World Service “Bằng sự hóm hỉnh và hiểu biết sâu sắc, tiểu thuyết đầu tay lôi cuốn, sắc như dao cạo của Aravind Adiga khám phá thực trạng [Ấn Độ]...[và] Adiga đào sâu mọi ngóc ngách hài hước thâm thúy của nó. Giọng điệu của Halwai - ranh mãnh, chua cay, nhạo báng, tự mỉa mai và không hề ảo tưởng - vừa lôi cuốn vừa thuyết phục, và là một trong những thành công lớn của quyển sách. Adiga có con mắt và cái tai nhạy bén... Adiga đã khẩn trương giải quyết một chủ đề phức tạp và khẩn thiết. Tác phẩm của anh là một tiểu thuyết có mặt đúng lúc.” - Soumya Bhattacharya, The Independent (London) “Đã xuất hiện sự cuống cuồng náo nhiệt ở các nhà xuất bản khi tiểu thuyết đầu tay của Adiga, Cọp Trắng, được đấu giá tại Hội chợ sách London mùa xuân năm ngoái. Không khó để nhận ra tại sao. Không giống gần như bất kì quyển tiểu thuyết nào khác về Ấn Độ mà bạn đọc được trong những năm gần đây, tác phẩm lôi cuốn này giới thiệu bức chân dung trọc lốc, cáu bẳn, không tô son trát phấn của một đất nước nhìn từ đáy lên; chẳng có một thoảng hương nghệ tây hay một làn sari phất phơ trong gió. Bản thân Balram là một nhân vật thú vị, người mà lý do giết người trở nên hoàn toàn dễ hiểu vào đoạn kết, nhưng ấn tượng hơn cả là thực tế cuộc sống Ấn Độ mà Adiga bóc trần: sự tham nhũng, hệ thống giai cấp, sự đồi bại đê tiện trắng trợn. Ủy ban du lịch Ấn Độ sẽ không hài lòng, nhưng bạn sẽ đọc nó và trong nháy mắt thấy mình bị mê mẩn ngay lập tức.” - Andrew Holgate, The Sunday Times (London) “Một cái nhìn thực tế, nhiều lúc hài hước thâm thúy đối với vấn đề giai cấp ở Ấn Độ đương đại... Mặc cho cách hành xử vô liêm sỉ và những sự kết án kì thị, Balram bằng cách nào đó vẫn chiếm được cảm tình độc giả. Có lẽ đó chính là vì cách hành xử vô liêm sỉ của anh ta.” - Daniel Menaker, Titlepage.tv “Một câu chuyện cuốn hút mang chút hơi hướm Dostoevsky, [và] một bức tranh sinh động không mấy dễ chịu về cuộc sống của những nền văn hóa khác nhau trời vực tạo nên Ấn Độ hiện đại... Giọng kể của Balram lôi cuốn và sự quan sát của anh ta mới thật sâu sắc, được đệm bằng sự hóm hỉnh mỉa mai pha lẫn chút ưu buồn... Quyển tiểu thuyết căng thẳng, gây hoang mang này sẽ khiến nhiều độc giả phương Tây mở mang tầm mắt.” - BookPage “Nhạy cảm... Balram là một gã điên thực sự quyến rũ... Một cái nhìn thú vị bên dưới bề nổi của phép màu kinh tế Ấn Độ, bạn sẽ không bao giờ còn nghĩ đến “sự phá hủy sáng tạo” như trước đây nữa.” - Scott Medintz, Fast Company “Thỉnh thoảng mới xảy ra, tiếng nói đơn lẻ ấy phá tan sự phức điệu của một Ấn Độ Tưởng Tượng. Một tiếng nói thách thức sự thông thái cố hữu của trường ẩn dụ Ấn Độ và đem đến những trang sách tăng dần một dấu vết mới về sự trông đợi... Cọp Trắng là tiểu thuyết ra đời trong cái tích tắc đen tối ấy. Là một tác phẩm đầu tay, nó đánh dấu sự xuất hiện của một người kể chuyện luôn tìm cách cân bằng giữa hiện thực xã hội về chốn tồi tàn anh ta chọn làm nhà với chủ nghĩa nhân văn của những kẻ bị ruồng bỏ... Adiga - cựu phóng viên Time đến từ Delhi hiện đang sống tại Mumbai - chính là người kể chuyện đang đạp ga ở cần số bốn.” - S. Prasannarajan, India Today “Mạnh như điện giật.” - The Economic Times (Ấn Độ) “Một trong những tác phẩm chỉ trích xã hội sâu sắc nhất từng được viết về tầng lớp trung lưu Ấn Độ mới... Người đọc sẽ chú ý giọng kể đặc sắc, đậm sắc thái phức tạp của hiện thực nghiệt ngã. Nó đồng thời còn chuyển tải sự khúm núm dường như muôn thuở trong ngôn ngữ người nghèo thôn quê lẫn tiềm năng về một sự lật đổ tiên liệu. Nó phát đi thứ ngôn ngữ của tầng lớp nhà giàu mới, sự hoang đàng lố bịch và thị hiếu lòe loẹt của họ, nhưng vẫn thể hiện một cách nhẹ nhàng đầy hiểu biết... Thể loại viết mà Ấn Độ mới cần nhưng chưa có đủ.” - Nakul Krishna, The New Statesment (Anh) “Một chân dung thông minh và tàn nhẫn của Ấn Độ trong thời kì xây dựng - bất kể tỏa sáng hay nổi lên, nhưng cuối cùng vẫn luôn là chìm xuống - được thể hiện bằng sự hài hước thâm thúy tương thích với sự kiệm lời của tác giả... Sức mạnh thực sự của quyển sách này đến từ việc nó thiếu vắng cảm xúc ủy mị, và từ chủ nghĩa hiện thực mà nó truyền tải.” - The Indian Express “Nực cười, phức tạp... Văn phong tự nhiên và khôi hài đến nỗi quyển sách cũng bị cuốn theo, châm biếm sâu sắc, vừa đủ trêu ngươi... Adiga đưa bạn vào trong bộ não của Balram để bạn từ từ yêu mến anh ta, và khi anh ta cư xử không tốt bạn lại đau khổ, lo lắng và vã mồ hôi. Bạn sẽ không bao giờ quên được cảnh giết người - và những người nghèo bị kẹt trên xe buýt với tôi cũng sẽ không quên. Đây là một trong những tiểu thuyết đầu tay xuất sắc nhất trong nhiều năm gần đây [và] một tiểu thuyết chính trị nhức nhối thể hiện bằng niềm khoái cảm trào phúng hoàn hảo về mặt ngữ nghĩa, một yến tiệc tinh thần phức tạp sẽ khiến bạn bật cười và nghĩ ngợi rất lâu sau khi nó kết thúc.” - Nick DiMartino, Shelf Awareness “Văn học có truyền thống về những kẻ tâm thần đáng cảm thông. Balram Halwai, nhân vật chính trong tiểu thuyết đầu tay ấn tượng của Aravind Adiga, cần phải được kết nạp vào danh sách những kẻ nổi tiếng ấy.” - Financial Times “Một tiểu thuyết diễn tiến nhanh, khôi hài... Adiga thể hiện một tài năng thực thụ không gượng ép... Cọp Trắng khiến chúng ta nghĩ đến nhiều Ấn Độ và nhiều sự kì vọng lẫn thất vọng mà chúng đem lại, nhưng gói gọn trong khuôn khổ một quyển tiểu thuyết hấp dẫn. Đây là một khúc dạo đầu ấn tượng.” - Business Standard (New Delhi, Ấn Độ) “Aravind Adiga đã tạo ra một nhân vật hiểm độc, tự hủy hoại mình, một kẻ mà, bên cạnh tính khôi hài, là phương tiện cho sự quan sát sắc bén về văn hóa và điểm yếu của những kẻ tư sản và những kẻ vô sản ở tiểu lục địa.” - The Age (Melbourne, Úc) “Xuất sắc... [Một] tác phẩm cuốn hút khiến người đọc không thể dừng lại.” - The Straits Times (Singapore) “Hoài nghi, thâm thúy, hài hước và cực kì khốc liệt... Cọp Trắng là một quyển truyện mượt mà mở ra lối đi tắt đến một Ấn Độ hiện đại nhìn từ phía Tối.” - The Statesman (Ấn Độ) “Khuấy động... Người kể chuyện của chúng ta tình cờ... đủ nhân tính để được yêu mến. Adiga trêu ngươi độc giả của mình... còn chúng ta thì bị câu chuyện cuốn lấy.” - The New Zealand Herald “Cực kì chân thực... Một tác phẩm được thừa nhận nồng nhiệt [diễn ra] trên con đường của sự phát triển và sự suy đồi.” - Vikram Johri, St. Petersburg Times (Florida) “Giọng điệu hoài nghi, hân hoan của Balram thâu tóm Ấn Độ hiện đại: chẳng có trữ tình hoài niệm gì ở đây cả, chỉ có hiện thực ngồn ngộn.”- Kate Saunders, The Times (London) “Một tác phẩm khôi hài thâm thúy [và] gấp gáp... Adiga xây dựng tiểu thuyết của mình quanh những người nghèo tưởng tượng, nơi mà sự khôi hài là vũ khí và tội ác là một tên gọi khác của sự khởi nghiệp.” - Arthur J. Pais, India Abroad “Bức tranh [Adiga] vẽ về một Ấn Độ hiện đại, bị giai cấp chi phối và di chuyển theo hướng đi lên, đem lại nhiều thông tin bổ ích, đôi khi thật đáng sợ và trên hết, hài hước một cách thâm thúy.” - The Advertiser (Úc) “Hóm hỉnh và gấp gáp... Cọp Trắng là một lựa chọn thay thế cực kì tinh tế cho vô vàn tiểu thuyết Ấn Độ mang âm hưởng bi kịch [và] là một sự tiếp cận sát sườn mâu thuẫn giai cấp trong đời sống Ấn Độ đương đại, một vở kịch châm biếm dưới hình thức tiểu thuyết viết thư... Một tiểu thuyết mang nhiều tiếng cười thâm thúy... mà chúng ta có thể chia sẻ, đến một mức độ nào đó, và ngược lại rùng mình khi mường tượng những tiếng cười ấy.” - Randy Boyagoda, National Post (Canada) “Điều khiến quyển sách này khác biệt chính là lối giới thiệu không hề lãng mạn về Ấn Độ hiện đại... Nhân vật kể chuyện châm biếm, dễ mến một cách kì lạ của Aravind Adiga đã dọn ra cho người đọc sự tàn nhẫn, hủ hóa và suy đồi của những ngôi làng ở bóng tối rất xa Bangalore náo nhiệt.” - Sarah Vecere, “Hot summer reads,” The Roanoke Times (Virginia) “[Balram] là một màn trình diễn đậm sắc thái trong một quyển sách vừa cực kì tinh tế vừa vô cùng mạnh mẽ. Ấn Độ chưa bao giờ nguyên sơ như thế trong quyển sách đầu tay đáng nhớ này, và hiếm khi bị chỉ trích với một sự giận dữ ấn tượng, xác đáng nhường ấy.” - bn.com “Adiga có con mắt biết quan sát và trí tưởng tượng sâu sắc đến nỗi đã dùng nó để biến Balram trở nên sống động như một nhà bình luận mỉa mai, triết lý về một Ấn Độ đang biến đổi.” -South China Morning Post “Có một Nàng thơ mới thủ thỉ câu chuyện toàn cầu: da nâu, cáu giận, vui vẻ, học hành nửa vời, nhà quê lên tỉnh, vô thần, nhổ trầu, rèn giũa câu chữ - và trong trường hợp của Aravind Adiga, nàng đến từ một thị xã có tên gọi Laxmangarh. Đây chính là tiếng nói chân thực của Thế giới thứ ba, tiếng nói mà bạn chưa từng nghe đến. Adiga là một Gorky toàn cầu, một Kipling hiện đại đã trưởng thành, và trưởng thành bạo liệt. Tương lai tiểu thuyết nằm chính ở đây.” - John Burdett, tác giả Bangkok 8. “Giữa những ảo tưởng to tát về một Ấn Độ “mới nổi”, Aravind Adiga đã tìm thấy đề tài mà Gorgol hẳn sẽ ganh tị. Với giọng điệu hài hước cay độc tinh tế, không khoan nhượng, Cọp Trắng mổ xẻ lòng tham khôn lường của giới nhà giàu; nó đồng thời kích động, với sự chính xác và khoan thai kinh ngạc, cuộc đấu tranh không thể tuyệt vọng hơn của những kẻ cùng khổ.” -Pankaj Mishra, tác giả Những cám dỗ của phương Tây “Cọp Trắng của Aravind Adiga là một trong những quyển sách mạnh mẽ nhất mà tôi từng đọc trong nhiều thập niên qua. Nói không ngoa. Tiểu thuyết đầu tay này giáng trúng tôi như một cú đá vào đầu - giống như hiệu ứng mà Con của đất mẹ của Richard Wright và Người vô hình của Ralph Ellison đã tạo ra vậy. Nhưng Cọp Trắng không nói về giai cấp hay chủng tộc ở Ấn Độ. Nó nói về sự bất công kinh tế to lớn giữa người nghèo và tầng lớp thượng lưu giàu có. Người kể chuyện là một doanh nhân Ấn Độ thuật lại chi tiết quá trình vươn lên đỉnh cao quyền lực. Ấn Độ của anh ta là một khu rừng thối nát tàn nhẫn của Darwin, nơi mà chỉ có kẻ ác mới sống sót. Hãy hình dung anh ta giống như Vito Corleone thời trẻ trong Bố già không chịu trở thành con rối, nhưng lược đi tình cảm ướt át. Đây là một tiểu thuyết tuyệt vời và đầy giận dữ về sự bất công và quyền lực.” - USA Today “Tàn nhẫn và xuất sắc mãnh liệt... Điều Adiga vạch trần cũng là sự thật không thể lay chuyển: không một chi tiết nào trong tiểu thuyết này nghe có vẻ giả tạo hoặc gây cảm giác bịa đặt.Cọp Trắng là một tác phẩm lột trần, thẳng tay lột bỏ lớp vỏ bọc của “Ấn Độ đang nổi lên” để phơi bày quả tim mục nát của nó. Việc tác giả điều chỉnh để mưu kế thâm độc dần trở thành ý tưởng chủ đạo về cuối truyện cho thấy Adiga còn có thể tiến xa hơn nữa. Chúng ta sẵn sàng theo chân anh ấy.” - Neel Mukhrjee, The Sunday Telegraph (London) *** Sự kiện tiểu thuyết Cọp Trắng đoạt giải thưởng văn học Man Booker 2008 đã làm xôn xao văn đàn thế giới lúc bấy giờ. Bởi trong các đề cử chung khảo, tác phẩm đầu tay này của Aravind Adiga, một nhà báo Ấn Độ 33 tuổi, không được xem là ứng viên nặng ký. Cọp Trắng kể về quá trình lập nghiệp của Balram Halwai, con trai người phu xe đến từ một làng quê nghèo khổ ở Ấn Độ, trình bày dưới hình thức một lá thư viết trong bảy đêm gửi thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo. Đó là câu chuyện của cậu bé bị buộc phải nghỉ học để đi làm ở quán trà, rồi trở thành tài xế cho con trai một địa chủ và sau đó thành một doanh nhân thành đạt tại Bangalore. Hành trình của Balram dẫn dắt người đọc đi qua hai Ấn Độ, một Ấn Độ của Ánh sáng, và một Ấn Độ của Bóng tối. Một bên là thế giới của những người thuộc giai cấp thượng lưu, sống trong những căn hộ cao cấp và giải trí bằng những thú tiêu khiển xa xỉ. Bên kia là thế giới của những kẻ bần cùng bị khước từ các điều kiện sống cơ bản nhất. Balram lớn lên từ Ấn Độ của Bóng tối, nhưng không cam tâm sống cuộc đời nghèo khổ để rồi cuối đời thổ huyết mà chết như bố mình. Kẻ được một viên thanh tra giáo dục đặt cho biệt danh “Cọp trắng” đã chứng tỏ mình xứng đáng với tên gọi của “loài vật trong rừng mà mỗi thế hệ chỉ có một con”. Con cọp trắng Balram tinh ranh quỷ quái không trừ một thủ đoạn nào, kể cả giết người, để chạm đến và leo lên vầng hào quang Ánh sáng. Ấn Độ qua giọng kể của Balram là một xã hội trần trụi đầy rẫy bất công. Ở đó, hệ thống giai cấp đã tạo ra chiếc “Chuồng gà” giam hãm những người thấp cổ bé miệng hết đời này qua đời khác. Ở đó, luật pháp bị thay thế bởi những luật lệ nhuốm mùi tiền. Và điều gì sẽ xảy ra khi một ngày, kẻ trong “Chuồng gà” như Balram phá cũi sổ lồng? Đó chính là điều tác giả Aravind Adiga lo sợ. “Tôi ngày càng tin rằng hệ thống chủ-tớ, viên đá tảng của đời sống trung lưu ở Ấn Độ, đang lung lay, và sự đổ vỡ ấy sẽ dẫn đến nguy cơ gia tăng tội ác và sự thiếu ổn định. Tiểu thuyết này là chân dung một xã hội bên bờ vực của bất ổn.” Chủ tịch hội đồng giám khảo giải thưởng văn học Man Booker, ông Michael Portillo, có lẽ hơi quá lời khi đánh giá Cọp Trắng là “một tiểu thuyết hoàn hảo trên nhiều phương diện”. Song những tiếp nhận tích cực của độc giả khẳng định, Cọp Trắng xứng đáng với giải thưởng vì câu chuyện gai góc hấp dẫn khiến người đọc khó lòng bỏ sách xuống cho đến trang cuối cùng, chứ không phải vì sự quan tâm ngày càng tăng của giải thưởng phương Tây đối với các nền kinh tế mới nổi, trong đó có Ấn Độ! Mời các bạn đón đọc ​Cọp Trắng của tác giả Aravind Adiga.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vùng Đất Xannhicôp
Vùng Bắc Băng Dương có nhiều đảo lớn và nhỏ bao quanh, còn khu trung tâm không có đảo. Các đảo thường có băng, tuyết phủ, chỉ trừ một số ít đảo không có băng tuyết trong một thời gian ngắn về mùa hè. Biển bao quanh các đảo cũng thường xuyên đóng băng. Vùng trung tâm không có đảo thường có những lớp băng dày, lâu năm, nước và gió thường xô đẩy những tảng băng ở đây về nhiều hướng. Bất chấp những điều kiện khó khăn, các nhà thám hiểm dũng cảm đã đến vùng Bắc cực, từng bước nghiên cứu vùng này và đã từng sống ở những đảo đó. Người ta đã cố gắng lợi dụng các tảng băng di chuyển để đi vào vùng Bắc Băng Dương, nơi còn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Sự khám phá các đảo mới được bắt đầu từ lâu và ngày nay cũng đang được tiếp tục; chẳng hạn các đảo nhỏ Gianet, Ghenriet, Bennet ở phía đông-bắc quần đảo Nôvôsibirơxcơ đã được phát hiện vào năm 1881; quần đảo lớn mang tên Vùng đất bắc ở phía bắc bán đảo Taimưrơ được phát hiện vào năm 1913; tiếp theo đó, các đảo nhỏ ở vùng biển Carơxkôie cũng được phát hiện. Dù sao, người ta cũng không thể khẳng định là các đảo ở vùng Bắc cực đã được phát hiện hết. Bởi vì ở nơi mà băng di chuyển nhiều, còn có thể có những hòn đảo khác, nếu đi bằng đường biển thì không đến các đảo này được, còn đi theo các tảng băng di chuyển cũng rất khó tới. Nhờ sử dụng máy bay, người ta có thể đến được những nơi trong vùng Bắc cực mà đi bằng đường biển hoặc đi theo băng di chuyển cũng không thể đến được. Song, cho đến ngày nay, người ta vẫn chưa khám phá được các hòn đảo ở vùng Bắc cực, mà những truyền thuyết về chúng được tồn tại đã gần một thế kỷ rưỡi nay rồi. Những người thợ săn dũng cảm đã từng đến các hòn đảo gần lục địa châu Á để kiếm lông thú và ngà voi ma-mút, cả những nhà thám hiểm phương bắc, trong những ngày đẹp trời hiếm có ở phương bắc, đã thấy được các hòn đảo đó từ những điểm cao, nhưng họ không sao đi đến được. Hòn đảo ở về phía bắc quần đảo Nôvôsibirơxcơ được đặt tên là Vùng đất Xannhicôp, do Iacôp Xannhicôp là người đầu tiên trông thấy nó ở tận phía chân trời giữa vùng bằng. Cuốn sách này miêu tả việc những người tù chính trị bị đi đày ở lưu vực sông Indihiroca đi tìm Vùng đất Xannhicôp. Cuốn tiểu thuyết này thuộc loại khoa học viễn tưởng, bởi vì tác giả mô tả một vùng đất tưởng tượng, miêu tả thiên nhiên và dân cư của vùng đất này theo các giả thuyết khoa học. Bạn đọc sẽ làm quen với những hòn đảo Bắc cực, với các điều kiện thám hiểm giữa vùng băng, với thiên nhiên và dân cư ở một vùng đất có thể có được mà chưa ai biết, nếu nó tồn tại theo các giả thuyết mà tác giả nêu lên. Trong chương “Vài lời cuối cùng” bạn đọc sẽ có được lời giải đáp về các giả thuyết nói về vùng đất Xannhicôp, và làm quen chút ít với những phát minh mới mẻ của các nhà khoa học nghiên cứu vùng Bắc cực của Liên Xô, làm sáng tỏ một phần nào về sự bí hiểm của Vùng đất Xannhicôp. *** Nửa đầu cuộc họp trọng thể của hội các nhà bác học để nghe thông báo của các nhân viên trong đoàn thám hiểm đi tìm bá tước Tôn và những người cùng đi với ông ta bị mất tích, đã sắp kết thúc. Trên diễn đàn, cạnh bức tường có trang trí các chân dung lớn của những người bảo trợ có chức tước và các vị chủ tịch của hội, là một sĩ quan hàng hải. Ông này đã từng dũng cảm vượt Bắc Băng Dương trên một con thuyền độc mộc, từ quần đảo Nôvôsibirơxcơ đến đảo Bennet, đây là nơi cuối cùng mà bá tước Tôn dừng lại, và không thấy trở về. Chiếc chao đèn màu xanh hắt bóng mờ lên khuôn mặt rắn rỏi, dầu dãi phong sương của người đang nói, rọi ánh sáng lên bản báo cáo đặt trên diễn đàn và lên bộ đồng phục hàng hải có khuy và huân chương bằng vàng của ông ta. Các ủy viên Hội đồng của hội đang ngồi sau một chiếc bàn dài phủ khăn xanh đặt ở phía trước diễn đàn. Họ đều là những nhà bác học lỗi lạc và những nhà du hành nổi tiếng, hiện đang sinh sống tại thủ đô phía bắc1. Vị chủ tịch ngồi ở giữa. Mắt ông nhắm nghiền, hình như giọng nói nhẹ nhàng của diễn giả đã làm cho ông ta thiu thiu ngủ. Căn phòng nhỏ chật ních người. Báo cáo viên đã miêu tả bước đường của đoàn thám hiểm đi cứu nạn, cuộc hành trình khó khăn khi họ phải dùng những xe trượt tuyết do chó kéo để chở chiếc thuyền độc mộc nặng nề từ lục địa đến quần đảo Nôvôsibirơxcơ, vượt qua vùng băng giá ven Bắc cực. Ông tả lại mùa hè trên đảo Côtennưi trong lúc chờ phá băng, việc đi dọc theo bờ biển rất gian khổ, và vượt qua biển để đến đảo Bennet một cách táo bạo. Ông nêu lên đặc điểm của hòn đảo ảm đạm, quanh năm phủ đầy băng tuyết đó và kể lại việc tìm thấy căn lều nhỏ của Tôn và những vật mà Tôn đã để lại trong lều cùng với tài liệu ghi chép về đảo kết thúc bằng những dòng chữ: “Hôm nay chúng tôi đang lên đường về phương nam. Có đủ thức ăn cho khoảng 15 đến 20 ngày. Tất cả đều khỏe mạnh.” - Như thế là - báo cáo viên cao giọng tuyên bố - ngày 26 tháng 10 năm 1902, bá tước Tôn, nhà thiên văn Dibec và hai thợ săn Vatxili Gôrôkhôp, người Iacut, và Nhicolai Điacônôp, người Tunggut đã rời đảo Bennet vượt qua băng tuyết đi về phương nam, theo hướng quần đảo Novôxibirơxcơ. Nhưng họ không bao giờ tới đích. Chúng tôi biết vậy, bởi vì chúng tôi không tìm ra một dấu vết nào cả. Thế thì điều gì đã xảy ra đối với các nhà du hành can trường ấy? Không còn nghi ngờ gì nữa, họ đã chết trên đường đi. Vào cuối tháng mười, trên các vĩ tuyến ấy, ban ngày không có ánh sáng trời chỉ sáng mờ mờ vào khoảng hai ba giờ lúc ban trưa. Băng giá tới 40 độ; hay có bão tuyết dữ dội. Nhưng mặt biển chưa hoàn toàn bị bao phủ bởi băng giá và có nhiều hồ nước. Các nhà du hành có thể rơi vào một trong những hồ nước mới đóng băng ấy giữa lúc có bão tuyết rồi mất hút. Hoặc họ có thể chết vì kiệt sức, hay lả đi vì đói, và vì băng giá trong khi phải chống chọi với các tảng băng. Vì không có chó, họ buộc phải kéo lê những xe trượt tuyết nặng trĩu, xuồng và đồ đạc. Hoặc cuối cùng, gặp một cơn bão, họ chết đuối trong đêm đen Bắc cực giữa lúc cố gắng vượt qua vùng biển chưa đóng băng trên những chiếc xuồng mỏng manh, Bằng cách nào thì họ cũng yên giấc ngàn thu dưới đáy Bắc Băng Dương, còn như tôi đã cố gắng chứng minh cho các vị: Vùng đất Xannhicôp mà Tôn đi tìm từ lâu nay, thực ra không có. Người nói bước khỏi diễn đàn. Câu kết luận của ông ta đã làm cho những người nghe ngán ngẩm. Bỗng người ta nghe thấy một giọng nói to từ phía hàng ghế cuối vọng lên; Dầu sao - tôi bảo là - nó vẫn có! Cả gian phòng náo động. Người ta nghe thấy những câu hỏi: - Ai thế? Sao kỳ quặc vậy? Vị chủ tịch nghiêm nghị nhìn quanh và rung chuông. Khi trật tự đã trở lại, ông ta nói giọng oai nghiêm. - Tôi muốn rằng toàn thể hội nghị và các vị khách, chúng ta hãy đứng dậy mặc niệm những nhà du hành gan dạ đã sống trọn đời cho khoa học: bá tước Tôn, nhà thiên văn Dibec và hai thợ săn Gôrôkhôp và Điacônôp. Mọi người đứng cả dậy. - Tôi tuyên bố nghỉ giải lao mười lăm phút. Những người ngồi gần cửa vội vàng tuồn ra ngoài. Các ủy viên của Hội đồng vây lấy người nói, trong khi đó người ta thấy một hội viên có thân hình đẫy đà, viện sĩ Sencơ, đang lách qua đám đông đến những hàng ghế cuối. Ông ta là nhà thám hiểm nổi tiếng, người tổ chức và là cố vấn của đoàn thám hiểm của bá tước Tôn. Giữa sự ồn ào của tiếng ghế xô đấy, tiếng trò chuyện của đám đông, vang lên giọng nói to của ông ta: - Tôi xin mời vị nào đã quá tin rằng Vùng đất Xannhicôp là có thật, nói chuyện với tôi. Đáp lời mời này, một người trẻ tuổi mặc áo choàng dài màu đen, tách khỏi đám đông thính giá. Khuôn mặt ngăm đen của anh ta đầy những vết nhăn nhỏ xíu, kết quả của nắng hè, băng giá mùa đông và những cơn gió bão. - Tôi nói vậy và nếu cần, tôi sẽ nhắc lại một lần nữa,- anh ta tuyên bố sau khi tiến lại gần Sencơ. - Ta hãy đến thư viện; không thể nói chuyện trong tình trạng hỗn độn này được,- Sencơ vừa nói vừa nhìn người trẻ tuổi hăng hái bằng con mắt xoi mói ẩn dưới đôi lông mày rậm, Khoác tay người lạ mặt, Sencơ dẫn anh ta qua cửa bên đi đến những phòng ở phía sau của thư viện. Đây là văn phòng của hội. Trong phòng im ắng và trống rỗng. Viện sĩ ngồi lên ghế của thư ký rồi ra hiệu cho người cùng đi với mình ngồi sang ghế bên. Ông châm một điếu thuốc và nói: - Tôi nghe đây. Tôi muốn nghe điều ông biết về Vùng đất Xannhicôp. - Điều đầu tiên là hãy cho phép tôi nói với ông tôi là ai, - anh ta nói. - Đã năm năm, tôi là một tù chính trị, bị đày biệt xứ ở một làng tên gọi Cadatric tại cửa sông Iana, trong xứ sở của gấu, hay nói cho đúng hơn là của những con gấu Bắc cực. Ở đó tôi đã làm quen với những thợ săn địa phương. Theo cách nhìn văn hóa của thủ đô thì họ là những con người cục cằn và dốt nát, nhưng họ tốt bụng và dũng cảm. Mỗi năm xuân đến, khi ngày trở nên dài hơn và băng vẫn rắn, họ quả cảm đến quần đảo Nôvôsibirơxcơ để lùng ngà voi ma-mút, ở đây có rất nhiều... Một số thợ săn đã thấy rõ ràng Vùng đất Xannhicôp và tin chắc rằng nó có thật. - Điều đó cũng chưa đủ để thuyết phục! - Sencơ nhận xét. - Ông biết chứ, diễn giả đã bảo rằng những ngọn núi mà Xannhicôp và Tôn đã thấy chỉ là những dãy núi băng khổng lồ. Để có thể đứng ở đảo Côtennưi nhìn thấy được những ngọn núi của vùng đất tưởng tượng ấy thì chúng phải cao ít nhất là hai nghìn hai trăm năm mươi mét. Khó mà tin rằng có những ngọn núi cao như thế ở Bắc Băng Dương. - Đó chỉ là điều phỏng đoán chứ không phải là sự thật! - Hơn nữa, trước khi đặt chân lên đảo Bennet, Tôn đã uổng công đi tìm vùng đất ấy trên chiếc du thuyền “Rạng đông” chở ông ta, đi gần chỗ mà người ta cho là vùng đất. - Điều này chỉ chứng tỏ rằng vùng đất ở xa hơn về phương bắc chứ không gần đảo Côtennưi như Xannhicôp và những người khác đã tưởng, họ thấy nó nhưng không ước lượng được khoảng cách một cách chính xác, - người trẻ tuổi cãi lại. - Ông nói đúng! - Sencơ nói... - Nhưng sự thật, ngoài những chứng cứ này ra, ông sẽ đồng ý với tôi rằng đây chỉ là những chứng cứ bấp bênh, chúng ta không có gì khác, hay nói đúng hơn, không có gì xác thực để xét, ngoài việc những đàn chim di cư về một nơi nào đó ở phương bắc. - Tại sao ông nghĩ rằng dấu hiệu đó lại không đầy đủ tính chất xác thực? - người trẻ tuổi ngạc nhiên hỏi, - Vranghen đã viết về điều này, Maiden xác nhận nó, còn nhân dân địa phương chỉ rõ rằng vào mùa hè có hàng đàn chim sống trên bờ biển phía bắc của Xibiri, trừ hai nơi: nơi thứ nhất nằm giữa sông Khrôma và sông Ômôlôi, nơi thứ hai bắt đầu khoảng năm mươi cây số về phía tây của mũi Tacan và kéo dài đến mũi Riacaipi2. Trong những nơi này, số lượng chim không đáng kể, nhưng nhân dân ở đây thấy có những con chim bay về phương bắc. - Từ dải đất ở phía tây, chim bay về quần đảo Nôvôxibirơxcơ, trong khi từ dải đất ở phía đông, chim bay đến đảo Vranghen, - Senco bác lại. - Trước kia người ta nghĩ thế, nhưng thực ra không phải như vậy. Đảo Vranghen rất cao, lởm chởm đá và hầu như cả mùa hè tuyết phủ. Cũng có một số ít nơi trên đó các loài chim như ngỗng và vịt có thể làm tổ. Nhưng chúng ta chú ý nhiều hơn đến dải đất phía tây. - Phải rồi, từ đây, bầy chim bay về quần đảo Nôvôxibirơxcơ.   Mời các bạn đón đọc Vùng Đất Xannhicôp của tác giả Vlađimia Ôbrutrep.
Hồ Thùy Dương
Tại Nam bộ châu Á có một bán đảo nhỏ tên Oa-ly-đà, núi non hiểm trở dân cư phần đông tụ tập ở miền đồng bằng phía Đông Nam ngay sát bờ biển. Tại miền Bắc Oa-ly-đà ngay chính giữa khoảng núi non trùng điệp rừng cây sầm uất, có một cái hồ thật rộng, xung quanh mọc thuần một thứ cây thùy- dương, vì vậy người Oa-ly-đà gọi là Hồ Thùy Dương. Các ông già bà cả xứ Oa-ly-đà trước đây vẫn thường kể cho con cháu nghe về sự tích cái hồ đó, lời các cụ kể mộc mạc. Về sau các thi sĩ Oa- ly-đà bèn kể lại thành khúc trường ca phổ nhạc, lời thơ chải chuốt bóng bẩy với nhiều tình tiết tỉ mỉ. Rồi vào những đêm xuân mở hội có trăng tròn, người ta vừa gẩy đàn vừa kể hoặc vừa hát chodân chúng nghe. Thường thường dân chúng tụ tập để nghe chuyện từ lúc trăng rằm vừa nhô cao lên khỏi dãy núi ngoài khơi. Dân chúng lặng yên nghe lời ca, nghe tiếng đàn, nhiều khi cùng vỗ tay giữ nhịp đồng ca với thi sĩ hoặc đứng lên làm điệu bộ hợp với lời thơ. Đêm dài thành ngắn. Khi câu chuyện vừa chấm dứt, dân chúng ra về thì trăng rằm thường cũng vừa kịp lặn, vừng đông hơi ửng hồng, cỏ hai bên đường đẫm sương. Những hình ảnh đó như nhắc nhở dân chúng nhớ lại biết bao tình tiết trong câu chuyện kể thâu đêm vừa qua. Khúc nhạc-thi này chia làm ba hồi rõ rệt. *** Ngày xưa khoảng Hồ Thùy Dương này là một khu rừng quế tuyệt đẹp. Thân quế cao vút, cành quế ẻo lả rủ xuống như cánh tay của bầy tiên nghiêng múa. Tới mùa xuân năm kia có một con sói về đó ở. Nguyên nó là một con sói tu luyện lâu ngày đã thành tinh, hiện hình người, đi trên hai chân, duy cái đuôi vẫn còn. Sở dĩ con sói tu luyện được như vậy vì nó là con sói dị tướng lông ba sắc, đầu đen mình hung hung đỏ, và đặt biệt đuôi trắng xòe ra như bông lau. Trước đây hồi còn tu luyện trên núi Li-biêng, một ngọn núi cao quanh năm tuyết phủ miền cực Bắc, con sói có lần thấy một khối đá bị nước soi mòn để lộ bên trong thỏi ngọc quý dài như chiếc đũa, óng ánh màu biếc. Nó bèn đem thỏi ngọc đến Hang Trời. Hang Trời là một động đá thông suốt hai bề, hình hàm rồng. Chính là nơi tụ tập khí thiêng của trời đất. Gió từ bốn phương rừng núi lùa lại ngát hương. Ánh sáng mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao ngày đêm phản chiếu lấp lánh muôn mầu trên thành thạch nhũ khiến bất cứ giờ nào tại nơi đây cũng có một màu ánh sáng huyền ảo lân lâng đạc biệt của chốn thần tiên. Ngay giữa động Hang Trời có một phiến đá phẳng màu trắng trong. Phiến đá này trước đây chỉ là một phiến đá thường. Tục truyền, sau lần Thượng Đế giáng lâm an tọa trên đó qua mấy ngàn năm sau nó biến thành trắng phau và hầu như trong suốt như vậy. Do linh tính đặc biệt của loài yêu, con sói đuôi xòe đem thỏi ngọc đến đặt ngay chính giữa phiến đá. Nó biết rằng chờ ba trăm năm sau, thỏi ngọc sẽ thu hút tinh khí mặt trời ban ngày, trăng sao ban đêm, cùng hương gió bốn phương của núi rừng để biến thành chiếc đũa vạn năng. Ba trăm năm qua. Con sói đã tu luyện hiện được thành hình người nhưng nó chưa thể sử dụng được chiếc đũa vạn năng vì nó chưa thành người thật, mà còn là loài sói với cái đuôi xòe đằng sau. Vẫn với linh tính loài yêu, con sói đuôi xòe biết rằng nó cần phải uống máu hai giống người khác nhau thì cái đuôi của nó mới biến đi được. Nhưng nó không dám tự mình đi vồ hai giống người kia vì nó biết chiếc đũa vạn năng sẽ mất hết linh ứng dưới tay một kẻ phạm tội hung ác. Nó chợt nghĩ ra được một quỷ kế, không tự tay giết ai mà vẫn có đủ máu hai giống người để uống cho đuôi xòe biến đi. Lập tức nó từ giã đỉnh núi Li-biêng đằng vân bay mãi… bay mãi xuống miền Nam. Tới khu rừng quế nước Oa-ly-đà, nó xem kỹ hình thế rồi quyết định dừng lại. Sở dĩ con sói đuôi xòe chọn rừng quế này làm nơi thi hành xảo kế vì ngang qua khu rừng có con đường lớn đưa ra biển, các giống người ở giữa đại lục vẫn mượn con đường này để liên lạc thông thương cùng các giống người khác ở ven đại dương.   Mời các bạn đón đọc Hồ Thùy Dương của tác giả Doãn Quốc Sỹ.
Chỉ Tại Vợ Tôi Gợi Tình
Đàn ông sinh ra là dành cho đàn bà, sự thật ấy ai dám chối cãi. Thế mà Hector lại không như thế. Gã sinh ra là để... dành cho đồ vật. Bởi gã ấy, từ thuở cha sinh mẹ đẻ, phàm là đồ vật, cái gì gã cũng sưu tầm, từ tem thư, huy hiệu, giấy gói sô cô la đến giấy khai sinh, xiên hoa quả, hộp đựng xà phòng, ngạn ngữ Croatia, vỏ sò Ấn Độ Dương, những thanh âm lúc 5 giờ sáng... Người ta cũng nói thế này: “cố quá thành quá cố”. Gã suýt “quá cố” vì cái thú sưu tầm quái gở ấy. Và gã quyết chí: LẤY VỢ! Cái quyết định được kỳ vọng sẽ hướng cuộc đời gã về bến bờ bình yên của hạnh phúc lứa đôi ai ngờ lại đẩy gã vào những tình huống tai quái mới, tất cả đều cùng một nguyên nhân: “CHỈ TẠI VỢ TÔI GỢI TÌNH!" Nhận định Chỉ tại vợ tôi gợi tình! là một bộ sưu tầm những trang sách buồn cười, nơi cái điên và cái hài tranh chấp nhau từng dòng một. Thậm chí, có lúc còn tằng tịu với nhau!” - (La Libération) “Vẫn luôn hài hước, chưa bao giờ lạc điệu, David Foenkinos nổi bật lên trong làng văn chương theo một cách thật thú vị.”- (Livres Hebdo) “David Foenkinos đã có một bộ sưu tầm những từ đắt và những phản ứng kỳ cục.” - (Télérama) *** Không khí hài hước ngập tràn trong tác phẩm "Chỉ tại vợ tôi gợi tình!", không chừa một nhân vật chính phụ nào, một cái hài rất "dị" nhưng đã được tiết chế một cách logic hơn so với 2 tiểu thuyết đầu tay của David Foenkinos. Chọc cười độc giả không bao giờ là đơn giản đối với một tiểu thuyết, vốn bị tước mất những hiệu ứng sinh động từ điệu bộ hay sự trầm bổng của giọng nói. Một tiểu thuyết đã được coi là “hài hước” khi có thể khiến người đọc mỉm cười hoặc cảm thấy “âm ỉ sướng” chứ chưa cần bắt được người bật cười ha hả. Thế nhưng "Chỉ tại vợ tôi gợi tình!" lại vượt qua được thách thức đó và độc đáo hơn, chỉ bằng lối trần thuật đơn giản. Bởi không việc gì phải cố hiểu ra đầu ra đũa, ta quá thường xuyên lãng phí hạnh phúc khi cố phân tích nó. Trái ngược với hai tiểu thuyết đầu tay, ở "Chỉ tại vợ tôi gợi tình!", David Foenkinos đã chế ngự thành công chất “dị” trong cách viết của mình với một cốt truyện logic, tránh được những lúc dông dài và “mất tự chủ”. Mọi chuyện bắt đầu từ một điều khó tin: nhân vật chính, Hector, quyết định tự kết liễu đời mình! May thay, anh thoát chết và thế là độc giả được tận mắt chứng kiến cái chứng bệnh quái gở của anh: hội chứng cuồng sưu tầm. Để “cai nghiện”, anh quyết định lấy vợ. Bởi người ta không thể sống cả đời với một cái xiên hoa quả. Nhưng sự đời đâu có giản đơn như thế. Hector, một con người vốn quen với nỗi cô đơn, xa lánh người đời, giờ phải sống chung với một người phụ nữ có thể nói là “xa lạ” (họ đã trúng tiếng sét ái tình), phải tập quen với những chuyến viếng thăm định kỳ gia đình đôi bên. Tất nhiên, chuyện rồi sẽ kết thúc tốt đẹp, nhưng theo cách như thế nào thì có thể dám chắc rằng không ai ở đây có thể tưởng tượng nổi những diễn biến quái gở ấy. Cái tài của Foenkinos có lẽ chính là việc tạo dựng được không khí hài hước cho toàn bộ câu chuyện, không chỉ với nhân vật chính Hector, mà còn với dàn nhân vật phụ hùng hậu và “cực chất”. Đầu tiên phải kể đến bố mẹ Hector, một người cha sống chết với bộ ria của mình (để ria là có ý cả, kiểu như một hành động tuyên truyền) còn bà mẹ dành cả đời chỉ tâm huyết với việc nấu sao cho món xúp thật ngon, nhưng đến cuối lại rơi vào một cơn trầm cảm không thể có lối thoát chừng nào chưa trút hơi thở cuối cùng bởi bà nhận ra rằng xã hội hiện đại đã cung cấp những món xúp ăn liền ngon tuyệt. Và tất nhiên, không thể không nhắc đến Ernest, anh trai của Hector, nhà vô địch về hạnh phúc và người anh cao cả với tinh thần anh em như thể tay chân. Đặc biệt là Gérard, ông anh rể khù khờ, cua rơ huyền thoại của giải đua xe đạp Ouarzazate-Casablanca (xin độc giả đừng thắc mắc vội, bởi cái giải này từ trước tới nay chỉ có duy nhất một nhà vô địch là anh ta, người đã bịa ra nó.) Có thể nói "Chỉ tại vợ tôi gợi tình!" là độc đắc trong thể loại của nó, như tiếng chuông lanh lảnh, hoang dại, điên khùng rung lên theo phần nhạc đệm êm đềm nhưng nhí nhố, đôi khi lại vống lên những nhịp cao trào cuồng nhiệt. Đây cũng là tác phẩm mang lại cho David Foenkinos thành công lớn với Giải Roger-Nimier năm 2004. *** Hector rất có tướng người hùng. Nhìn gã, người ta tưởng đâu hừng hực khí phách “giữa đường thấy chuyện bất bằng chẳng tha”, bất chấp mọi hiểm nguy của cõi nhân tình thế thái chúng ta, tưởng đâu phải hớp hồn hết thảy đám đàn bà con gái, phải sẵn sàng tổ chức những kỳ nghỉ gia đình, phải xởi lởi bắt chuyện với bà con chòm xóm đi chung thang máy, hay, cao cấp hơn, phải cảm được phim của David Lynch. Gã ắt hẳn sẽ thuộc hạng người hùng của thời đại chúng ta, nếu có thêm cơ bắp cuồn cuộn. Thế mà bỗng đâu gã quyết định tự tử. Tạ ơn trời, có thế người ta mới nhìn nhận tốt hơn về người hùng. Hẳn là có chút tâm đắc nào đó với những cảnh phim, gã chọn ga tàu điện ngầm. Tất cả mọi người đều sẽ biết đến cái chết của gã, đó sẽ giống như một buổi họp báo giới thiệu một bộ phim không bao giờ khởi quay. Hector đung đưa người khe khẽ khi lắng nghe, vì lịch sự, những lời khuyến cáo sang sảng để không vội mua vé xem phim; rủi gã chết hụt, nhớ lại điều này cũng sẽ hữu ích. Người ta chẳng biết gì về gã, vậy nên người ta ít nhiều mong sự rủi này, ít nhất cũng để biết liệu có nên trông mặt mà bắt hình dong hay không. Cái gã tướng tá người hùng này thế mà điên. Gã bắt đầu nhìn mờ dần, những viên thuốc nhằm mục đích gây ngủ đã được nốc sớm quá. Chết trong lúc ngủ thì vẫn tốt hơn. Rốt cuộc, chuyện đó thành ra may mắn, bởi vì Hector lăn ra ngất. Trong mắt gã, người ta chẳng nhìn thấy điều gì. Gã được phát hiện nằm sõng soài trên hành lang ga tàu điện ngầm, gần Châtelet-Les Halles hơn là gần cái chết. Cơ thể gục xuống của gã trông như một thai nhi bị phá bỏ. Hai người khiêng cáng tướng tá như mấy tay vận động viên dùng đẫy thuốc kích thích (nhưng giờ không thể trông mặt mà bắt hình dong được) vừa giải cứu gã khỏi mọi cái nhìn của đám dân lao động đang âm ỉ sướng khi trông thấy cái tình cảnh còn thảm hơn của họ. Hector chỉ nghĩ độc một điều: vì tự tử hụt, gã vừa bị ép phải sống. Gã được chuyển đến một bệnh viện mới vừa được sơn sửa lại; nên dễ hiểu là người ta có thể thấy khắp nơi dòng chữ “sơn mới”. Vài tháng tới, gã sẽ tha hồ buồn chán trong cái khoa dành cho người hồi sức này. Chẳng mấy chốc, cái thú duy nhất của gã đã định hình: vừa ngắm cô y tá vừa tơ tưởng được vuốt ve bầu ngực nàng. Gã cứ đắm đuối với cái thú này, cho đến khi thừa nhận cô ả quá xấu. Gã lay lắt sống trong cái tình cảnh sự xấu phải nói là huyền thoại. Nói thế có phần nghiệt ngã quá; vì cô ả có thể rất gợi tình giữa hai mũi moóc phin. Và còn có tay bác sĩ, chốc chốc lại lướt qua như thể đi vũ hội. Những cuộc gặp gỡ hiếm khi quá một phút, và nhất định phải ra cái vẻ vội vội vàng vàng để chăm chút cho tiếng tăm của hắn (tiếng tăm, đó đúng là thứ duy nhất hắn chăm chút). Cái tay có nước da rám nắng đáng ngạc nhiên này bắt gã thè lưỡi ra chỉ để kết luận rằng gã có một cái lưỡi đẹp. Kể cũng tốt nếu có một cái lưỡi đẹp, ta cảm thấy thoải mái với một cái lưỡi đẹp, với Hector, thế chẳng khác gì có cặp chân đẹp. Gã không biết chính xác mình đang chờ đợi gì, đó là cơn trầm uất rền rĩ từ sâu thẳm lòng gã. Người ta đề nghị gã liên hệ với gia đình hoặc bạn bè nếu như may mắn còn ai đó (một cách kín đáo, người ta bóng gió về khả năng nên thuê lấy một người). Những gợi ý này đều bị từ chối bằng một sự im lặng kém lịch duyệt, cũng phải châm chước cho gã. Hector không muốn gặp bất kỳ ai. Chính xác hơn, và giống như hết thảy người ốm, gã không muốn để ai thấy gã như lúc này. Gã xấu hổ phải là thằng người mấp mé giữa chả là cái thá gì và còn không bằng cả cái thá gì. Gã đã gọi cho một người bạn và lòe anh ta rằng gã đang ở nước ngoài, khe núi Grand Canyon tuyệt vời, cái vết nứt đáng mặt vết nứt ấy; và gã gác máy, trong khi, chính gã, mới nứt toác như Grand Canyon. Cô y tá thấy gã đáng mến, cô thậm chí đã nói với gã rằng gã là một người đàn ông đặc biệt. Liệu ta có thể ngủ với một người phụ nữ thấy ta đặc biệt? Đấy quả là một câu hỏi lớn. Trước tiên, không nên: cứ cho là phụ nữ có bao giờ ngủ đâu, thế thôi. Cô gái quan tâm đến chuyện của gã; cuối cùng, thứ cô biết về chuyện đời gã, chỉ là hồ sơ bệnh án. Khó có thể nói trong ấy ẩn chứa các chi tiết đắt giá hơn. Liệu có tồn tại cô gái ấy, người sẵn sàng hiến dâng cơ thể cho bạn bởi vì cô nàng yêu cái cách bạn không bao giờ quên đi tiêm nhắc lại một mũi vắc xin 3 trong 1? Ồ, anh làm em hưng phấn đấy, người đàn ông đích thực của vắc xin. Cô y tá gãi cằm, rất thường xuyên. Những lúc ấy, cô nàng tự cho mình là bác sĩ; phải nói là cũng có đất diễn cho vai đó. Khi ấy cô thường tiến sát lại giường Hector. Cô nàng dù gì cũng có cái cách vuốt qua vuốt lại bàn tay một cách đầy nhục cảm trên tấm ga trải giường trắng muốt, những ngón tay cô được chăm sóc cẩn thận như cặp chân trên bậc câu thang, chúng đang sải những bước dài qua sắc trắng. Người ta thả gã ra vào đầu tháng Ba, mà xét cho cùng, ngày tháng đâu có nghĩa lý gì, mà thật ra chẳng cái thá gì có nghĩa lý. Bà gác cổng, một bà cô mà chẳng còn mấy ai có thể đoán được tuổi, làm ra vẻ lo lắng về sự vắng mặt của người khách thuê nhà. Các bạn biết đấy, cái vẻ lo lắng giả tạo, cái kiểu mơ tưởng đang ở năm 1942, với chất giọng the thé chói đến độ nếu đứng cạnh đường ray, hẳn đủ làm trật bánh cả đoàn tàu. “Thưa ngài Balanchiiiine, rất vui lại được thấy ngài. Là tôi, tôi rất lo lắng...” Hector không phải thằng đần; vì gã vắng mặt đã hơn sáu tháng, mụ hẳn cố vòi ít tiền quà cho Giáng sinh vừa rồi. Không muốn dùng thang máy, đặc biệt là ngại chạm mặt một ông bà hàng xóm nào đấy và phải trình bày, kể lể cuộc đời mình, gã lê thân lên thang bộ. Gã thở phì phò thành tiếng, và người ta xúm lại bên các cửa sổ. Gã đi đến đâu, người ta mở cửa chính ra đến đấy. Thậm chí hôm đó còn không phải là Chủ Nhật, tòa nhà này toàn người vô công rồi nghề đến phát sợ. Và thể nào cũng có một gã hàng xóm say khướt nào đó - giữa họ và chúng ta hẳn có nhiều điểm chung như là hai đường thẳng song song - sẽ nằng nặc đòi bạn phải tạt qua nhà. Tất cả chỉ để được hỏi ba lần “Thế nào, đằng ấy khỏe chứ?” và trả lời đủ ba lần “khỏe cả, đằng ấy thì sao?” Tình thân ái khó mà chịu nổi; khi người ta vừa hết thời kỳ dưỡng bệnh, có lẽ người ta sẽ thích sống ở Thụy Sĩ1. Hay, nếu được, tốt nhất là làm một cung phi trong lãnh cung. Gã viện cớ một cơn đau gan để cáo lui về nhà, vậy là chắc mẩm nhận được câu hỏi: “Không phải anh mang theo bệnh xơ gan về từ chuyến đi nghỉ đấy chứ?” Hector nở một nụ cười và tiếp tục đoạn đường vòng. Cuối cùng, gã mở cửa và ấn lên công tắc để bật điện. Chẳng có thứ gì thay đổi, tất nhiên. Chỉ có điều, với Hector dường như nhiều cuộc đời đã trôi qua; người ta ngửi thấy mùi thác sinh. Bụi đã toàn quyền chăm sóc căn hộ, trước khi buồn chán quá mà sinh sôi nảy nở thêm. Đêm buông xuống, giống như mọi tối. Gã pha một tách cà phê, cốt để mang lại ít không khí bình thường cho chứng mất ngủ của mình. Ngồi trong bếp, gã lắng nghe tiếng chân mèo đi trên máng xối; gã chỉ biết làm thế. Gã nghĩ về tất cả thư tín đã không nhận được. Ánh mắt gã dừng lại trên tấm gương nhỏ mua tại một tiệm đồ cũ, gã vẫn còn nhớ như in cửa tiệm này và kỷ niệm đó nhanh chóng làm gã khiếp sợ. Cơn sốt sình sịch vào cái ngày gã mua nó lại ập về, giống như người ta cảm nhận được mùi của một con người chỉ bằng cách nhìn ngắm bức ảnh của họ. Gã nhất định không được nghĩ về nó, tất cả đã kết thúc; gã đã khỏi bệnh. Không đời nào còn chuyện gã bước chân vào một tiệm đồ cũ mua một tấm gương nữa. Gã tự ngắm mình chốc lát. Khuôn mặt gã, sau sáu tháng dưỡng bệnh, có vẻ đã khác. Tương lai, lần đầu tiên trong đời, gã hình dung nó sẽ ổn định; dĩ nhiên, gã nhầm. Nhưng chẳng ai ở nơi đây - còn - hơi đâu làm phiền lòng gã trong ảo mộng về sự phát triển này. Và trước khi tiến tới cái tương lai đó, ta có thể lùi lại nhìn về quá khứ chưa xa lắm. Mời các bạn đón đọc Chỉ Tại Vợ Tôi Gợi Tình của tác giả David Foenkinos
Kẻ Trộm Giấc Mơ
Vào khoảng hai tuần trước khi bị bắn chết, Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln đã  mơ thấy hình ảnh chính bản thân mình bị ám sát. Trước khi anh trai mất mạng trong một vụ nổ, nhà văn Mark Twain đã mơ thấy thi thể của anh mình nằm trong một cỗ quan tài. Những sự kiện có thực, những cái chết có thực… nhưng lại được báo trước ở trong cõi hư ảo do chính con người vẽ nên. Chuyện gì sẽ xảy ra… Khi giấc mơ không đơn thuần chỉ là giấc mơ? Khi sự đấu tranh giữa tham vọng và sự sống trở nên vô cùng khốc liệt? Sợi dây liên kết giữa mộng và thực sẽ đi về đâu khi mà một ngày kia, con người bỗng có khả năng đi vào giấc mơ của nhau? “Kẻ trộm giấc mơ” của Yasutaka Tsutsui - cuốn tiểu thuyết giả tưởng lừng danh về đề tài tâm lý học - có thể sẽ cho bạn một câu trả lời thỏa đáng. Paprika – cô gái tự xưng là thám tử giấc mơ - luôn che giấu danh tính thực sự của mình là Chiba Atsuko, chuyên viên tâm lý hàng đầu Nhật Bản. Với mục đích chữa bệnh, Paprika đã phát minh ra DC Mini, một thiết bị có khả năng giúp các bác sĩ tâm lý xâm nhập vào giấc mơ của bệnh nhân. Mọi việc có lẽ vẫn sẽ tốt đẹp nếu như một ngày kia, 3 chiếc DC Mini không bỗng dưng… biến mất?! Trong cuộc hành trình tìm lại DC Mini của Paprika, những góc khuất đen tối của một xã hội Nhật Bản tù túng đến nghẹt thở đã dần hiện ra. Hóa ra bên trong những lớp mặt nạ che giấu đi bản ngã thực sự, con người đang ngày càng cảm thấy trống rỗng đến vô hồn. Dựa trên học thuyết nổi tiếng về biện giải giấc mơ của nhà tâm lý học đại tài – Sigmund Freud, “Paprika - Kẻ trộm giấc mơ” của Yasutaka Tsutsui không chỉ là một cuốn tiểu thuyết mang yếu tố phiêu lưu giả tưởng đơn thuần, mà đan xen bên trong nó còn lột tả những gì trần trụi nhất trong nội tâm con người ẩn sau những giấc mơ tưởng chừng như đẹp đẽ. *** YASUTAKATSUTSUI Sinh năm 1934 tại Osaka, tốt nghiệp Đại học Doushisha chuyên ngành Văn học. Những tác phẩm tiêu biểu bao gồm: Oinaru joso, Kyojin tachi (đoạt giải thưởng văn học Izumi Kyoka), Asa no gasuparu (đoạt giải thưởng lớn cho tác phẩm khoa học viễn tưởng Nhật Bản), Watashino guranpa (Đoạt giải thưởng văn học Yomiuri)... *** Tokita Kousaku chậm chạp bước vào phòng điều hành. Thân hình anh dễ phải nặng đến hơn trăm ký. Không khí trong phòng nóng nực và đặc quánh. Phòng điều hành của Tập đoàn tài chính Viện Nghiên cứu Tâm thần học thường chỉ có hai cán bộ thường trực là Tokita Kousaku và Chiba Atsuko, nhưng có tới năm chiếc bàn làm việc. Bàn của hai người được đặt trong góc, cạnh cửa sổ. Phòng điều hành ngay sát phòng nhân viên, vì cửa kính ngăn cách hai bên lúc nào cũng mở toang nên phòng điều hành nhìn giống như phần mở rộng của phòng nhân viên vậy. Chiba Atsuko đặt chiếc bánh mỳ sandwich cùng tách cà phê cô mới mua ở cửa hàng tiện lợi trong Viện lên bàn. Cô không muốn ăn. Đã từ rất lâu, mọi bữa trưa của Atsuko đều như thế này. Thực ra cũng có nhà ăn chung để bệnh nhân và nhân viên trong Viện dùng bữa, nhưng thức ăn thường dở đến không thể nuốt nổi. Vì chẳng có cảm giác thèm ăn nên Atsuko không phải lo lắng về chuyện tăng cân, cô luôn giữ được vẻ ngoài xinh đẹp cần thiết để sẵn sàng tiếp nhận phỏng vấn với đài truyền hình bất cứ lúc nào, thế nên có thể coi đó là một điều may mắn. Nhưng đáng tiếc thay, ngoài việc sử dụng sắc đẹp vì mục đích trị liệu cho bệnh nhân, cô chẳng mảy may quan tâm gì tới diện mạo của bản thân cũng như đài truyền hình. “Đang có tin đồn bệnh tâm thần phân liệt có khả năng lây nhiễm nên mọi người hoảng hốt lắm”, Tokita nói, đặt thân hình đồ sộ của mình vào chỗ ngồi bên cạnh Atsuko. Một chuyên viên trong Viện đã nhiễm chứng hoang tưởng. “Giờ ai cũng sợ không dám đụng đến máy quét và máy chiếu nữa.” “Phiền thật nhỉ”, bản thân Atsuko chẳng nhớ đã trải nghiệm chuyện đó bao nhiêu lần, từ xưa đến nay ai ai cũng biết các chuyên viên tâm lý đều sợ bị nhiễm bệnh tâm thần phân liệt. Thậm chí còn có người ba hoa rằng bệnh có thể lây qua màng nhầy như mụn rộp. Từ khi những máy móc trị liệu tâm thần tân tiến như máy quét và máy chiếu được đưa vào sử dụng, nỗi lo ngại đó càng lúc càng trở nên có căn cứ hơn. “Chỉ những chuyên viên không muốn thấu hiểu bệnh nhân hay có xu hướng thích ‘đổ thừa’ mới hay lo lắng thế. Mà đúng ra, trải qua chuyện đó họ mới có cơ hội tự chữa trị cho bản thân trên cương vị một nhà tâm thần học chứ.” “Đổ thừa” ở đây nghĩa là, khi không thể kết nối với bệnh nhân, bác sỹ trị liệu thường đổ lỗi cho những bất ổn về tâm lý mà bệnh nhân đang gặp phải. Đó chính là cơ sở của việc chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt hai mươi năm trước. “Trời ơi, lại ngưu bàng xào cà rốt với gà chiên kiểu yuan* nữa à!”, Tokita mở nắp hộp cơm bento mẹ làm cho, bĩu đôi môi dày, phàn nàn với vẻ bất mãn. Anh sống cùng mẹ trong căn hộ dành cho chuyên viên của Viện. “Mất cả hứng ăn.” Atsuko ngó vào hộp bento cỡ bự của Tokita, cảm giác thèm ăn bắt đầu trỗi dậy. Chắc chắn là cơm hộp rong biển đây rồi. Dưới đáy hộp là một lớp cơm trắng mỏng, bên trên trải rong biển khô tẩm nước tương, rồi lại thêm một lớp cơm nữa, đó là hộp cơm rong biển ngày xưa cô đã ăn không biết bao nhiêu lần. Trong hộp cơm ấy là những món ăn gia đình quen thuộc Atsuko vẫn hằng mong mỏi, là hương vị của những bữa cơm do chính tay mẹ cô nấu. Atsuko vốn không phải người khảnh ăn, thậm chí bây giờ cô còn cảm thấy mình sắp chết đói tới nơi luôn rồi. “Thế để tôi ăn hộ cho”, cô quả quyết, nhanh chóng với tay qua. Atsuko dùng cả hai tay định nhấc hộp bento lớn đan bằng tre của Tokita lên, nhưng Tokita cũng phản xạ rất nhanh. “Còn lâu nhé”, anh nhấn hộp cơm trên tay Atsuko xuống. “Anh vừa nói không muốn ăn còn gì”, Atsuko khá tự tin vào độ khỏe của đầu ngón tay mình. Cô cố giằng cho bằng được hộp bento từ tay Tokita. Ngoài hộp cơm này ra, trong Viện không còn gì có thể thỏa mãn nổi cái dạ dày của Tokita nên anh cũng hừng hực quyết tâm. “Đã bảo bỏ tay ra cơ mà.” “Ối chà chà”, Viện trưởng Shima Toratarou đứng trước hai người họ, mặt nhăn lại. “Hai ứng cử viên số một cho giải Nobel Sinh lý học và Y khoa lại đi tranh nhau cơm hộp thế này ư?”, ông rầu rĩ. Shima Toratarou hay có thói quen rời phòng Viện trưởng, dạo quanh phòng các nhân viên rồi bất chợt bắt chuyện với mọi người. Vài nhân viên giật bắn mình khi bất thần có tiếng người từ phía sau, điều này chẳng tốt cho tim mạch của mọi người chút nào nên nhiều khi Viện trưởng cũng bị lời ra tiếng vào lắm. Dù cấp trên cong môi buông lời mỉa mai, hai người kia vẫn không ai chịu nhường ai, tiếp tục giằng co trong thầm lặng. Trong một thoáng, Shima quan sát cảnh ấy với vẻ thất vọng thấy rõ, nhưng có lẽ sau khi thông cảm rằng trí óc thiên tài thường đi đôi với hành vi con nít, ông khẽ gật đầu vài lần. “Cô Chiba, lát nữa đến phòng Viện trưởng gặp tôi nhé”, Shima khẽ nói, đoạn chắp hai tay sau tấm lưng hơi khòng của ông và thong thả đi bộ quanh phòng nhân viên như mọi khi. “Nhưng dù là bác sĩ trị liệu đi chăng nữa, mắc chứng hoang tưởng giống bệnh nhân cũng đâu phải chuyện tốt đẹp gì”, Tokita nói, bất đắc dĩ chia nửa phần cơm của mình ra nắp hộp. “Cậu Tsumura lẫn lộn giữa nỗ lực tìm kiếm độc lập siêu việt và nỗ lực tìm kiếm độc lập thực nghiệm ở bệnh nhân. Cũng giống như người nhà họ hay mắc chứng hoang tưởng như chính người bệnh vậy đấy.” Thế lại càng nguy hiểm hơn. Bởi trong mắt bệnh nhân, bác sĩ trị liệu trông sẽ chẳng khác gì một kẻ bịp bợm, cũng tương tự như việc họ cảm thấy bị lừa gạt khi người nhà tỏ ra thấu hiểu những vấn đề của họ. Tự mình phải phân tích anh chàng Tsumura này thôi, Atsuko thầm nghĩ. Mời các bạn đón đọc Kẻ Trộm Giấc Mơ của tác giả Yasutaka Tsutsui.