Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Chiếc Đồng Hồ Kỳ Lạ

Sheila Webb nghĩ mình đến gặp một quý bà bị mù đợi cô ở nhà số 19 khu Wilbraham Crescent - chứ không phải là gặp một cái xác đàn ông trên sàn nhà. Nhưng khi cô Pebmarsh phủ nhận việc yêu cầu cử cô Sheila Webb đến đây, cũng như không hề sở hữu những chiếc đồng hồ hiện diện xung quanh cái xác, rõ ràng họ cần đến một thám tử tài ba. “Vụ án quá phức tạp nên hẳn nhiên nó phải rất đơn giản,” Hercule Poirot tuyên bố. Nhưng kẻ sát nhân vẫn lộng hành còn thời gian thì cứ trôi đi… Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng với sự kiện Hercules Poirot không hề đến hiện trường xảy ra tội ác hoặc thẩm vấn nhân chứng hay người bị tình nghi. Ông bị thách thức chứng minh rằng có thể giải quyết một vụ án chỉ bằng kinh nghiệm và trí thông minh. *** Một con người có khả năng đấy! - Anh đăm chiêu nói. - Tôi khó biết nổi anh ta muốn đi đến đâu. - Chắc là anh ta không đầu hàng mà sớm hiểu ra. - Bà Tanios đã phôn cho tôi lúc nãy. - Tôi thông báo. - Tôi đã nghĩ thế. Tôi báo cho anh biết lời ủy thác. - Tốt. Mọi sự đang tiến triển như ý. Trong hai mươi bốn giờ nữa, Hastings, chúng ta sẽ được biết chính xác. - Tôi hãy còn lưỡng lự. Ai đúng là kẻ để chúng ta ngờ vực? - Tôi không thể nói người nào anh nghi ngờ, Hastings! Mọi người, lần lượt, tôi đang nghĩ ra hắn! - Đôi khi tôi có cảm giác rằng anh lấy làm thích thú để tôi rơi vào tình trạng không biết đâu mà lần! - Không, không, trò vặt ấy không làm tôi vui lắm đâu! - Tôi không tin là anh chịu bó tay trong việc này. - Tôi đáp. Poirot im lặng, vẻ lo lắng. Tôi hỏi anh: - Anh đang có điều gì, trong lúc này vậy? - Này anh bạn, khi sắp kết thúc một cuộc điều tra hình sự, tôi luôn luôn cảm thấy căng thẳng thần kinh. Có thể điều gì đó sắp xảy ra? - Anh muốn điều gì xảy ra? - Tôi không biết, anh ạ. (Anh nhíu mày và nói thêm) Tôi cho rằng đã làm hết khả năng... - Trong trường hợp này, hãy quên vụ án này đi và hãy đi đến rạp chiếu bóng, nào, mời anh! - Đúng đấy, Hastings, một ý kiến hay đấy! Chúng tôi có một buổi tối tuyệt vời, mặc dầu tôi đã phạm sai lầm là đưa Poirot đi xem một bộ phim hình sự. Một lời khuyên các bạn đọc rằng: đừng bao giờ đưa một người lính đi xem một vở kịch về chiến tranh, một thủy thủ một vở về hàng hải, một thám tử một vở về hình sự... Hàng tràng dài những câu phê bình của họ sẽ làm các bạn chán ngấy cuộc biểu diễn ấy. Poirot phát hiện ra một ngàn lẻ một chỗ yếu kém về tâm lý của bộ phim và sự thiếu phương pháp và thứ tự của thám tử xuýt làm cho anh phát điên. Khi ra về Poirot còn giải thích cho tôi rằng có thể đã vạch trần điều bí mật ngay ở nửa đầu của cuốn phim đầu. - Vô lý, không thể có phim khá thế đâu, anh Poirot! Poirot phải chấp nhận là tôi có lý. Sáng hôm sau độ hơn chín giờ một chút, tôi đến nhà bạn tôi. Tôi thấy anh đang vừa ăn sáng vừa mở các phong bì của chuyến thư tín. Điện thoại reo. Tôi cầm ống nghe. Một giọng hổn hển nói: - Có phải ông đấy không, ông Poirot? Ồ! Hóa ra là ông, đại úy Hastings? Tôi nghe thấy một thứ tiếng thở dài, và tiếng nức nở. - Có phải bà Lawson đang nói đấy không? - Tôi hỏi. - Vâng, vâng, đã xảy ra một chuyện khủng khiếp. - Cái gì vậy? - Cô ấy đã rời khách sạn Wellington... Tôi muốn nói về Bella. Tôi đã đến đó chiều hôm qua và người ta đã trả lời tôi rằng cô ấy đã đi rồi. Cô ấy cũng không để lại cho tôi một thông tin nào. Không có gì! Thật là lạ! Dù sao, bác sĩ Tanios có lẽ đã có lý. Ông nói về cô ấy bằng một giọng rất dịu dàng, và có vẻ rất buồn đến nỗi tôi phải tự hỏi rằng ông ta đã không thành thực chăng. - Nào, bà Lawson, hãy nói tôi biết điều gì đã xảy ra. Phải chăng chỉ là bà Tanios đã rời khách sạn mà không báo cho bà biết trước? - Ồ không! Nếu như chỉ là thế? Bác sĩ Tanios nói rõ rằng vợ ông ấy không còn nữa... Tóm lại, ông hiểu điều tôi muốn nói... Ông ta gọi bệnh này, là chứng trưng cảm truy bại. - Vâng. Điều gì đã xảy ra vậy? - Ồ! Thật khủng khiếp! Chết trong giấc ngủ... Liều thuốc ngủ quá mạnh! Và những đứa trẻ tội nghiệp! Buồn biết bao! Tôi chỉ biết khóc từ khi tôi biết tin này! - Bà đã biết tin ấy thế nào? Bà hãy kể tôi nghe chi tiết đi. Trong khóe mắt, tôi nhìn thấy Poirot đã ngừng mở các lá thư và đang lắng tai nghe. - Người ta đã gọi tôi qua điện thoại. Từ khách sạn... Khách sạn Coniston. Hình như người ta tìm thấy tên tôi và địa chỉ của tôi trong túi cầm tay của cô ấy. Ồ! Đại úy Hastings, khủng khiếp quá phải không? Những đứa trẻ ấy không còn mẹ nữa! - Hãy nghe tôi. Bà có chắc là đó là một tai nạn không? Đừng nghĩ nhiều đến một vụ tự sát? - Ôi, một ý kiến đáng sợ, đại úy Hastings! Tôi không biết gì cả. Ông có cho đó là một vụ tự sát không? Điều đó sẽ còn kinh khủng hơn! Cô ta có vẻ rất suy sụp... vô lý, tôi cam đoan với ông như vậy. Cô ấy không có khó khăn gì về tiền bạc cả vì tôi đã sẵn sàng chia sẻ với bà ấy... Tôi xin thề với ông về việc đó! Tiểu thư Arundell muốn thế, tôi có tình cảm với bà ấy. Và nghĩ rằng bà ấy có thể sẽ tự sát... Nhưng có thể là không đúng như thế... Những người của khách sạn nói đến một tai nạn. - Bà ấy đã dùng cái gì? - Một loại thuốc ma túy để ngủ. Veronal. Không, đúng hơn là Chloral. Vâng chính là Chloral. Ô, đại úy Hastings, ông có nghĩ... Không quá câu nệ, tôi đặt lại ống nghe và quay sang Poirot. - Bà Tanios... Poirot giơ bàn tay lên. - Phải tôi biết điều anh sắp thông báo cho tôi rồi. Bà ấy đã chết phải không? - Vâng, một liều mạnh thuốc ngủ, thuốc Chloral. Poirot đứng dậy. - Đến đấy, Hastings. Ta đi đến đấy ngay lập tức! - Phải chăng đó là cái kết cục mà anh đã sợ hãi chiều hôm qua? Anh chẳng đã nói rằng vào lúc kết thúc cuộc điều tra hình sự, anh luôn luôn cảm thấy căng thẳng thần kinh đó sao? - Vấn đề là một cái chết khác. - Poirot nói, mặt xị xuống. Trong khi phóng xe đi Euston chúng tôi gần như không nói gì cả. Đến lúc thấy Poirot lắc đầu tôi mới rụt rè hỏi anh: - Anh có nghĩ... Phải chăng là một tai nạn? - Không, Hastings, không. Không phải là một tai nạn. - Làm sao biết? Poirot không trả lời tôi. Cuối cùng chúng tôi đến khách sạn Coniston. Poirot, bỗng có cử chỉ thô bạo, chìa thẻ của mình ra và xông thẳng vào văn phòng giám đốc. Người ta kể lại cho chúng tôi các sự kiện. Một quý bà tên là Peters cùng với hai con đã đến khách sạn hôm qua lúc mười hai giờ rưỡi trưa. Họ ăn lúc một giờ. Lúc bốn giờ, một người đàn ông xuất hiện, mang một mảnh giấy cho bà Peters. Chúng tôi đem giấy lên. Vài phút sau bà ấy đi xuống cùng với hai con và một chiếc va-li. Bà giao các con bà cho người khách, rồi quay lại văn phòng và giải thích rằng bà chỉ lấy một phòng thôi. Bà ấy không có vẻ đặc biệt chán chường, bà hình như cũng khá bình tĩnh. Bà ăn tối lúc bảy giờ rưỡi, và ít phút sau, đi lên phòng mình. Sáng hôm sau lúc cô hầu mang lên cho bà một tách trà, đã thấy bà ấy chết rồi. Một thầy thuốc được gọi đến vội vã, đã tuyên bố rằng bà ấy đã chết trước đó nhiều giờ. Chúng tôi tìm thấy một chai rỗng trên bàn đầu giường của bà ấy. Mọi sự chỉ rằng bà đã uống một loại thuốc ngủ và do lầm lẫn, bà đã dùng một liều quá mạnh. Thầy thuốc bảo rằng đó là Chloral. Không có gì để tin rằng đó là vụ tự sát. Chúng tôi không tìm thấy một lá thư nào cả. Khi lục lọi các đồ riêng của bà để báo cho gia đình, chúng tôi tìm thấy trong một cái túi cầm tay có tên và địa chỉ của bà Lawson chúng tôi đã báo cho bà này qua điện thoại. Poirot hỏi người ta không tìm thấy gì về mặt thư từ và giấy tờ... Chẳng hạn, lá thư được mang đến bởi người đàn ông đã đến tìm bọn trẻ. Người đối thoại đáp: không một tờ giấy thuộc bất kỳ loại nào được tìm thấy trong phòng cả, nhưng người ta thấy trong lò sưởi một đống giấy tờ đã cháy. Trong chừng mực mà người ta có thể khẳng định thì bà Peters không tiếp bất kỳ ai cả trừ người đàn ông đến mang các con bà đi. Bản thân tôi hỏi người gác cổng về dấu hiệu nhận dạng của người này, nhưng anh ta cho tôi biết một chân dung cũng khá mờ nhạt: vóc tầm thước, tóc vàng hoe, dáng vẻ một người lính, không có gì đặc biệt lắm trên thân thể. - Đó không phải là Tanios. - Tôi nói thầm với Poirot. - Hastings thân mến ơi! Anh có thật sự tin rằng bà Tanios sau biết bao khó nhọc mới mang đi được bọn trẻ khỏi bố chúng, lại ngoan ngoãn trả chúng lại cho ông ấy mà không than khóc cũng không phản đối gì cả ư? Không! Không đâu! - Vậy thì người này là ai? - Rõ ràng là một người nào đó đã có thể chiếm được niềm tin của bà Tanios, hay đúng hơn là một người nào đó được một người thứ ba có tín nhiệm của bà Tanios phái đến. Tư cách pháp nhân của người đến mang bọn trẻ nhà Tanios đi không quan trọng lắm. Tác nhân gây án thực sự hãy còn trong bóng tối. - Và mảnh giấy là của người thứ ba ấy à? - Phải. - Một người nào đó được bà Tanios tín nhiệm ư? - Nhất định là thế. - Và mảnh giấy bị cháy thì sao? - Phải, có thể là bà ấy có lệnh là phải đốt nó đi. - Còn bản tóm tắt vụ án mà anh đã đưa cho bà ấy thế nào? Poirot trả lời tôi, vẻ trịnh trọng: - Cũng đã đốt rồi. Nhưng toàn bộ việc ấy không có gì quan trọng cả. - A! Sao thế? - Vì tất cả còn lưu giữ trong đầu Hercule Poirot. Anh nắm vội cánh tay tôi. - Đi thôi! Hastings, hãy rời khỏi khách sạn này. Ta hãy để lại những người đã chết để ta săn sóc đến người đang sống. Họ đòi hỏi chúng ta phải hết sức cảnh giác. ... Mời các bạn đón đọc Những Chiếc Đồng Hồ Kỳ Lạ - Agatha Christie.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Con Mồi Táo Bạo - Erle Stanley Gardner
Mason bảo vệ một người dính vào cuộc chiến cổ phiếu, bị cáo buộc giết hại thư ký của đối thủ. *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952)   *** Jerry Conway lật tờ báo đến trang sáu. Cùng một đề tài như vậy cả tuần nay rồi. Đó là bài báo quảng cáo chiếm hết nửa trang với tựa đề: “HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG ỦY NHIỆM”. Bài báo được viết một cách khôn khéo với lời lẽ chứng tỏ bề ngoài đầy sự thực: Quý vị cổ đông của hãng “Tìm kiếm và khai thác dầu mỏ California - Texas” đã đầu tư cho hãng bởi vì quý vị muốn có lợi túc. Quý vị muốn có lợi tức để sử dụng cho chính quý vị, cho con cháu cũng như cho những người thừa kế. Nhưng quý vị đã nhận được gì? Ngoài sự hoàn toàn trông cậy vào may rủi, ông Giám đốc Jerry Conway đã làm được gì cho quý vị? Ông ta nói nào là phát triển, nào là xây dựng và nào là ông ta đang đặt một nền tảng vững chắc cho Công ty. Nhưng đó không phải là con đường của những chuyên viên thượng thặng bậc nhất lựa chọn. Các chuyên viên này đã nhận định rằng Jerry Conway chỉ đang đặt nền tảng trên bãi cát. Quý vị muốn có lợi tức, quý vị muốn có hành động. Quý vị muốn có lợi tức ngay bây giờ, năm tới hoặc trong năm tới nữa chứ không phải là mười hay hai mươi năm sau. Vậy xin quý vị hãy gửi phiếu ủy nhiệm cho Gifford Farrell. Gifford Farrell sẽ đảm nhận trọng trách giao phó và công việc sẽ phát triển tốt đẹp. Farrell chỉ bảo đảm bằng kết quả chứ không phải bằng lời hứa. Farrell chỉ bảo đảm bằng hành động chứ không phải tà tà, bằng quyết định chứ không phải bằng mơ hồ và bằng thành tích chứ không phải bằng hy vọng. Conway gấp tờ báo lại. Ông thấy rằng bài báo quảng cáo đó sẽ có kết quả và ông thấy mình bị tổn thương. Theo Hội đồng Cổ đông ủy nhiệm thì thật ra hoàn toàn do may mắn nên Công ty tìm kiếm và khai thác dầu mỏ California - Texas đã được nằm trong tổ hợp Turkey Ridge. Và do đó Jerry Conway đã tạo được một lợi tức lớn cho công ty và nâng giá trị của chứng khoán. Đúng ra thì Jerry Conway đã có dự trù đầu tư Công ty vào một tổ hợp khác cũng có tiềm lực mạnh tương đương với tổ hộp Turkey Ridge, nhưng lại không thành công. Gifford Farrell đã từng bị mất ảnh hưởng trong Công ty ngay từ đầu và đã bị Ban giám đốc cách chức, và bây giờ ông ta khởi sự lại cuộc chiến dành quyền ủy nhiệm. Ông ta quyết dành giật lấy quyền điều khiển Công ty từ tay Conway. Ai đã hậu thuẫn cho Farrell? Nguồn tài chính nào đã yểm trợ cho các quảng cáo trên báo chí? Conway rất muốn biết và cần phải biết để tìm cách đối phó. Kế hoạch đầu tư tổng quát chính yếu của Conway phải được thi hành một cách âm thầm. Giờ phút nào Conway để lộ ra kế hoạch, giờ phút đó coi như thất bại. Giá của các tài sản mà Conway hy vọng thu mua được sẽ tự động tăng vọt lên liền. Conway không thể giải thích trên báo chí được. Conway có ý định sẽ báo cáo trước đại hội đồng cổ đông và hy vọng rằng hầu hết các cổ đông lớn sẽ tham dự và sẵn sàng hậu thuẫn cho mình. Nhưng còn các cổ đông nhỏ hơn? Những cổ đông mà họ đầu tư đây một chút, kia một chút, những cổ đông mà họ chỉ muốn thấy hành động và lợi nhuận trước mắt? Liệu những người này sẽ đứng trong hàng ngũ Conway hay họ sẽ bỏ phiếu ủy nhiệm cho Farrell? Theo nghiên cứu các tài liệu cho biết, có khá nhiều các cổ đông nhỏ đã từng nắm được quyền điều khiển Công ty, với điều kiện là họ đoàn kết thành một khối. Nếu Farrell nắm được cái phiếu ủy nhiệm của họ có nghĩa là họ đã đoàn kết thành một khối. Tuy nhiên, nếu Gifford Farrell không thu thập được tối thiểu 60 phần trăm các cổ đông nhỏ này, và “nếu” Conway có khả năng nắm được các cổ đông lớn trong đại hội cổ đông thì mọi chuyện sẽ ổn thỏa. Tuy nhiên đó chỉ là hai chữ “Nếu” to tướng và hiện tại Jerry Conway chưa tìm được giải pháp. ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #54: Con Mồi Táo Bạo của tác giả Erle Stanley Gardner.
Tiền 3: Sòng Bạc - Paul Loup Sulitzer
Cimballi, chàng triệu phú 26 tuổi, góa vợ, một con trai, tốt bụng và ham chơi, một hôm bỗng điên rồ nảy ra ý định "tậu" một sòng bạc ở Mỹ để cuộc đời được có thêm phần vui vẻ, bởi vì cái sòng bạc này "...có thể tiếp đón cùng lúc Ba mươi ngàn khách chơi, tổng vốn đầu tư là Năm trăm triệu đô la và ...lãi đồng niên trông rõ được là Một trăm triệu đô la". Vậy thì vui quá rồi. Song, cả tiền lẫn niềm tin đều chưa tìm thấy thì đã thấy chàng Cimballi; nào lồng lên như ngựa vía khắp các châu lục trên trái đất, từ Mỹ sang Âu, Á, Phi rồi lại ngược từ Phi, Á, Âu về Mỹ; nào suýt phá sản; nào hơn thế, suýt bỏ mạng cùng hai đứa con - một đẻ một nuôi, trong đường hầm bên dưới sòng bạc của chính chàng. Bạn đọc sẽ ngạc nhiên và có thể, kinh hoàng, khi đi tới tận cùng của "Sòng Bạc". Sòng Bạc là tập thứ 3 của series tiểu thuyết Tiền của tác giả Paul Loup Sulitzer. Bộ Tiền gồm có: - Tiền! Niềm Vui Sướng - Tiền! Tiền Mặt Trả Ngay - Sóng Bạc *** Tác giả Paul L. Sulitzer trước khi trở thành nhà văn đã là một chuyên gia kinh tế, tham vấn cho nhiều công ty lớn. Nhờ thế ông đã có thể đi sâu vào gan ruột “giới làm ăn”, nắm được tối đa những lắt léo, những bí mật mà chỉ người trong cuộc mới biết. Có lẽ đó là lý do chủ yếu khiến "Tiền!..." có sức hấp dẫn lạ lùng của một cuốn truyện trinh thám. Nhưng khác với loại truyện ấy, vẫn là một cuốn tiểu thuyết tâm lý xã hội, một bức tranh thu nhỏ của thời hiện đại, với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, của tốc độ chuyển dịch, sức mạnh ma quái của đồng tiền, với lý tưởng, tình yêu, hạnh phúc, và khổ đau của con người... *** Vào quãng giữa tháng 7 năm 1976, ngày 18, cách đây hơn ba tháng tôi đã lao vào việc mua và xây dựng một khách sạn - sòng bạc khổng lồ trên đất Mỹ. Một sòng bạc đáng gọi là một sòng bạc: Sau khi xây dựng xong, nó sẽ có thể tiếp đón được trong cùng một lúc từ 29 đến 30 ngàn khách chơi. Không phải là nhỏ rồi! Dù sao nó cũng đủ để cạnh tranh với những sòng bạc Caesars hay Saudz của Las Vegas. Quy mô thì y chang như nhau hay cũng gần như thế. Nhưng về tầm quan trọng của công chuyện kinh doanh mà tôi đã dấn thân vào thì chỉ cần ba con số là đủ để biểu hiện nó: Tổng số vốn đầu tư là năm trăm triệu dolars, nếu không có gì bất thường thì số vốn này sẽ được khấu hao xong trong ba năm rưỡi, lãi đồng niên trông thấy được sẽ là một trăm triệu dolars nghĩa là 500 triệu francs mỗi tháng[1]. Trừ tiền thuế và các lệ phí. Ngày 18 tháng 7 năm 1976, một chiếc taxi đưa tôi đến một cao ốc ở Phố 65 Đông, tại Manhattan, New York, lúc đó là tám giờ tối, hơn kém khoảng một hay hai phút gì đó. - Tôi tên là Franz Cimballi. Ông Olliphan chờ tôi. Người bảo vệ có mang súng, tra một bảng danh sách để trên bàn làm việc nhìn chòng chọc vào mặt tôi, rồi gật đầu. Tôi đi về phía thang máy, anh ta gọi giật tôi lại, nói: - Tầng lầu của ông Olliphan có thang máy riêng. Anh ta đến gần tôi, đưa tôi đến trước mặt cái cửa bằng gỗ sồi đánh si, kỳ lạ là không có một quả đấm cửa hay bất cứ một thiết bị mở nào. - Xin mời ông nhìn vào chiếc camera này. Tôi phải ngẩng đầu và con mắt độc nhỡn của chiếc ống kính nhìn xuống tôi. Tôi gửi cho nó một nụ cười quyến rũ mà tôi có bí quyết. Mười giây, cái cửa không có khóa lặng lẽ quay, mở vào một thứ phòng khách của phụ nữ, căng bằng lụa mộc, có kê ở hai bên một chiếc tủ đứng kiểu Louis XVI, hai chiếc ghế fauteuil kiểu Adam, lưng ghế có phù hiệu. Tôi bước vào, cánh cửa đóng lại sau lưng tôi. Tôi không hề cảm thấy chiếc cabin khởi động, và cũng chẳng cảm thấy chấn động nhẹ nào báo hiệu đã lên đến nơi. Một cánh cửa mở ra, gác lầu thứ 64 trên cao, một người quản gia người Porto Rico thản nhiên đỡ chiếc áo choàng của tôi. - Xin mời ông đi lối này, thưa ông Cimballi. Nếu cứ xét theo cái thang, bằng gỗ mun rất hẹp đưa tôi lên một căn phòng có lẽ là căn gác cuối cùng của cao ốc này, thì tầng lầu này phải là song lập. Người mời tôi dùng bữa tối đang chờ tôi ở đầu một dãy hành lang hoàn toàn ốp gỗ, dẫn vào một phòng đọc sách cũng hoàn toàn ốp gỗ như vậy. Khi tôi bước vào, ông cất chiếc vĩ cầm vào hộp, và tôi có thể đoán chắc rằng chỉ riêng một cây đàn này thôi, ít nhất cũng bằng giá của cả tầng lầu song lập này và những gì nó chứa bên trong. Đó là một người đàn ông trạc năm mươi tuổi, cao lớn, mảnh mai, rất đẹp, rất lịch sự! Hai thái dương tóc điểm bạc, da mặt rám nắng, đôi mắt xanh cháy bỏng thông minh. Tên ông ta là James Montague Olliphan. Chính ông là người đứng làm trung gian để bán cho tôi khách sạn “Con Voi Trắng”. - Ông dùng một chút rượu thưa ông Cimballi? ... Mời các bạn đón đọc Tiền 3: Sòng Bạc của tác giả Paul Loup Sulitzer.
Tiền! Niềm Vui Sướng - Paul Loup Sulitzer
"Tiền!..." vào lúc này, chúng tôi hy vọng có thể giúp bạn đọc tiếp cận với "thế giới kinh doanh", với "nghệ thuật làm giàu", và còn hơn thế nữa, có một cái nhìn đầy đủ, xác thực về thời đại mình đang sống. Cậu chàng Frank Cimballi, 19 tuổi, con nhà tỉ phú chỉ biết ăn chơi, bỗng rơi tõm vào một cảnh ngộ bi đát: Bố, mẹ chết, người yêu tự sát, gia tài khổng lồ được thừa kế bị cưỡng đoạt sạch sành sanh. Bị đẩy đến xứ Kenya Châu Phi xa lạ với hai bàn tay trắng - theo đúng nghĩa đen, cậu chàng bắt buộc phải sống, phải làm lại cuộc đời mình. Thế mà chỉ năm năm sau, Cimballi đã trở thành triệu phú, lần luợt đánh bại tất cả những kẻ độc ác đã “gây nên cuộc lừa đảo có tầm cỡ thế kỷ”, kể cả tên trùm tư bản tài chính Martin Yahl. Đánh bại, không phải bằng vũ lực mà bằng chính sức mạnh của đồng tiền, bằng các mánh lới, các thủ đoạn kinh doanh. Và rồi chính Cimballi, đang ngất ngưởng trên đỉnh cao chót vót thắng lợi huy hoàng, lại một lần nữa bị lôi tuột xuống vực cũng bằng những cái “bẫy” nghề nghiệp... Sòng Bạc là tập thứ 3 của series tiểu thuyết Tiền của tác giả Paul Loup Sulitzer. Bộ Tiền gồm có: - Tiền! Niềm Vui Sướng - Tiền! Tiền Mặt Trả Ngay - Sóng Bạc *** Tác giả Paul L. Sulitzer trước khi trở thành nhà văn đã là một chuyên gia kinh tế, tham vấn cho nhiều công ty lớn. Nhờ thế ông đã có thể đi sâu vào gan ruột “giới làm ăn”, nắm được tối đa những lắt léo, những bí mật mà chỉ người trong cuộc mới biết. Có lẽ đó là lý do chủ yếu khiến "Tiền!..." có sức hấp dẫn lạ lùng của một cuốn truyện trinh thám. Nhưng khác với loại truyện ấy, vẫn là một cuốn tiểu thuyết tâm lý xã hội, một bức tranh thu nhỏ của thời hiện đại, với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, của tốc độ chuyển dịch, sức mạnh ma quái của đồng tiền, với lý tưởng, tình yêu, hạnh phúc, và khổ đau của con người... *** Tôi nghĩ rằng, ta có thể bắt đầu câu chuyện từ sáng 23 tháng mười một, vào lúc mười một giờ ba mươi phút, trong ngôi nhà ở đường Old Queen bên rìa công viên St. James thành phố London. Sao lại không? Chính vào lúc đó cuộc chơi bắt đầu. Có lẽ không thật đúng vào lúc mười một giờ ba mươi, mà là mười một giờ ba mươi rồi kéo dài trong năm sáu tiếng đồng hồ sau đó. Viên cảnh sát từ công viên Scotland tới ngồi trước mặt tôi. Đến bây giờ trong mắt tôi vẫn còn lưu lại đường nét chiếc veston bằng vải tuýt anh ta mặc hôm đó. Anh ta trạc độ bốn mươi, có khuôn mặt người xứ Scotland hung hung, mái tóc dày và xoắn có đường ngôi bên trái kéo dài sang phải bởi một làn sóng có hai chỗ duỗi, tên là Ogilvie hoặc Watts. Anh ta theo dõi những người dọn nhà thuê đang khuân vác đồ đạc. - Anh rời bỏ căn nhà này? - Chính nó rời bỏ tôi. Người ta đang lấy lại những thứ tôi chưa trả hết tiền. Tôi chưa trả hết tiền một thứ nào. Điện thoại, tôi nhấc máy, lại ngân hàng gọi tới: Tấm séc thứ hai đã tới nơi, họ không chịu đựng nổi tình thế này, tôi định làm gì, mấy giờ tôi mới đến gặp họ, không biết rằng càng sớm càng tốt hay sao? Tôi có biết chứng thư kháng nghị là cái gì không? “Tôi sẽ cố đến thật sớm! Bao giờ? - Một giờ nữa!” Tôi gác máy, thấy cặp mắt màu hạt dẻ đăm chiêu của viên cảnh sát vẫn dán vào tôi. Chắc chắn gã đã nghe hết, đã biết rõ ai gọi tôi, gọi để làm gì, nhưng cứ giả ngây giả điếc như chẳng hay biết gì. Gã bảo: - Hay, tôi vừa nảy ra một ý: Có lẽ tốt nhất là anh nên làm lại từng bước một những cái gì anh đã làm đêm hôm đó. Không bắt buộc đâu. Nhưng tranh thủ được thời gian. Và tôi có thể để anh dược tự do sớm hơn. Tôi đứng lên, chân nặng trịch. - Nào, đi! Các người dọn nhà thuê đã và đang làm việc rất tốt: Họ bắt đầu từ lầu hai, đã dọn sạch mọi thứ trên đó, lầu một cũng trống trơn, chẳng sót thứ gì. Bây giờ họ đang tấn công vào tầng trệt, mang đi hết, nhẵn nhụi, có mảnh giấy vẽ ngôi nhà ở St. Tropez bằng bút mực. - Anh bao nhiêu tuổi? - Hăm mốt. Hai mươi mốt năm, hai tháng và mười bốn ngày. - Anh thuê căn nhà này từ bao giờ? - Cách đây hai tháng mười bốn ngày. - Buổi tối hôm kia là lần đầu tiên? Tôi nhìn theo bức tranh trong tay một người dọn nhà thuê. - Không phải lần đầu. Giữa lầu một và tầng trệt có vài bậc tam cấp. Chúng tôi trèo lên. Tôi ngoái nhìn lại lần cuối cùng mong trông thấy bức vẽ, nhưng người mang nó đi đã ra tới ngoài phố, tới xe tải. - Không phải lần đầu, nhưng chắc chắn là lần cuối cùng. - Đêm ấy anh ăn mừng cái gì là chính? - Sự phá sản của tôi. - Chúng tôi lên thang gác lầu một. - Tôi nói - Tôi ở dưới kia, trong phòng khách bên phải. Trông rõ cô ta trèo lên cầu thang này. Cô dừng lại đứng chỗ này, quay đầu nhìn xuống. Nhìn tôi, giơ tay làm dấu rồi tiếp tục lên gác. - Có tỏ vẻ gì đặc biệt? ... Mời các bạn đón đọc tập 1 bộ Tiền: Tiền! Niềm Vui Sướng của tác giả Paul Loup Sulitzer.
Vịnh Nhật Thực - Jayne Ann Krentz
Một vụ án mạng vừa xảy ra tại vịnh Nhật thực nổi tiếng yên bình. Rafe Madison - gã “trai hư’’ của thị trấn - bị nghi ngờ giết chết cô bạn gái lẳng lơ của mình. Nhưng thật khó tin làm sao, bất chấp mối thâm thù truyền đời giữa hai nhà Madison và Harte, anh ta lại được làm chứng vô tội bởi Hannah Harte, một cô gái hết mực ngoan hiền. Thoát khỏi tù tội trong gang tấc, Rafe rời khỏi thị trấn, anh không bao giờ quên sự dũng cảm của Hannah khi vứt bỏ danh dự, đối chọi với dư luận để cứu giúp mình. Tám năm sau, họ quay về vịnh Nhật thực và đối mặt với nhau trong cuộc chiến tranh giành quyền sở hữu Mộng Tưởng, tòa nhà được bà cố của Hannah di chúc lại cho hai người, với mong muốn kết thúc mối thâm thù giữa hai dòng họ. Cùng lúc đó, những sự kiện kì lạ và bí ẩn về vụ án năm xưa liên tiếp xuất hiện, kéo theo nhiều mối nguy hiểm lại đưa họ gần nhau hơn. Liệu kẻ thủ ác có thành công trong việc bịt đầu mối nhằm chôn vùi những bí mật năm xưa? Liệu lần này Romeo và Juliet sẽ có được kết cục hạnh phúc?Với văn phong hóm hỉnh và đặc biệt là lời thoại hết sức hấp dẫn giữa các nhân vật, tác giả Jayne Ann Krentz dẫn dắt bạn đến thế giới của Romeo và Juliet thời hiện đại, và câu chuyện này sẽ lôi cuốn bạn đến những trang cuối cùng. *** Vịnh Nhật Thực, Bang Oregon   Nửa đêm, tám năm về trước…   “Đường về nhà sẽ dài đấy.”   Giọng nói trầm, khàn, vẻ nam tính không thể nhầm lẫn. Kiểu giọng khiến phụ nữ phải rùng mình. Giọng nói phát ra từ trong bóng tối mênh mông gần chân Vòm Nhật Thực, tảng đá nguyên khối cao nổi bật nơi đoạn đường hẻo lánh thuộc bãi biển đầy đá này.   Hannah Harte rời mắt khỏi ánh đèn hậu trên xe của Perry Decatur đang mờ dần và xoay người. Nhịp tim cô vốn đã đập dồn sau cuộc ẩu đả không lấy gì làm dễ chịu trên ghế trước vừa xong, giờ đây lại tăng tốc nhanh hơn.   Có lẽ rời khỏi xe không phải là một ý tưởng thông minh. Vào tầm khuya như vậy, đoạn đường Cảnh Vịnh này rất vắng vẻ. Hay đấy, Hannah, cô tự nhủ. Đúng là tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa mà, trong khi mày cũng được xem là đứa biết nghĩ và thận trọng. Người không bao giờ mạo hiểm. Người không bao giờ dính vào rắc rối.   “Ai đó?” Cô lui lại một bước, sẵn sàng chạy.   Người đàn ông trên bãi biển thong dong bước khỏi vùng tối dày đặc của vòm đá vào miền ánh sáng của mặt trăng đêm cuối hè dịu nhẹ. Hắn cách cô khoảng sáu mét. ... Mời các bạn đón đọc Vịnh Nhật Thực của tác giả Jayne Ann Krentz.