Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sách Bùa Chú - Trần Lang NXB Mai Lĩnh 1949

LỜI NÓI ĐẦU

Xưa nay chúng tôi vẫn để ý đến mọi môn khoa học huyền bí, nhất là môn pháp thủy.

Chẳng cần phải nói, thì ai nấy cũng đều biết rằng pháp thủy (nhiều người gọi là phù thủy) vốn là do Đạo Lão mà có, nhưng gần đây, bị khoa học Tây phương tràn lấn, môn này hầu như bị đàn áp mất vậy.

Một phần lớn, môn này chẳng có thể thịnh hành được, là vì do cái thành kiến cổ hủ của người phương Đông bất cứ cái gì cũng đều muốn giữ kín bí truyền, để làm phép quý riêng cho nhà mình. Cũng bởi vậy, mà khoa học này hầu hết là do khẩu truyền (thầy truyền miệng cho trò, bố truyền miệng cho con) chứ rất ít có sách, ngoài mấy cuốn sách sơ lược còn truyền lại như bộ Vạn pháp quy tông, Thần thư yếu lý của ta và mấy bộ Phù pháp cao môn, Pháp đàn dẫn giải của Tàu.

Cứ toàn dạy một lối khẩu truyền như vậy, sách vở thì vừa hiếm vừa nói lờ mờ không rõ, nên khoa học pháp thủy dần dần bị những bỏ, ấy là may mà chưa bị tiêu diệt. Hiện thời, những người theo nghề pháp thủy, trừ ít người có lương tâm không kể, phần lớn thì không được chính truyền, thường dùng những thuật lừa dối giả trá, cũng có kẻ nghề cao, nhưng lại tham tiền mà làm nhiều việc bất lương, vô đạo, khoa học pháp thủy bởi vậy mà bị suy kém, những người theo nghề pháp thủy cũng bởi vậy mà bị khinh rẻ, hoặc bị coi như là kẻ gớm ghê, phản trắc, và nguy hiểm cần phải tránh xa và đề phòng.

Cũng bởi vậy, mà ngày nay, những người để ý đến mọi môn khoa học huyền bí của Á Đông, rất khó mà có chỗ khảo cứu, kiếm tầm, vì hỏi han những tay nhà nghề thì chỉ gặp những bọn lường gạt, hay những người ngậm miệng bí truyền, mà tìm sách vở thì đâu có thấy.

Trong những cuộc phỏng vấn, hoặc điều tra, chúng tôi được dịp gần gũi nhiều thầy pháp thủy cao tay, nổi tiếng, chúng tôi lại may mắn được lòng tin cậy của họ, nên ngày nay, mới có thể viết được cuốn sách nhỏ này.

Và cuốn sách này xuất bản cũng không ngoài ba mục đích: 

a) Giúp người tò mò một vài phương pháp thực hành, hoặc có thể dùng làm việc lợi ích, hoặc dùng làm trò chơi giải trí.

b) Giúp người xưa nay vẫn tin cậy khoa học pháp thủy biết qua loa về bùa chú và những ngụy thuật, để khỏi bị những kẻ bất lương lợi dụng, lừa dối hoặc manh tâm phản ác.

c) Giúp những người xưa nay vẫn để ý đến khoa học huyền bí một ít tài liệu để xét nghiệm và khảo cứu.

Bởi vậy cho nên chúng tôi chia cuốn Bùa chú này ra làm ba phần:

1) Phần thứ nhất: “Phù pháp môn” gồm có tất cả những phép có thể thực hành được hoặc dùng vào những việc lợi ích hoặc dùng vào những trò giải trí.

2) Phần thứ hai: “Lục Giáp viên quang đàn pháp”, gồm có những phép rất huyền bí kỳ lạ, muốn thực hành, cần phải lập đàn trá, hoặc đã biết ít nhiều về môn pháp thủy, phần này có thể gọi là những tài liệu độc nhất cho những nhà khảo cứu.

3) Phần thứ ba: “Giang hồ ngụy pháp” gồm có những phép giả trá, đeo lốt phù pháp mà những bọn giang hồ tà đạo vẫn thường dùng để lường gạt những người thực thà.

Ngoài việc góp nhặt tài liệu bên những tay pháp thủy, chúng tôi còn lọc chọn và trích dịch ít nhiều thuật trong mấy bộ Secrets d’Egypte, Magienoire, của Tây, và cuốn Phủ pháp môn, một cuốn trong Bí bản trung ngoại hỷ pháp của Khang Tái Phong đời Quang Tự bên Tàu.

Xưa kia, trong thời Tam Quốc, nhà danh y Hoa Đà bị bắt giam trong ngục, biết mình không thoát tội chết, giao lại cho người canh ngục hiền hậu mấy bộ sách thuốc của mình, để tạ cái ơn săn sóc trông nom, người canh ngục đó giấu giếm mà mang bộ sách về nhà, nhưng chẳng may gặp phải người vợ ngu si và quá rút rát, lừa lúc chồng đi vắng, đốt sách đi, tới lúc chồng về, chỉ kịp giật lại có mấy trang chưa cháy đến, mấy trang dạy những thuật như phép cầm máu, phép thiến gà, thiến chó, vân vân... nghĩa là những thuật nhỏ mọn mà thôi.

Cũng vậy, cuốn sách này, nếu so với những phép lạ lùng và ghê gớm trong khoa học pháp thủy thì chỉ dẫn giảng đến những phép nhỏ mà thôi, đó một phần cũng là bởi nhiều sự cản trở giữ gìn hết sức của những người trong nghề, và tất nhiên cũng là vì cái bất tài của kẻ chép sách này. Song chúng tôi cũng mạnh bạo đem ra cống hiến, chẳng qua là mong mỏi nhiều bậc cao minh, sau đây chẳng ngại ngùng gì mà đem phổ thông nhiều sách có giá trị khác vậy.

Trần Lang

(trong bộ biên tập báo Khoa học Huyền bí)

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Kim Cang Kinh - Đoàn Trung Còn (NXB Sài Gòn 1943)
Đối với người tu học Thiền, Kinh Kim Cương đóng một vai trò khai ngộ đặc biệt, bởi vì chính nhờ câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" trong bài Kinh mà Lục tổ Huệ Năng và nhà vua Trần Thái Tông đều đạt được đại ngộ. Bài Kinh này thường được tụng niệm tại các chùa thuộc hệ Đại Thừa, nhưng ít khi được tìm hiểu và trình bầy một cách cặn kẽ, ngoài một vài câu nổi tiếng được dẫn chứng trong các bài thuyết pháp. Lý do có lẽ là Kinh nói chung khó hiểu, với một hình thức đặc biệt làm cho người đọc dễ bị lôi cuốn bởi các câu rườm rà, và lướt qua nhanh một số câu cô đọng chứa đựng tất cả cái cốt tủy tinh hoa. Hơn nữa, cũng như đối với đa số kinh điển Phật giáo, dùng trí thức thuần túy để mà phân tích, suy luận và diễn giải, không thể nào đầy đủ. Người ta còn phải hiểu bằng trí huệ Bát Nhã, bằng trực giác, bằng linh cảm, bằng tất cả cái tâm của mình. Trong Kinh, đức Phật há đã chẳng nói "Kinh này không thể nghĩ bàn, không thể đo lường được" (Hán văn: Thị kinh hữu bất khả tư nghị, bất khả xứng lượng, chương 15, 16) hay sao? Tuy nhiên, trong sự truyền thông, trao đổi giữa những con người với nhau, thì không thể nào không dùng đến khái niệm, ngôn từ để lý giải, đồng thời vẫn ý thức được sự hạn hẹp của lối tiếp cận này. Kim Cang KinhNXB Sài Gòn 1943Đoàn Trung Còn82 TrangFile PDF-SCAN
Kinh Vạn Phật (Kinh Phật Thuyết Phật Danh)
Kính thưa chư vị Tôn Ðức,Kính thưa các Ðạo hữu xa gần,Từ gần mười năm nay, hàng ngày vào buổi chiều, vợ chồng tôi đi chùa tụng kinh Pháp Hoa dưới sự hướng dẫn của Thầy trụ trì, mỗi ngày một phẩm, hết quyển lại bắt đầu lại từ đầu.... Cho đến khi có cơ duyên đưa đến, có người tặng cho chùa một số kinh Vạn Phật (mới xuất bản tháng 9/ 2000 ở VN.) và do sự khuyến khích của Thầy trụ trì, mỗi chiều sau thời kinh Pháp Hoa, chúng tôi lạy Phật và niệm hồng danh sám hối theo kinh Phật Thuyết Phật Danh (Kinh Vạn Phật). Mỗi ngày niệm danh hiệu 100 vị Phật và lạy 100 lạy.Khi lạy và niệm đến phần cuối của quyển thứ bảy, tức là đã lạy và niệm được 6800 vị Phật, tự nhiên một nỗi cảm xúc rất mạnh chợt dâng lên trong lòng khi tôi nghĩ về tình thương của Ðức Phật Thích Ca đối với chúng sanh, làm cho nước mắt tôi đã trào ra và ngay khi đó tôi nguyện: Tôi sẽ đánh máy lại toàn bộ quyển kinh Vạn Phật (Tức là kinh Phật Thuyết Phật Danh) để phổ biến trên các Web site Phật Giáo để cống hiến cho chư vị Phật tử nào chưa có duyên để biết về kinh này.Mục đích của chúng tôi là để cho chúng ta cùng thấy rằng đạo Phật và Ðức Phật của chúng ta quá cao siêu: Chẳng những Ðức Phật nói cho chúng ta biết trong không gian vô tận này có không biết bao nhiêu là thế giới mà Ðức Phật còn biết và chỉ rõ cho chúng ta tên từng thế giới và ở thế giới nào có những vị Phật nào... Chẳng những vậy mà Ðức Phật còn cho chúng ta biết Phật nào ở thế giới nào có cha tên gì, mẹ tên gì, vợ tên gì, con tên gì ngay cả đệ tử của Phật đó là những ai tên là gì...v...v.... Trong khi khoa học hiện tại còn chưa tìm thấy một thế giới nào khác ngoài thế giới của chúng ta...Vẫn biết rằng mình tuổi đã cao, đánh máy lại không giỏi, phải một thời gian dài mới đánh máy xong danh hiệu của mười một ngàn một trăm (11,100) vị Phật nhưng tôi tự hứa là phải làm cho được... Và mong rằng việc làm của tôi sẽ mang lại một chút lợi lạc nào đó cho hàng Phật tử hữu duyên.... Và việc làm này, nếu có một chút công đức nào đó thì tôi xin hồi hướng về cho tất cả chúng sanh hữu hình hay vô hình để có đủ thuận duyên quy hướng về Phật Ðạo.Sau đây tôi sẽ chép lại nguyên văn quyển kinh Vạn Phật của dịch giả là Thầy Thích Thiện Chơn, Giáo Hội phật Giáo Việt Nam, do nhà xuất bản Tôn Giáo xuất bản năm 2000.Tôi cũng xin được ghi chú ở đây là tôi chỉ làm công việc chép lại nguyên văn. Những đoạn nào hay chữ nào có dấu (*) , đó là do tôi làm dấu để nói rõ là đoạn đó hay chữ đó đã được tôi kiểm lại, tức là không sai với nguyên văn.Nay Kính,Úc Châu, Mùa Vu Lan 2001
Phong Thủy Đại Sư Lưu Bá Ôn (2 tập)
Cuốn sách “Phong Thủy Đại Sư – Lưu Bá Ôn” được Anh Vũ & Kim Đồng dịch từ nguyên tác Trung văn của Tiêu Hiển: Phong thủy đại sư – Lưu Bá Ôn Sư Đồ Thần Toán Phong Thủy Ký của Nhà xuất bản Thanh Hải, Trung Quốc. Cuốn sách “Phong Thủy Đại Sư – Lưu Bá Ôn” được Anh Vũ & Kim Đồng dịch từ nguyên tác Trung văn của Tiêu Hiển: Phong thủy đại sư – Lưu Bá Ôn Sư Đồ Thần Toán Phong Thủy Ký của Nhà xuất bản Thanh Hải, Trung Quốc. Sách gồm có 20 chương: Chương 1: Gặp kỳ duyên, được thần tiên truyền tuyệt học Chương 2: Bạo chúa trị trăm năm, Long tinh châu xuất thế Chương 3: Đấu pháp phong thủy, thiện nhân được thiện báo Chương 4: Khéo may gặp đất khí vượng, ăn mày một bước lên mây Chương 5: Trở về kinh sư bất kể an nguy, ra sức ngăn cản làn sóng dữ Chương 6: Trừng trị gian thần Tần Cối, trải qua tận cùng gian nguy Chương 7: Nước trong điểm tài, nước trong điểm bệnh Chương 8: Vượt trùng trùng quan ải, tìm kho báu Hán triều Chương 9: Phong thủy tìm long huyệt, mưu người và ý trời Chương 10: Thay hình đổi cục, giải tan nội loạn Chương 11: Thiên cơ ngầm chuyển, kỳ sỹ Lưu Bá Ôn xuất thế Chương 12: Vì xã tắc trăm họ, Lưu Bá Ôn tìm người ứng kiếp vận Chương 13: Hấp thụ long khí, Chu Nguyên Chương đã ẩn hiện phong độ đế vương Chương 14: Quách Tử Hưng dựng cờ khởi nghĩa kháng Nguyên phục Hán Chương 15: Soái tinh rơi rụng đế vị ngầm dời Chương 16: Lưu Bá Ôn xông pha chiến trường bách chiến bách thắng Chương 17: Lưu Bá Ôn được tâm pháp của Khổng Minh Chương 18: Dụng hết tâm lực, nghĩa quân Minh Giáo tránh một trường huyết chiến Chương 19: Lưu Bá Ôn diễn dịch Sáu điềm thiên cơ Chương 20: Công thành thân thoái, Lưu Bá Ôn chu du thiên hạ. Đây là bộ sách viết về cuộc đời và những chiến tích lừng lẫy của Lại Bố Y, một người được xem là nhà phong thủy địa lý tinh thâm, thuật phong thủy của ông đã đạt cảnh giới xuất thần nhập hóa và Lưu Bá Ôn, một người rất giỏi chiêm bốc Dịch số. Sách gồm có 20 chương:Chương 1: Gặp kỳ duyên, được thần tiên truyền tuyệt họcChương 2: Bạo chúa trị trăm năm, Long tinh châu xuất thếChương 3: Đấu pháp phong thủy, thiện nhân được thiện báoChương 4: Khéo may gặp đất khí vượng, ăn mày một bước lên mâyChương 5: Trở về kinh sư bất kể an nguy, ra sức ngăn cản làn sóng dữChương 6: Trừng trị gian thần Tần Cối, trải qua tận cùng gian nguyChương 7: Nước trong điểm tài, nước trong điểm bệnhChương 8: Vượt trùng trùng quan ải, tìm kho báu Hán triềuChương 9: Phong thủy tìm long huyệt, mưu người và ý trờiChương 10: Thay hình đổi cục, giải tan nội loạnChương 11: Thiên cơ ngầm chuyển, kỳ sỹ Lưu Bá Ôn xuất thếChương 12: Vì xã tắc trăm họ, Lưu Bá Ôn tìm người ứng kiếp vậnChương 13: Hấp thụ long khí, Chu Nguyên Chương đã ẩn hiện phong độ đế vươngChương 14: Quách Tử Hưng dựng cờ khởi nghĩa kháng Nguyên phục HánChương 15: Soái tinh rơi rụng đế vị ngầm dờiChương 16: Lưu Bá Ôn xông pha chiến trường bách chiến bách thắngChương 17: Lưu Bá Ôn được tâm pháp của Khổng MinhChương 18: Dụng hết tâm lực, nghĩa quân Minh Giáo tránh một trường huyết chiếnChương 19: Lưu Bá Ôn diễn dịch Sáu điềm thiên cơChương 20: Công thành thân thoái, Lưu Bá Ôn chu du thiên hạ.Đây là bộ sách viết về cuộc đời và những chiến tích lừng lẫy của Lại Bố Y, một người được xem là nhà phong thủy địa lý tinh thâm, thuật phong thủy của ông đã đạt cảnh giới xuất thần nhập hóa và Lưu Bá Ôn, một người rất giỏi chiêm bốc Dịch số.
Hoa sen trong biển lửa - Thích Nhất Hạnh
"Hoa Sen Trong Biển Lửa" vì nhu cầu đòi hỏi đã phải tái bản lần thứ tư bằng Việt ngữ. Bản Anh ngữ do hai nhà xuất bản khác nhau đã phát hành tại Anh và tại Mỹ, còn bản tiếng Đan Mạch đã phát hành tại Copenhague, còn bản Nhật ngữ và Ý ngữ đang in... Nhân dịp, chúng tôi muốn nêu một số nhận định để chúng ta có thể đồng thoại trong khi tham khảo cuốn sách này: "Hoa Sen Trong Biển Lửa" vì nhu cầu đòi hỏi đã phải tái bản lần thứ tư bằng Việt ngữ. Bản Anh ngữ do hai nhà xuất bản khác nhau đã phát hành tại Anh và tại Mỹ, còn bản tiếng Đan Mạch đã phát hành tại Copenhague, còn bản Nhật ngữ và Ý ngữ đang in... Nhân dịp, chúng tôi muốn nêu một số nhận định để chúng ta có thể đồng thoại trong khi tham khảo cuốn sách này: 1- Lịch sử Việt cho thấy rằng đạo Phật đã du nhập vào những thời kỳ khổ đau nhất của dân tộc và luôn luôn có mặt ở mọi giai kỳ quật khởi. Chính nhờ khí chất của quần chúng cũng như của đạo Phật đã gặp nhau trong ý thức phục vụ và giải phóng con người. Phục vụ con người bằng cách đem lại một lối nhìn và lối sống hoàn toàn tự do và tự cường. Giải phóng con người khỏi những liên hệ giả tạo của nô lệ và khổ đau (ví như liên hệ giả tạo giữa thế lực xâm lược và thế lực dân tộc). Nhận định đưa tới ý thức cấp thiết về sứ mệnh của chúng ta trong hiện tại để phá đổ định mệnh hắc ám của chiến tranh. Vài mươi năm gần đây, người Phật tử Việt Nam đang sống lại quá trình của lịch sử ở một không gian, thời gian khác: thời kỳ huân tập chuẩn bị ý thức từ khi đạo Phật du nhập (thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ IX) là giai đoạn chấn hưng của phong trào Phật giáo từ năm 1930- 1950; thời kỳ chủ động (qua năm thế kỷ từ thế kỷ IX đến XIV) là giai đoạn 1950- 1963. Sau đó chúng ta rơi vào thế bị động. Bị động ở đây không có nghĩa là tê liệt, vì tiềm lực của ý thức và của quần chúng vẫn còn có đó. Tuy nhiên, chúng ta không bi quan. Kẻ bi quan chỉ nhìn thấy thành quả sau những lần và thắng lợi; trong khi sự thắng lợi nhất thời của bạo chính đã bao hàm thử thách, không nhận thức được rằng thất bại hàm chứa những nhân tố quật khởi những nhân tố thất bại. 1- Lịch sử Việt cho thấy rằng đạo Phật đã du nhập vào những thời kỳ khổ đau nhất của dân tộc và luôn luôn có mặt ở mọi giai kỳ quật khởi. Chính nhờ khí chất của quần chúng cũng như của đạo Phật đã gặp nhau trong ý thức phục vụ và giải phóng con người. Phục vụ con người bằng cách đem lại một lối nhìn và lối sống hoàn toàn tự do và tự cường. Giải phóng con người khỏi những liên hệ giả tạo của nô lệ và khổ đau (ví như liên hệ giả tạo giữa thế lực xâm lược và thế lực dân tộc). Nhận định đưa tới ý thức cấp thiết về sứ mệnh của chúng ta trong hiện tại để phá đổ định mệnh hắc ám của chiến tranh. Vài mươi năm gần đây, người Phật tử Việt Nam đang sống lại quá trình của lịch sử ở một không gian, thời gian khác: thời kỳ huân tập chuẩn bị ý thức từ khi đạo Phật du nhập (thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ IX) là giai đoạn chấn hưng của phong trào Phật giáo từ năm 1930- 1950; thời kỳ chủ động (qua năm thế kỷ từ thế kỷ IX đến XIV) là giai đoạn 1950- 1963. Sau đó chúng ta rơi vào thế bị động. Bị động ở đây không có nghĩa là tê liệt, vì tiềm lực của ý thức và của quần chúng vẫn còn có đó. Tuy nhiên, chúng ta không bi quan. Kẻ bi quan chỉ nhìn thấy thành quả sau những lần và thắng lợi; trong khi sự thắng lợi nhất thời của bạo chính đã bao hàm thử thách, không nhận thức được rằng thất bại hàm chứa những nhân tố quật khởi những nhân tố thất bại. 2- Nhận định trên đưa tới ý thức quật khởi để giải quyết hiện trạng chiến tranh. Đối tượng cuốn sách này nằm ở đó. Hiện nay thế giới đang kết án tính cách vô nhân trong cuộc tham chiến của người Mỹ. Những phong trào hoà bình trên thế giới đều đứng sau lưng chúng ta, họ kết tội và chống đối kịch liệt chính sách Mỹ. Đây chính là lúc mà lực lượng thực sự dân tộc, lực lượng thứ ba, phải tận triển mọi khả năng bất khả để tạo thế chủ động, mở ra cục diện mới. Giữa hai khối Đế quốc và Cộng sản, một bên là vị kỷ chiếm hữu, một bên là độc tài đảng trị, chúng ta chỉ có hai con đường: làm tay sai cho một trong hai khối hoặc là đứng cả dậy dưới bóng mặt trời để hoàn tất sự nghiệp Việt nam. 2- Nhận định trên đưa tới ý thức quật khởi để giải quyết hiện trạng chiến tranh. Đối tượng cuốn sách này nằm ở đó. Hiện nay thế giới đang kết án tính cách vô nhân trong cuộc tham chiến của người Mỹ. Những phong trào hoà bình trên thế giới đều đứng sau lưng chúng ta, họ kết tội và chống đối kịch liệt chính sách Mỹ. Đây chính là lúc mà lực lượng thực sự dân tộc, lực lượng thứ ba, phải tận triển mọi khả năng bất khả để tạo thế chủ động, mở ra cục diện mới. Giữa hai khối Đế quốc và Cộng sản, một bên là vị kỷ chiếm hữu, một bên là độc tài đảng trị, chúng ta chỉ có hai con đường: làm tay sai cho một trong hai khối hoặc là đứng cả dậy dưới bóng mặt trời để hoàn tất sự nghiệp Việt nam. Chối bỏ quan niệm quốc gia cực đoan, nhưng chúng ta chủ xúy quyền tự quyết của dân tộc trong một thế giới thuận hảo, như con sông Cửu Long phải là con sông Cửu Long để có thể đưa nước về hoà đồng cùng biển. Quyền tự quyết bao hàm ý chí tự cung và tự chủ của dân tộc; nhờ tự cung - tự cung về ý thức cũng như về sở vật sinh tồn - mà khỏi cầu ngoại viện. Cầu ngoại viện mà không tự chủ sẽ thành vong nô. Đó là hiện trạng của chúng ta. Chối bỏ quan niệm quốc gia cực đoan, nhưng chúng ta chủ xúy quyền tự quyết của dân tộc trong một thế giới thuận hảo, như con sông Cửu Long phải là con sông Cửu Long để có thể đưa nước về hoà đồng cùng biển. Quyền tự quyết bao hàm ý chí tự cung và tự chủ của dân tộc; nhờ tự cung - tự cung về ý thức cũng như về sở vật sinh tồn - mà khỏi cầu ngoại viện. Cầu ngoại viện mà không tự chủ sẽ thành vong nô. Đó là hiện trạng của chúng ta.