Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Không Khoan Nhượng - Brad Thor

Biệt tài của Brad Thor là im lặng và “lạnh lùng” miêu tả, không đưa ra bình luận. Nhưng mọi tình tiết ly kỳ tới mức kinh dị của ông đã nói lên tất cả. Có một bài ca được cất lên. Đó là nét đẹp của tình yêu và lẽ sống, nét đẹp của trí thông minh và lòng dũng cảm. Thật khó có thể nói hết được tình yêu của Harvath với Tracy. Từ đó, thật mà khó nói hết nỗi đau của anh khi chứng kiến cô người yêu của mình rơi vào cảnh “sống mà như chết”. Tuy đơn độc trong cuộc chiến, nhưng Harvath được hậu thuẫn bởi nhiều đồng nghiệp, người thân, sự hiểu biết và tình yêu đối với công việc. Anh bỏ qua sự lạnh nhạt của tổ chức, sự tiếp tay vô tình của nhiều người với kẻ địch (như thằng Lùn chẳng hạn)… để hướng tới mục tiêu duy nhất: Truy đuổi đến cùng để triệt hạ đối phương. Với 124 chương, kéo dài suốt 551 trang sách, bạn đọc sẽ trải qua một cuộc “đọc marathon” mệt nghỉ với nhiều tâm trạng. Nhưng cảm xúc từ tiểu thuyết này thật lớn. Có quá nhiều sự kiện ly kỳ “hơn cả trinh thám”. Cuốn sách sẽ cung cấp cho bạn thêm nhiều tri thức về sự xung đột ý thức hệ thời hiện đại với nhiều sắc thái biểu hiện. ở đó, ta sẽ thấy âm mưu và tình yêu bộc lộ rõ rệt. Và ta cũng thấy ở đó, nghị lực sống, nghị lực vượt qua thử thách cao hơn tất cả. *** Câu chuyện bắt đầu từ “trại 5” Delta, tại căn cứ của hải quân Mỹ ở vịnh Guantanamo (Cuba). Ai cũng biết đây là trại giam khét tiếng, chuyên giam giữ tù nhân là bọn khủng bố. Đó là những kẻ Hồi giáo cực đoan ở rải rác khắp nơi (như Afghanistan, Palestine, Ảrập Xêút, Iran, Iraq...). Cả thế giới đều phải e ngại trước những kẻ mà “bom cảm tử mạnh hơn cả bom nguyên tử”. Dĩ nhiên, chuyện Al Qaeda tác oai tác quái là điều quá rõ. Điều mà bạn đọc tự hỏi là, vấn đề chính trị như vậy sẽ được khai thác như thế nào dưới góc độ tiểu thuyết? Các nhân vật trong truyện “lưỡng phân” thành 2 nhóm. Đó là thế lực ngầm (những kẻ khủng bố, giấu mặt) và thế lực nổi (mật vụ Mỹ, FBI và lực lượng chống khủng bố, cũng giấu mặt). Đây là sự đối đầu gian nan, khốc liệt nhất. Bởi trong sự đối chọi này, có cái thiện và cái ác, có âm mưu và tình yêu, có sự sống và cái chết, và có niềm tin bắt nguồn từ hai phía... *** TRẠI DELTA CĂN CỨ HẢI QUÂN MỸ VỊNH GUANTANAMO, CUBA Khi trời nóng ấm, ở Cuba, cuộc sống của con người ta đâu đó lơ lửng giữa hai thái cực, giữa nỗi khổ cùng cực và sự chịu đựng cái nóng nực, bức bối, chen chúc chờ đợi được tắm cho bớt khó chịu, để rồi, khi đến lượt mình thì, “Có bồn tắm rồi đấy, có ai có dao lam không?”. Còn khi mưa lạnh, ở Cuba quả là không thể chịu nổi. Đêm nay là một đêm như vậy. Lúc những người lính gác đễn chỗ xà lim đặc biệt thuộc “Trại 5” Delta, khu giam giữ những kẻ tình nghi nguy hiểm nhất và có giá trị tình báo cao nhất, nơi đây tồi tệ hơn ngày thường rất nhiều. Và đó không phải vì thời tiết. Có cái gì đó không ổn. Nó hiển hiện trên nét mặt họ khi đẩy năm tù nhân ra khỏi xà lim và giơ súng yêu cầu chúng cởi quần áo. Thời gian Philippe Roussard ở Guantanamo không phải là dài nhất, nhưng hắn đã trải qua những cuộc lấy cung khó khăn nhất. Một người Châu Âu mang dòng máu Ả-rập, hắn là tay bắn tỉa cừ khôi với những kỳ tích đi vào huyền thoại. Những cuốn băng video về tài nghệ bắn súng của hắn được đẩy lên liên tiếp trên khắp các trang web của các tín đồ Hồi giáo thánh chiến. Đối với những tín đồ Hồi giáo, hắn là một siêu anh hùng trong các danh nhân đạo Hồi cấp tiến. Đối với nước Mỹ, hắn là cỗ máy giết người kinh hoàng, kẻ đã gây ra cái chết của trên một trăm lính Mỹ. Nhìn vào gã cai ngục, hắn nhận thấy ánh mắt ấy hơn cả nỗi thù hận đơn thuần. Đêm nay, ánh mắt ất còn có cả sự ghê tởm tột độ. Có điều gì đó mách bảo, cho dù lính của Lực lượng Liên quân Guantanamo có chiến thuật hỏi cung nửa đêm đối với Roussard và bốn đồng nghiệp của hắn như thế nào đi nữa, đêm nay, sẽ hoàn toàn khác những gì chúng đã từng trải qua. Những người lính gác có vẻ bắt đầu bối rối. Liệu có phải đã có cuộc tấn công thành công vào nước Mỹ? Còn điều gì khác có thể khiến những người lính kia rơi vào trạng thái như thế? Nếu vậy, Roussard cảm nhận rõ ràng rằng người Mỹ sẽ bắt các tù nhân phải trả giá. Không nghi ngờ gì nữa, hẳn là chúng đã có một kiểu đê tiện khác để xúc phạm sự nhạy cảm kiểu đạo Hồi của các tù nhân. Riêng mình, Roussard hy vọng cuộc tra tấn có người lính tóc vàng tham gia và rằng cô sẽ cởi quần áo cho tới khi chỉ còn bộ đồ lót đen bằng ren và cọ sát thân hình quyến rũ ấy vào người hắn. Dù biết mình đoán sai, nhưng những suy nghĩ thích thú về những gì hắn muốn với người đàn bà ấy đã giúp hắn dễ dàng trải qua những giờ đồng hồ cách ly dài đằng đẵng và cô đơn mà hắn phải chịu đựng. Hắn vẫn còn đang tiên đoán về số phận của mình khi nghe tiếng khóa cửa ở tận đầu kia xà lim. Roussard nhìn lên, hy vọng đó là người lính tóc vàng, nhưng không. Một người lính khác bước vào mang theo năm cái túi giấy. Cứ ngang qua mỗi tù nhân, anh ta lại vứt cho một cái. “Mặc vào!” Anh ta ra lệnh bằng thứ tiếng Ả-rập vụng về. Tất cả tù nhân, kể cả Philippe, đều bối rối lấy quần áo dân sự ra khỏi túi và mặc vào người. Chúng kín đáo nhìn nhau trong khi cố tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra. Roussard nhớ lại những câu chuyện đã từng nghe về các tù nhân trong trại tập trung người Do Thái, chúng nói rằng đưa họ đi tắm, nhưng thực chất là đưa đến các phòng gas. Hắn ngờ rằng những người Mỹ này đang cho cả bọn mặc quần áo mới chỉ để hành quyết họ, tuy nhiên, hắn hơi lo lắng một chút vì không biết chắc sẽ phải đối mặt với cái gì. “Sao chúng không chạy nhỉ?” Một trong số những người lính gác thì thầm vào tai đồng bọn khi anh ta đánh vào cái vòng cản của khẩu M16 của mình. “Tao chỉ muốn một trong số những thằng khốn này nói dông dài với chúng ta.” “Nhảm nhí,” người lính kia trả lời. “Chúng ta đang làm cái quái gì vậy?” “Hai thằng, câm ngay!” Chỉ huy của họ quát lên, rồi ra một loạt lệnh qua điện đài. Hẳn có chuyện gì đó không ổn. Ngay khi vừa mặc xong quần áo, chúng bị còng tay chân và bắt đứng xếp hàng quay mặt vào bức tường phía xa. Thế đấy, Roussard nghĩ bụng khi hắn bắt gặp cái nhìn chằm chằm của gã lính gác đang hy vọng một trong những tù nhân sẽ chạy chọt. Ngón tay anh lính bắt đầu lần từ cái vòng cản xuống chỗ cò súng và có vẻ muốn nói gì đó khi có một loạt xe dừng lại phía bên ngoài. “Đón chúng ta đấy.” Vị chỉ huy Lực lượng Liên quân hết lên. “Lên thôi!” Đám tù nhân bị đẩy về phía cửa. Roussard hy vọng khi ra ngoài, hắn có thể nhìn thấy là họ đang đi đâu, như vậy sẽ rõ ràng hơn. Không được rồi, từng tù nhân một bị trùm đầu trước khi được đưa ra một đoàn xe đa năng màu xanh đang chờ bên ngoài. Mười phút sau, đoàn xe dừng lại. Trước khi cái mũ chụp đầu nặng nề ấy được gỡ bỏ, Roussard có thể nhận ra tiếng động cơ phản lực gào xé. Trên mặt nhựa đường đẫm nước mưa, trước khi được tháo còng, đám tù nhân nhìn lên, thấy một chiếc Boeing 727 khổng lồ. Một cái thang cuộn lên một bên chiếc phi cơ và khoang cửa mở rộng. Chẳng ai nói một lời, nhưng dựa vào thái độ của những người lính – dường như họ được lệnh đứng cách xa chiếc máy bay – Roussard đi đến một kết luận sáng suốt. Dù không được lệnh, Roussard cứ tiến một bước về phía trước. Không thấy người lính nào ngăn cản, hắn tiến lên bước nữa, rồi bước nữa, cho tới khi chân chạm vào bậc thang kim loại đầu tiên và hắn bắt đầu trèo lên. Hắn sắp có cơ hội được cứu. Chỉ đến cuối cùng hắn mới biết. Thấy tiếng các tù nhân khác chạy rầm rập ở lối đi phía sau mình, Roussard thận trọng bước vào cabin. Người hắn gặp đầu tiên trên máy bay là một sĩ quan, anh ta so sánh hắn với một tấm ảnh trên bìa kẹp hồ sơ, rồi rút ra một cái phong bì đen nặng nề, anh ta nói, “Chúng tôi được lệnh đưa anh cái này”. Trước đó, Roussard đã từng nhận được những phong bì giống thế này. Dù không mở ra, hắn cũng biết ai gửi nó tới. “Mời anh ngồi vào chỗ,” viên sĩ quan đầu tiên tiếp lời. “Cơ trưởng đang nóng lòng muốn cất cánh.” Roussard tìm thấy một chỗ trống gần cửa sổ và thả mình vào đó. Khi cánh cửa khoang chính đóng lại, một số thành viên phi hành đoàn biến mất về phía đuôi máy bay và quay lại mang theo những thiết bị y tế kì cục cùng một số đồ làm lạnh bằng nhựa to. Chẳng điều gì có ý nghĩa với Roussard cho tới khi hắn mở chiwwcs phong bì và đọc nội dung bên trong. Một nụ cười từ từ hiện lên trên khuôn mặt. Thế alf xong. Không những đã được tự do, mà người Mỹ còn không thể theo đuổi được hắn nữa. Hắn sắp được trả thù – và nhanh hơn rất nhiều so với hắn tưởng. Mở cánh cửa sổ ra, Roussard có thể nhìn thấy đám lính đang trèo trở lại những chiếc xe đa năng và lái ra khỏi đường bay, một số giơ tay ra ngoài cửa sổ và giơ ngón giữa ra chào một cách mỉa mai. Khi động cơ của chiếc máy bay bắt đầu rú lên và con thú to lớn bỗng chồm mình về phía trước, phía mũi máy bay vang lên những tiếng vui mừng “Allahu Akbar”, thánh Ala vĩ đại. Thánh Ala vĩ đại thật đấy, nhưng Roussard biết chẳng phải Người đã thu xếp vụ phóng thích này. Và khi nhìn vào chiếc phong bì màu đen, hắn biết rằng họ phải cảm ơn một người nào đó ít nhân từ hơn Người nhiều. Tập trung chú ý về phía cửa sổ nơi những người lính đang nhanh chóng khuất khỏi tầm nhìn, Roussard gõ gõ ngón trỏ và ngón cái, lấy mục tiêu và đẩy cò súng tưởng tượng. Giờ đây, khi đã được tự do, hắn biết rằng, chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi người quản lý để hắn tự do trong lòng nước Mỹ để báo thù. ... Mời các bạn đón đọc Không Khoan Nhượng của tác giả Brad Thor.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Giờ Thứ 25 - Constantin Virgil Gheorghiu
Đối với Xã hội kỹ thuật hóa, đây là một mặt thật của Kiếp người, sống trong thời buổi giá trị con người bị tiết giảm xuống con số không: nhân vị, cá nhân, tình cảm hầu như không còn nữa. Máy móc. Tất cả đều sử dụng theo máy móc, đều hành động một cách máy móc, nên con người cũng bỏ lần nhân cách để theo kịp đà tiến hóa kỹ thuật rồi trở thành nô lệ cho kỹ thuật và lôi cuốn đồng loại mình vào trận cuồng phong, vào vực thẳm. Có còn chăng chút hy vọng lập lại xã hội loài người, như lời mục sư Koruga, trong truyện: “Sau rốt, Chúa lại đến phải xót thương con người, - như Chúa đã từng thương hại nhiều lần. Và, giống chiếc thuyền của ông Noé trên lượn sóng trận đại hồng thủy, vài người thật là người, còn giữ được chân tính, sẽ nổi trôi trên trận vận xoáy nhiễu loạn của đại nạn tai ương tập thể này. Và chính nhờ mấy người ấy mà loài người sẽ được bảo tồn cứu vãn, như đã trải qua bao lần trong lịch sử”. Lời dịch giả Thi sĩ kiêm văn sĩ Constantin Virgil Gheorghiu sanh ngày 15-9-1916 tại Razboeni-Neamtz xứ Roumanie, con của một vị linh mục ở Moldavie. Học triết lý và thần học tại Đại học đường Bucarest và Heidelberg (Đức). Ông sáng tác nhiều quyển sách mà thi phẩm Calligraphie sue la neige được giải thưởng Hoàng gia về thi ca (Prix Royal de Poésie) năm 1940, ở Roumanie. Ông cưới vợ là nữ sĩ, năm ngày trước trận Thế chiến thứ Hai. Với lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ, thi sĩ công phẫn và xúc động khi bọn thân phát-xít ám sát Thủ tướng dân chủ Armand Calinesco, nên viết quyển thi binh vực tự do, chống phát-xít, lấy tên là Armand Calinesco (1939). Hậu quả của thi phẩm này là ông suýt bị bọn “cơ quan sắt” thủ tiêu. Và cũng với lòng công phẫn mà ông viết quyển “Bờ sông Dniestr bừng lửa”, xuất bản ở Bucarest, chống bọn chống phát-xít đã tàn sát một phần ba dân số miền Bessarabie, quê hương ông. Tác phẩm này về sau, đã làm dư luận Pháp chống lại ông. Nhưng theo ông, “đứng trước những tàn phá giết chóc dã man, bất cứ từ đâu đến, thi sĩ không thể không công phẫn”. Năm 1943, hai vợ chồng phụ trách về liên lạc văn hóa tại Bộ Ngoại giao Roumanie ở Zaghreb. Được một năm, nước Roumanie theo phe Nga. Quân Đức bắt vợ chồng ông giam trong một trại giam các nhà ngoại giao tại Đức. Kế Đức quốc xã thua, vợ chồng ông bị quân Mỹ giam mỗi người một nơi, mãi hai năm sau (1947), mới được thả ra và gặp nhau ở Heidelberg (Đức). Trong thời gian bị giam cầm, ông viết quyển “Giờ thứ hai mươi lăm”. Nhằm lúc đồng mark mất giá, không thể sống ở Đức, vợ chồng ông đi bộ sang Pháp, đem quyển này dịch ra Pháp văn và cho xuất bản ở Paris (1949). Đây là một trong những tác phẩm bi đát nhứt của thời đại. Gabriel Marcel, trong bài tựa, đã viết: “Tôi tưởng không còn tìm ra một tác phẩm nào ý nghĩa hơn, phác họa rõ ràng hơn tình trạng hãi hùng mà nhân loại đang bị chìm đắm”. Tác giả quyển sách bán chạy nhất, - bán 600.000 quyển trong vài tuần lễ, riêng tại Pháp đến 300.000 quyển, - lại bị dư luận Pháp chống đối (1950), khi biết ông là tác giả quyển Bờ sông Dniestr bừng lửa, nghĩa là ông binh vực phát-xít. Trong một bài tự thuật, Virgil viết: “... Dấu ô nhục chống phát-xít đốt cháy da thịt ta ở Bucarest, và dấu ô nhục phát-xít bị đóng ở Paris chỉ là duyên cớ giản dị để quần chúng bóp chết ta... Phải chăng người ta chỉ được lên án những sự độc ác dã man của một bên... Không, nhà thơ ấy chỉ lấy vĩnh cửu làm khuôn vàng thước ngọc...” Thi sĩ đã đi tu. Lễ thăng thiên, ngày 23-5-1963, ông được Đức giám mục từ Nữu Ước đến làm lễ thụ phong linh mục giáo hội Chính Thống tại nhà thờ Lỗ-ma-ni ở Ba Lê. Ông qua đời ngày 22-6-1992 tại Ba Lê. *** Bà West, tôi muốn nói chuyện riêng với bà! Eleonora để tập hồ sơ trên bàn, ngó Trung úy Lewis. Ông đang ngồi tại bàn giấy, chân tréo, ưỡn ngực dựa lưng ghế và hút thuốc. Trung úy Lewis là trưởng phòng Phòng tuyển mộ ngoại kiều đến tình nguyện xin vô quân đội Mỹ. Eleonora là nhân viên và thông dịch viên tại Phòng này. Nàng làm việc từ sáu tháng nay, dưới quyền Trung úy Lewis. Nora ngó đôi vớ cuốn kèn quanh ống quyển Trung úy, rồi nghĩ thầm: “Tại sao hắn không mang dây kẹp vớ? Và tại sao hắn ngồi ghế như ngồi ngựa vậy? Giống như bọn thủy thủ ở bến tàu! Vậy mà hắn cũng là con nhà có giáo dục, cũng xuất thân trường đại học. Dầu hắn có tự do quá mức đi nữa, hắn cũng không được phép ở trong phòng văn, đưa cặp giò trước mặt một người đàn bà như thế này!” Nàng thấy như bị tát tai mỗi khi Trung úy Lewis bắt tay nàng mà miệng còn ngậm điếu thuốc, hoặc mỗi lần quăng một hồ sơ trên bàn cho nàng, như ném miếng xương cho chó. Trung úy Lewis không ngờ Nora đã nghĩ gì đến mình, trái lại, còn tưởng nàng phục mình lắm. Nhưng đôi mắt nhìn của ông vẫn còn ngượng nghịu. Nora đáp: - Tôi xin nghe ông. - Bà West có bằng lòng ưng làm vợ tôi không? Trung úy ngồi bật ngửa, xích đòng đưa chiếc ghế, chiếc ghế chỉ còn đứng có hai chân. Nora trả lời: - Tôi không ưng làm vợ ông! - Vậy bà có những dự tính nào khác sao? - Không có! Nhưng câu trả lời của tôi là: không bằng lòng. Nora giở tập hồ sơ ra, song không làm việc được. Mắt ngó giấy tờ mà trí ở đâu đâu. Nàng ở tù hai năm trong trại giam, rồi đương nhiên được thả ra, cũng vô căn cứ, như lúc bị bắt. ... Mời các bạn đón đọc Giờ Thứ 25 của tác giả Constantin Virgil Gheorghiu.
Đường Về Trùng Khánh - Han Suyin
Đường về Trùng Khánh (1973)—Destination Tchounking (1953) Tác giả Han Suyin aka Hàn Tú Anh Dịch giả Trùng Dương & Hồ Hải Nhà xuất bản Tổ Hợp Gió 1973 LỜI NGƯỜI DỊCH Qua Đường Về Trùng Khánh, người đọc có thể nhận ra những nhân vật điển hình — những diễn viên kỳ cựu — của bất cứ vở kịch chiến tranh nào xẩy ra từ trước tới nay trong lịch sử nhân loại : đó là đám nông dân cổ cày vai bừa sẽ chết, trong khi đám con cháu các gia đình khá giả lười biếng ăn chơi hay học hành tại các trường đại học và sửa soạn vào các nghề tài chánh, y khoa, hay luật sư và dĩ nhiên, cũng có những ngoại lệ và tuy thế cũng không phải là ít và thực đáng cảm động: “ Tôi không thể nào ngồi yên được nữa, tôi phải tham dự vào cuộc chiến, tôi phải tham dự vào cuộc kháng chiến của nhân dân Trung Hoa. Tôi phải về nước. Dù không làm được gì quan trọng tôi cũng phải về, tôi cần hiện diện để chia sẻ những khổ cực và gian nguy. Tôi là người Trung Hoa mà.” Đó là câu nói của nhân vật chính của tác giả, Hàn-tú-Anh, người nữ văn sĩ mang hai giòng máu Trung Hoa—Bĩ. *** Tựa Của Tác Giả Người ta đã yêu cầu tôi viết bài tựa cho cuốn Destination Tchoungking đã được xuất bản lần đầu tiên tại Anh vào năm 1942. Bằng cả tâm hồn và thể xác, tôi đã sống lùi lại mười một năm về trước, hồi còn trẻ, tại Trùng Khánh, ngập mình trong binh lửa, và thấy lại trọn vẹn cảnh tượng lúc bấy giờ: những chữ ở đây đều có một nghĩa tuyệt đối; những mục tiêu tự nó tồn tại, chính đáng và đáng kính; đạo đức và niềm tin đã chống cự lại nạn đói kém, nỗi đau khổ và sự buồn nản. Chúng tôi đã tin tưởng rằng sẽ tồn tại để cất lên tiếng cười, để tận dụng cuộc sống, mặc trạng huống hiện hữu, mặc những điệp khúc vô tận của những trận mưa bom mỗi ngày khô ráo mỗi tái diễn. Rồi thì cuối cùng mọi sự đều đã được giải quyết ổn thỏa. Tôi không có một mảy may ý định viết văn. Hồi đó tôi tập sự nghề cô đỡ tại một bảo sinh viện nhỏ dưới quyền điều khiển của Marian Manly, một nhà nữ truyền giáo Hoa Kỳ, ở Thành Đô thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Pao, chồng tôi, đóng tại Tây Bắc, và trong thời gian chàng vắng nhà, tôi ở lại nhà thương với Marian. Cha mẹ của Marian đã từng là những nhà truyền giáo tại Trung Hoa. Chị nàng cũng thế. Chính nàng ta, một y sĩ kiêm truyền giáo, đã trải qua phần lớn đời nàng tại Trung Hoa. Nàng đã vẻ kiểu và xây lấy ngôi bảo sinh viện này, và tại đây, nàng huấn luyện các cô đỡ Trung Hoa cho đến khi những người này tốt nghiệp, gửi họ về các vùng quê, hay đưa đến những đô thị bị cô lập để làm cái việc cần thiết nhất tại Trung Hoa là giúp các sản phụ sinh nở dễ dàng và hợp vệ sinh. Một đêm nọ, tôi ngồi với nàng trong phòng nàng, trước ngọn lửa được đốt bằng củi để sưởi ấm, và chúng tôi đã thảo luận về những cuốn sách đã đọc. Nàng nói với tôi là đã nhiều lần nàng hy vọng sẽ viết một cuốn sách về tất cả những kinh nghiệm đã trải qua ở Trung Hoa trong tình thương và thông cảm. Nàng đã viết nhiều truyện ngắn và thơ nhưng chưa có được cuốn sách nào cả. Tôi đưa cho nàng xem những ghi chú và những đoạn văn mà tôi thường viết khi nhàn rỗi, cho những bạn bè ở Anh quốc muốn biết những gì đang xảy ra tại Trung Hoa. Nàng xem xong, bảo tôi: "Đây là những chất liệu quý giá có thể dùng để cấu tạo nên một cuốn truyện. Tại sao chị không viết nó thành cuốn sách nhỉ? Điều đó làm tôi run sợ. Anh văn của tôi, học từ hồi mười tuổi tại Bắc Kinh, và về sau này có được dồi dào thêm là nhờ đọc chứ chẳng phải nhờ thực tập, chắc đâu đủ để cho phép tôi viết thành một cuốn sách! Nhưng nhờ sự khích lệ nóng bỏng của Marian, tôi đã bắt tay vào việc hình thành cuốn Destination Tchoungking. Cuốn sách này đã được viết bằng những tờ rời, từng đoạn một, đôi khi vào buổi tối, dưới ánh đèn dầu trong những cái còn lại của một căn phòng sau trận oanh tạc vừa qua; đôi khi vào buổi trưa, trở về nhà sau một cuộc đỡ đẻ kéo dài từ sáng tới tối; hoặc vào khoảng giữa công việc bếp núc nhà cửa và việc quan sát những dấu vết địch quân trên trời. Tôi đã từng đem theo bản thảo Destination Tchoungking vào hầm trú ẩn trong quả đồi gần nhà, nhét giữa cái nồi thổi cơm và con gái tôi. Trong phần lớn thời gian viết cuốn sách này, Marian và tôi ở xa nhau. Tôi ở với Pao ở Trùng Khánh hoặc theo chàng xê dịch trong vùng Trung Hoa tự do. Nàng vẫn không rời bệnh viện của nàng ở Thành Đô. Tuy thế, sự hợp tác giữa chúng tôi vẫn không bị đứt khoảng, và điều này nói ra không khỏi tầm thường nhưng tôi vẫn cảm thấy phải nói, là nếu không nhờ có Marian sửa chữa, phê bình cùng tu bổ cho từng chương một, chắc chắn cuốn sách này đã không có dịp ra đời. Ngay khi vừa hoàn tất một chương, tôi gửi bằng máy bay tới Marian liền. Bản thảo bay tới bay lui giữa tác giả và đồng tác giả(co-auteur) trên vòm trời Trùng Khánh, được đánh máy trên những tờ giấy thực mỏng với tất cả thận trọng và rõ ràng để có thể nhét vào phong thơ của bưu điện hàng không. Rồi, một ngày đẹp trời nọ, nhà xuất bản nhận lời in. Tuy nhiên, vào thời đó, chưa thể tiết lộ tên tác giả được vì một lý do kỳ khôi. Hồi đó, nhờ chồng tôi nên tôi tạm thời trở thành một nhân viên ngoại giao của xứ tôi. Các bà trong ngoại giao đoàn không được phép viết văn. Nơi chúng tôi sống, người ta coi viết văn như một nghề ít phụ nữ tính và độc hại, y như nghề kịch sĩ vậy. Ngay cả cuốn tự truyện đầy sinh động và duyên dáng, Huilan Koo, của bà Wellington Koo, phu nhân của ông đại sứ Trung Hoa tại Hoa Thịnh Đốn, đã đột nhiên bị cấm lưu hành một cách bất công. Cuốn sách của tôi không bị số phận đó, nhưng trong nhiều năm, tôi khá thấu đáo về vấn đề này. Đó là câu chuyện đằng sau cuốn Destination Tchoungking của tôi. Ngoài bài mở đầu này ra, kỳ dư tôi không hề sửa đổi chi tiết nào trong cuốn sách khả dĩ khác với lần xuất bản đầu tiên, trừ vài lỗi chính tả và văn phạm. HÀN TÚ ANH Tháng 2, 1953 Mời các bạn đón đọc Đường Về Trùng Khánh của tác giả Han Suyin.
Đôi Mắt Người Xưa - Ngọc Linh
Ngọc Linh (1935 - 2002), xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, Cà Mau. Ông từng làm thư ký tòa soạn tuần báo Nhân loại, báo Lẽ sống, mở Nhà xuất bản Phù Sa, là ký giả kịch trường và điện ảnh, thành viên hội đồng tuyển chọn tuyển chọn giải Thanh Tâm trước 1975 (sau này ông là người sáng lập và tổ chức giải thưởng Trần Hữu Trang). Ông có hơn 70 tiểu thuyết đề cao lòng yêu nước và đạo đức gia đình. Nhiều tiểu thuyết nổi tiếng được chuyển thể thành kịch bản phim, cải lương, kịch nói. Sau giải phóng, ông được phân công chỉ đạo nghệ thuật nhiều đoàn kịch nói, cải lương, là Phó Tổng biên tập tuần báo Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh và làm cố vấn cho tờ báo đến ngày mất. *** Trân ngừng xe cách tiệm Ngọc Thanh của Diệp Thúy chừng hơn trăm thước, rồi bảo Ngọc Dung: - Đó... Em thấy chưa? Tiệm sách kia là của bác mua cho con vũ nữ đó. Ngọc Dung đọc hiệu tiệm rồi nhìn vào trong, thấy thấp thoáng nhiều người. Nàng bảo Trân: - Em sẽ đến đó, xem có ba em không? Và xem cô ta ra làm sao? Nàng nói xong, mở cửa xe bước ngay xuống đất. Trân lúng túng chưa biết tính sao? Hắn không ngờ Ngọc Dung hành động liền như vậy. Lúc nãy, hắn đang ở trên phòng buyn đinh Rose thì Ngọc Dung đến bảo hắn đưa nàng đến chỗ nhà bác sĩ Vũ mua cho Diệp Thúy. Trân tưởng đâu Dung chỉ muốn thấy tận mắt cái nhà sách của Thúy thôi, ai ngờ bây giờ nàng lại muốn giáp mặt Vũ và Thúy. Gặp như vậy thì khó quá! Chính hắn cũng không muốn giáp mặt Thúy trong trường hợp nầy. ... Mời các bạn đón đọc Đôi Mắt Người Xưa của tác giả Ngọc Linh.
Cô Gái Đan Mạch - David Ebershoff
The Danish girl - Cô gái Đan Mạch là một câu chuyện cảm động về người chuyển giới đầu tiên trên thế giới, một họa sĩ người Đan Mạch đã dũng cảm đối diện và tìm về với bản ngã của chính mình. Đây cũng là câu chuyện về lòng vị tha, đức hy sinh trong tình yêu. Tất cả đều được thể hiện bằng một văn phong trong sáng, đẹp đẽ. Bản dịch đã chuyển tải được sự tinh tế và thanh nhã của bản gốc để mang lại nhiều rung động cho người đọc.  Tác phẩm Cô gái Đan Mạch đã được chuyển thể thành phim và giành được nhiều tán thưởng của giới phê bình lẫn công chúng. *** David Ebershoff (sinh năm 1969) là nhà văn, biên tập viên và giáo viên người Mỹ. Tiểu thuyết đầu tay của ông, The Danish Girl (2000), đã được chuyển thể thành một bộ phim đoạt giải Oscar cùng tên vào năm 2015, trong khi cuốn tiểu thuyết thứ ba của ông, The Wife 19, đã được chuyển thể thành một bộ phim truyền hình cùng tên vào năm 2010. Ebershoff xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông, The Girl Đan Mạch, vào năm 2000. Nó được lấy cảm hứng từ cuộc đời của Lili Elbe, một trong những người đầu tiên được phẫu thuật chuyển đổi giới tính. Cuốn tiểu thuyết đoạt giải thưởng Quỹ Rosenthal từ Học viện Mỹ thuật và Văn chương và giải thưởng văn học Lambda. Ngoài ra, quyển sách trở thành best-seller trên toàn thế giới. Ebershoff đã dạy văn tại đại học New York và Princeton, và hiện đang giảng dạy văn học trong chương trình MFA tại Đại học Columbia. Ebershoff đã xuất hiện hai lần trên tạp chí Out trong danh sách 100 người có ảnh hưởng đến cộng đồng LGBT. Sách của David Ebershoff đã được dịch sang hai mươi lăm ngôn ngữ. *** Họ trở về căn hộ Widow House, nhưng sau nhiều năm tòa nhà đã trở nên xập xệ. Khi còn ở Paris, Greta đã thuê một người đàn ông tên Poulsen để sửa sang lại. Mỗi tháng cô gửi thư để kiểm tra và chỉ dẫn. "Tôi nghĩ là giờ máng nước cần được làm sạch," cô viết. Hoặc, "Làm ơn tháo các cánh cửa chớp nữa." Nhưng Poulsen đã không nghe theo bất kỳ chỉ dẫn nào, chỉ dọn dẹp phòng nghỉ và đốt rác. Khi Greta và Hans lái xe về Copenhagen vào một sáng tuyết rơi lất phất, Poulsen đã biến mất. Bề ngoài căn hộ phai thành màu hồng nhẹ. Ở tầng trên, phân chim mòng biển dính trên khung cửa sổ. Một căn phòng bị thiếu mất ô cửa kính, nơi người đàn bà sốt sắng trong độ tuổi 90 đã qua đời vào ban đêm, dưới tấm chăn nhàu nhĩ. Và bụi bẩn cáu đen lại trên các bức tường cạnh cầu thang dẫn lên tầng thượng. Phải mất hai tuần Greta mới chuẩn bị xong căn hộ cho Lili. Hans cũng cùng giúp, thuê người sơn lại tường và đánh bóng sàn. "Em ấy đã bao giờ nghĩ đến việc dọn ra ở riêng chưa?" một ngày anh chợt hỏi, và Greta giật mình trả lời, "Gì cơ? Mà không có em sao?" Dần dần cô đã thả Lili vào cuộc sống nhàn hạ bên biển cảng ở Copenhagen. Vào những chiều tuyết tan, Greta nắm tay Lili và cùng nhau đi dạo qua những hàng cây bụi đã được cắt tỉa thành từng khối, xơ xác vào cuối đông trong vườn Kongens Have. Lili bước chân và chúi miệng vào chiếc khăn len cuốn trên cổ; những ca mổ đã để lại cơn đau nhói lên mỗi khi liều móc phin hết tác dụng. Greta nói, chạm nhẹ vào cổ tay Lili, "Hãy dành thêm chút thời gian đi. Khi nào em đã sẵn sàng thì cứ nói chị biết." Cô cho rằng một ngày nào đó Lili sẽ muốn tự mình ra ngoài thế giới. Greta nhìn thấy điều đó trên gương mặt Lili, như cách cô quan sát những người phụ nữ trẻ với gói bơ cuộn từ tiệm bánh trên tay, bận rộn đi qua quảng trường Kongens Nytorv mỗi sáng, đủ trẻ để những tia hy vọng vẫn còn sáng lên trong mắt họ. Greta nhận ra điều đó qua giọng nói của Lili mỗi khi cô đọc to các cáo thị hôn lễ trên báo. Greta lo sợ ngày đó sẽ tới; thỉnh thoảng cô tự hỏi mình sẽ làm gì nếu ngay từ đầu đã nhận ra, rằng mọi chuyện sẽ kết thúc với khung cảnh Lili rời khỏi căn hộ Widow House, túi hành lí nhỏ xách trên tay. Vào những ngày đầu khi mới trở về Copenhagen, Greta thỉnh thoảng vẫn tin rằng cô và Lili có thể tự mình sống ở phòng trên cùng của căn hộ, và không ai trong số họ sẽ rời khỏi đó lâu hơn một buổi chiều. Có lúc Greta và Lili cùng ngồi bên lò sưởi, cô chợt nghĩ rằng những chấn động trong nhiều năm nay đã đến hồi kết, và giờ họ có thể tiếp tục vẽ trong yên bình, dù cô độc nhưng vẫn có nhau. Đó chẳng phải cuộc đấu tranh dài vô tận đối với Greta ư? Cô luôn cảm thấy cần được ở một mình nhưng lại luôn được yêu, và chính cô cũng yêu. "Chị có cho rằng em có thể biết yêu không?" Lili bắt đầu hỏi, khi mùa xuân trở lại và vẻ xám xịt dần biến mất khỏi bến cảng, thay vào đó là màu xanh biển. "Chị có nghĩ là những điều như vậy cũng sẽ xảy đến với em không?" ... Mời các bạn đón đọc Cô Gái Đan Mạch của tác giả David Ebershoff.