Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nói Vậy Mà Không Phải Vậy - Robert J. Samuelson

John Kenneth Galbraith, nhà kinh tế học và nhà văn, đã dùng cụm từ “quan niệm phổ biến”[1] (conventional wisdom) từ cách đây hơn bốn thập kỷ, trong cuốn sách bán chạy nhất của ông năm 1958 với tựa đề Xã hội Thịnh vượng (The Affluent Society). Theo định nghĩa của Galbraith thì các quan niệm phổ biến là tập hợp các niềm tin của đại bộ phận con người về một đề tài hay chủ thể nhất định. Những niềm tin đó không nhất thiết phải là đúng đắn, mà chỉ đơn giản là chúng được hiểu rộng rãi và được tôn trọng. Từ đó, cụm từ này dần dần xâm nhập vào ngôn ngữ của cuộc sống hàng ngày, và khi ý nghĩa ban đầu của Galbraith vẫn tồn tại thì nó đã khơi gợi cảm hứng cho những biến thể hiện đại khác của khái niệm trên. “Quan niệm phổ biến” của Galbraith là đồng nhất, vững chắc và lan tỏa rộng khắp, còn các phiên bản sau này lại cho rằng chúng là những điều hợp xu thế, hợp thời trang một cách khôn ngoan. Nhưng cho dù cũ hay mới thì quan niệm phổ biến (như Galbraith đề cập đến) lại thường là điều sai. Đôi khi quan niệm phổ biến còn đối lập với sự thật. Nó thường là sự sắp đặt các dữ kiện và nhận thức một cách nghệ thuật và có chọn lọc, để cho thấy một chân lý đáng tin cậy - mặc dù đó là sự dối trá. Nhưng các quan niệm phổ biến tồn tại được, bởi vì nó kể lại một câu chuyện khá hấp dẫn, xét theo một mức độ nhất định nào đó. Quan niệm phổ biến có được sức mạnh là nhờ vào khả năng đáp ứng được nhu cầu tâm lý hoặc chính trị. Sau đó hành vi của chúng ta lại giúp củng cố niềm tin. Chúng ta sẽ nhìn thấy những gì mình muốn thấy, sẽ nghe được những điều mình muốn nghe. Chúng ta tìm kiếm những người có uy tín để được lặp lại và củng cố lại các niềm tin và thành kiến của mình. Galbraith đã viết: “trong một chừng mực nào đó thì sự gắn kết của quan niệm phổ biến là một nghi thức tôn giáo, đó là hành động để xác nhận lại, như đọc Kinh Thánh hay đi lễ nhà thờ”. Sớm muộn gì thì quan niệm phổ biến cũng sẽ phải thay đổi hoặc sụp đổ. Nhưng các yếu tố phá hủy nó lại hiếm khi là các phân tích logic hay sự thuyết phục. Đó thường là các tình huống hoặc tác động của các sự kiện thực tế. Với bản chất của mình, quan niệm phổ biến sẽ “phòng vệ” bằng các ngôn từ hoặc lập luận. Người ta không muốn tỉnh ngộ từ các ý tưởng quen thuộc, vị kỷ, và làm vừa lòng họ. Người ta có xu hướng triệt tiêu sự hoài nghi, loại bỏ những bất đồng khó chịu hoặc chối bỏ sự mâu thuẫn. Những gì có thể làm thay đổi tâm trí con người thường là các trải nghiệm rõ ràng không thể phủ nhận và đôi khi khắc nghiệt, sau đó thường thì quan niệm phổ biến bị sụp đổ. Nhưng đây không phải là lý do dễ chấp nhận. Tôi trực tiếp biết điều này. Năm 1969, tôi là phóng viên của một tờ báo. Sự hấp dẫn chủ yếu của công việc này (ngoài việc được nhìn thấy cái tên của mình in trên báo chí) là các cơ hội học hỏi các điều mới mẻ và giải thích các khám phá này trước độc giả. Đó là cái cớ để đặt câu hỏi, thường là không giới hạn, đối với các công dân bình thường. Cái cần được tìm kiếm luôn luôn là “sự thật”, mặc dù “sự thật” đúng nghĩa - thường là rất phức tạp, không rõ ràng và gây nhiều tranh cãi - là khó hoặc không thể xác định được. Khi tôi trở thành người phụ trách một chuyên mục (columnist) của báo năm 1976, mục tiêu vẫn không đổi: đó là chuyển tải các hiểu biết đầy đủ hơn về một vấn đề hay hiện tượng nào đó. Càng làm việc này thì tôi càng “đụng đầu” với các quan niệm phổ biến, bởi vì đó là nơi mà nội dung bài viết dẫn tới. Các bài bình luận của tôi ngày càng đặt câu hỏi hoài nghi hoặc bác bỏ các quan niệm phổ biến. Một số bài bình luận của tôi đã được thu thập lại và trình bày trong cuốn sách này. Tôi không viết bất cứ điều gì để kết tội quan niệm phổ biến. Một số người có xu hướng “chạy theo thời thượng” mới nổi đã quay lại cáo buộc những điều đáng được lãng quên, chỉ vì các sự kiện đó đã làm họ mất uy tín. Vào những năm giữa thập niên 80, đã có những cảnh báo về việc “quá trình suy thoái công nghiệp của Hoa Kỳ” (deindustrialization) khiến chúng ta trở thành một đất nước mà tại đó những người làm hamburger và thợ giặt ủi được trả mức lương thấp (xem “Chúng ta không phải là đất nước của các tiệm giặt ủi”); khái niệm này đã không thể tồn tại sau sự bùng nổ kinh tế trong thập niên 90. Và cũng không có chuyện Nhật Bản sẽ qua mặt chúng ta về mặt kinh tế khi đất nước này vượt qua được sự đình trệ trong thập niên 90. Nhưng những hoài nghi vẫn tiếp diễn, có vẻ như không thay đổi chút nào trước những bằng chứng và lập luận logic bất lợi. Chúng ta được nghe rằng các nhóm lợi ích giàu có và bảo thủ đang thống trị Washington, nhưng thực tế không phải như vậy (xem “Các nhà môi giới quyền lực âm thầm”). Mới gần đây, internet đã được quảng bá là một trong những thành tựu công nghệ vĩ đại nhất từ sau khi ngành in ấn ra đời, sự so sánh này làm tổn thương lịch sử (xem “Internet và Gutenberg”). Đương nhiên, không phải tất cả các quan niệm phổ biến đều sai. Nếu tất cả chúng đều là sai thì xã hội đã tan rã. Những sai lầm của từng ngày, phát xuất từ các ý tưởng sai, sẽ nhân rộng ra và làm cho sự hỗn loạn lan tràn. Nhưng chúng ta không cưỡng lại được các xu hướng mơ hồ. Tại sao vậy? Galbraith đưa ra vài manh mối. Theo cách này hay cách khác, ông chỉ đơn giản là dán lên cái nhãn mới cho thứ đã xưa cũ: tính ỳ của lòng tin. Người ta bám chặt lấy những gì họ đã biết và những gì làm họ cảm thấy thoải mái. Galbraith đã quy cho hiện tượng này là việc không thích quá nhiều cái mới. Mà không chỉ có vậy. Đó là sự nhượng bộ thực dụng trong cuộc sống hàng ngày. Nếu chúng ta liên tục xem xét lại các niềm tin và giả định, chúng ta sẽ đờ đẫn ra vì do dự. Chúng ta sẽ thường xuyên trầm tư và chần chừ không quyết. Nhưng trong văn hóa truyền thông hiện đại, quan niệm phổ biến không còn là những gì như trước đây - và khi đó nó đặt nền móng cho những sai lầm. Theo Galbraith, quan niệm phổ biến bao gồm các ý tưởng cổ điển. Nó giống như rượu vang để lâu ngày. Nó có danh tiếng thông qua việc được vô số các nhân vật có uy tín nhắc đi nhắc lại liên tục qua nhiều năm. Giống như rượu vang, quan niệm phổ biến cũng có thể bị hỏng. Với các sự kiện hoặc các kiến thức mới, quan niệm phổ biến cũng có thể chỉ còn là chuyện đã qua hoặc lý thuyết lỗi thời. Ngược lại, quan niệm phổ biến ngày nay lại thường xuất hiện từ vô định. Các lý thuyết - hầu hết là bàn về các chủ đề mà gần như tất cả mọi người chưa nghĩ đến hay người ta chỉ có chút ít quan điểm rõ ràng - bất ngờ mang tính thời sự và được chấp nhận. Các lý thuyết này không chín muồi theo cách phù hợp, mà được “đóng gói” nhanh chóng, quảng cáo rầm rộ và “bán” một cách quyết liệt. Quan niệm phổ biến đã ít tự nhiên hơn và chứa đựng nhiều toan tính hơn so với trước kia. Nó ngày càng trở thành hoạt động buôn bán có tính trí tuệ hoặc chính trị. Tôi cho rằng điều này giúp giải thích tại sao đa phần quan niệm phổ biến đã trở nên hời hợt, nhầm lẫn và ngu xuẩn. Các ý tưởng là tay sai cho tham vọng của con người, các nhóm lợi ích hoặc các chương trình của giới chính trị hay trí thức. Nó không phát xuất từ những nỗ lực vô tư để khám phá sự thật. Nó là sự vận dụng của kinh doanh và phải gánh chịu mọi sự thái quá của kinh doanh. Người ta nhấn mạnh đến những gì làm nên hoàn cảnh của họ, và bỏ qua hoặc tối thiểu hóa những gì “không dính dáng”. Các tuyên bố là quá lời. Sự kiện được chọn lọc. Việc thẩm định bị phớt lờ hoặc không rõ ràng. Chính trị ảnh hưởng nhiều đến việc này. Nói đến chính trị, tôi không có ý nói riêng về hay tập trung phần lớn vào Đảng Dân chủ hay Cộng hòa, đến khuynh hướng tự do cấp tiến hay bảo thủ. Hình thái chính trị đang thắng thế ngày nay là cái mà tôi gọi là “chính trị giải quyết vấn đề”. Mọi khiếm khuyết trong xã hội, bằng cách nào đó, cần được chuyển đổi thành một “vấn đề” cụ thể, và sau đó có thể được “giải quyết”, thường là do chính quyền, còn nếu không là được giải quyết bởi “thị trường” hoặc một ai khác, một thứ gì khác. Nói chung người Mỹ lạc quan và thực dụng, rất sùng bái sự tiên tiến. Chúng ta gắn bó với ý tưởng cho rằng các vấn đề đều có thể được giải quyết - và từ đó sự không hoàn hảo được giảm đi. Tocqueville cho rằng, người Mỹ tin vào “sự hoàn thiện không giới hạn của con người”. Chúng ta phản đối ý niệm cho rằng một số thiếu sót chỉ đơn giản là những mảng bình thường của cuộc sống. Sau nữa, đây cũng không phải là một lực đẩy mới. Nhưng trong thời đại của chúng ta thì quan niệm phổ biến đã được nhắc đến nhiều hơn. Nó liên tục được nuôi dưỡng bởi các nhóm chủ trương biện hộ, các nhà chính trị doanh nhân (entrepreneurial politicians) - là các ứng viên hoặc viên chức văn phòng không thể dựa vào một bộ máy đảng phái mạnh tại trung ương để tiến lên phía trước, mà ngày càng phải tự thân vận động - và các trí thức lớn, của cả hai cánh Tả và Hữu. Tất cả họ đều rao giảng cho công chúng về tất cả mọi thứ, từ chính sách của chính phủ đến việc phổ biến văn hóa. Chúng ta được dẫn dắt để tin rằng hầu hết các vấn đề xã hội và kinh tế đều có thể được giải quyết và mong muốn của người dân là có thể được xoa dịu hay đáp ứng. Với những vấn đề được tìm ra để giải quyết, những nhóm chủ trương biện hộ, các chính trị gia, và các vị thương nhân kinh doanh ý tưởng khác nhau đã tự khẳng định mình. Họ thiết lập sự nhận biết, nâng cao tầm nhìn của họ, và kết nối các cử tri hoặc khán giả. Sự chủ trương biện hộ hòa lẫn với tự quảng cáo. Sản phẩm mà quá trình này tạo ra là sự thổi phồng bất tận. Một vấn đề không thể đơn giản là quá khiêm tốn, bất tiện, khó tránh khỏi, hoặc khó giải quyết. Vấn đề phải là chuyện lớn, nghiêm trọng, nguy hiểm, và bức xúc - và có thể giải quyết được. Vì vậy, các vấn đề được cường điệu hóa lên về mặt quy mô và mức độ nghiêm trọng, theo đó sức mạnh của các giải pháp đề xuất cũng được thổi phồng lên theo. Việc tìm kiếm các khoản đóng góp cá nhân để tài trợ cho chiến dịch chính trị không thể đơn giản chỉ mang tính tự hạ thấp mình và không “sạch”; nó phải khuấy động được những nền móng cho dân chủ - và có thể thu hồi được từ “chiến dịch cải cách tài chính” (xem “Cái Giá của Chính trị”). Chăm sóc sức khỏe được quản lý (managed care) không thể chỉ đơn giản là một phương pháp mới và chưa hoàn hảo để cung cấp các dịch vụ y tế; nó phải là một cuộc tổng công kích không thương xót dành cho sự tích hợp của y học hiện đại và khôi phục được từ “cải cách y tế” (xem “Chuyện hoang đường về “con quái vật” Chăm sóc sức khỏe được quản lý”). Trong những năm 1990, việc các thành viên Đảng Cộng hòa chiếm đa số ghế trong Quốc hội không thể chỉ đơn giản là sự thay đổi trong quyền lực chính trị để có thể sửa đổi đường lối và bầu không khí chính trị của đất nước. Nó phải là một “cuộc cách mạng” toàn diện làm thay đổi chính trị và cuộc sống như chúng ta đã biết (xem “Họ gọi đây là một cuộc cách mạng?”). Đến một mức độ nhất định, sự biện hộ đòi hỏi việc tranh luận phải trở thành các bài học đạo đức: người tốt (hoặc các ý tưởng tốt) đối lập với cái xấu. Người anh hùng và kẻ xấu xa cùng tạo nên “sức nặng” (throw-weight) của trí tuệ và chính trị để cho chương trình nghị sự được nâng cao, đầy hoài nghi, và có các đối thủ công kích nhau. Ở Hoa Kỳ, loại vận động này tìm thấy một đối tượng khán giả sẵn lòng. Vượt trên sự lạc quan - một niềm tin rằng những gì bị hỏng có thể được sửa chữa - là di sản mang tính nhiệm vụ của chúng ta. Người Mỹ luôn luôn tưởng tượng mình là một ngoại lệ đặc biệt và đúng đắn, nhất quyết cải tiến nhân loại với việc tấn công vào thành trì của sự ngu dốt, quyền lực thối nát hay điều ác. Những đặc tính này của dân tộc là rất tuyệt vời. Chúng thường làm chúng ta chìm vào sự ngây thơ ngấm ngầm rằng: nếu chỉ vì cái gì đó chưa được thực hiện trước đây thì không có nghĩa là điều đó không thể được thực hiện. Những niềm tin vào sự tiến bộ có thể tạo ra tiến bộ và thường xuyên là như vậy. Tuy nhiên, một số đức tính tốt của dân tộc, khi để vượt quá mức hợp lý, cũng trở thành thói xấu (xem “Các vết đen trong đạo đức của chúng ta”). Chính trị “Giải quyết vấn đề” là một trong những loại hỗn hợp khó chịu của sự thành công và thất bại. Khi thất bại, nó dẫn đến một thứ quan niệm phổ biến với đầy rẫy các điều giản đơn và ngớ ngẩn, trong khi vẫn gợi cảm hứng cho các “giải pháp” mà đôi khi có hại nhiều hơn là có lợi. Vấn đề của dịch vụ chăm sóc sức khỏe không phải là “được quản lý”, mà là mâu thuẫn trong nhu cầu của công chúng: chúng ta muốn bảo hiểm y tế toàn diện (universal health insurance), tuyệt đối tự chủ cho các bệnh nhân và bác sĩ trong quá trình điều trị và kiểm soát được chi phí y tế. Không có chế độ nào có thể đồng thời đáp ứng các nhu cầu không nhất quán này. (Nếu tất cả mọi người đã bảo hiểm cho tất cả mọi thứ, và bác sĩ hay bệnh nhân đều có thể yêu cầu bất cứ gì họ muốn - thì chi phí sẽ không thể kiểm soát được.) Vấn đề với “chiến dịch cải cách tài chính” là: nếu sử dụng kết luận logic của nó thì tự do ngôn luận chính trị sẽ bị bịt miệng. Điều phiền toái là truyền thông hiện đại (qua truyền hình, quảng cáo, gửi thư hàng loạt) đều cần tiền. Nếu truyền thông không phải là vấn đề ngôn luận, thì là cái gì? Và nếu mọi người không thể chi tiền để biện hộ cho các quan điểm chính trị và hỗ trợ các ứng cử viên chính trị mà họ tán thành, thì họ “tự do” như thế nào? Nghệ thuật biện hộ có hiệu quả để khỏa lấp các hoài nghi sẽ làm hỏng các thông điệp đạo đức. Vấn đề sẽ không còn đơn giản như vậy nữa, giải pháp không còn rõ ràng như vậy nữa. Xung đột giữa các mục tiêu mong muốn được tối thiểu hóa, và giới hạn thực tế của các giải pháp đề xuất cũng vậy. Chúng ta, những người trong báo giới, hỗ trợ cho sự lẩn tránh - và đôi khi còn xúi giục nó. Là người Mỹ, chúng ta chia sẻ tính nhạy cảm trong việc giải quyết vấn đề. Ngoài ra, chúng ta cũng có lợi ích riêng. Chúng ta cần thu hút và giữ được độc giả. Cả bản năng và lợi ích của chúng ta đều được đặt trong việc nghiên cứu các mâu thuẫn và xung đột. Chúng ta thường hào hứng tham gia vào các cuộc vận động đạo đức hay chính trị. Đó là câu chuyện hay và thu hút các khách hàng của chúng ta. Mặc dù đó là sự thật từ lâu nay, nhưng thực tế cạnh tranh mới đã thổi phồng các hiệu ứng. Chỉ cách đây một vài thập kỷ, trong những năm của thập niên 1960 - phương tiện truyền thông tin tức quốc gia mới chỉ gồm một nhóm nhỏ và ổn định với các tổ chức: 3 mạng lưới truyền hình (ABC, CBS, và NBC); 3 tạp chí (Time, Newsweek, và Thông cáo Tin tức & Thế giới của Hoa Kỳ), một số báo chí quốc gia có tầm cỡ (Thời báo New York, The Wall Street Journal, Bưu điện Washington) trong đó chỉ có một tờ có phạm vi phát hành toàn quốc (tờ Journal) và một vài dịch vụ thông tin chính yếu (Hiệp hội báo chí (Associated Press), Liên đoàn báo chí quốc tế (United Press International). Điều này cho phép các chuyên gia tin tức - các nhà biên tập, các nhà báo - có quyền quyết định những gì là “tin tức” và những gì không phải là “tin tức”. Phán xét của họ rõ ràng là có thể sai lầm và không được “miễn nhiễm” với xu thế chính trị đang thống trị hay xu hướng của giới trí thức. Nhưng các phán xét phần lớn cũng chỉ là phán xét của riêng giới đưa tin mà thôi. Với lượng độc giả ổn định, áp lực thương mại buộc sử dụng tin tức để thu hút người đọc và người xem thời đó là chưa nhiều. Tình hình hiện nay là hoàn toàn khác. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông thật ấn tượng: đã có các kênh truyền hình cáp (MTV, ESPN, CNN, C-span); có một mạng lưới truyền hình chủ chốt khác (Fox); thêm hai tờ báo quốc gia (tờ Hoa Kỳ Ngày Nay và Thời báo New York); Internet và vô số các trang web với các tin tức, thông tin tài chính, y tế, khiêu dâm và nhiều nhiều nữa. Không ai còn có thể giữ vững lượng khán giả của mình. Khi các mạng lưới truyền thông còn kiểm soát được các kênh truyền hình, người xem phải theo dõi các chương trình tin tức ban đêm (thường là được ấn định cùng thời điểm) - hoặc không có gì khác để xem. Bây giờ họ có thể bấm nút để xem chương trình nấu ăn, thể thao, hoạt hình, phim truyện, câu chuyện du lịch, mua sắm cho gia đình. Hoặc họ có thể lướt net. Lượng khán giả của mạng tin tức ban đêm sụt giảm nhanh. Độc giả của báo chí cũng giảm, tuy chậm hơn nhưng nói chung là đã giảm. Kết quả là những người kinh doanh tin tức đã mất quyền lực trong việc xác định những gì là tin tức và những gì không phải là tin tức. Ngày càng nhiều, người đọc và người xem mới là những người xác định đâu là tin tức, với việc thu nhặt và chọn lọc những gì họ muốn, hoặc quyết định rằng họ không cần tin tức nữa. Điều này làm tăng thêm yêu cầu đối với người biên tập và các phóng viên báo phải làm sao để cho các tin tức phổ biến hơn và hấp dẫn hơn. Hiện đã có sự nhập nhèm giữa tin tức và giải trí, khi các giá trị của truyền hình đã lan tràn trong tất cả các phương tiện truyền thông. Để lôi kéo khán giả, bài bình luận phải trở nên “cao giọng” hơn. Chương trình “Bắn chéo” (CrossFire)[2] của kênh CNN là người đi đầu: chính trị tương đương như thi đấu vật chuyên nghiệp. Sự độc lập trong công tác biên tập đã bị thu hẹp lại. Biên tập viên vẫn được quyết định những gì sẽ được in hoặc được xem, nhưng nếu những gì họ làm là không thành công trên không gian thị trường, họ sẽ bị thay thế. Các nhà phê bình trong lĩnh vực truyền thông đại chúng thường xuyên than phiền rằng sự thống trị của một vài doanh nghiệp lớn đã hạ thấp các giá trị của thông tin xuống mức chỉ còn là lợi nhuận. Tình trạng này, trong nhiều khía cạnh, lại là ngược lại. Cạnh tranh mạnh hơn đã tấn công vào sự tự chủ trong biên tập. Càng có nhiều gã khổng lồ trong ngành truyền thông thì các giá trị của tin tức lại càng trở nên khó khăn hơn. Khi một vài công ty lớn thống trị thị trường (ba mạng lưới truyền hình là ví dụ rõ ràng), họ có thể chấp nhận sự độc lập cao hơn từ các phòng ban tin tức, chính xác là vì tổng lợi nhuận là con số chắc chắn và có thể dự đoán được. Ngược lại, số lượng các “đại gia truyền thông” ngày nay là rất nhiều và họ cũng ít được an toàn hơn trước. Sự cạnh tranh khốc liệt để giành lấy khách hàng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thành công trong thương mại và xói mòn các giá trị thuần túy của việc biên tập. Đến một mức độ nhất định thì tin tức đã được dân chủ hóa. Nó ngày càng được tung ra theo mệnh lệnh của thị trường. Điều này tạo thuận lợi cho một phong cách biên tập, theo đó nhấn mạnh vào các câu chuyện đạo đức của các đấng anh hùng và những kẻ vô lại, rồi rút ra những xung đột một cách sâu sắc - về bất cứ điều gì để tạo ra một “tin đồn”. Những gì mà tôi muốn đề xuất là: cách thức mà chúng ta, ở đây được hiểu như một xã hội, tổ chức và trình bày thông tin - một cách có hệ thống và hầu như dự đoán được từ trước - ngày càng dẫn đến sự sai lạc. Truyền thông không chắc chắn và những người thực hành chính trị “giải quyết vấn đề” (các chính trị gia, các nhóm biện hộ, “những cái đầu hiểu biết”) đã “kết hôn” với sự dễ dãi. Họ cùng nhau khai thác để đạt được mục tiêu hẹp: có được sự nổi tiếng hoặc khét tiếng, thúc đẩy một chương trình nghị sự của giới chính trị hay trí thức, nắm bắt được khán giả và thị phần. Kết quả là chúng ta bị oanh tạc bởi các luồng vấn đề miên man không dứt (một số vấn đề xã hội, một số căng thẳng trong vấn đề con người - ma túy, bệnh tật, lạm dụng trong hôn nhân gia đình, stress) và các giải pháp đi kèm. Nhiều vấn đề trong số đó là có thật, một số các giải pháp có thể thực sự có ích. Nhưng có sự cường điệu thổi phồng trong cả hai nội dung: vấn đề và giải pháp, bởi vì đó là những thứ thu hút sự chú ý. Tôi gọi quá trình này là “cái sai”. Đó là sự xuyên tạc thực tế nói chung, tuy nhiên không phải là kết quả của sự dối trá cố tình. Đúng hơn thì đó là sản phẩm bình thường của chính trị và truyền thông dân chủ của chúng ta. Điều đó xảy ra, khi chúng ta tìm hiểu và tranh luận các vấn đề có ảnh hưởng đến cả tập thể. Nếu không làm như thế, chúng ta sẽ không phải là chính chúng ta nữa. Nhìn chung, tiến trình này là lành mạnh. Nhưng quá trình này sẽ trở thành không lành mạnh khi nó đơn giản hoá quan điểm của chúng ta về sự thật và lãng mạn hóa sức mạnh của chúng ta khi thay đổi sự thật đó. Đối với tôi, sự đơn giản hóa và cường điệu hóa nhằm phục vụ lợi ích bản thân là một cánh đồng phì nhiêu cho các báo cáo và bình luận. Chúng cầu mong để được trở nên tinh vi và xác thực. Tôi đã cố gắng để cung cấp được một bối cảnh: để cho mọi người có bức tranh vô tư và đầy đủ về thế giới của chúng. Kết luận của tôi là: quan niệm phổ biến (thường) là sai, vì nó là phương tiện cho một số chương trình chính trị hay tham vọng cá nhân. Trong thực tế, tôi không tin rằng có bất kỳ một nhóm chính trị, kinh tế, xã hội, hoặc một nhóm ý thức hệ nào lại có “độc quyền” về cái sai. Bạn có thể nhìn thấy một cơ chế tương tự cũng hoạt động như vậy trên khắp các quang phổ chính trị và trên tập hợp các mối quan tâm và yêu cầu của xã hội. Những người bảo thủ có xu hướng ca ngợi “thị trường”, ngay cả khi thị trường rõ ràng phạm sai lầm (xem “Sự sáp nhập kỳ lạ”). Những người tự do cấp tiến có xu hướng nói quá lời trước những ảnh hưởng dần dần về sau của sự bất bình đẳng trong thu nhập (xem “Không phải là các hộ gia đình điển hình”). Các chuyên gia môi trường bàn về việc hủy diệt hành tinh trong bối cảnh của “ngày tận thế” (xem “Bạn đừng lo lắng”). Một lần nữa, những vấn đề thường là có thực, nhưng chúng cần phải được trình bày trong những điều kiện khắc nghiệt nhất để khơi dậy sự quan tâm hay củng cố cho giải pháp đề xuất. Mặc dù các kỹ thuật đã phổ biến rộng rãi, vẫn có xu hướng nghiêng về các loại “sai lầm” nổi trội nhất: đó là những cái sai “cấp tiến” (liberal untruths). Lý do chính yếu là tầng lớp “viết nguệch ngoạc và nói huyên thuyên” - các nhà báo, biên tập viên, các nhà nghiên cứu học thuật, các nhà bình luận - có xu hướng tự do cấp tiến nhiều hơn là bảo thủ. Rất nhiều các cuộc điều tra đã xác nhận điều này trên báo chí. Năm 1992, gần 90% các nhà báo của Washington ủng hộ Bill Clinton, theo kết quả một trong những cuộc thăm dò ý kiến. Nhưng trên phạm vi quốc gia, lượng phiếu phổ thông dành cho Clinton chỉ là 43%. Một cuộc khảo sát trong giới học thuật (dành cho các giáo sư tại các trường cao đẳng và đại học hệ 2 năm và 4 năm) được xuất bản trong cuốn Giáo dục cấp cao Ký sự (Chronicle of Higher Education) cho thấy: 5,2% cho rằng mình “cực tả”; 39,6% “tự do cấp tiến”; 37,2% “trung lập” (không tả mà cũng không hữu); 17,6% “bảo thủ”; và 0,4% “cực hữu”. Kết quả không phải là một liên minh có ý thức giữa báo chí và nhóm ủng hộ tự do cấp tiến và nhóm chính trị gia Dân chủ. Hầu hết các nhà báo và nhà biên tập (ít nhất là của báo chí, tạp chí tin tức, và kênh truyền hình chính thống, mặc dù rõ ràng không thuộc các tạp chí hoặc chương trình truyền hình chuyên bày tỏ quan điểm) đều tán thành ý kiến cho rằng họ nên khách quan và trung lập. Họ hào hứng đăng tải các scandal liên quan đến những người tự do cấp tiến cũng như bảo thủ. Họ biết rằng hầu hết các chính trị gia và những người theo một phe phái nào đó đều cố gắng “thêu dệt” nên các câu chuyện. Một số nhà báo tự xem mình như là nền tảng thụ động để người khác tuyên truyền. Tất cả chúng ta đều biết rằng mọi người có xu hướng để cho các “nguồn” khác sử dụng. Phần lớn những gì báo chí thực hiện lại không đả động gì nhiều đến các nhà chính trị hay các phe phái. Chúng ta chỉ đơn giản là kể lại một “câu chuyện hay”, hoặc đóng vai trò truyền thống là “giám sát” chính phủ, các cơ quan và các tập đoàn. Xu hướng này còn tinh tế hơn. Những câu chuyện do các chính trị gia tự do cấp tiến và các “chuyên gia” các loại (nhà kinh tế, nhà khoa học, bác sĩ, nhà khoa học xã hội, nhà giáo) kể lại đã tìm thấy những người nghe đồng cảm nhiều hơn là những câu chuyện kể của những người bảo thủ. Các anh hùng và tên vô lại của phe tự do cấp tiến, các giá trị và niềm tin của họ tương ứng sát sao hơn với các triết lý và thành kiến của nhà báo và nhà biên tập. Những gì đến từ các nguồn tự do cấp tiến có vẻ như đáng tin cậy hơn và xác đáng hơn. Nó phù hợp với các ý niệm về xung đột xã hội và theo đuổi một xã hội tốt. (Họ cho rằng) Đây không phải là thành kiến. Đó là thực tế. Thông thường họ không thể tưởng tượng các sự vật theo cách nào khác. Ngược lại, những người bảo thủ - hoặc người không thuộc nhóm tự do cấp tiến -thường được xem là người biện hộ cho các doanh nghiệp và người giàu có. Hoặc họ bị bêu riếu là những người nhẫn tâm và kỳ quặc. Các giá trị của riêng tôi là khá chính đáng (tôi tin là vậy), mặc dù những người khác có dán lên cái nhãn là quá bảo thủ hoặc - ít khi hơn - là quá tự do cấp tiến. Tôi tin rằng Chính quyền trung ương nhìn chung là đem lại các lợi ích cho quốc gia, nhưng tôi cũng nghĩ rằng việc mở rộng chính phủ sẽ đem lại nhiều vấn đề khó khăn mang tính thực tiễn và tạo điều kiện cho sự lạm quyền. Người ta có thể trở nên quá phụ thuộc vào phúc lợi của chính phủ. Thuế có thể tăng quá cao và ảnh hưởng đến sức khỏe kinh tế hoặc tự do cá nhân. Mặc dù khó có thể xác định được các giới hạn nhưng chúng thực sự tồn tại. Tương tự như vậy, tôi đặt nhiều niềm tin vào các “thị trường” - sự tự do để xác định những gì mà chúng ta cần sản xuất, giá cả của chúng, cách thức chúng ta tiết kiệm và đầu tư, và nơi chúng ta làm việc - nhưng tôi không tin rằng các thị trường là cái hiểu-biết-hết-mọi-thứ hoặc hoàn hảo. Các thị trường cũng có sai lầm và cần sự giám sát và điều tiết của chính phủ. Thường thì có ranh giới mỏng manh giữa mức độ quá ít và quá nhiều của công việc này. Sau cùng, tôi tin vào những gì đôi khi bị chế nhạo là “những giá trị truyền thống gia đình”: tình yêu cha mẹ và kỷ luật của cha mẹ, nếu có thể. Với sự may mắn, các bậc cha mẹ có thể giúp con cái của họ lớn khôn và thành những người lớn có trách nhiệm và tự lập. Cha mẹ đem lại tình yêu, các bài học nhỏ về cuộc sống hàng ngày, và những kiến thức cần có. Từ thử thách này mà một cá nhân có thể có năng lực và sự tự tin. Mặc dù việc nuôi dạy con cái là một việc phức tạp - và không có sự đảm bảo cho thành công - các tổ chức của chính phủ và xã hội không thể dễ dàng thay thế cho các bậc cha mẹ đầy tình thương yêu và đủ khả năng (xem “Thứ mà tiền không thể mua được”). Tôi đã có vợ và ba đứa con, hiện chúng ở độ tuổi từ mười đến mười lăm. Đó là những phần quan trọng nhất của đời tôi. Các nhà báo, những người phụ trách chuyên mục là “con lai” (tôi tin là như vậy). Quan điểm của tôi cho rằng họ không phải là nhà báo thuần túy, cũng không phải là người biện hộ thuần túy. Họ là sự kết hợp của cả hai. Họ pha trộn quan điểm và tình cảm trong bài báo của mình. Mối nguy hiểm lớn nhất - hậu quả của việc quá ấn tượng với tầm quan trọng của riêng mình - là trở thành kẻ “nhai lại chính mình” (self-parody): một người có quan điểm và phong cách có thể được dự đoán trước, và có thể bị bắt chước theo một cách dễ dàng. Sự nguy hiểm của riêng tôi là, từ việc liên tục thách thức quan niệm phổ biến, tôi trở thành người hoài nghi chính mình (reflexively skeptical) trước bất kỳ quan điểm nào của đám đông hoặc thường xuyên phê phán bất cứ điều gì là mới hoặc khác biệt. Tôi nhận thức được sự nguy hiểm, nhưng không phải lúc nào tôi cũng có thể vượt lên trên nó. Đa phần trong nghề báo chí, những gì chúng tôi viết ra thường là vào thời hạn chót. Các đánh giá phải được thực hiện một cách nhanh chóng. Chúng thường sai. Tôi nghi ngờ việc liệu có hay không những người phụ trách chuyên mục lớn mà lại không lúng túng vì một số bài viết của mình trong quá khứ. Nếu có những người này thì tôi không nằm trong số đó. Lẽ ra tôi có thể đưa vào cuốn sách này những sai lầm ngớ ngẩn của riêng tôi. Một trong những bài viết yêu thích nhất của tôi đã đặt ra khái niệm về “công nghệ trì hoãn” - đối lập với công nghệ tiên tiến, chúng là các công nghệ mới tạo ra những phương pháp cồng kềnh và đắt tiền để thực hiện các công việc đã được làm một cách đơn giản và không mấy tốn kém trước đây. Một ví dụ là sách điện tử, đối với tôi thì đây đã từng là một ý tưởng tồi, trong khi dùng sách giấy là quá thuận lợi. Sau khi suy xét, tôi đã quyết định không đưa vào đây bài viết này. Robert J. Samuelson Ngày 26, tháng 9 năm 2000 Washington, D.C.I Mời các bạn đón đọc Nói Vậy Mà Không Phải Vậy của tác giả Robert J. Samuelson.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

20 Giờ Đầu Tiên Cách Học Nhanh Bất Cứ Thứ Gì
Có rất nhiều việc muốn làm… nhưng lại có quá ít thời gian”. Đó là chuyện thường thấy của cuộc sống hiện đại. Hãy dành một chút thời gian để xem có bao nhiêu việc bạn muốn học cách làm. Danh sách của bạn có những việc gì? Điều gì ngăn cản bạn bắt đầu? Thường là do: Thời gian và kỹ năng. Có một sự thật không lấy gì làm dễ chịu, đó là: Những trải nghiệm đáng giá nhất trong đời thường lại đòi hỏi phải có kỹ năng ở một cấp độ nào đó. Cần phải có thời gian và cần phải nỗ lực mới có được kỹ năng - mà thời gian thì chúng ta không có, còn nỗ lực lại là thứ chúng ta ngại gom góp. “Một ngày nào đó tôi sẽ học, khi tôi có thời gian”. Thành thật mà nói, ngồi xem tivi và lướt web bao giờ cũng dễ dàng hơn… Thế nên đó chính là điều mà hầu hết chúng ta vẫn làm, và để cho khao khát của chúng ta vẫn mãi chỉ là những giấc mơ. Vẫn còn một sự thật không lấy gì làm dễ chịu, đó là: Có rất nhiều việc chẳng có gì thú vị cho tới khi chúng ta giỏi việc đó. Kỹ năng nào cũng có cái mà tôi vẫn gọi là rào cản thất vọng - thời điểm bạn cực kỳ không thạo (kỹ năng đó) và đau đớn nhận ra sự thật đó. Tại sao phải bắt đầu một việc mà bạn biết là bạn sẽ chẳng giỏi việc đó chứ? Chẳng phải sẽ rất tuyệt khi có thể thành thạo những kỹ năng mới mà không cần phải tức giận nhiều sao? Để nhanh chóng vượt qua rào cản thất vọng, để có thể chuyển tới phần thú vị, đáng giá? Để tốn ít thời gian cho việc bối rối và lúng túng, để có thêm thời gian thú vị? Liệu có thể học được những kỹ năng mới theo cách tốn ít thời gian và công sức hơn không? Từ kinh nghiệm của riêng tôi, xin trả lời là: Có, có thể. Cuốn sách này là cuộc tìm kiếm của cá nhân tôi nhằm kiểm tra tính nghệ thuật và khoa học của việc học kỹ năng nhanh chóng - làm cách nào để học bất cứ kỹ năng nào nhanh nhất có thể. Mục đích của cuốn sách này là giúp bạn học được những kỹ năng mới trong khoảng thời gian kỷ lục. Theo kinh nghiệm của tôi, mất khoảng 20 giờ thực hành để phá vỡ rào cản thất vọng: để đi từ mức hoàn toàn không biết gì về việc bạn đang cố gắng làm tới mức có thể làm việc đó tốt một cách đáng ngạc nhiên. Cuốn sách này là cách tiếp cận mang tính hệ thống đối với vấn đề học kỹ năng mới nhanh nhất có thể. Phương pháp mang tính phổ quát. Vấn đề không phải là bạn muốn học ngoại ngữ, viết tiểu thuyết, vẽ chân dung, khởi nghiệp hay lái máy bay. Nếu bạn đầu tư ít nhất 20 tiếng để học những điều cơ bản của một kỹ năng, bạn sẽ ngạc nhiên với mức độ thành thạo mà bạn có thể đạt được. Bất kể kỹ năng bạn muốn học là gì, cuốn sách này cũng sẽ giúp bạn đạt được kỹ năng đó với ít thời gian và năng lượng lãng phí hơn. Chỉ cần một chút nỗ lực tập trung, có chiến lược, bạn sẽ thấy mình nhanh chóng tiến bộ mà không thất vọng. Trong cuốn sách này, chúng ta sẽ bắt đầu bằng những nguyên tắc học kỹ năng nhanh: làm cách nào để học những kỹ năng mới nhanh nhất có thể. Những ý tưởng và bài tập thực hành này không hề phức tạp, nên sẽ không mất quá nhiều thời gian để học. Sau đó, tôi sẽ giải thích cách sử dụng những nguyên tắc này trong thực tế bằng cách chỉ cho các bạn biết tôi đã học 6 kỹ năng mới dưới đây trong vòng chưa tới 20 tiếng mỗi kỹ năng, không quá 90 phút thực hành mỗi ngày, như thế nào. Phát triển bài tập yoga cá nhân Viết chương trình máy tính dựa trên web Học lại cách gõ 10 ngón Khám phá boardgame cổ nhất và phức tạp nhất trong lịch sử Chơi được một nhạc cụ Lướt ván Tôi hi vọng cuốn sách này có thể khuyến khích bạn phủi bụi danh sách những việc “muốn làm” của bạn, kiểm tra lại danh sách đó và cam kết học được điều mới mẻ nào đó. *** 1 Chân dung tác giả – người nghiện học Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Sáng nào thức dậy, tôi cũng quyết tâm phải thay đổi thế giới và vui vẻ. Đôi khi điều này khiến cho việc lập kế hoạch theo ngày của tôi trở nên khó khăn. −E. B. WHITE, tác giả cuốn Mạng nhện của Charlotte ▪ ▪ ▪ Xin chào các bạn, tên tôi là Josh Kaufman, và tôi là một người nghiện học. Các giá sách ở nhà và ở văn phòng của tôi đều đầy ắp sách, dụng cụ và những thiết bị chưa từng được sử dụng, đủ các thể loại. Hầu hết những thứ đó đều dần dần bị bụi phủ. Tôi có một danh sách dài ngoằng những thứ “cần học”. Giỏ hàng trên trang Amazon.com hiện tại của tôi có 241 món hàng – tất cả đều là những cuốn sách tôi muốn đọc. Tôi không thể bước vào một hiệu sách mà không quay ra với ba hoặc bốn cuốn sách mới, để thêm vào “bộ sưu tập” 852 cuốn mà tôi đang có. Mỗi ngày, tôi lại nghĩ ra một ý tưởng cho một dự án khác hay một trải nghiệm mới, và tôi lại thêm vào danh sách vẫn không ngừng dài thêm của mình có tên là “một ngày nào đó/có thể”. Chỉ nhìn vào những việc mà tôi muốn học cách làm cũng đủ khiến tôi thấy choáng ngợp, vì vậy tôi không mấy khi nhìn vào danh sách đó. Tôi muốn học cách phát triển công ty xuất bản của mình. Tôi muốn học cách quay và biên tập video. Tôi muốn sản xuất được một chương trình phát thanh. Tôi muốn học cách tổ chức những buổi thảo luận và giảng dạy tốt hơn. Tôi có những ý tưởng cho sản phẩm mới, nhưng tôi không biết làm thế nào để phát triển nó. Tôi có các ý tưởng về chương trình máy tính mới, nhưng tôi không biết làm thế nào để tạo ra chúng. Tôi có nhiều ý tưởng viết lách trong đầu hơn là thời gian và năng lượng để viết ra. Tôi muốn học cách vẽ. Tôi muốn học cách chèo thuyền kayak. Tôi muốn học cách câu cá bằng ruồi nhân tạo. Tôi muốn học leo núi. Tôi muốn có thể chơi được ghi ta, đàn ukulele, piano và violin điện. Có những trò chơi tôi đã thích trong nhiều năm như trò cờ vây, nhưng tôi vẫn chưa học được cách chơi. Có những trò chơi tôi đã biết cách chơi như cờ tướng, nhưng tôi không thực sự giỏi, vì vậy những trò đó không thú vị lắm, và tôi không chơi chúng thường xuyên. Tôi thích ý tưởng chơi gôn, nhưng trận nào tôi chơi cũng đều hóa thành trò cười cho mọi người. (Tôi thường nói rằng tôi chơi gôn ma-ra-tông vì khi đánh được 18 lỗ, tôi đã chạy được cả một vòng ma-ra-tông.) Có vẻ như mỗi ngày tôi lại thêm một số kỹ năng mới vào danh sách những việc tôi muốn mình có thể làm được – danh sách dài vô tận. Khi có quá nhiều thứ cần học, tôi sẽ có ít thời gian hơn. Về bản chất, tôi là người thích tự mình làm việc của mình. Nếu có việc gì cần làm, tôi muốn tự mình làm hơn là nhờ người khác giúp đỡ. Ngay cả khi người khác có thể làm việc đó nhanh hơn hoặc tốt hơn tôi, tôi cũng không nỡ tước mất cái “thú” học để trải nghiệm của bản thân. Để làm cho mọi việc phức tạp hơn, Kelsey, vợ tôi, còn mở một công ty riêng, cung cấp các khóa đào tạo liên tục cho những giảng viên dạy yoga. Công ty mang lại lợi ích cho cả hai chúng tôi, vì thế luôn có rất nhiều việc cần phải làm. Để cuộc sống trở nên thú vị hơn, chúng tôi đã chào đón thành viên mới của gia đình, con gái Lela. Lela mới được chín tháng tuổi khi tôi viết cuốn sách này. Trước khi có Lela, tôi và Kelsey đã thống nhất, nếu có con, chúng tôi muốn đặt việc tự mình nuôi con lên hàng đầu. Một trong những lý do chính khiến tôi từ bỏ công việc quản lý trước đây của mình tại một tập đoàn thuộc danh sách Fortune 500 là để có thể làm việc linh hoạt ở nhà, tự đặt lịch trình cho mình, và dành càng nhiều thời gian càng tốt bên gia đình. Tôi và Kelsey cùng chia sẻ trách nhiệm làm cha mẹ. Vì cả hai chúng tôi đều làm việc tại nhà nên Kelsey làm việc buổi sáng khi tôi chăm sóc Lela. Buổi chiều, Kelsey trông con, còn tôi làm việc tới lúc ăn tối. Như vậy tôi có khoảng 25 tiếng để làm việc mỗi tuần, chưa kể khoảng thời gian tôi có thể tranh thủ được khi Lela chợp mắt. Sau khi Lela chào đời, tôi có cảm giác tôi không có đủ thời gian để làm việc, nói gì tới chuyện học thêm kỹ năng mới. Với một người nghiện học như tôi, đó là cả một vấn đề bức xúc. Tôi không muốn từ bỏ việc học và hoàn thiện bản thân, kể cả khi có những trọng trách mới. Tôi không có nhiều thời gian rảnh, nhưng tôi sẵn sàng đầu tư những gì tôi có theo cách thông minh nhất có thể.14 Đó chính là lý do khiến tôi quan tâm tới việc học kỹ năng nhanh: Phương pháp học kỹ năng mới một cách nhanh chóng. Tôi muốn tiếp tục học thêm các kỹ năng, nhưng tôi không muốn quá trình đó kéo dài mãi. Tôi muốn nắm bắt được các điểm mấu chốt một cách nhanh chóng để có thể tiến bộ vượt bậc mà không phải cảm thấy thất vọng thường xuyên . Tôi tin là bạn có thể hiểu được. Bạn có bao nhiêu thời gian “rảnh” mỗi ngày sau khi hoàn thành công việc và nghĩa vụ với gia đình? Bạn có cảm thấy bạn cần 36 đến 48 tiếng một ngày để cuối ngày mới có thời gian ngồi xuống học một thứ gì đó mới mẻ? Có một câu nói thế này: “Hãy làm việc theo cách thông minh hơn, đừng làm việc chăm chỉ hơn”. Điều này có nghĩa là quá trình học kỹ năng thực ra không phải là số giờ bạn dành cho nó… mà là điều bạn thu lượm được từ quãng thời gian đó. Ông vớ vẩn quá, Malcolm Gladwell Năm 2008, Malcolm Gladwell viết cuốn sách Những kẻ xuất chúng. Trong cuốn sách đó, tác giả đã cố gắng giải thích lý do khiến một số người thành công hơn những người khác. Một trong những ý tưởng mà Gladwell nhắc đi nhắc lại là “nguyên tắc 10.000 giờ”. Dựa trên nghiên cứu của tiến sỹ K. Anders Ericsson của Đại học bang Florida, để đạt được biểu hiện xuất chúng cần 10.000 giờ (bình quân) để luyện tập. 10.000 giờ tương đương với 8 giờ luyện tập mỗi ngày trong khoảng ba năm rưỡi liên tục, không ngừng nghỉ, không có cuối tuần và cũng không có nghỉ lễ. So với tiêu chuẩn 260 ngày làm việc một năm không gián đoạn thì khoảng thời gian đó tương đương với một công việc toàn thời gian trong gần 5 năm. Đó là trong trường hợp bạn dành 100% thời gian và tận dụng 100% năng lượng cùng nỗ lực của mình. Trên thực tế, cấp độ tập trung chú ý này thực sự là một thử thách. Ngay cả những người thuộc đẳng cấp thế giới trong nhiều lĩnh vực cạnh tranh gay gắt (ví dụ như trong âm nhạc và thể thao chuyên nghiệp) cũng chỉ có thể tập trung năng lượng trong khoảng ba tiếng rưỡi để luyện tập mỗi ngày. Điều đó có nghĩa là có thể mất cả thập kỷ hoặc nhiều thời gian hơn nữa để phát triển một kỹ năng tới mức thành thạo. Nghiên cứu của tiến sỹ Ericsson chỉ ra rằng, về bản chất, nếu bạn muốn thành thạo một kỹ năng mới, bạn sẽ phải trải qua một quá trình dài. Để trở thành người giỏi nhất thế giới về bất cứ việc gì cũng đòi hỏi nhiều năm luyện tập không ngừng nghỉ. Nếu bạn không chịu bỏ thời gian và công sức, bạn sẽ chỉ luôn theo sau và bị lu mờ bởi những người đó. Những kẻ xuất chúng lọt vào danh sách những cuốn sách bán chạy nhất và nằm trong danh sách này suốt ba tháng. Chỉ qua một đêm, “nguyên tắc 10.000 giờ” đã có mặt ở khắp mọi nơi. Không những phải dành thời gian để luyện tập… giờ bạn còn phải bỏ ra 10.000 giờ nữa? Hầu hết chúng ta đều tự cho mình là người may mắn nếu có thể dành ra vài tiếng mỗi tuần. Vậy thì tại sao phải quan tâm tới việc bỏ ra quá nhiều thời gian như vậy để giỏi một việc gì đó? Ôi Chúa ơi, hãy nhìn vào công việc của tôi và thất vọng đi! Trước khi từ bỏ hết hi vọng, hãy xét tới điều này. Có một phần trong nghiên cứu của tiến sỹ Ericsson rất dễ bị xem thường: Đó là nghiên cứu về biểu hiện ở mức độ chuyên gia. Nếu bạn mong muốn trở thành một Tiger Woods tiếp theo, có lẽ bạn cần phải dành ra ít nhất 10.000 tiếng luyện tập bài bản và có hệ thống tất cả các khía cạnh của gôn. Hầu hết các gôn thủ chuyên nghiệp đều bắt đầu chơi từ khi còn nhỏ và đã luyện tập không ngừng nghỉ trong ít nhất 17 năm. Để có thể mang đẳng cấp thế giới cần phải có thời gian. Ngược lại, chuyện gì sẽ xảy ra nếu thắng giải PGA không phải là mục tiêu của bạn? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu bạn chỉ muốn chơi gôn đủ tốt để có thể chơi thoải mái, không làm bản thân mất mặt, có một khoảng thời gian vui vẻ và có cơ hội chiến thắng trong giải đấu các câu lạc bộ địa phương? Đó lại là một vấn đề hoàn toàn khác. Muốn đạt đẳng cấp thế giới phải cần tới 10.000 giờ nỗ lực tập trung, nhưng phát triển khả năng để thể hiện đủ tốt vì mục đích riêng của bản thân thì không đòi hỏi phải đầu tư nhiều như thế. Nói vậy không có nghĩa là làm giảm giá trị của việc “luyện tập bài bản” mà tiến sỹ Ericsson đã đề cập: Luyện tập có mục đích và có hệ thống nhằm cải thiện kỹ năng. Luyện tập bài bản là cốt lõi của việc học hỏi kỹ năng. Vấn đề là cần luyện tập bài bản đến mức nào để đạt được mục tiêu của bạn. Thường thì điều đó không cần nhiều như bạn tưởng. Chất lượng, không phải số lượng Tiếp nhận khái niệm vừa đủ là chìa khóa để học kỹ năng nhanh. Trong cuốn sách này, chúng ta sẽ thảo luận về việc phát triển khả năng, chứ không phải sự thành thạo đạt đẳng cấp thế giới. Chúng ta sẽ xử lý khúc cua của đường cong học hành và nắn thẳng nó càng nhanh càng tốt. Hãy để 10.000 giờ cho những người chuyên nghiệp. Chúng ta sẽ bắt đầu với 20 giờ nỗ lực chuyên tâm, tập trung, thông minh. Chúng ta đang nhắm tới những kết quả mà bản thân mong muốn chỉ với một phần nỗ lực. Có thể bạn sẽ không bao giờ giành được huy chương vàng, nhưng bạn sẽ đạt được những phần thưởng bạn quan tâm trong thời gian ngắn hơn. Nếu cuối cùng bạn quyết định phải thành thạo kỹ năng đó, bạn sẽ có cơ hội tốt hơn để thành công nếu bạn bắt đầu với 20 tiếng học kỹ năng nhanh. Bằng cách biết bản thân đang hướng tới điều gì, học những nguyên tắc cơ bản, luyện tập theo cách thông minh và phát triển một quy trình luyện tập, bạn sẽ tiến bộ nhanh hơn và đều đặn hơn. Bạn sẽ đạt được trình độ chuyên gia trong thời gian kỷ lục. Thế nào là học kỹ năng nhanh? Học kỹ năng nhanh là một quá trình – một cách chia nhỏ kỹ năng mà bạn đang cố làm chủ thành những phần nhỏ nhất có thể, xác định phần nào là quan trọng nhất, sau đó chú tâm luyện tập phần đó trước tiên. Chỉ đơn giản vậy thôi. Học kỹ năng nhanh có bốn bước chính: Chia nhỏ kỹ năng thành những phần kỹ năng nhỏ nhất có thể; Học những phần kỹ năng nhỏ nhất để có thể luyện tập theo cách thông minh và tự điều chỉnh trong suốt quá trình luyện tập; Loại bỏ những rào cản về mặt sinh lý, tinh thần và tình cảm xuất hiện trong quá trình luyện tập; Luyện tập những phần kỹ năng quan trọng nhất trong vòng 20 tiếng là ít nhất. Mời các bạn đón đọc 20 Giờ Đầu Tiên của tác giả Josh Kaufman. FULL: AZW3 EPUB MOBI PDF
Bí Mật Của Một Trí Nhớ Siêu Phàm
Cuốn sách Kinh điển về Tư duy, Kỹ năng mà bất cứ ai cũng nên đọc. Phần lớn chúng ta cho đến cuối đời đều chỉ sử dụng được khoảng 10% khả năng ghi nhớ của mình… Và để nhớ mọi thứ thật lâu, lời khuyên của tôi là: Mỗi người hãy nhận thức lại cuộc sống để thấy cuộc sống của chúng ta thật đáng quý. Nhiệt tình với mọi điều trong cuộc sống, mọi thứ với chúng ta sẽ thật dễ nhớ. Ngày nay, chúng ta thường quá phụ thuộc vào máy móc công nghệ để ghi nhớ những gì mình muốn; thậm chí chúng ta còn có những quan niệm hết sức sai lầm về trí nhớ của mình. Ví dụ, bạn thành thật thú nhận rằng trí nhớ của mình rất tồi tệ. Và bạn thường biện hộ rằng bạn chỉ là “người trần mắt thịt” nên việc “quên quên nhớ nhớ” là điều hết sức bình thường. Và bạn không hề nghĩ rằng: “Trí nhớ cũng có thể cải thiện được”. Bạn thường thú nhận: Mình chỉ có thể nhớ được 10% tên của những người mà mình đã gặp. Thực tế là, bạn thường rất ấn tượng với diện mạo của người khác, nhưng lại không bao giờ liên hệ nó với một cái tên. Bạn thường thú nhận: Mình chỉ có thể nhớ được 1% số điện thoại của người thân, bạn bè, đồng nghiệp. Thực tế là: bạn không thật sự chủ động ghi nhớ những con số. Bạn cho rằng bộ nhớ bị lão hóa theo thời gian. Thực tế là: Trí nhớ chỉ thật sự giảm sút khi bạn không sử dụng nó thường xuyên. Nếu có sự tập luyện, trí nhớ sẽ liên tục được cải thiện. Với cuốn sách Bí mật của một trí nhớ siêu phàm, tác giả Eran Katz giúp bạn khẳng định: Trí nhớ của bạn tốt hơn bạn tưởng rất nhiều! Điều nghịch lý là bạn thường không tin vào trí nhớ của mình, cho rằng mình sinh ra đã có một trí nhớ không hoàn hảo, rồi bị động chung sống với nó suốt đời. Do đó, điều bạn cần làm ngay là thay đổi quan niệm sai lầm này. Eran Katz đưa ra những phương pháp ghi nhớ và một hệ thống các bài luyện tập tăng cường trí nhớ đặc biệt, để giúp bạn ghi nhớ tất cả những gì bạn muốn. Trong đó, một cách thức thông dụng mà ông thường xuyên áp dụng cho bản thân là phương pháp liên tưởng. Ông nói rằng: “Từ hàng nghìn năm trước người La Mã cổ đại đã phát hiện ra rằng, muốn có trí nhớ tốt thì phải biết liên tưởng, càng có những liên tưởng đặc biệt, chúng ta càng dễ nhớ mọi việc”. *** Một buổi tối nọ, khi chúng tôi đang đi dạo trên phố dành cho người đi bộ ở Jerusalem thì Gali, cô con gái mới bốn tuổi của tôi đã khiến tôi vô cùng ngạc nhiên khi hỏi: “Bố ơi, cho con xin 25 xu được không ạ?” “Để làm gì vậy, con gái?” tôi hỏi lại. “Để con cho Boris”, con bé trả lời. Tôi không biết người nào tên Boris và chắc chắn không nhìn thấy người nào mà con bé quen biết, nên tôi hỏi nó: “Ai là Boris vậy con?” “À, là người chơi nhạc đó bố”, con bé nói nhỏ. Ngay lập tức tôi hiểu ra, chắc là con bé nói tới người đang chơi đàn măng-đô-lin kia, kiếm sống dựa vào sự tốt bụng và nhân hậu của khách qua đường. Dù vậy, tôi vẫn ngạc nhiên về việc con bé biết tên ông ta. Gali cầm tiền và lại gần người chơi đàn lúc này đang tập trung vào công việc của mình. Gali đứng trước mặt người đàn ông, nhưng không thể khiến cho ông ta chú ý, con bé đã nói nhỏ: “Boris, cho ông này.” Người chơi đàn ngước lên và nhìn chằm chằm con gái tôi một cách sửng sốt: “Làm thế nào mà cháu biết tên ta?”, người đàn ông nhấn giọng. Con gái tôi nhìn ông ta một lát và nói: “Ông đã nói với cháu lần trước mà!” “Nhưng làm cách nào mà cháu nhớ được thế?”, ông ta hỏi với tia nhìn ấm áp ánh lên trong mắt. Con gái tôi không trả lời câu hỏi này. Thực tế dường như câu hỏi này chẳng có nghĩa lý gì với nó, cứ như nó đang tự hỏi mình: “Có vấn đề gì vậy?...Ông đã nói tên cho cháu và cháu nhớ thôi. Có điều gì đáng ngạc nhiên ở đây sao?” Tôi đứng sang một bên ngạc nhiên quan sát tình huống này. Tôi hết sức bất ngờ khi người đàn ông kia, với tôi chỉ là một thành phần không thể thiếu của cảnh vật đô thị ở đất nước tôi, thành phần mà bạn thường không chú ý, thì ngược lại, với Gali, ông ta chính là Boris! Người đàn ông với một cái tên, giống như tôi và con bé - một người đàn ông thú vị có thể khiến con bé hài lòng qua âm nhạc của ông ta. Nhưng những gì xảy ra tiếp theo còn đáng kinh ngạc hơn. Boris xếp lại đồ rồi cầm đàn măng-đô-lin bắt đầu gảy những nốt nhạc đầu tiên. Cùng lúc đó, Gali bỏ tiền vào cái ống đã han gỉ, ngay lập tức Boris ngừng chơi. Ông ta quỳ xuống cái ống, nhặt đồng tiền ra và đưa lại cho Gali. “Cháu là bạn ta. Với cháu, ta sẽ biểu diễn miễn phí…”, người đàn ông nói với nụ cười rạng rỡ. Boris lại tiếp tục chơi đàn. Còn tôi theo dõi mọi chuyện đang diễn ra một cách thích thú. Đã nhiều năm rồi, tôi dồn hết tâm trí vào việc phát triển và thực hiện các cách ghi nhớ, nhận thức được sức mạnh và tầm quan trọng của một trí nhớ tốt, cho nên những gì xảy ra ngày hôm đó là một bước ngoặt thật sự; một cô bé đi trên đường, tiến lại gần người chơi đàn trên hè phố và gọi tên ông ta. Người chơi đàn nghèo sống dựa vào những đồng tiền xu được bỏ vào ống đựng tiền của ông ta lại sẵn sàng trả lại tiền với tâm trạng vô cùng hạnh phúc. Vì sao vậy? Bởi vì có người trong số hang nghìn người đi qua ông ta hàng ngày đã nhớ tên ông ta. Đó chính là Gali. Con bé đã nhớ tên và còn gọi “Boris”. Còn Boris, cảm thấy xúc động và bất ngờ khi có người nhớ tên mình, đã cảm ơn con bé một cách tự nhiên – ông thưởng cho con bé một bản nhạc miễn phí. Ông cảm ơn con bé vì đã nhớ tên ông – một điều bình thường nhất. Một trí nhớ tốt là tài sản quan trọng nhất. Nó là công cụ hữu hiệu mà chúng ta có được, nên ta cần phải đầu tư, rèn luyện và nuôi dưỡng nó thích đáng. Điều này không giống như trước đây. Ở thời Hy Lạp và La Mã cổ đại, người ta chú trọng đến việc phát triển các kỹ năng của trí nhớ. Plato, Aristotle và cá nhà sư phạm khác luôn bị ám ảnh về việc tìm hiểu trí nhớ của con người, tìm ra quy luật liên tưởng hay các phương pháp tăng cường trí nhớ nhằm cải thiện khả năng ghi nhớ của con người. Sau đó, những phương pháp này đã được các nhà tâm lý học nổi tiếng như Hubert và Ebinghouse phát triển. Tôi đã biết đến đề tài này từ 24 năm trước. Tôi đã đọc sách của Harry Loraine, một bậc thầy về các bài luyện tập trí nhớ, và sau đó đọc thêm rất nhiều cuốn sách khác. Qua nhiều năm, tôi chuyển chủ đề này sang một sở thích đặc biệt hơn. Tôi học cách thực hiện các bài tập tăng cường trí nhớ đặc biệt, tôi chọn lọc các phương pháp mới, và nhận thấy hiệu quả đáng ngạc nhiên của chúng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Trong cuốn sách này, tôi muốn giới thiệu với các bạn những gì mà tôi cho là các ý tưởng, phương pháp và bí quyết thành công nhất để phát triển một trí nhớ tuyệt vời. Cuốn sách này không chỉ hướng dẫn bạn mà còn chứng minh cho bạn thấy rằng các phương pháp này có hiệu quả. Do đó, bạn sẽ thấy các bài luyện tập vui xuyên suốt các chương được sắp xếp theo thứ tự thời gian và cấp độ tăng dần từ dễ đến khó. Bạn sẽ nhận thấy sự thay đổi khả năng ghi nhớ của mình ngay sau vài chương đầu tiên của cuốn sách. Đọc xong cuốn sách này, có thể bạn sẽ thực hiện những bài tập tăng cường trí nhớ đặc biệt đễ trong phần đời còn lại bạn sẽ có được sự hiểu biết, kinh nghiệm và bằng chứng về việc bạn có thể tin tưởng vào trí nhớ của bản than và khả năng ghi nhớ tất cả những gì bạn muốn. Thân mến! – Eran Katz Mời các bạn đón đọc Bí Mật Của Một Trí Nhớ Siêu Phàm của tác giả Eran Katz.
Lòng Tốt Của Bạn Cần Thêm Đôi Phần Sắc Sảo Tập 1
Một người có thể sống cả đời theo cách mình thích là chuyện vô cùng khó khăn. Chúng ta không giây phút nào không bị thế giới bên ngoài chỉ trỏ, lâu dần sẽ quên mất tâm tư ban sơ, mất đi khả năng suy nghĩ độc lập và giữ vững cái tôi. So với từng câu từng câu an ủi dịu dàng, tôi nghĩ chúng ta cần một chậu nước lạnh hơn. Nó sẽ giúp chúng ta tỉnh táo ý thức được tính tình cáu bẳn của mình, tầm nhìn và lòng dạ hạn hẹp của mình, EQ thấp của mình, và tất cả những vấn đề mà bản thân chúng ta không nhìn rõ, nhưng người khác thấy rõ mồn một mà không muốn nói cho chúng ta biết. Khi bạn khốn đốn, hoang mang, nếu đọc được cuốn sách này, mong rằng bạn có thể rút ra sức mạnh từ trong câu chữ của nó, đừng nộp vũ khí đầu hàng thế giới này. [...] Đời người là một quá trình thử sai, trưởng thành cũng không ngoại lệ. Nên làm những gì, đi con đường nào, mỗi người đều tuân theo tiếng nói của nội tâm, dò dẫm từng bước một. Vấp ngã, thì bò dậy; va vỡ đầu, thì lùi lại; đi đường sai, thì quay lại; lạc lối, thì ngừng chân… Cuộc đời của mỗi người mỗi khác, ai ai cũng phải tự mình trải qua, mỗi người đều có bài học nhân sinh cần bản thân một mình hoàn thành. Bởi vì từng trải, cho nên thấu hiểu. Nguyện cho tất cả những người không hiểu và thấu hiểu trên đời không ngừng trưởng thành nhưng vẫn tốt bụng như xưa! *** Quyển sách được viết bởi một bác sĩ tâm lý cùng với sự trải nghiệm nên từng chữ, từng câu trong cuốn sách đúng vào tâm lý chung của độc giả. Đó là sự chân thành, sức trẻ và nhiệt huyết.  Đồng thời, Mộ Nhan Ca cũng là nghệ sĩ múa nên công việc này cũng chính là nguồn cảm hứng và có góc nhìn uyển chuyển, linh hoạt hơn. Vì vậy, các nội dung cuốn sách được ví như “liều thuốc” giúp độc giả dẫn dắt lòng tốt của mình đúng hướng. *** Khi nghe tựa đề cuốn sách, tôi như bừng tỉnh hẳn và luôn tự chất vấn về lòng tốt chính mình trước đây. Từ đó, tôi càng tò mò và khám phá ngay nội dung bên trong cuốn sách. Văn phong hết sức tinh tế, uyển chuyển và sâu sắc. Qua từng chương sẽ để lại trong tôi nhiều suy nghĩ mãi không thôi. Cuốn sách Lòng tốt của bạn cần thêm đôi phần sắc sảo sẽ giúp bạn cho đi lòng tốt một cách đúng nghĩa để chính bạn và những người xung quanh mình đều cảm nhận được giá trị mà lòng tốt đem lại, giúp bạn sống một cách trọn vẹn giữa cuộc sống đầy những bon chen. Sống tốt đã khó, sống khôn ngoan lại là một bài toán khó hơn. Nếu lòng tốt nếu không được cho đi đúng lúc, đúng người sẽ trở thành con dao 2 lưỡi quay ngược lại đâm ta. Vì vậy, những kỹ năng mà cuốn sách chia sẻ sẽ phần nào giúp bạn có thêm kinh nghiệm để trao gửi yêu thương một cách trọn vẹn. Cuốn sách là một cuốn cẩm nang mà bất kỳ ai cũng cần có trên hành trình hoàn thiện bản thân mình. Đây thực sự là kiến thức vô giá và đã trở thành kim chỉ nam cho tôi, cho những bạn đang muốn hướng thiện và giúp đỡ cho cuộc đời này. Lòng tốt ấy phải hợp lý và đúng mực, đúng ơi, đúng lúc. *** Cuốn sách gồm 6 chương, mỗi chương gồm có nhiều phần nội dung. Từng nội dung xoay quanh phân tích tâm lý về những người “không biết sử dụng lòng tốt”. Từ đó, đưa ra hướng giải quyết thỏa đáng mà có lẽ sẽ có những vấn đề mà trước giờ bạn nghĩ mình làm vậy là hoàn toàn đúng, nhưng thực chất là sai hoàn toàn. Bên cạnh đó, Tác giả minh họa bằng những ví dụ cụ thể trong những nội dung cần thiết nhất. Vì vậy, khi đọc bạn sẽ thấy còn có nhiều câu tâm đắc hơn khiến bạn tỉnh ngộ và cảm thấy nhói lòng. Chương 1: Tưởng là tốt bụng, hóa ra là nhu nhược Nội dung này giúp các bạn sử dụng lòng tốt như thế nào phù hợp. Lòng tốt là hành động tốt nhưng cần đến sự can thiệp của trí tuệ. Tác giả không đưa ra định nghĩa nào cho lòng tốt, nhưng ông nhấn mạnh rằng, chúng ta không sống để nhượng bộ, nhượng bộ càng nhiều, không gian cho việc hít thở càng ít. Bạn càng nhún mình, hạnh phúc sẽ càng xa tầm tay với. Và bạn cũng không cần đặt mình vào vị trí quá thấp. Chương 2: Có câu “Chịu thiệt là phúc” cơ mà Tác giả chỉ cho bạn cách sử dụng lòng tốt, đó là “Bạn không cần đặt mình quá thấp. Thứ thuộc về bạn, phải tích cực dành lấy; Thứ không thuộc về bạn, hãy quyết đoán từ bỏ”. Thông qua đó, tác giả nhắn nhủ các bạn rằng: Thực hiện cuộc sống muôn trùng khó khăn và khốc liệt, không phải ai đều tồn tại dễ dàng trong cuộc đời này. Các bạn muốn vị trí mình đứng vững chắc, bạn phải có bản lĩnh. Điều quan trọng là bạn phải trau dồi kiến thức, kỹ năng để đạt được vị trí mong muốn đó. Chương 3: Người ấy không biết xót xa trước sự hi sinh thừa thãi Trong một số trường hợp, việc làm tốt của bạn được mọi người mặc định là phải như thế. Đôi lúc, họ còn thờ ơ, làm ngơ trước việc tốt của bạn. Hãy nhớ lòng tốt không phải để ban phát mà là giúp đỡ những người cần đến thực sự và hy sinh thừa thãi đều là gánh nặng tình cảm. Vì vậy, bạn muốn sống tốt,  hãy sống cho bản thân mình trước, cho người thân. Sau đó mới nghĩ đến chuyện giúp đỡ những người khác. Bạn phải tinh tế, khéo léo và khôn ngoan mọi hoàn cảnh (như học tập, công việc, giao tiếp trong cuộc sống,..). Chương 4: Bạn tốt bao nhiêu, thì người ấy có thể xấu bấy nhiêu Vốn dĩ, sự nhượng bộ, khiêm nhường và ngay cả im lặng sẽ khiến cho đối phương càng ngày càng háo thắng và xem thường bạn. Đôi lúc, bạn cần khoan dung nhưng đừng nuông chiều mà phải học cách từ chối hoặc nói từ “KHÔNG”. Vì vậy, khi trao lòng tốt cho ai đó, bạn cần suy nghĩ thật kỹ. Hãy nghiêm khắc chính mình một cách có sự chọn lọc thì lòng tốt bạn có giá trị và ý nghĩa sâu sắc. Nếu bạn dễ dãi trao đi lòng tốt cho người khác, bạn đã tự đẩy chính bản thân mình trong hoàn cảnh khó khăn. Chương 5: Bạn không nên kiên cường đến thế, nhưng chỉ có thể một mình kiên cường Những người từng đã làm bạn tổn thương nghĩ rằng điều đó sẽ giúp bạn trưởng thành. Nhưng điều khiến bạn trở nên kiên cường, mạnh mẽ, chính là nỗi đau và sự suy ngẫm của bạn về những việc đã xảy ra. Hay nói cách khác, bản thân bạn trải qua đau khổ không có gì đặc biệt, điều khiến bạn trở nên ý nghĩa là sự kiên cường của bạn. Chương 6: Có thể lo nghĩ thay người khác, nhưng phải sống vì bản thân. Bất cứ ai đều có cuộc sống riêng của mình do chúng ta lựa chọn. Bạn chọn lựa chọn đường đi, giúp đỡ cho mọi người với cái tâm và tấm lòng của bạn. Đồng thời bạn phải sống cho bản thân. Nếu bạn sống tốt tự khắc các bạn sẽ tạo nên phong cách tự tin và lan tỏa ánh hào quang cho mọi người xung quanh. Họ sẽ càng ngưỡng mộ  và tôn trọng bạn. Lòng tốt của bạn thêm phần SẮC SẢO – được ví như một gáo nước lạnh làm bừng tỉnh cho nhiều người có lòng tốt nhưng phải CHỌN LỌC. Vì vậy, hãy đọc nội dung cuốn sách sẽ giúp bạn đặt lòng tốt vừa đúng chỗ vừa đúng số lượng. Mỗi chương gồm có nhiều phần nội dung phân tích theo hướng khác nhau. Qua đó, bạn đã hiểu thêm về sự SẮC SẢO cho lòng tốt của chính bản thân. Để làm tô đậm phần sắc sảo đó, tác giả đúc kết nhiều câu tâm đắc trong cuốn sách khiến bạn tỉnh ngộ và nhói lòi khi đọc. Mời các bạn đón đọc Lòng Tốt Của Bạn Cần Thêm Đôi Phần Sắc Sảo Tập 1 của tác giả Mộ Nhan Ca.
Tán Tỉnh Bất Kỳ Ai
Bất kỳ ai ư? Đúng vậy, thực sự là bất kỳ ai “Tôi không hiểu nổi. Tôi hấp dẫn, thông minh, nhạy cảm, hoàn hảo. Vậy tại sao anh/cô ấy không để ý đến tôi chút nào? Tại sao tôi không thể tìm được tình yêu?” Đã bao lần bạn đấm tay lên gối và tự hỏi mình như vậy? Bạn nghi ngờ mở cuốn sách này, nhưng cũng đôi chút hi vọng sẽ tìm ra giải pháp. Bạn đọc tiêu đề của nó: Tán tỉnh bất kỳ ai. “Đó quả là lời hứa hẹn quá đáng giá”, bạn nghĩ. Thực sự là vậy. Nhưng lời hứa hẹn của cuốn sách này là của bạn nếu bạn thực sự sẵn sàng theo đuổi kế hoạch nắm giữ trái tim của đối tượng tiềm năng. Tại sao khi lịch sử đầy rẫy những trái tim tan vỡ vì yêu, chúng tôi lại tuyên bố có một phương thức khiến bất cứ ai đó sẽ phải lòng mình? Bởi lẽ, sau nhiều thế kỷ đương đầu, rốt cuộc khoa học cũng đã phát hiện ra tình yêu lãng mạn thực sự là thế nào. Cái gì làm phát sinh nó. Cái gì giết chết nó. Và cái gì duy trì nó. Cũng hệt như những người thổ dân châu Phi khi thấy nhật thực đã nghĩ rằng đó là một thứ ma thuật đen, chúng ta ngắm nhìn tình yêu và cho rằng nó đầy mê hoặc. (Đôi khi, nhất là trong những khoảnh khắc bối rối đầu tiên khi chúng ta chặn những người lạ trên phố rồi la lớn: “Tôi đang yêu!”, nó có thể giống như bị bùa mê vậy). Nhưng khi bước vào thế kỷ 21, chúng ta cũng phát hiện ra, tình yêu là một dạng thức hóa học, sinh học và tâm lý học có thể tính toán và xác định rõ ràng. (Và, có lẽ, cũng có một chút ma thuật đen được ném vào trong đó). Khi khoa học bắt đầu “giương buồm” vào những vùng biển chưa từng được khám phá trước đó, thì chúng ta cũng bắt đầu hiểu được những điều gọi là “thiêng liêng nhất, tuyệt vời nhất và tha thiết nhất của những đam mê”, như cách George Bernard Shaw miêu tả tình yêu. Câu hỏi và sự hoang mang về chuyện “Chính xác tình yêu là gì?” không còn mới nữa. Đó là chuyện đã nhận được rất nhiều quan tâm qua bao thời đại của các triết gia nổi tiếng như Plato, Sigmund Freud và Charlie Brown. Trong nhà hát Broadway buổi tối năm 1950, các khán giả xem vở South Pacific đã hoàn toàn đồng tình với Ezio Pinza khi anh này bảo rằng: “Ai có thể giải thích được nó? Ai có thể nói cho bạn vì sao? Những kẻ ngốc đưa cho bạn các lý do. Những người khôn ngoan chẳng bao giờ thử nó”. Dẫu thế thì gần đây, rất nhiều người đàn ông và phụ nữ thông minh đều đã thử. Và thành công. Đừng kết tội Rodgers và Hammerstein. Khi họ soạn ra những bản nhạc trữ tình, cộng đồng khoa học đã tỏ ra bối rối trước tình yêu khi Nellie và Emile de Becque ngân nga nỗi hoang mang về một buổi tối mê muội nào đó. Các nghiên cứu được thực hiện ra sao? Nghiên cứu đầu tiên của tôi, mặc dù ít táo bạo, nhưng cũng không kém mạnh mẽ. Trong hơn 10 năm trời, trước khi trở thành nhà đào tạo truyền thông, tôi là giám đốc một nhóm nghiên cứu do tôi thành lập có tên là “Dự án”. Dự án là một công ty phi lợi nhuận có trụ sở tại thành phố New York, nó được thành lập nhằm tìm hiểu vấn đề tình dục và các mối quan hệ. Trong thời gian làm việc với Dự án, tôi đã phỏng vấn và lên danh sách hàng ngàn vấn đề mà người ta muốn tìm kiếm ở một đối tác. Tôi tập hợp thông tin từ các sinh viên thuộc vô số các trường đại học nơi tôi được mời tới nói chuyện về nghiên cứu của mình. Dự án đã được nhiều người quan tâm và được biết tới ở tầm quốc gia. Một phóng viên của tạp chí Time đã tham dự một trong các buổi nói chuyện của tôi và viết hẳn một trang tuyên bố: “Tưởng tượng tình dục tới sân khấu Broadway”. Điều đó thực sự đã diễn ra. Một nhánh của Dự án có các tình nguyện viên đã diễn các vở kịch về tình yêu thực sự trên sân khấu. Vì không có cảnh khỏa thân và ngôn ngữ tình dục, các vở kịch “thanh khiết” như vậy rất hiếm hoi và giành được sự quan tâm của ba mạng lưới chính. Họ đã diễn các trích đoạn của vở kịch trên kênh truyền hình quốc gia. Điều này dẫn tới hàng chục bài báo trong các ấn phẩm chủ đạo ở Mỹ và châu Âu. Kết quả là, mọi người ở khắp nơi trên thế giới đã gửi cho chúng tôi những câu chuyện của họ, những tưởng tượng và cả những khao khát của họ về tình yêu. Họ gọi điện hoặc viết thư cho Dự án và miêu tả chính xác những gì họ tìm kiếm ở người bạn tình. Hầu hết các bức thư và những cuộc điện thoại chúng tôi nhận được đều có phần mở đầu bằng những bình luận kiểu như: “Tôi chưa bao giờ nói với ai nhưng…” Những người gọi điện và viết thư sau đó đã tiếp tục giãi bày tất cả những khao khát sâu kín nhất của họ với một Dự án vô hình. Chúng tôi lắng nghe đầy biết ơn khi chúng tôi thu thập dữ liệu về những điều đã khiến, hoặc sẽ khiến người ta phải lòng nhau. Những thủ thuật đã được xây dựng như thế nào? Chúng ta hãy rời khỏi thế giới của tình dục trong giây lát. Hãy cùng tôi tới một nhánh thông tin thứ hai, lĩnh vực của truyền thông. Bởi vì đó chính là nơi tôi tìm ra những phát hiện và biến chúng thành những thủ thuật có thể ứng dụng trong việc khiến ai đó phải lòng bạn. Người ta đã chứng minh không thể nghi ngờ được rằng, có rất nhiều cách để khơi nguồn cho những hành vi đam mê ở người khác. Nếu không thế, có lẽ tất cả các chuyên gia tâm lý học và hàng ngàn giảng viên của công ty (tôi cũng có trong số ấy) sẽ thất nghiệp. Có những phương pháp được xây dựng để khơi nguồn cảm xúc và để thay đổi hành vi con người. Chẳng hạn, chúng ta biết cách ứng xử với những người khó tính và làm cho những nhân viên rắc rối hành xử theo cách ta mong muốn. Phản hồi từ những cuộc hội thảo tôi đã trình bày với các tổ chức chính phủ, các trường đại học, các hội nghề nghiệp và các công ty, đã thuyết phục tôi rằng, chúng ta có thể tác động để thay đổi các kiểu hành vi. Chúng tôi đã thực hiện nhiệm vụ phức tạp này với những hiểu biết đầu tiên về các nhu cầu và động cơ cơ bản của con người. Sau đó, bằng việc ứng dụng các kỹ năng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ để thay đổi hành vi của họ. Đó cũng là điều tôi làm trong cuốn sách này. Đúc rút từ những nghiên cứu khoa học, tôi phác ra những nhu cầu và động cơ cơ bản khiến ai đó phải lòng người khác. Sau đó, tôi đưa ra cho bạn những kỹ năng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ để có thể khơi dậy hành vi bạn mong muốn. Trong trường hợp này, mong muốn đó là khiến cho ai đó yêu thương bạn. Cuốn sách này là kết quả sau rất nhiều năm nghiên cứu và khám phá nhiều lĩnh vực kiến thức: những mối quan hệ liên đới giữa con người với nhau, vấn đề tình dục của con người, các kỹ năng giao tiếp và những khác biệt về giới. Chúng tôi không chỉ đúc rút từ những nghiên cứu khoa học về bản chất của tình yêu và từ nghiên cứu của cá nhân tôi. Chúng tôi còn tận dụng lợi thế của các nhà tâm lý trị liệu hiện đại và các chuyên gia phân tích giao tiếp. Đâu là công thức cho việc khiến người khác phải yêu bạn? Liệu ta có thể rút ra một công thức không? Câu hỏi sau nghe có vẻ đơn giản, nhưng thực sự nó rất phức tạp. Bạn khởi đầu với một nền tảng khoa học chắc chắn về cái làm nên sự hấp dẫn giữa con người với nhau. Sau đó, bạn tập hợp những thông tin đáng chú ý về “đối tượng của bạn”. Kế tiếp, bạn vận dụng những kỹ năng giao tiếp phức tạp, thường là ở tiềm thức để đáp ứng nhu cầu nhận thức và vô thức của anh/cô ấy. Cuối cùng, bạn khẳng định điều đó bằng một khái niệm dứt khoát về chính xác những gì mà anh/cô ấy muốn về mặt tình dục. Vậy là bạn đã có được rồi đấy: công thức khiến cho người ấy “gục ngã” trước bạn. Tôi đã thử nghiệm các thủ thuật như thế nào? Tôi đã không thỏa mãn với việc lệ thuộc đơn giản vào nghiên cứu. Tôi cần phải xét xem những thủ thuật này sẽ phát huy hiệu quả ra sao trên thực tế “tình trường”. Rất nhiều năm trước, để thử nghiệm các lý thuyết của mình, tôi đã tổ chức một hội thảo có tên giống hệt tiêu đề cuốn sách này: “Làm thế nào để tán tỉnh bất kỳ ai?” Thư mời được gửi tới các trường đại học, các nhóm độc lập, các câu lạc bộ và các tổ chức giáo dục thường xuyên trên cả nước. Chính trong sân chơi này, những vấn đề của tôi đã được kiểm nghiệm. Và phản hồi từ các sinh viên của tôi là “Đúng vậy!”. Bạn có thể tán tỉnh bất cứ ai. Nó là một việc đơn giản ư? Không. Nó có đòi hỏi phải hy sinh không? Có đấy. Bạn có thể cho rằng, sau khi đọc cuốn sách này, việc nắm giữ được con tim của anh/cô ấy là quá đơn giản, không đáng phải đầu tư quá nhiều công sức của bạn. Nhưng nếu bạn muốn tiếp tục, hãy theo hướng dẫn của tôi. Chúng ta sẽ khám phá tất cả những kỹ năng cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ, để khiến cho đối tượng tiềm năng của bạn sẽ bị khuất phục. Bạn có để ý là tôi đã sử dụng cụm từ “Đối tượng tiềm năng” hay nói hài hước là “con mồi” rất nhiều lần không. Tôi sẽ dùng cách nói đó trong toàn bộ cuốn sách. Vì mặc dù nó có vẻ dài dòng, nhưng cụm từ này chính xác hơn là chữ “người ấy”, điều mà nhà xuất bản của tôi đã khẳng định một cách rất khôn ngoan là nó dễ đọc hơn. Ai sẽ là đối tượng tiềm năng của bạn? Trước tiên, một đối tượng tiềm năng là ai đó sẵn sàng đón nhận tình yêu. Nếu không phải mọi thứ thì chí ít cũng là một chút. Chẳng hạn, nếu ai đó vừa mất người vợ hoặc người chồng thân thiết của mình, anh/cô ấy sẽ chưa sẵn sàng với tình yêu. Điều đó tạm thời gạt họ ra khỏi danh sách những đối tượng tiềm năng. Thứ hai, một đối tượng tiềm năng là người phải tự do về nhu cầu tâm lý riêng tư (hoặc “bản đồ tình yêu”). Đây là những nhu cầu mà, không phải lỗi của bản thân, bạn không thể lấp đầy. Chúng ta sẽ nói nhiều hơn về bản đồ tình yêu của đối tượng tiềm năng của bạn về sau. Điều đó tạo ra rất nhiều đối tượng tiềm năng, vô số những trái tim để bạn lựa chọn. Chúng ta hãy bước vào hành trình sẽ dẫn bạn tới trái tim của người đàn ông hay người phụ nữ mà bạn khao khát. *** Leil Lowndes là một trong những chuyên gia về nghệ thuật giao tiếp có uy tín trên trường quốc tế. Từ những trải nghiệm của mình và đúc kết từ những cuốn cẩm nang về nghệ thuật thu phục nhân tâm, bà đã tổng hợp thành 92 thủ thuật trong cuốn sách này. Phần lớn các thủ thuật đều hướng đến việc gỡ rối cho đối phương, tỏ ra khéo léo, tinh tế và nhạy cảm... những yếu tố khiến bạn tỏ ra là một người giao tiếp có đẳng cấp và uy lực. Tác phẩm: Nghệ Thuật Giao Tiếp Để Thành Công Kết Giao Tinh Tế Tán Tỉnh Bất Kỳ Ai Nói Cho Hay Kết Giao Cho Khéo Làm Thế Nào Để Mọi Người Yêu Bạn  Giao Tiếp Thành Công Với Mọi Đối Tác - Những Bí Quyết Giúp Bạn Thành Công Trong Kinh Doanh ...   Mời các bạn đón đọc Tán Tỉnh Bất Kỳ Ai của tác giả Leil Lowndes.