Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chờ Em Đến San Francisco

Truyện viết về Sài Gòn những năm 1980, qua suy nghĩ, qua hồi ức của một nhân vật nay đã là một phụ nữ trưởng thành. Truyện cũng xen vào những bối cảnh rất hiện đại ở các quốc gia châu Âu và Mỹ. Các địa danh như Chicago và San Francisco cũng được nhắc đến nhiều trong truyện. Đọc "Chờ em đến San Francisco", bạn đọc sẽ một lần nữa, được trở lại với Sài Gòn xưa, với những con người xưa và những tình cảm thiêng liêng một khi đã bước vào thì rất khó dể thoát ra...Một kết thúc mở cho cuộc tình giữa một cô gái với 2 chàng trai, cô sẽ lựa chọn ai?... "Một cô gái nuôi dưỡng tình cảm si mê của mình suốt hai mươi năm trời, tưởng không thể gặp lại người trong mộng. Nhưng một ngày, người tình thời thơ ấu đột ngột trở lại. Cô sẽ làm gì để giữ được tình yêu cũ trong khi tim cô cũng đang rối bời vì một người đàn ông khác vừa xuất hiện. Những chuyến bay, những khung cảnh lãng mạn của Paris, Chicago... và đặc biệt là khung cảnh Sài Gòn của hai mươi năm trước bồng bềnh hiện ra, xen giữa câu chuyện tình nóng bỏng." *** Review Nguyễn Ngọc Ánh Bạn có tin vào duyên số không? Những cuộc gặp gỡ, những mối tình, những kỷ niệm xen lẫn nụ cười và nước mắt,… cùng tất cả những thứ mà bạn đã nếm trải trên cuộc đời này, chúng đều là duyên số. Tôi đã nghe ở đâu đó nói rằng “Kiếp trước phải quay đầu nhìn nhau 500 lần, kiếp này mới có duyên gặp gỡ hay ở cạnh nhau”. Và tôi tin vào duyên số mà ông trời đã sắp đặt. Tôi tin một ngày nào đó, chúng ta – những người yêu nhau, dù có cách xa hàng nghìn cây số rồi cũng sẽ trở về bên nhau. Có lẽ, Dương Thụy cũng vậy khi xây dựng tình yêu của nhân vật An và Bình trong cuốn sách “Chờ em đến San Francisco”. Dương Thụy đã nhắc trong Lời nói đầu rằng “Cuốn sách này không dành cho những bạn đọc tuổi teen hay những bạn trẻ dưới ba mươi tuổi” và tôi cũng không phải đối tượng của cuốn sách này. Thế nhưng, tôi vẫn khuyên các bạn nên đọc, cho cái tuổi trẻ “thanh xuân” đang tràn ngập, cho cái thời áo trắng ngây ngô nhưng khao khát tình yêu. Cuốn sách là một câu chuyện nhẹ nhàng và lãng mạn như nước Pháp, pha chút bồng bột của tuổi trẻ, nhưng vẫn rất đáng yêu và chân thành. Mạch kể câu chuyện đan xen giữa những ký ức trong quá khứ và hiện tại qua suy nghĩ cùng hồi ức của nhân vật nữ chính nay đã là một phụ nữ trưởng thành. Đọc “Chờ em đến San Francisco”, bạn sẽ được sống lại thời bao cấp ở Sài Gòn vào những năm 80 của thế kỷ trước, khi cuộc sống còn nhiều thiếu thốn nhưng tình người thì vô cùng bao la. Dưới ngòi bút của Dương Thụy, một Sài Gòn rất khác, một Sài Gòn hào hoa, không quá nhộn nhịp mà gần gũi hơn, Sài Gòn những ngày nắng và trái tim của một cô gái với những rung động đầu đời nhưng cuối cùng cũng có một kết thúc tốt đẹp. Các ký sự về hành trình châu Âu, châu Á không những cung cấp kiến thức về con người, văn hóa, lịch sử của nơi đến mà còn đan xen những cảm nhận rất riêng, rất thật, rất đặc biệt dưới con mắt của nhà văn. Tôi đã đọc lại cuốn sách rất nhiều lần, tôi không nhớ chính xác mình đã đọc nó bao nhiêu lần khi tôi được tặng nữa. Nó thực sự hay. Cũng như những câu chuyện trước của Dương Thụy, các nhân vật trong câu chuyện này cũng có những chức vụ, địa vị khá cao trong xã hội. Ở hiện tại, An là một nhân viên của công ty dược phẩm nổi tiếng, đi đây đi đó khắp nơi như cơm bữa. Ngoài ra, sự xuất hiện của hai chàng trai là John – một doanh nhân ấm áp và lịch lãm, tự tay xây dựng doanh nghiệp của riêng mình và Bình – mối tình đầu ngây thơ của An, anh làm ở Apple với một vị trí mà “không có người để cho phép anh nghỉ” – một vị trí khá cao theo suy nghĩ của tôi, cả hai chàng trai đều đã để lại trong tôi những cảm xúc khó có thể diễn tả xuyên suốt câu chuyện. Trong chuyến đi công tác của mình, An tình cờ quen biết với chàng trai độc thân tên John trên máy bay, giữa họ nảy sinh những rung động sau vài lần gặp gỡ ở Chicago, nhưng khi nhận ra những rung động đó, An bắt đầu băn khoăn, cô chưa sẵn sàng cho một tình yêu mới. Trong quá khứ, An là một cô nữ sinh khiến biết bao thằng con trai trong xóm “thèm” với vẻ ngoài non trẻ của thiếu nữ 18 của mình, nhưng người duy nhất cô trao tình cảm là Bình – mối tình đầu của cô. Cái cảm giác nóng rẫy khi ngồi sau chiếc xe Dream của Bình trước khi anh xuất ngoại đó mãi là phút giây ngất ngây nhất đã làm cô không thể quên trong suốt những ngày tháng sau này. Duyên số đưa đẩy, An và Bình gặp lại nhau vào mùa thu Paris với những cơn gió rét ngọn, tình cảm giữa họ năm ấy vẫn còn đó, những lần cùng nhau học tiếng pháp, thu âm những bài hát tiếng pháp lãng mạn như vừa mới xảy ra. Bình gắn với tuổi thơ của An, gắn với những hồi ức về một thời khốn khó nhưng luôn tràn ngập niềm vui. Bình là Sài Gòn trong An, và quan trọng nhất, Bình là…mối tình đầu. Mối tình đầu chỉ khiến ta thôi nhớ, chứ chẳng thể nào khiến ta mãi mãi quên. An cũng vậy. Sau một khoảng thời gian quá dài, tưởng chừng như bóng hình Bình đã phai mờ trong kí ức cô, nhưng không, anh vẫn luôn ở đấy, ở một góc sâu thẳm trong trái tim của cô gái Sài Gòn. Thật may khi cả hai đều vì những bấp bênh của cuộc sống mà chưa kết hôn. Kết thúc câu chuyện, giữa một chàng trai người Mỹ lịch lãm vừa quen như John và mối tình đầu không thể quên là Bình, An buộc phải đưa ra chọn lựa cho chính mình. Và cô đã chọn Bình. Truyện không chỉ nói về tình yêu, mà còn về những con người xóm Tân Định, cuộc sống thời bao cấp, chị Hương qua đèo, các anh “cu”, và “non-cu”,… Tôi chỉ tiếc rằng mình không sinh ra ở thời ấy để có thể cảm nhận hết những gì Dương Thụy đã viết. Nhưng khi đọc nó và nghiền ngẫm, tôi vẫn có thể tưởng tượng ra một rạp phim tồi tàn cũ kỹ mang cái tên Văn Hoa đầy ắp những kỷ niệm đẹp giữa các nhân vật, có thể tưởng tượng ra một xóm nghèo như vô số những xóm nghèo bây giờ nhưng đầy ắp tình người. Thế nhưng tôi không làm sao hiểu cảm giác bị rệp cắn là thế nào, cũng không làm sao hiểu những thái độ kỳ thị nhau chỉ vì chế độ chính trị ở thời xưa. Với lối viết văn nhẹ nhàng mà giản dị, Dương Thụy đã xây dựng tính cách nhân vật nữ chính mà tôi thực sự yêu thích. Thông qua câu chuyện của nhân vật chính, nó cho ta bài học về tự đối mặt với chính bản thân mình, đối mặt với những cảm xúc sâu thẳm nhất trong tâm hồn chúng ta để có thể đưa ra sự lựa chọn không phải đúng đắn nhất mà là khiến chúng ta hạnh phúc, vui vẻ nhất một cách thực sự từ trong trái tim. Và tôi cũng đã thực sự bị quyến rũ bởi những bức tranh được vẽ ra về những chuyến bay, những khung cảnh lãng mạn của Paris, Chicago… và đặc biệt là khung cảnh Sài Gòn của mấy mươi năm trước bồng bềnh hiện ra, xen giữa câu chuyện tình nóng bỏng. Thế nhưng có lẽ vì câu chuyện theo mô típ cũ trong những cuốn sách trước đây mà tôi từng đọc của Dương Thụy nên với tôi, nó vẫn chưa thực sự đặc sắc, cùng với những sự khó hiểu trong một vài chi tiết của câu chuyện mà cô ấy đã viết, nếu có sự sáng tạo hơn nữa trong cách sáng tác thì cuốn sách này của Dương Thụy sẽ được tôi đánh giá cao hơn. Tuy nhiên với tôi, nó vẫn là cuốn sách mà tôi thực sự yêu thích. Và tôi nghĩ rằng bạn cũng sẽ cảm nhận được như thế khi bạn đọc được nó. Hãy đọc và cùng tôi cảm nhận. Mời các bạn đón đọc Chờ Em Đến San Francisco của tác giả Dương Thụy.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vịnh Tokyo - Anthony Grey
Tiểu thuyết lịch sử về các biến động tháng Bảy năm 1853, tàu chiến Mỹ làm chấn động nước Nhât, và gần đưa hai nứơc mỹ nhật tới chiến tranh *** Anthony Gray OBE là một nhà báo và tác giả người Anh. Là một nhà báo của Reuters, ông đã bị chính quyền Trung Quốc cầm tù 27 tháng tại Trung Quốc từ năm 1967 đến 1969. Ông đã viết một loạt tiểu thuyết lịch sử và sách phi hư cấu, bao gồm một số cuốn liên quan đến việc ông bị giam giữ. *** Nửa đêm, 7 tháng Bảy năm 1853 MỒ HÔI TRẮNG XOÁ TÚA RA TỪ LƯNG CON ngựa trạm gần như đang hấp hối khi chàng kị sĩ đội chiếc mũ trụ samurai thúc mạnh cựa giày vào nó và phóng như tên bắn vọt qua chiếc cầu vồng vắt qua vòng thành thứ ba phía trước toà thành trì đồ sộ của Shogun ở Yedo. Tới trước hàng lính gác mặc áo giáp chống giáo chắn ngang cánh cổng sắt nặng nề chàng kị sĩ hô vang: - Chokurei - da! Kinkyu Chokurei - da! Chàng rút ra từ dưới vạt áo chiến bào một cuộn giấy nhỏ được buộc bằng những sợi dây mạ vàng và giơ cao lên quá đầu. Những người lính gác đội mũ sắt mặc áo giáp bằng da và tre đã dợm chĩa mũi dáo về phía chàng, nhưng tiếng hô của chàng trai trẻ có vẻ là một samurai đã khiến họ dừng tay. Những lời chàng vừa hô là mật hiệu báo rằng chàng mang theo một "tin khẩn" do Hoàng đế gửi tới từ cung điện ẩn dật của Người ở Kyoto, cách Yedo ba trăm dặm về phía Tây nam. Và nữa, khi chàng đến gần hơn thì họ nhìn rõ ngôi sao sáu cánh, phù hiệu của thị tộc chàng được thêu bằng chỉ vàng trên vạt áo chiến bào jimbaory chỉ rõ rằng chàng là một nhà quý tộc ở đẳng cấp cao nhất. - Hayaku! Hayaku! Mau lên! Chàng khẩn thiết quát những tên lính gác đang lóng ngóng mở cổng và cố kìm con ngựa đang lảo đảo. Khe hở giữa hai cánh cổng vừa đủ rộng chàng đã thúc cho con ngựa chồm vọt qua hàng lính gác bên trong. Chàng dễ dàng vượt qua vài trạm gác nữa, mỗi lần lại hô vang và vung cao cuộn giấy, tận tới khi lên tới bậc thềm đá dẫn lên cửa chính của toà lâu đài. Đúng lúc chàng quăng người xuống khỏi yên thì con ngựa gục xuống, mép sùi bọt máu. Nhưng chàng samurai không hề liếc mắt nhìn lại, chàng nhảy vội lên bậc thềm đá, đôi song kiếm nhô ra khỏi tấm thắt lưng màu tro nhạt bó chặt lấy tấm kimono. Chàng giơ cuộn giấy có đóng triện của Hoàng đế cho viên chỉ huy đội vệ binh và ngay lập tức được đưa vào. Vừa đi vừa chạy, chàng vượt qua dãy hành lang lợp mái vòm cao, hai bên tường được dát toàn vàng lá. Nhảy ba bậc một, chàng đi sát vào bức tường trên có những hoạ tiết miêu tả cảnh những con chim huyền thoại đậu trên cành trúc và những rặng anh đào núi. Phía trên đầu, hàng xà gồ bằng gỗ được phủ lớp sơn mài hai màu đen và óng ánh vàng đỡ lấy mái vòm được trang trí tuyệt đẹp, nhưng chàng samurai trẻ tuổi chẳng hề liếc mắt đến tất cả những cái đó và chỉ dừng lại để hỏi những tên lính gác mặc đồng phục đứng dọc hành lang xem phải đi lối nào rồi lại hối hả bước đi. Khi đến trước cánh cửa của phòng Hội đồng Tướng quân, chàng tháo mũ trụ và rút cuộn giấy ra khỏi vạt áo chiến bào. Vẻ mặt khẩn cấp chàng trình bày với viên thị vệ trưởng của Hội đồng. Ngay sau đó chàng tháo zori và quỳ tiến vào trên đôi chân trần. Hàng trăm cặp mắt đổ dồn đầy dò hỏi khi chàng bước vào gian sảnh với vẻ mặt xanh tái. Tất cả bọn họ đều mặc những tấm áo daimyo rực rỡ, đó là những quận công đứng đầu các lãnh địa trên khắp đất nước Nhật Bản, tất cả bọn họ quỳ quanh một chiếc bệ cao đặt chính giữa. Shogun ngồi trên chiếc bệ đó. Các daimyo chỉnh tề trong bộ triều phục gồm áo choàng vai, quần lụa buông lá toạ, đầu đội mũ sơn mài sáng lấp lánh, họ kinh ngạc nhìn chàng quý tộc áo quần xộc xệch. Khi chàng phủ phục, đầu cúi xuống tận nền nhà họ mới nhìn thấy búi tóc trên đầu chàng cũng dính đầy bụi bặm và bê bết mồ hôi. Trước khi phủ phục chàng đã tháo hai thanh kiếm ra khỏi thắt lưng áo choàng và đặt chúng cùng chiếc mũ trụ xuống tâm tatami bên mình. Cũng giống như quần áo chàng, hai thanh kiếm cùng chiếc mũ trụ đều bê bết bùn đất. Shogun ngồi trên bục cao, im lặng nhìn và chờ đợi. Ông ngồi xếp bằng, tấm áo choàng bằng lụa xám khiến cho ông có dáng vẻ của Đức Phật. Mặc dù ông vẫn ngồi rất thẳng, nhưng gương mặt gầy của ông vẫn có một vẻ xanh xao khác thường và những giọt mồ hôi ướt đẫm trên trán cho thấy ông tựa như đang bị bệnh nặng. Sự xuất hiện đột ngột của chàng trai đang thở hổn hển kia đã gây nên một chớp nhoáng cảnh giác trong đôi mắt của Shogun, nhưng ông đã nhanh chóng lấy lại được vẻ bình thản và khẽ quay đầu lại. Tiếp nhận hiệu lệnh đó, một vị trong hàng các daimyo đang quỳ trước bệ bèn nhổm lên và cúi đầu xuống thật thấp hướng về phía Shogun. Rồi vẫn tiếp tục cúi đầu thật thấp ông ta lùi tiếp ra xa để người đưa tin trẻ tuổi có thể lách vào quỳ xuống và tự giới thiệu. - Tâu Đại Tướng quân, tôi là Tanaka Yoshio, hoàng tử thuộc thị tộc Kago, tỉnh Kumatore - Chàng samurai nói giọng sang sảng - Tôi được uỷ nhiệm mang tới trình Đại Tướng quân một tin thượng khẩn từ Đức Đại Hoàng đế ở Kyoto. Mời các bạn đón đọc Vịnh Tokyo của tác giả Anthony Grey.
Chậm Rãi - Milan Kundera
Chúng tôi nảy ra ý muốn nghỉ chiều và qua đêm tại lâu đài. Nhiều lâu đài ở Pháp đã biến thành khách sạn: một vùng cây cối lọt thỏm trong một vùng không gian trơ trụi, khô cằn; một khoảng nhỏ để đi dạo với chim muông, cây cỏ giữa một hệ thống đường cao tốc rộng lớn. Tôi đang lái xe, qua tấm kính hậu tôi nhận thấy một chiếc xe con chạy phía sau. Ngọn đèn nhỏ bên trái nhấp nháy, cả chiếc xe phả ra những làn sóng nôn nóng. Người tài xế đang tìm cơ hội để vượt qua tôi; anh ta quan sát lựa thời cơ giống như một con diều hâu lựa lúc lao xuống chụp con chim sẻ. Véra, vợ tôi, nói với tôi: “Cứ năm mươi phút lại có một người chết vì tai nạn giao thông ở Pháp. Nhìn mà xem, tất cả cái đám đông điên cuồng đang quay lượn quanh chúng ta. Đó cũng chính là những người đã tỏ ra thận trọng kinh khủng khi có một bà già bị móc túi ngay trước mặt họ ở trên phố. Làm sao họ lại không cảm thấy sợ hãi khi ngồi sau tay lái?” Tôi biết nói gì đây? Có thể là thế này: con người đang cúi gập mình trên chiếc xe máy chỉ có thể tập trung chú ý vào khoảnh khắc hiện tại anh ta đang lao xe đi; anh ta bị buộc chặt vào mảng thời gian bị cắt rời khỏi cả quá khứ và tương lai; anh ta bị dứt tung khỏi dòng chảy liên tục của thời gian; anh ta ở ngoài thời gian; nói cách khác, lúc đó anh ta đang trong trạng thái xuất thần, ở trạng thái đó anh ta không còn biết gì đến tuổi tác, vợ con, những nỗi âu lo của mình nữa cả, thế nên anh ta không thấy sợ, bởi vì nguồn gốc nỗi sợ là ở phía trước, phía tương lai, mà một người đã thoát khỏi tương lai thì không có gì phải sợ. Tốc độ là một hình thức xuất thần mà cuộc cách mạng kỹ thuật đã tặng cho con người. Ngược lại với người đi xe máy, người chạy bộ luôn luôn hiện diện trong cơ thể anh ta, buộc phải không ngừng nghĩ xem mình đã phồng chân, kiệt sức chưa; trong khi chạy anh ta cảm thấy trọng lượng, tuổi tác của mình, ý thức hơn bao giờ hết về bản thân và thời gian sống của mình. Mọi chuyện sẽ thay đổi khi con người giao phó khả năng tốc độ cho máy móc: kể từ khi đó, cơ thể riêng của anh ta bị đặt ra ngoài quá trình vận động, anh ta hiến mình cho cái tốc độ phi cơ thể, phi vật chất, tốc độ thuần túy, tốc độ tự nó, tốc độ xuất thần. *** Milan Kundera (sinh 1/4/1929 tại Brno, Cộng hòa Czech, định cư tại Pháp từ 1975) là một nhà văn lớn thế kỷ XX, một nhà tiểu thuyết có lối viết độc đáo, khác lạ. Tác phẩm của ông đã vào Việt Nam từ cuối thập niên 1990.  Tiểu thuyết “Sự bất tử” do tôi dịch đã đăng ở số 1 (1996) tạp chí “Văn học nước ngoài” của Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1999 tiểu thuyết này cùng hai tiểu thuyết khác của Milan Kundera (“Chậm rãi”, “Bản nguyên”) cũng do tôi dịch đã được in thành sách dày 766 trang (Nxb Văn Học & Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây).  Nhà văn Nguyên Ngọc đã dịch của Milan Kundera ba tập tiểu luận - “Nghệ thuật tiểu thuyết” (1998), “Những di chúc bị phản bội” (2001), “Một cuộc gặp gỡ” (2013) và một tiểu thuyết - “Lễ hội của vô nghĩa” (2015).  Dịch giả Cao Việt Dũng đã dịch của Milan Kundera ba tiểu thuyết – “Cuộc sống không ở đây” (2003), “Điệu valse giã từ” (2004), “Vô tri” (2010), một tập truyện ngắn – “Những mối tình nực cười” (2009) và một tập tiểu luận – “Màn” (2014).  Dịch giả Trịnh Y Thư ở Mỹ đã dịch của Milan Kundera tiểu thuyết “Đời nhẹ khôn kham” (2002), cuốn này vừa được in trong nước đầu 2018. Hôm nay, sau đúng hai mươi năm ra sách lần đầu, tôi đón nhận bản dịch “Sự bất tử” (496 trang) tái bản. Hai cuốn còn lại (“Chậm rãi” và “Bản nguyên”) sắp tới cũng sẽ ra lại. Cả ba cuốn này đều do Nhã Nam làm.  Nhà văn Nguyên Ngọc cho biết ba cuốn tiểu luận của Milan Kundera ông dịch cũng đang được công ty sách Bảo An Books xúc tiến tái bản. Các tác phẩm của tác giả Milan Kundera: Đời Nhẹ Khôn Kham Vô Tri Cuộc Hội Thảo Điệu Valse Giã Từ Những Di Chúc Bị Phản Bội Sẽ Không Ai Cười Chậm Rãi Sự Bất Tử Lễ Hội Của Vô Nghĩa Màn Một Cuộc Gặp Gỡ ... Mời các bạn đón đọc Chậm Rãi của tác giả Milan Kundera.
Bỏ Vợ - Hồ Biểu Chánh
Ông Ba Chánh năm nay vừa quá 50 tuổi, tóc đã bạc hoa râm, nhưng răng còn chắc chắn, sức còn mạnh mẽ. Ông goá vợ đã hơn 6 năm rồi. Trong nhà chỉ có một đứa con gái, là cô Huyền, được 21 tuổi. Ông quen với thầy Thanh, nhà ở một xóm, mà làm việc dưới Sài Gòn, thường hay tới lui đàm luận với nhau chơi. Cách vài năm trước, vì thầy Thanh làm mai nói dẻo dai quá, nên ông mới gã cô Huyền cho thầy Võ Như Bình, người mồ côi, gốc ở đâu dưới Hậu Giang, thi đậu bằng thành chung rồi làm việc trong một hãng buôn dưới Sài Gòn. Ông nghĩ thầy Bình thân phận côi cút lại là người có học thức, nên gả con ông cũng không đòi hỏi vật chi hết, đám cưới làm sơ sài, mời năm ba người quen đến ăn uống một bữa mà thôi, mà cũng không cần rước Chánh lục bộ đến lập hôn thú. Từ ngày cưới rồi thì thầy Bình về ở theo bên vợ. Thầy có sắm một cái xe máy, để mỗi buổi sớm mai thầy đạp đi xuống Sài Gòn làm việc, trưa thầy ăn cơm quán và ở nghỉ tạm tại nhà của người làm chung một hãng, đến chiều tối thầy mới về Chí Hòa. Thầy Bình ở với cô Huyền đã sanh được một chút con trai, đặt tên là Nghiệp, mới 10 tháng mà sổ sữa, ngộ nghĩnh, chẳm hẳm lắm... *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... Mời các bạn đón đọc Bỏ Vợ của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Bỏ Chồng - Hồ Biểu Chánh
Qua tháng mười một, mùa mưa đã dứt rồi, lại có ngọn gió bấc thổi lao rao. Buổi chiều, ở Sài Gòn, khí trời mát mẻ, làm cho con người từ trẻ chí già đều khỏe khoắn trong mình, nên đi ngoài đường ai cũng lộ cái vẻ hớn hở tươi cười. Thế mà, Chí Thiện, năm nay đã được 28 tuổi, làm thơ ký toán cho một hãng buôn lớn tại đường Kinh Lấp, đúng 7 giờ tối, thầy ở trong hãng bước ra, bộ đi chậm rãi, mặt mày buồn hiu, dường như thầy tiếc rẻ hãng đóng cửa sớm không cho thầy làm việc thêm nữa. Tay ôm một cuốn sách với một tờ nhựt báo, thầy thủng thẳng đi lại đường Pelerin đón xe autobus mà về Đa Kao. Bước lên xe thầy ngồi dưới ngọn đèn điện sáng trưng, mở tờ nhựt báo ra mà xem, không ngó kẻ qua người lại hai bên đường, mà cũng không để ý đến những kẻ đi trên xe. Tới Đa Kao xe ngừng, thầy xếp tờ nhựt trình rồi bước xuống tránh xe kéo, xe máy mà quẹo lên đường Paul Bert. Gần tới căn phố chỗ thầy ở, thầy thấy con Sáu, là đứa con gái, đương đứng dựa cột điện mà chơi với con thầy, tên con Yến, năm nay đã được 6 tuổi. Bấy giờ thầy mới xăn bước, đi riết lại. Con Yến kêu “ba” rồi chạy đón, ôm bắp vế thầy. Thầy cuối xuống, ôm mặt con mà hun, đưa cuốn sách với tờ nhựt báo cho con cầm, rồi nắm tay dắt con đi vô nhà. Trong nhà đèn sáng trưng, nhưng từ trước ra sau đều vắng hoe, không nghe tiếng, không thấy dạng một người nào hết. *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... Mời các bạn đón đọc Bỏ Chồng của tác giả Hồ Biểu Chánh.